



















Preview text:
lOMoAR cPSD| 58968691
Nhận định đúng sai:
1) Dùng vũ lực nhằm chiếm đoạt tài sản mà dẫn đến hậu quả chết người là hành vi cấu
thành cả hai tội: Tội cướp tài sản (Điều 168 BLHS) và Tội giết người (Điều 93 BLHS).
nhận định sai. Hành vi dùng vũ lực nhằm chiếm đoạt tài sản mà dẫn đến hậu quả chết người có
thể cấu thành cả hai tội: Tội cướp tài sản (Điều 168 BLHS) và Tội giết người (Điều 123 BLHS)
nếu hành vi đó có lỗi cố ý với chiếm đoạt trái phép tài sản, cố trong hậu quả làm chết người.
Ngoài ra hành vi này có thể cấu thành tội được quy định tại Khoản 4 Điều 168 BLHS nếu hành
vi đó có lỗi cố ý chiếm đoạt trái phép tài sản nhưng vô ý trong hậu quả làm chết người.
2)Công ty X được thuê vận chuyển một số container hàng hóa của công ty Y từ cảng Cát
Lái về kho hàng của công ty Y. Chiều 14-3, nhân viên điều động của công ty X nhận được
13 phiếu giao nhận container để thực hiện việc vận chuyển. Sau khi về đến công ty, nhân
viên này giao cho tài xế 3 phiếu, còn 10 phiếu để trên bàn làm việc. Lợi dụng lúc vắng
người, một nhân viên của công ty X là A đã trộm một phiếu giao nhận và đưa cho B. Sau
đó, B thuê xe vào cảng Cát Lái và tự nhận mình là nhân viên do công ty X điều động rồi
dùng phiếu giao nhận do A đưa lấy đi một containe hàng xà bông. B bán container hàng
này được 400 triệu đồng và chia cho A 200 triệu đồng.
Hãy xác định tội danh đối với hành vi của A và B trong vụ án này và giải thích tại sao?
Để làm bài tập này, trước hết ta cần xác định được B là người thực hành đã dùng thủ đoạn gian
dối và giả danh nhân viên công ty. A trong bài tập trên là đồng phạm với vai trò giúp sức. Sau đó
ta xác định tội danh của A, B và ghi rõ và đầy đủ các yếu tố cấu thành tội phạm của A, B. Việc
xác định tội danh rất dễ gây nhầm lẫn và làm chúng ta xác định sai. Vì vậy, cần hiểu rõ từng mặt,
phân tích từng yếu tố trong cấu thành.
Tội danh của A và B là Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản (Điều 174 BLHS)
Khách thể: Quan hệ sở hữu của công ty Y
Đối tượng tác động: Container hàng
Chủ thể: Người có năng lực trách nhiệm hình sự và đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự
Hành vi: Lợi dụng lúc vắng người, một nhân viên của công ty X là A đã trộm một phiếu giao
nhận và đưa cho B. Sau đó, B thuê xe vào cảng Cát Lái và tự nhận mình là nhân viên do công ty
X điều động rồi dùng phiếu giao nhận do A đưa lấy đi một containe hàng xà bông. Lỗi: Cố ý trực tiếp.
1. Người nước ngoài phạm tội trên máy bay của Việt Nam khi máy bay đó đang hoạt động
trên không phận quốc tế thì không bị coi là phạm tội trên lãnh thổ Việt Nam.
=> Nhận định này Sai. Bộ luật Hình sự Việt Nam hiện nay còn có khái niệm lãnh thổ mở rộng, tức
là lãnh thổ theo giác độ chủ quyền quốc gia về phương diện pháp lí.
2. Người phạm tội luôn phải chịu hình phạt trên thực tế.
=> Nhận định này Sai. Trong thực tế vẫn có trường hợp người phạm tội không phải chịu hình phạt.
