Bài tập ôn tập - Triết học Mác - Lênin | Đại học Tôn Đức Thắng

1. Trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng, anh (chị) hãy làm rõ tại sao trong nhận thức và hoạt động thực tiễn phải luôn xuất phát từ thực tế khách quan đồng thời phải phát huy tính năng động, sáng tạo chủ quan? Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!

1. Trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng, anh
(chị) hãy làm rõ tại sao trong nhận thức và hoạt động thực
tiễn phải luôn xuất phát từ thực tế khách quan đồng thời
phải phát huy tính năng động, sáng tạo chủ quan? Đảng
Cộng sản Việt Nam đã vận dụng quan điểm này như thế nào
trong sự nghiệp đổi mới và phát triển đất nước?
Cơ sở lý luận của nguyên tắc khách quan trong triết học:
Nguyên tắc khách quan trong triết học sẽ được xây dựng dựa trên
nội dung của nguyên về tính thống nhất vật chất của thế giới. Yêu
cầu của nguyên tắc khách quan trong triết học này được tóm tắt như
sau: khi chúng ta nhận thức khách thể, sự vật, hiện tượng tồn tại
trong hiện thực thì các chủ thể duy sẽ cần phải nắm bắt, tái hiện
khách thể, sự vật, hiện tượng trong chính bất cứ ai trong
chúng ta đều không được thêm hay bớt đi một cách tùy tiện.
Ta nhận thấy rằng, vật chất sẽ cái trước. Vật chất tồn tại vĩnh
viễn một giai đoạn phát triển nhất định nào đó của chính bản
thân mình vật chất mới sản sinh ra duy. Bởi duy phản ánh
thế giới vật chất, nên trong q trình nhận thức đối tượng tất cả
chúng ta cũng sẽ không được xuất phát từ tư duy, hay xuất phát từ ý
kiến chủ quan của chúng ta về đối tượng chúng ta sẽ cần phải
xuất phát từ chính bản thân đối tượng, từ bản chất của đối tượng
đos, chúng ta cũng không được bắt buộc các đối tượng phải tuân
theo duy ngược lại cần phải bắt duy tuân theo đối tượng.
Chúng ta cũng sẽ không được ép đối tượng thỏa mãn một sơ đồ chủ
quan mà sẽ cần phải rút ra những sơ đồ được tạo ra từ đối tượng, tái
tạo trong duy các hình tượng, tưởng phát triển của chính các
đối tượng đó.
Ta nhận thấy được rằng, từ mối quan hệ giữa vật chất và ý thức, triết
học Mác Lenin cũng đã từ đó rút ra nguyên tắc phương pháp luận
là sẽ cần phải xuất phát từ thực tế khách quan.
Ta hiểu nguyên tắc phương pháp luận sẽ cần phải xuất phát từ
thực tế khách quan cũng có nghĩa là phương pháp luận sẽ xuất phát
từ tính khách quan của vật chất, chúng ta cần phải xuất phát từ bản
thân của sự vật cũng không thể tùy tiện gán cho sự vật cái
các svật đó không hoặc sự vật đó vẫn chưa có. Trong tất
cả các hoạt động thì chúng ta cũng cần phải luôn luôn xuất phát từ
thực tế khách quan, mọi chủ trương, đường lối, chính sách, pháp
luật, mục tiêu, phương hướng được tạo lập thì đều phải xuất phát từ
thực tế khách quan. Bên cạnh đó thì chúng ta cũng sẽ cần phải tôn
trọng vai trò quyết định của đời sống vật chất đối với đời sống tinh
thần của con người.
Như vậy, từ những phân tích được nêu cụ thể bên trên, ta thấy được
rằng, xuất phát từ thực tế khách quan, n trọng khách quan cũng
có những ý nghĩa rất lớn cho hoạt động nhận thức và hoạt động thực
tiễn của con người.
Chúng ta cũng thể khái quát được rằng bản chất của nguyên tắc
khách quan đó chính khi chúng ta thực hiện việc đánh giá, phân
tích sự vật hiện tượng nào đó thì chúng ta cũng sẽ cần phải đánh giá
đúng như sự vật hiện tượng đó thông qua cách thể hiện của chúng
như vậy. Chúng ta cũng sẽ không được gán cho sự vật hiện tượng cái
mà nó không có. Khi chúng ta thực hiện việ bôi hồng hoặc to đen sự
vật hiện tượng chúng ta đang vi phạm nguyên tắc khách quan
trong quá trình thực hiện đánh giá.
Nội dung nguyên tắc khách quan trong triết học:
Tất cả chúng ta đều sẽ cần phải xem xét sự vật, hiện tượng giống
như chính sự tồn tại của sự vật, hiện tượng đó, chúng ta sẽ không bị
những yếu tố chủ quan chi phối để từ đó những nhận thức sai
lệch, hồng hay bôi đen cho s vật hay c hiện tượng, bên cạnh
đó thì chúng ta cũng cần phải phương pháp nhận thức thức khoa
học cũng cần phải tuân thủ theo các nguyên tắc phương pháp
luận trong triết học để có thể luôn tôn trọng điều kiện khách quan.
