Preview text:

lOMoAR cPSD| 59773091
1.Khẳng định K và H phạm tội cướp tài sản theo Điều 133 Bộ luật Hình Sự (BLHS).
Trong tình huống cụ thể nêu trên, hành vi phạm tội của K và H có đầy đủ yếu tố cấu thành
tội cướp tài sản. Sở dĩ có thể khẳng định như vậy là do các nguyên nhân sau đây:
Tội cướp tài sản là “dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc hoặc có hành vi khác
làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể chống cự được nhằm chiếm đoạt tài sản…
Khách thể của tội phạm: Hành vi cướp tài sản xâm hại đồng thời hai quan
hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ, đó là quan hệ nhân thân và quan hệ sở hữu, bằng
hành vi phạm tội của mình người phạm tội cướp tài sản xâm hại trước hết đến thân thể,
đến tự do của con người để qua đó có thể xâm phạm được sở hữu. Khách thể trực tiếp
trong tình huống này là K và H đã đe dọa xâm phạm đến thân thể của bà P, chúng đã đe
dọa bằng lời nói đối với bà và sau đó định trói bà P lại để tiến hành lấy tài sản. Sau khi làm
cho bà P hoảng sợ K và H đã phá két sắt và lấy đi 460 triệu đồng hành động này đã xâm
phạm đến quan hệ sở hữu mà cụ thể khách thể trực tiếp là tài sản.
Mặt khách quan của tội phạm: Theo quy định của Điều luật thì có ba dạng
hành vi khách quan được coi là hành vi phạm tội của tội cướp tài sản. Nhưng nhìn
nhận vào trong tình huống này chúng ta nhận thấy những điểm đáng chú ý sau đây:
K và H đã có hành vi dùng vũ lực ngay tức khắc với bà P, ở đây cần chú ý dấu hiệu “ngay
tức khắc” vì nó có ý nghĩa rất quan trọng. Bằng hành vi này thì người phạm tội đã khống
chế được người bị tấn công và làm cho người bị tấn công bị tê liệt không thể kháng cự.
Với thái độ xông vào đe dọa và định trói chúng ta có thể thấy K và H đã thể hiện rõ quyết
tâm muốn lấy cho được tài sản. Thái độ thể hiện sự quyết tâm và cho thấy cả hai đều lOMoAR cPSD| 59773091
không lộ vẻ gì đó là sợ hãi, với một người phụ nữ đã 57 tuổi việc bị hai người đàn ông
xông vào trói và bịt miệng là việc làm khiến cho người phụ nữ đó bị rơi vào trạng thái
hoảng sợ, không thể chống cự.
Mặt chủ quan của tội phạm: Lỗi của K và H trong tình huống này là lỗi cố ý trực tiếp K và H
nhận thức rất rõ về hành vi của mình nhưng vẫn mong muốn
thực hiện hành vi phạm tội ấy biểu hiện là K và H đã bàn bạc rất kĩ càng về việc chiếm
đoạt tài sản của gia đình ông N. Do vậy, chúng mong muốn có được số tài sản này và hàng
loạt các hành vi tiếp theo đã minh chứng rất cụ thể cho mục đích ấy.
Mục đích chiếm đoạt là dấu hiệu thuộc mặt chủ quan của tội phạm, hàng loạt cách hành
vi trên được K và H thực hiện nhằm mục đích chiếm đoạt tài sản và kết quả là chúng đã
đạt được. Số tiền K và H chiếm đoạt được là 460 triệu đồng.
Chủ thể của tội phạm: Theo như tình huống đề bài đưa ra Vũ K (37 tuổi) và Trần Kim H
(41 tuổi) với độ tuổi như vậy, hai người này hoàn toàn thỏa mãn điều kiện về chủ thể,
có đầy đủ khả năng nhận thức và khả năng điều khiển hành vi.
2. Hãy chỉ ra quy định cụ thể của BLHS (phần chung và phần các tội phạm) cần áp dụng
đối với người phạm tội. Hãy giải thích - Về hình phạt K và H phải chịu mức hình phạt từ
12-20 năm vì 2 người này có các tình tiết tăng nặng quy định tại Điểm a Khoản 3 Điều 168
Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm: -
Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng; -
Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn
thương cơ thể từ 31% đến 60%; - Lợi dụng thiên tai, dịch bệnh.