Đó là những trường hợp có tội nhưng được miễn trách nhiệm hình sự, được miễn hình phạt hoặc
được miễn chấp hành hình phạt.
3. Đồng phạm phức tạp là phạm tội (phạm tội) có t ổ chức?
=> Nhận định này Sai. Căn cứ khoản 2 Điều 17 BLHS 2015 thì: “Phạm tội có tổ chức là hình thức
đồng phạm có sự câu kết chặt chẽ giữa những người cùng thực hiện tội phạm”. lOMoAR cPSD| 58968691
Đồng phạm phức tạp là hình thức đồng phạm trong đó những người đồng phạm giữ vai trò khác
nhau. Những người đồng phạm có sự bàn bạc trước về kế hoạch thực hiện tội phạm và giữa những
người đồng phạm và có sự phân công vai trò ở mức độ nhất định.
Vậy đồng phạm phức tạp có khái niệm rộng hơn một tội có tổ chức.
4. Bộ luật Hình sự Việt Nam có hiệu lực đối với mọi hành vi phạm tội xảy ra ngoài lãnh thổ Việt Nam.
=> Nhận định này Sai. Theo Điều 6 Bộ luật Hình sự thì những hành vi phạm tội ở ngoài lãnh thổ
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam mà Bộ luật này quy định là tội phạm, thì có thể bị truy
cứu trách nhiệm hình sự tại Việt Nam theo quy định của Bộ luật này.
5. Người được hưởng quyền miễn trừ về ngoại giao hoặc quyền ưu đãi miễn trừ về lãnh sự
nếu phạm tội trên lãnh thổ Việt Nam cũng không phải chịu trách nhiệm hình sự theo Bộ
luật Hình sự Việt Nam.
=> Nhận định này Sai. Theo Điều 5, sẽ giải quyết theo con đường ngoại giao, nhưng không có
nghĩa là không phải chịu trách nhiệm hình sự theo Bộ luật Hình sự Việt Nam.
6. Người bị toà án tuyên phạt 5 năm tù là người phạm tội thuộc loại tội nghiêm trọng.
=> Nhận định này Sai. Có thể là tội rất nghiêm trọng, nhưng có nhiều tình tiết giảm nhẹ theo Điều
51 thì sẽ được hưởng hình phạt nhẹ hơn quy định của bộ luật.
7. Bộ luật Hình sự Việt Nam không có hiệu lực trở lại (hiệu lực hồi tố)
=> Nhận định này Sai. Bởi lẽ, theo quy định tại khoản 3 Điều 7 Bộ luật Hình sự 2015. Bộ luật
Hình sự Việt Nam không có hiệu lực hồi tố trong trường hợp việc áp dụng không có lợi cho người
bị áp dụng. Ngược lại, trong trường hợp áp dụng mà có lợi cho họ thì Bộ luật Hình sự Việt Nam có hiệu lực hồi tố.
8. Phòng vệ quá muộn là vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng?
=> Nhận định này Sai. Bởi lẽ, phòng vệ quá muộn là trường hợp một người có hành vi gây thiệt
hại cho người tấn công sau khi sự tấn công của người này đã kết thúc. Sự gây thiệt hại này không
đạt mục đích ngăn chặn sự tấn công nguy hiểm cho xã hội cho nên không được Bộ luật Hình sự
nước ta thừa nhận là phòng vệ mà là tội phạm bình thường. Còn vượt quá giới hạn phòng vệ chính
đáng là trường hợp một người có đủ cơ sở pháp lý để phòng vệ, nhưng đã sử dụng phương pháp
thủ đoạn phòng vệ quá mức cần thiết, gây thiệt hại cho người tấn công một cách quá đáng trong
trường hợp này người phòng vệ phải chịu trách nhiệm hình sự những được giảm nhẹ đặc biệt.