+ Trong mọi hoạt động, khi chúng ta đã đề ra phương hướng hoạt
động thì bất cứ ai cũng đều cần phải căn cứ vào điều kiện khách
quan, quy luật khách quan để nhằm mục đích thể đảm bảo được
hoạt động đạt hiệu quả hoạt động đó sẽ không bị các yếu tố
khách quan cản trở.
+ Khi chúng ta xác định phương pháp, cách thức tổ chức hoạt động
sẽ cần phải căn cứ cụ thể vào các quy luật khách quan để nhằm
mục đích thể lựa chọn được đúng phương pháp, cách thức phù
hợp với từng điều kiện khách quan để thể từ đó đảm bảo cho sự
phát triển của đối tượng tác động hoạt động đó theo đúng như ý
thức của mỗi người.
+ Chúng ta cũng sẽ cần phai kế hoạch điều chỉnh mục tiêu của
bản thân sao cho kế hoạch đó thể phù hợp nhất khi điều kiện
khách quan sự biến đổi để nhằm mục đích phát huy ý thức của
bản thân luôn năng động ng tạo trong mọi điều kiện khách
quan.
Phát huy tính năng động chủ quan: theo quan điểm của chủ nghĩa
duy vật biện chứng thì ý thức sẽ không thụ động ý thức sẽ
tính độc lập, tương đối với vật chất ý thức sẽ những tác động
trở lại vật chất thông qua hoạt động thực tiễn của con người. Bản
chất của ý thức đó là mang tính năng động, sáng tạo.
+ Chúng ta nhận thấy rằng, tri thức khoa học vận dụng tri thức
khoa học trong giai đoạn hiện nay có những ý nghĩa cũng như vai trò
cùng quan trọng trong cuộc sống của mỗi người. Bởi tri thức
khoa học hay việc vận dụng tri thức khoa học sẽ giúp cho hành động
của mỗi người trở đúng quy luật và có hiệu quả hơn.
+ Chúng ta cũng sẽ cần phải luôn phát huy tính tích cực của ý thức
tìm tòi cái mới, phương pháp mới. Bởi những yếu tố này cũng
sẽ góp phần quan trọng để giúp ta phát triển bật phá sự khác
biệt khi so với những cá nhân khác luôn hoạt động theo quy luật
các chủ thể đó mãi không chịu đổi mới.
+ Bên cạnh đó thì chúng ta cũng sẽ cần phải luôn luôn phát huy tính
sáng tạo bởi thực chất khi sáng tạo mới giúp phát triển trí tuệ
tạo nên đột phá, biết dự đoán một cách khoa học, phù hợp quy luật
khách quan khi đó thì mỗi chúng ta mới thể sẵn sàng đối phó với
những biến đổi của quy luật khách quan.
Đảng Cộng sản Việt Nam đã vận dụng như thế nào vào sự
nghiệp cách mạng của Việt Nam:
Phải tôn trọng hiện thực khách quan, tôn trọng vai trò quyết định
của vật chất. Cụ thể là:
- Xuất phát từ hiện thực khách quan của đất nước, của thời đại để
họach định các đường lối, chiến lược, sách lược nhằm xây dựng và
phát triển đất nước.
- Biết tìm kiếm, khai thác và sử dụng những lực lượng vật chất để
hiện thực hóa đường lối, chiến lược, sách lược nhằm xây dựng
phát triển đất nước.
- Coi cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, coi đại đòan kết tòan
dân tộc là động lực chủ yếu để phát triển đất nước. Biết kết hợp hài
hòa các lợi ích khác nhau(lợi ích kinh tế, lợi ích chính trị, lợi ích vật
chất, lợi ích tinh thần, lợi ích cá nhân, lợi ích tập thể, lợi ích xã hội...)
thành động lực mạnh mẽ thúc đẩy công cuộc đổi mới.
- Đảng ta rút ra những bài học kinh nghiệm từ những sai lầm, thất
bại trước đổi mới, Đảng ta kết luận: “Mọi đường lối, chủ trương của
Đảng phải xuất phát từ thực tế, tôn trọng quy luật khách quan”.
2. Phân tích cơ sở lý luận của nguyên tắc toàn diện. Vì sao
trong nhận thức và trong hoạt động thực tiễn chúng ta phải
tôn trọng nguyên tắc toàn diện? Hãy vận dụng nguyên tắc
y trong công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay?
Phân tích cơ sở lý luận của nguyên tắc toàn diện
Nguyên tắc toàn diện trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực
tiễn là một trong những nguyên tắc phương pháp luận cơ bản, quan
trọng của phép biện chứng duy vật. Nguyên tắc toàn diện đòi hỏi,
muốn nhận thức được bản chất của sự vật, hiện tượng chúng ta phải
xem xét sự tồn tại của nó trong mối liên hệ qua lại giữa các bộ phận,
yếu tố, thuộc tính khác nhau trong tính chỉnh thể của sự vật, hiện
tượng ấy và trong mối liên hệ qua lại giữa sự vật, hiện tượng đó với
sự vật hiện tượng khác, tránh cách xem xét phiến diện, một chiều.