3. Hãy phản bác các ý kiến mà anh chị cho là sai
K hông đồng ý với quan điểm cho rằng K và H phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản bởi những lí do sau: lOMoAR cPSD| 59773091
Điều 139 BLHS quy định “người nào bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của
người khác…” thứ nhất chúng ta đề cập đến
việc K và H có dùng thủ đoạn gian dối để chiếm đoạt tài sản hay không? Gian dối là đặc
trưng cơ bản của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản nhưng không phải là dấu hiệu duy nhất
của tội phạm mà ngoài thủ đoạn gian dối người phạm tội còn phải có hành vi chiếm đoạt
tài sản.Thủ đoạn gian dối của người phạm tội bao giờ cũng phải có trước khi có việc giao
tài sản giữa người bị hại với người phạm tội thì mới là hành vi phạm tội.
Trong tình huống trên chúng ta thấy K và H đã có hành vi bằng lời nói của mình nói dối
người giúp việc là đến để chúc tết gia đình để có thể vào được ngôi nhà của ông N.
Nhưng không vì thế mà có thể kết luận hành vi của
K và H cấu thành tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản vì tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản chỉ có một
hành vi khách quan duy nhất là chiếm đoạt nhưng chiếm đoạt bằng thủ đoạn gian dối. Nếu
chỉ có hành vi nói dối để vào nhà thì mới chỉ là điều kiện để giúp K và H có thể tiếp cận được
tài sản chứ chưa thể giúp K và H chiếm đoạt được tài sản. Nếu bằng thủ đoạn gian dối đánh
lừa người giúp việc và người giúp việc đã đưa ngay tài sản cho K và H do người giúp việc tin
vào thông tin giả do K và H đưa ra thì K và H phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Nhưng
trong tình huống đã nêu cụ thể, chúng ta giả sử K và H nói dối như vậy thì bà P đã giao tài
sản ngay cho hai người này chưa?câu trả lời là chưa. Vậy nên hành vi gian dối đánh lừa
người giúp việc để vào nhà chỉ là để tiếp cận tài sản và tạo sự thuận lợi để
dễ thực hiện hành vi chiếm đoạt. Sau đó là hàng loạt các tình tiết xông vào trói thì đây là
những biếu hiện của hành vi khách quan của tội cướp tài sản.
Không đồng ý với ý kiến cho rằng K và H phạm tội trộm cắp tài sản bởi những lý do sau:
Dấu hiệu của tội trộm cắp tài sản là dấu hiệu hành vi chiếm đoạt cùng với dấu hiệu lén lút
và dấu hiệu tài sản đang có chủ. Thứ nhất là dấu hiệu lén lút, ở trong tình huống này
chúng ta không thể nói H và K lén lút chiếm đoạt tài sản được bởi lẽ H và K đã nói dối bà P
là đến để chúc tết gia đình do vậy K và H đã xuất hiện trong nhà ông N một cách công khai
không có dấu hiệu nào là lén lút. K và H lấy tài sản cũng k cần giấu diếm hành vi của mình
bởi lẽ chúng lấy tài sản trước mặt người giúp việc.
Không đồng ý với quan điểm cho rằng K và H phạm tội công nhiên chiếm đoạt tài sản.
Công nhiên chiếm đoạt tài sản là hành vi lợi dụng sơ hở, vướng mắc của người quản lý tài
sản để lấy tài sản một cách công khai. Hành vi công nhiên chiếm đoạt tài sản gồm có các
đặc điểm sau: Hành vi chiếm đoạt tài sản của người phạm tội thực hiện khi chủ quản lý tài
sản hoặc chủ sở hữu về tài sản do hoàn cảnh khách quan mà không thể bảo vệ được tài lOMoAR cPSD| 59773091
sản của mình hoặc không ngăn cản được hành vi chiếm đoạt tài sản của người phạm tội;
Người phạm tội thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản một cách công khai; Sau khi chiếm
đoạt được tài sản, người phạm tội có thể có thêm hành vi nhanh chóng tẩu thoát. Mặc dù
hành vi này không bắt buộc phải có nhưng có thể xảy ra.
Đối chiếu với tình huống trên chúng ta thấy rằng trường hợp của K và H không thỏa mãn
đặc điểm thứ nhất, ở đây không phải là bà P không thể bảo vệ
được tài sản mình có trách nhiệm quản lý. Mà lúc này bà đang bị K và H dùng vũ lực ngay
tức khắc nhưng đặc điểm của tội công nhiên chiếm đoạt tài sản là người quản lý tài sản
không có điều kiện ngăn cản nên người phạm tội không cần
và không có ý định có bất cứ thủ đoạn nào khác để đối phó với bà P.K và H cũng không
cần dùng vũ lực hay đe dọa dùng vũ lực hay uy hiếp tinh thần.