9. Phòng vệ quá sớm là vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng?
=> Nhận định này Sai. Vì phòng vệ quá sớm khi chưa có sự tấn công nguy hiểm hoặc sự tấn công
chưa có nguy cơ xãy ra ngay tức khắc mà 1 người đã gây thiệt hại cho người khác, bởi họ cho rằng
người này sẽ tấn công mình. Trong trường hợp này chưa đủ cơ sở làm phát sinh quyền phòng vệ
nếu không được thừa nhận phòng vệ chính đáng.
10. Hành vi giúp sức về tinh thần chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự khi được thực hiện trong thực tế. lOMoAR cPSD| 58968691
=> Nhận định này Sai. Vì hành vi giúp sức về tinh thần thực chất là những tác động tâm lý dưới
dạng các lời hứa hoặc sự góp ý về phương pháp thủ đoạn thực hiện tội phạm vốn là các tác động
tâm lý cho nê sự giúp đỡ về tinh thần đã có hiệu quả ngay trong việc tăng thêm phần quyết tâm
thực hiện tội phạm. Chính vì vậy, không cần đợi đến lúc sự giúp sức về tinh thần đước thực hiện
thì nó mới bộc lộ hết bản chất nguy hiểm.
11. Người thực hành không bao giờ thực hiện tội phạm thông qua hành vi của người khác?
=> Nhận định này Sai. Theo khoản 3 Điều 17 BLHS 2015 quy định: “Người thực hành là người
trực tiếp thực hiện tội phạm”.
Hành vi trực tiếp thực hiện tội phạm có thể được biểu hiện như sau:
- Trực tiếp thực hiện tội phạm thể hiện ở việc trực tiếp thực hiện hành vi thỏa mãn dấu hiệu hành
vi trong mặt khách quan của tội phạm được quy định tại điều luật cụ thể Phần các tội phạm của
BLHS. Ví dụ: Trực tiếp thực hiện tội "Giết người" là trưc tiếp giết người (trực tiếp bắn, chém, bỏ
thuốc độc vào thức ăn,…);...
Người trực tiếp thực hiện tội phạm còn có thể không tự mình thực hiện hành vi trực tiếp tác động
đến đối tượng tác động của tội phạm mà có thể hành động tác động đến người khác để người đó
thực hiện hành vi trực tiếp tác động đến đối tượng của tội phạm. Những người mà người phạm tội
có thể tác động đến để thực hiện hành vi ý định phạm tội của mình bao gồm:
+ Người chưa đến tuổi chịu trách nhiệm hình sự.
+ Người không có năng lực trách nhiệm hình sự.
+ Người không nhận thức được hành vi nguy hiểm cho xã hội của hành vi của mình (không có lỗi)
hoặc có lỗi vô ý do nhận thức sai lầm hành vi của mình.
12. Phạm tội trong trường hợp ít nghiêm trọng là phạm 1 tội ít nghiêm trọng?
=> Nhận định này Sai. Căn cứ theo điểm a khoản 1 Điều 9 BLHS 2015 (sđ, bs 2017) :" Tội phạm
ít nghiêm trọng là tội phạm có tín chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội không lớn mà mực cao
nhất của khung hình phạt do Bộ luật này quy định với tội ấy là phạt tiền, phạt cải tạo không giam
giữ hoặc phạt tù đến 03 năm.”
Vậy phạm tội trong trường hợp ít nghiêm trọng không phải phạm 1 tội ít nghiêm trọng. Vì phạm
tôi ít nghiêm trọng là hành vi không gây nguy hiếm lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung
hình phạt là 3 năm tù, còn phạm tội trong trường hợp ít nghiêm trọng là hành vi không gây nguy
hiểm lớn cho xã hội và không phụ thuộc vào mức cao nhất của khung hình phạt.
13. Thực hiện nhiều tội phạm là phạm nhiều tội:
=> Nhận định này Sai. Căn cứ theo Điều 55 BLHS 2015 thì phạm nhiều tội là việc thực hiện nhiều
hành vi phạm tội, mỗi hành vi cấu thành 1 tội phạm độc lập hoặc chỉ thực hiện duy nhất 1 hành vi
và hành vi đó cấu thành nhiều tội phạm khác nhau.