Nguyên tắc toàn diện đòi hỏi phải xem xét: đánh giá từng mặt, từng
mối liên hệ, và phải nắm được đâu là mối liên hệ chủ yếu, bản chất
quy định sự vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng, tránh chủ
nghĩa chiết trung, kết hợp vô nguyên tắc các mối liên hệ tránh sai
lầm của thuật ngụy biện, coi cái cơ bản thành cái không cơ bản,
không bản chất thành bản chất hoặc ngược lại, dẫn đến sự nhận
thức sai lệch, xuyên tạc bản chất sự vật, hiện tượng.
Nguyên tắc toàn diện là một phần của nguyên lý mối quan hệ phổ
biến nên cũng có những tính chất của nguyên lý này là khách quan
và phổ biến.
Cơ sở lý luận của nguyên tắc toàn diện là nguyên lý về mối liên hệ
phổ biến
Mọi sự vật, hiện tượng hay quá trình (vạn vật) trong thế giới đều
tồn tại trong muôn vàn mối liên hệ ràng buộc lẫn nhau. Mối liên
hệ tồn tại khách quan, phổ biến và đa dạng.
Trong muôn vàn mối liên hệ chi phối sự tồn tại của chúng
những mối liên hệ phổ biến. Mối liên hệ phổ biến tồn tại khách
quan, phổ biến; chúng chi phối một cách tổng quát quá trình vận
động, phát triển của mọi sự vật, hiện tượng xảy ra trong thế giới.
Trong hoạt động nhận thức và thực tiễn phải tôn trọng
nguyên tắc toàn diện
Phát hiện nhiều mối liên hệ, quan hệ (hay những đặc điểm, tính
chất, yếu tố, mặt,...) đang chi phối sự tồn tại của bản thân sự vật. Sẽ
xem xét được sự vật từ nhiều góc độ, từ nhiều phương diện.
Xác định được những mối liên hệ, quan hệ (hay những đặc điểm,
tính chất, yếu tố, mặt,...) nào là bên trong, cơ bản, tất nhiên, ổn
định...; còn những mối liên hệ, quan hệ (hay những đặc điểm, tính
chất, yếu tố, mặt,...) nào là bên ngoài, không cơ bản, ngẫu nhiên,
không ổn định...
Từ những mối liên hệ, quan hệ (hay những đặc điểm, tính chất, yếu
tố, mặt...) bên trong, cơ bản, tất nhiên, ổn định...sẽ lý giải được
những mối liên hệ, quan hệ (hay những đặc điểm, tính chất, yếu tố,
mặt...) còn lại. Qua đó, xây dựng một hình ảnh về sự vật như sự
thống nhất các mối quan hệ, liên hệ (hay những đặc điểm, tính chất,
yếu tố, mặt...), phát hiện ra quy luật (bản chất) của nó.
Đánh giá đúng vai trò của từng mối liên hệ, quan hệ (hay những đặc
điểm. tính chất, yếu tố, mặt,...) chi phối sự vật.
Thông qua hoạt động thực tiễn, sử dụng đồng bộ nhiều công cụ,
phương tiện, biện pháp thích hợp (mà trước hết là những công cụ,
phương tiện, biện pháp vật chất) để biến đổi những mối liên hệ,
quan hệ (hay những đặc điểm, tính chất, yếu tố, mặt...) của bản
thân sự vật, đặc biệt là những mối liên hệ. quan hệ (...) bên trong, cơ
bản, tất nhiên, quan trọng... của nó.
Nắm vững sự chuyển hóa các mối liên hệ, quan hệ (hay những đặc
điểm, tính chất. yếu tố. mặt...) của bản thân sự vật, kịp thời sử dụng
các công cụ. phương tiện, biện pháp bổ sung để phát huy hay hạn
chế sự tác động của chúng, nhằm lèo lái sự vật vận động, phát triển
theo đúng quy luật và hợp lợi ích chúng ta. Quán triệt và vận dụng
sáng tạo nguyên tắc toàn diện sẽ giúp chủ thể khắc phục được chủ
nghĩa phiến diện, chủ nghĩa chiết trung, chủ nghĩa ngụy biện... trong
hoạt động thực tiễn và nhận thức của chính mình.
Nếu không tôn trọng nguyên tắc toàn diện:
Mắc phải ba sai lầm là chủ nghĩa phiến diện, chủ nghĩa chiết trung,
chủ nghĩa ngụy biện:
Chủ nghĩa phiến diệncách xem xét chỉ thấy một mặt, một mối
quan hệ, tính chất nào đó không thấy được nhiều mặt, nhiều
mối quan hệ, nhiều tinh chất của sự vật; chỉ xem xét sự vật ở một
góc độ hay từ một phương diện nào đó mà thôi.
Chủ nghĩa chiết trung cách xem xét chỉ chú ý đến nhiều mặt,
nhiều mỗi liên hệ của sự vật nhưng không rút ra được mặt bản
chất, không thấy được mọi liên hệ bản của sự vật; coi
chúng như nhau, kết hợp chúng một cách nguyên tắc, tùy
tiện.
Chủ nghĩa ngụy biện là cách xem xét qua đó đánh tráo cái cơ bản
với cái không cơ bản, cái chủ yếu với cái thứ yếu.... hay ngược lại
nhằm đạt được mục đích hay lợi ích của mình một cách tinh vi.
Ngoài ra nếu không tôn trong nguyên tắc toàn diện ta sẽ dễ sa vào
chủ nghĩa bình quân, quan điểm dân đều, tức không thấy được trọng
tâm, trọng điểm. điều cốt lõi trong cuộc sống vô cũng phức tạp.
Vận dụng nguyên tắc toàn diện vào công cuộc đổi mới ở nước
ta hiện nay
Vận dụng của Đảng: Trong công cuộc xây dựng và đổi mới đất nước,
Đảng ta quán triệt thực hiện nguyên tắc toàn diện, tuy nhiên chúng
ta không thực hiện rập khuôn mà có sự kết hợp chặt chẽ giữa “chính
sách dàn đều” và “chính sách trọng điểm”. Đảng Cộng sản Việt Nam
đã xác định cần phải đổi mới toàn diện các lĩnh vực của đời sống xã
hội, chú trọng tăng trưởng kinh tế đi liền với thực hiện công bằng xã
hội, giải quyết những vấn đề của xã hội, đẩy mạnh công nghiệp hóa
- hiện đại hóa, đi tới bảo vệ bản sắc văn hóa dân tộc, vừa chủ động
hội nhập kinh tế quốc tế, vừa đảm bảo độc lập, tự chủ, an ninh quốc
phòng...trong đó xác định phát triển kinh tế là trọng tâm.
Về mặt kinh tế: Ngay trong việc phát triển kinh tế, quan điểm toàn
diện cũng được Đảng ta áp dụng thể hiện cụ thể ở việc thực hiện
phát triển chính sách kinh tế nhiều thành phần có sự quản lý của
Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Cụ thể là Nhà nước vẫn
thừa nhận vai trò tích cực của các thành phần kinh tế khác cũng như
thừa nhận sự tồn tại của hình thức sở hữu tư nhân. Tuy nhiên, trong
đó Đảng ta vẫn đặc biệt nhấn mạnh và coi trọng hình thức sở hữu
công cộng với vai trò chủ đạo là thành phần kinh tế quốc doanh
trong cơ chế thị trường.
Giai đoạn hiện nay, Đảng và nhà nước ta vẫn tuân thủ nguyên tắc
trên song song đó là sàng lọc, lựa chọn và giữ nguyên các tập đoàn
quốc doanh kinh doanh có hiệu quả đồng thời xóa bỏ các tập đoàn,
doanh nghiệp quốc doanh làm ăn kém hiệu quả gây hệ luỵ xấu cho
toàn bộ nền kinh tế.
Về chính trị: Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng đã
khẳng định: “Xét trên tổng thể, Đảng ta bắt đầu công cuộc đổi mới
từ đổi mới về tư duy chính trị trong việc hoạch định đường lối và
chính sách đối nội, đối ngoại. Không có sự đổi mới đó thì không có
mọi sự đổi mới khác. Song, Đảng ta đã đúng khi tập trung trước hết
vào việc thực hiện thắng lợi nhiệm vụ đổi mới kinh tế, khắc phục
khủng hoảng kinh tế - xã hội, tạo điều kiện cần thiết về vật chất và
tinh thần để giữ vững ổn định chính trị, xây dựng và củng cố niềm
tin của nhân dân, tạo thuận lợi để đổi mới các mặt khác nhau của
đời sống xã hội”.
Đảng cộng sản Việt Nam xác định phải ngày càng hoàn thiện cơ chế
Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, phát huy quyền làm chủ của nhân
dân, nâng cao năng lực lãnh đạo và năng lực tổ chức thực tiễn của
Đảng, Nhà nước phải được xây dựng thành Nhà nước pháp quyền
của dân, do dân, vì dân, quản lý xã hội bằng pháp luật. Nước ta đã
và đang xây dựng một nền hành chính nhà nước dân chủ, trong
sạch, vững mạnh, từng bước hiện đại hóa xây dựng đội ngũ cán bộ,
công chức trong sạch, có năng lực.
Đổi mới chính trị thể hiện ở đổi mới tổ chức, đổi mới bộ máy, phân
cấp lãnh đạo của Đảng, dân chủ hóa trước hết từ trong Đảng. Đổi
mới chính trị, tạo điều kiện cho đổi mới kinh tế. Khi đường lối chính
trị, thiết chế chính trị được đổi mới phù hợp với yêu cầu phát triển
kinh tế thì chính trị trở thành định hướng cho phát triển kinh tế.
Đồng thời tạo môi trường phát triển về an ninh trật tự để phát triển
kinh tế và chính trị còn đóng vai trò can thiệp điều tiết, khắc phục
những mặt trái do đổi mới kinh tế đưa đến.
Tăng cường quốc phòng an ninh: bảo vệ vững chắc độc lập chủ
quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ bảo vệ an ninh quốc gia trật tự
an toàn xã hội và nền văn hóa.
Về văn hóa, xã hội: Đảng ta coi nguồn lực con người là quý báu nhất,
có vai trò quyết định đối với sự phát triển của đất nước. Xây dựng
nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc.
Cùng với sự đẩy mạnh phát triển kinh tế, chính trị, Đảng ta chủ
trương giải quyết tốt các vấn đề xã hội coi đây là một hướng chiến
lược thể hiện bản chất ưu việt của chế độ ta.