+ Phạm tội nhiều lần là phạm tội từ 2 lần trở lên, cấu thành cùng 1 loại tội phạm và chưa có hành
vi nào bị truy cứu TNHS và chưa hết thời hiệu truy cứu TNHS.
14. Các biện pháp tư pháp phải được áp dung kèm theo hình phạt chính? lOMoAR cPSD| 58968691
=> Nhận định này Sai. Các biện pháp tư pháp là các biện pháp hình sự được áp dụng đối với người
phạm tội, có tác dụng hỗ trợ hoặc thay thế hình phạt, vì thế biện pháp tư pháp không bắt buộc phải
kèm theo hình phạt chính. Cc theo Điều 46 BLHS 2015 thì biện pháp tư pháp gồm 2 loại:
+ BPTP đối với người phạm tội.
+ BPTP đối với pháp nhân thương mại phạm tội.
15. Người thực hiện hành vi gây thiệt hại cho xã hội trong trường hợp bị cưỡng bức về tinh
thần không phải chịu trách nhiệm hình sự?
=> Nhận định này Sai. Vì người có hành vi gây thiệt hại cho xã hội trong trường hợp bị cưỡng chế
về tinh thần bị coi là có lỗi bởi vì không phải Mọi trường hợp cưỡng chế về tinh thần đều loại trừ
khả năng ý chí do vậy vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự vì còn khả năng ý chí.
16. Miễn trách nhiệm hình sự trong trường hợp được quy định tại khoản 3 Điều 110 Bộ luật
Hình sự là do tự ý nữa chừng chấm dứt việc phạm tội?
=> Nhận định này Sai. Cc theo Điều 16 BLHS 2015: “Tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội là
tự mình không thực hiện tội phạm đến cùng, tuy không có gì ngăn cản.”
Điều kiện để xác định hành vi tự ý nửa chừng chấm dứt về việc phạm tội là: tội phạm được thực
hiện ở giai doạn chuẩn bị phạm tội hoặc giai đoạn phạm tội chưa đạt.
17. Không chấp hành mệnh lệnh của người thi hành công vu là phạm tội chống người thi hành công vụ?
=> Sai. Căn cứ theo Khoản 1 Điều 330: “Người nào dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc dùng
thủ đoạn khác cản trở người thi hành công vụ thực hiện công vụ của họ hoặc ép buộc họ thực hiện
hành vi trái pháp luật, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.”
Vậy, theo Bộ luật hình sự thì chống người thi hành công vụ là hành vi dùng vũ lực đe doạ, tức là
tội phạm được thực hiện bằng hành động. Do vậy với hành vi vi phạm giao thông là hành vi không
chấp hành mệnh lệnh người điều khiển giao thông chứ không phạm tội chống người thi hành công vụ.
18. Bàn bạc thoả thuận trước là dấu hiệu bắt buộc của đồng phạm?
=> Nhận định này Sai. Theo quy định tại Khoản 1 Điều 17 BLHS :”Đồng phạm là trường hợp có
hai người trở lên cố ý cùng thực hiện một tội phạm.”
Căn cứ theo BLHS VN, phân loại đồng phạm dựa vào dấu hiệu chủ quan gồm có hai loại: đồng
phạm có thông mưu trước và đồng phạm không có thông mưu trước. Trong đó, đồng phạm có
thông mưu trước có sự bàn bạc thoả thuận trước về việc cùng thực hiện tội phạm giữa những người
cùng phạm tội. Còn đồng phạm không có thông mưu trước là hình thức đồng phạm mà trong đó
giữa những người cùng thực hiện tội phạm không có sự bàn bạc, thỏa thuận trước với nhau hoặc
thỏa thuận, bàn bạc nhưng không đáng kể. Không bàn bạc thỏa thuận trước vẫn có thể được xem
là đồng phạm. Vậy, bàn bạc thoả thuận trước không phải là dấu hiệu bắt buộc của đồng phạm.