Phát triển giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ xây dựng nền
văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Bên cạnh đó, gắn kết tăng trưởng kinh tế với nâng cao chất lượng
cuộc sống, phát triển y tế, giáo dục.
| 1/10

Preview text:

1. Trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng, anh
(chị) hãy làm rõ tại sao trong nhận thức và hoạt động thực
tiễn phải luôn xuất phát từ thực tế khách quan đồng thời
phải phát huy tính năng động, sáng tạo chủ quan? Đảng
Cộng sản Việt Nam đã vận dụng quan điểm này như thế nào
trong sự nghiệp đổi mới và phát triển đất nước?

Cơ sở lý luận của nguyên tắc khách quan trong triết học:
Nguyên tắc khách quan trong triết học sẽ được xây dựng dựa trên
nội dung của nguyên lý về tính thống nhất vật chất của thế giới. Yêu
cầu của nguyên tắc khách quan trong triết học này được tóm tắt như
sau: khi chúng ta nhận thức khách thể, sự vật, hiện tượng tồn tại
trong hiện thực thì các chủ thể tư duy sẽ cần phải nắm bắt, tái hiện
khách thể, sự vật, hiện tượng trong chính nó mà bất cứ ai trong
chúng ta đều không được thêm hay bớt đi một cách tùy tiện.
Ta nhận thấy rằng, vật chất sẽ là cái có trước. Vật chất tồn tại vĩnh
viễn và ở một giai đoạn phát triển nhất định nào đó của chính bản
thân mình vật chất mới sản sinh ra tư duy. Bởi vì tư duy phản ánh
thế giới vật chất, nên trong quá trình nhận thức đối tượng tất cả
chúng ta cũng sẽ không được xuất phát từ tư duy, hay xuất phát từ ý
kiến chủ quan của chúng ta về đối tượng mà chúng ta sẽ cần phải
xuất phát từ chính bản thân đối tượng, từ bản chất của đối tượng
đos, chúng ta cũng không được bắt buộc các đối tượng phải tuân
theo tư duy mà ngược lại cần phải bắt tư duy tuân theo đối tượng.
Chúng ta cũng sẽ không được ép đối tượng thỏa mãn một sơ đồ chủ
quan mà sẽ cần phải rút ra những sơ đồ được tạo ra từ đối tượng, tái
tạo trong tư duy các hình tượng, tư tưởng phát triển của chính các đối tượng đó.
Ta nhận thấy được rằng, từ mối quan hệ giữa vật chất và ý thức, triết
học Mác – Lenin cũng đã từ đó rút ra nguyên tắc phương pháp luận
là sẽ cần phải xuất phát từ thực tế khách quan.
Ta hiểu nguyên tắc phương pháp luận là sẽ cần phải xuất phát từ
thực tế khách quan cũng có nghĩa là phương pháp luận sẽ xuất phát
từ tính khách quan của vật chất, chúng ta cần phải xuất phát từ bản
thân của sự vật và cũng không thể tùy tiện mà gán cho sự vật cái
mà các sự vật đó không có hoặc là sự vật đó vẫn chưa có. Trong tất
cả các hoạt động thì chúng ta cũng cần phải luôn luôn xuất phát từ
thực tế khách quan, mọi chủ trương, đường lối, chính sách, pháp
luật, mục tiêu, phương hướng được tạo lập thì đều phải xuất phát từ
thực tế khách quan. Bên cạnh đó thì chúng ta cũng sẽ cần phải tôn
trọng vai trò quyết định của đời sống vật chất đối với đời sống tinh thần của con người.
Như vậy, từ những phân tích được nêu cụ thể bên trên, ta thấy được
rằng, xuất phát từ thực tế khách quan, tôn trọng khách quan cũng
có những ý nghĩa rất lớn cho hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn của con người.
Chúng ta cũng có thể khái quát được rằng bản chất của nguyên tắc
khách quan đó chính là khi chúng ta thực hiện việc đánh giá, phân
tích sự vật hiện tượng nào đó thì chúng ta cũng sẽ cần phải đánh giá
đúng như sự vật hiện tượng đó thông qua cách thể hiện của chúng
như vậy. Chúng ta cũng sẽ không được gán cho sự vật hiện tượng cái
mà nó không có. Khi chúng ta thực hiện việ bôi hồng hoặc to đen sự
vật hiện tượng là chúng ta đang vi phạm nguyên tắc khách quan
trong quá trình thực hiện đánh giá.
Nội dung nguyên tắc khách quan trong triết học:
Tất cả chúng ta đều sẽ cần phải xem xét sự vật, hiện tượng giống
như chính sự tồn tại của sự vật, hiện tượng đó, chúng ta sẽ không bị
những yếu tố chủ quan chi phối để từ đó có những nhận thức sai
lệch, tô hồng hay bôi đen cho sự vật hay các hiện tượng, bên cạnh
đó thì chúng ta cũng cần phải có phương pháp nhận thức thức khoa
học và cũng cần phải tuân thủ theo các nguyên tắc phương pháp
luận trong triết học để có thể luôn tôn trọng điều kiện khách quan.
+ Trong mọi hoạt động, khi chúng ta đã đề ra phương hướng hoạt
động thì bất cứ ai cũng đều cần phải căn cứ vào điều kiện khách
quan, quy luật khách quan để nhằm mục đích có thể đảm bảo được
hoạt động đạt hiệu quả và hoạt động đó sẽ không bị các yếu tố khách quan cản trở.
+ Khi chúng ta xác định phương pháp, cách thức tổ chức hoạt động
sẽ cần phải căn cứ cụ thể vào các quy luật khách quan để nhằm
mục đích có thể lựa chọn được đúng phương pháp, cách thức phù
hợp với từng điều kiện khách quan để có thể từ đó đảm bảo cho sự
phát triển của đối tượng tác động và hoạt động đó theo đúng như ý thức của mỗi người.
+ Chúng ta cũng sẽ cần phai có kế hoạch điều chỉnh mục tiêu của
bản thân sao cho kế hoạch đó có thể phù hợp nhất khi điều kiện
khách quan có sự biến đổi để nhằm mục đích phát huy ý thức của
bản thân luôn năng động và sáng tạo trong mọi điều kiện khách quan.
– Phát huy tính năng động chủ quan: theo quan điểm của chủ nghĩa
duy vật biện chứng thì ý thức sẽ không thụ động mà ý thức sẽ có
tính độc lập, tương đối với vật chất và ý thức sẽ có những tác động
trở lại vật chất thông qua hoạt động thực tiễn của con người. Bản
chất của ý thức đó là mang tính năng động, sáng tạo.
+ Chúng ta nhận thấy rằng, tri thức khoa học và vận dụng tri thức
khoa học trong giai đoạn hiện nay có những ý nghĩa cũng như vai trò
vô cùng quan trọng trong cuộc sống của mỗi người. Bởi vì tri thức
khoa học hay việc vận dụng tri thức khoa học sẽ giúp cho hành động
của mỗi người trở đúng quy luật và có hiệu quả hơn.
+ Chúng ta cũng sẽ cần phải luôn phát huy tính tích cực của ý thức
và tìm tòi cái mới, phương pháp mới. Bởi vì những yếu tố này cũng
sẽ góp phần quan trọng để giúp ta phát triển bật phá và có sự khác
biệt khi so với những cá nhân khác luôn hoạt động theo quy luật mà
các chủ thể đó mãi không chịu đổi mới.
+ Bên cạnh đó thì chúng ta cũng sẽ cần phải luôn luôn phát huy tính
sáng tạo bởi vì thực chất khi sáng tạo mới giúp phát triển trí tuệ và
tạo nên đột phá, biết dự đoán một cách khoa học, phù hợp quy luật
khách quan khi đó thì mỗi chúng ta mới có thể sẵn sàng đối phó với
những biến đổi của quy luật khách quan.
Đảng Cộng sản Việt Nam đã vận dụng như thế nào vào sự
nghiệp cách mạng của Việt Nam:

Phải tôn trọng hiện thực khách quan, tôn trọng vai trò quyết định
của vật chất. Cụ thể là:
- Xuất phát từ hiện thực khách quan của đất nước, của thời đại để
họach định các đường lối, chiến lược, sách lược nhằm xây dựng và phát triển đất nước.
- Biết tìm kiếm, khai thác và sử dụng những lực lượng vật chất để
hiện thực hóa đường lối, chiến lược, sách lược nhằm xây dựng và phát triển đất nước.
- Coi cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, coi đại đòan kết tòan
dân tộc là động lực chủ yếu để phát triển đất nước. Biết kết hợp hài
hòa các lợi ích khác nhau(lợi ích kinh tế, lợi ích chính trị, lợi ích vật
chất, lợi ích tinh thần, lợi ích cá nhân, lợi ích tập thể, lợi ích xã hội...)
thành động lực mạnh mẽ thúc đẩy công cuộc đổi mới.
- Đảng ta rút ra những bài học kinh nghiệm từ những sai lầm, thất
bại trước đổi mới, Đảng ta kết luận: “Mọi đường lối, chủ trương của
Đảng phải xuất phát từ thực tế, tôn trọng quy luật khách quan”.
2. Phân tích cơ sở lý luận của nguyên tắc toàn diện. Vì sao
trong nhận thức và trong hoạt động thực tiễn chúng ta phải
tôn trọng nguyên tắc toàn diện? Hãy vận dụng nguyên tắc
này trong công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay?

Phân tích cơ sở lý luận của nguyên tắc toàn diện
Nguyên tắc toàn diện trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực
tiễn là một trong những nguyên tắc phương pháp luận cơ bản, quan
trọng của phép biện chứng duy vật. Nguyên tắc toàn diện đòi hỏi,
muốn nhận thức được bản chất của sự vật, hiện tượng chúng ta phải
xem xét sự tồn tại của nó trong mối liên hệ qua lại giữa các bộ phận,
yếu tố, thuộc tính khác nhau trong tính chỉnh thể của sự vật, hiện
tượng ấy và trong mối liên hệ qua lại giữa sự vật, hiện tượng đó với
sự vật hiện tượng khác, tránh cách xem xét phiến diện, một chiều.
Nguyên tắc toàn diện đòi hỏi phải xem xét: đánh giá từng mặt, từng
mối liên hệ, và phải nắm được đâu là mối liên hệ chủ yếu, bản chất
quy định sự vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng, tránh chủ
nghĩa chiết trung, kết hợp vô nguyên tắc các mối liên hệ tránh sai
lầm của thuật ngụy biện, coi cái cơ bản thành cái không cơ bản,
không bản chất thành bản chất hoặc ngược lại, dẫn đến sự nhận
thức sai lệch, xuyên tạc bản chất sự vật, hiện tượng.
Nguyên tắc toàn diện là một phần của nguyên lý mối quan hệ phổ
biến nên cũng có những tính chất của nguyên lý này là khách quan và phổ biến.
Cơ sở lý luận của nguyên tắc toàn diện là nguyên lý về mối liên hệ phổ biến
Mọi sự vật, hiện tượng hay quá trình (vạn vật) trong thế giới đều
tồn tại trong muôn vàn mối liên hệ ràng buộc lẫn nhau. Mối liên
hệ tồn tại khách quan, phổ biến và đa dạng.
Trong muôn vàn mối liên hệ chi phối sự tồn tại của chúng có
những mối liên hệ phổ biến. Mối liên hệ phổ biến tồn tại khách
quan, phổ biến; chúng chi phối một cách tổng quát quá trình vận
động, phát triển của mọi sự vật, hiện tượng xảy ra trong thế giới.
Trong hoạt động nhận thức và thực tiễn phải tôn trọng nguyên tắc toàn diện
Phát hiện nhiều mối liên hệ, quan hệ (hay những đặc điểm, tính
chất, yếu tố, mặt,...) đang chi phối sự tồn tại của bản thân sự vật. Sẽ
xem xét được sự vật từ nhiều góc độ, từ nhiều phương diện.
Xác định được những mối liên hệ, quan hệ (hay những đặc điểm,
tính chất, yếu tố, mặt,...) nào là bên trong, cơ bản, tất nhiên, ổn
định...; còn những mối liên hệ, quan hệ (hay những đặc điểm, tính
chất, yếu tố, mặt,...) nào là bên ngoài, không cơ bản, ngẫu nhiên, không ổn định...
Từ những mối liên hệ, quan hệ (hay những đặc điểm, tính chất, yếu
tố, mặt...) bên trong, cơ bản, tất nhiên, ổn định...sẽ lý giải được
những mối liên hệ, quan hệ (hay những đặc điểm, tính chất, yếu tố,
mặt...) còn lại. Qua đó, xây dựng một hình ảnh về sự vật như sự
thống nhất các mối quan hệ, liên hệ (hay những đặc điểm, tính chất,
yếu tố, mặt...), phát hiện ra quy luật (bản chất) của nó.
Đánh giá đúng vai trò của từng mối liên hệ, quan hệ (hay những đặc
điểm. tính chất, yếu tố, mặt,...) chi phối sự vật.
Thông qua hoạt động thực tiễn, sử dụng đồng bộ nhiều công cụ,
phương tiện, biện pháp thích hợp (mà trước hết là những công cụ,
phương tiện, biện pháp vật chất) để biến đổi những mối liên hệ,
quan hệ (hay những đặc điểm, tính chất, yếu tố, mặt...) của bản
thân sự vật, đặc biệt là những mối liên hệ. quan hệ (...) bên trong, cơ
bản, tất nhiên, quan trọng... của nó.
Nắm vững sự chuyển hóa các mối liên hệ, quan hệ (hay những đặc
điểm, tính chất. yếu tố. mặt...) của bản thân sự vật, kịp thời sử dụng
các công cụ. phương tiện, biện pháp bổ sung để phát huy hay hạn
chế sự tác động của chúng, nhằm lèo lái sự vật vận động, phát triển
theo đúng quy luật và hợp lợi ích chúng ta. Quán triệt và vận dụng
sáng tạo nguyên tắc toàn diện sẽ giúp chủ thể khắc phục được chủ
nghĩa phiến diện, chủ nghĩa chiết trung, chủ nghĩa ngụy biện... trong
hoạt động thực tiễn và nhận thức của chính mình.
Nếu không tôn trọng nguyên tắc toàn diện:
Mắc phải ba sai lầm là chủ nghĩa phiến diện, chủ nghĩa chiết trung, chủ nghĩa ngụy biện:
Chủ nghĩa phiến diện là cách xem xét chỉ thấy một mặt, một mối
quan hệ, tính chất nào đó mà không thấy được nhiều mặt, nhiều
mối quan hệ, nhiều tinh chất của sự vật; chỉ xem xét sự vật ở một
góc độ hay từ một phương diện nào đó mà thôi.
Chủ nghĩa chiết trung là cách xem xét chỉ chú ý đến nhiều mặt,
nhiều mỗi liên hệ của sự vật nhưng không rút ra được mặt bản
chất, không thấy được mọi liên hệ cơ bản của sự vật; mà coi
chúng như nhau, kết hợp chúng một cách vô nguyên tắc, tùy tiện.
Chủ nghĩa ngụy biện là cách xem xét qua đó đánh tráo cái cơ bản
với cái không cơ bản, cái chủ yếu với cái thứ yếu.... hay ngược lại
nhằm đạt được mục đích hay lợi ích của mình một cách tinh vi.
Ngoài ra nếu không tôn trong nguyên tắc toàn diện ta sẽ dễ sa vào
chủ nghĩa bình quân, quan điểm dân đều, tức không thấy được trọng
tâm, trọng điểm. điều cốt lõi trong cuộc sống vô cũng phức tạp.
Vận dụng nguyên tắc toàn diện vào công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay
Vận dụng của Đảng: Trong công cuộc xây dựng và đổi mới đất nước,
Đảng ta quán triệt thực hiện nguyên tắc toàn diện, tuy nhiên chúng
ta không thực hiện rập khuôn mà có sự kết hợp chặt chẽ giữa “chính
sách dàn đều” và “chính sách trọng điểm”. Đảng Cộng sản Việt Nam
đã xác định cần phải đổi mới toàn diện các lĩnh vực của đời sống xã
hội, chú trọng tăng trưởng kinh tế đi liền với thực hiện công bằng xã
hội, giải quyết những vấn đề của xã hội, đẩy mạnh công nghiệp hóa
- hiện đại hóa, đi tới bảo vệ bản sắc văn hóa dân tộc, vừa chủ động
hội nhập kinh tế quốc tế, vừa đảm bảo độc lập, tự chủ, an ninh quốc
phòng...trong đó xác định phát triển kinh tế là trọng tâm.
Về mặt kinh tế: Ngay trong việc phát triển kinh tế, quan điểm toàn
diện cũng được Đảng ta áp dụng thể hiện cụ thể ở việc thực hiện
phát triển chính sách kinh tế nhiều thành phần có sự quản lý của
Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Cụ thể là Nhà nước vẫn
thừa nhận vai trò tích cực của các thành phần kinh tế khác cũng như
thừa nhận sự tồn tại của hình thức sở hữu tư nhân. Tuy nhiên, trong
đó Đảng ta vẫn đặc biệt nhấn mạnh và coi trọng hình thức sở hữu
công cộng với vai trò chủ đạo là thành phần kinh tế quốc doanh
trong cơ chế thị trường.
Giai đoạn hiện nay, Đảng và nhà nước ta vẫn tuân thủ nguyên tắc
trên song song đó là sàng lọc, lựa chọn và giữ nguyên các tập đoàn
quốc doanh kinh doanh có hiệu quả đồng thời xóa bỏ các tập đoàn,
doanh nghiệp quốc doanh làm ăn kém hiệu quả gây hệ luỵ xấu cho toàn bộ nền kinh tế.
Về chính trị: Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng đã
khẳng định: “Xét trên tổng thể, Đảng ta bắt đầu công cuộc đổi mới
từ đổi mới về tư duy chính trị trong việc hoạch định đường lối và
chính sách đối nội, đối ngoại. Không có sự đổi mới đó thì không có
mọi sự đổi mới khác. Song, Đảng ta đã đúng khi tập trung trước hết
vào việc thực hiện thắng lợi nhiệm vụ đổi mới kinh tế, khắc phục
khủng hoảng kinh tế - xã hội, tạo điều kiện cần thiết về vật chất và
tinh thần để giữ vững ổn định chính trị, xây dựng và củng cố niềm
tin của nhân dân, tạo thuận lợi để đổi mới các mặt khác nhau của đời sống xã hội”.
Đảng cộng sản Việt Nam xác định phải ngày càng hoàn thiện cơ chế
Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, phát huy quyền làm chủ của nhân
dân, nâng cao năng lực lãnh đạo và năng lực tổ chức thực tiễn của
Đảng, Nhà nước phải được xây dựng thành Nhà nước pháp quyền
của dân, do dân, vì dân, quản lý xã hội bằng pháp luật. Nước ta đã
và đang xây dựng một nền hành chính nhà nước dân chủ, trong
sạch, vững mạnh, từng bước hiện đại hóa xây dựng đội ngũ cán bộ,
công chức trong sạch, có năng lực.
Đổi mới chính trị thể hiện ở đổi mới tổ chức, đổi mới bộ máy, phân
cấp lãnh đạo của Đảng, dân chủ hóa trước hết từ trong Đảng. Đổi
mới chính trị, tạo điều kiện cho đổi mới kinh tế. Khi đường lối chính
trị, thiết chế chính trị được đổi mới phù hợp với yêu cầu phát triển
kinh tế thì chính trị trở thành định hướng cho phát triển kinh tế.
Đồng thời tạo môi trường phát triển về an ninh trật tự để phát triển
kinh tế và chính trị còn đóng vai trò can thiệp điều tiết, khắc phục
những mặt trái do đổi mới kinh tế đưa đến.
Tăng cường quốc phòng an ninh: bảo vệ vững chắc độc lập chủ
quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ bảo vệ an ninh quốc gia trật tự
an toàn xã hội và nền văn hóa.
Về văn hóa, xã hội: Đảng ta coi nguồn lực con người là quý báu nhất,
có vai trò quyết định đối với sự phát triển của đất nước. Xây dựng
nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc.
Cùng với sự đẩy mạnh phát triển kinh tế, chính trị, Đảng ta chủ
trương giải quyết tốt các vấn đề xã hội coi đây là một hướng chiến
lược thể hiện bản chất ưu việt của chế độ ta.
Phát triển giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ xây dựng nền
văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Bên cạnh đó, gắn kết tăng trưởng kinh tế với nâng cao chất lượng
cuộc sống, phát triển y tế, giáo dục.