19. Giết người bằng phương pháp có khả năng làm chết nhiều người là trường hợp giết người
có sử dụng nhưng công cụ nguy hiểm như súng, lựu đạn. lOMoAR cPSD| 58968691
=> Nhận định này Sai. Vì bản thân phương tiện phạm tội chưa thể hiện p pháp phạm tội nếu đặt
nó trong địa điểm hoàn cảnh cụ thể. Ví dụ: nếu dùng súng, lựu đạn chỉ để giết 1 người đang ở nơi
hẻo lánh thì không thuộc trường hợp giết người phương pháp có khả năng làm chết nhiều người.
20. Mọi trường hợp giao cấu với người dưới 16 tuổi đều cấu thành tội quy định tại Điều 145
Bộ luật Hình sự Việt Nam?
=> Nhận định này Sai. Vì: Cấu thành tội giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi phải
thỏa mãn các điều kiện sau:
+ Khách thể của tội phạm: là quyền bất khả xâm phạm về thân thể, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm
của trẻ em; thể chất, sinh lý và vấn đề tình dục của trẻ em trong độ tuổi từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi.
+Mặt khách quan của tội phạm: Sự giao cấu là thuận tình giữa người phạm tội và nạn nhân không
có sự trao đổi thỏa thuận bằng tiền hay vật chất.
+ Mặt chủ quan: Lỗi cố ý trực tiếp. Người phạm tội và nạn nhân có sự đồng tình thỏa thuận giao
cấu với nhau, trong đó người phạm tội hoàn toàn nhận thức được hậu quả xâm hại tình dục của trẻ
em từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi, nhưng vì để thỏa mãn nhu cầu tình dục của mình nên mong
muốn hậu quả đó xảy ra
- Chủ thể: Chủ thể của tội phạm là người có năng lực trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi từ đủ 18 tuổi trở lên.
Vậy không phải mọi trường hợp giao cấu với người dưới 16 tuổi đều cấu thành tội tại Điều 145
BLHS. Có những trường hợp giao cấu với người dưới 16 tuổi lại không cấu thành tội quy định tại
Đ145 Bộ luật Hình sự Việt Nam. Ví dụ: Nếu người đã thành niên giao cấu với người dưới 13 tuổi
thì cấu thành tội hiếp dâm theo quy định tại Điều 142 BLHS.
21. Án treo không được áp dung cho trường hợp tội đã phạm là tội nghiêm trọng?
=> Nhận định này Sai. Căn cứ theo Khoản 1 Điều 65 BLHS : “Khi xử phạt tù không quá 03 năm,
căn cứ vào nhân thân của người phạm tội và các tình tiết giảm nhẹ, nếu xét thấy không cần phải
bắt chấp hành hình phạt tù, thì Tòa án cho hưởng án treo và ấn định thời gian thử thách từ 01 năm
đến 05 năm và thực hiện các nghĩa vụ trong thời gian thử thách theo quy định của Luật Thi hành án hình sự.”
Vậy trong trường hợp tội đã phạm là tội nghiêm trọng mà mức án đã tuyên đối với họ không quá
3 năm và các Điều kiện khác về án treo đêu thoả mãn (theo Đ65 Bộ luật Hình sự Việt Nam) thì họ
vẫn có thể được hưởng án treo.
22. Luật hình sự là văn bản pháp luật quy định tội phạm và hình phạt?
=> Nhận định này Sai. Vì luật hình sự là ngành luật bao gồm hệ thống các quy phạm PL do nhà
nước ban hành, xác định những hành vi bị coi là tội phạm và quy định những hình phạt được áp
dung đối với người có hành vi nguy hiềm cho xã hội.
23. Người chuẩn bị phạm tội chiếm đoạt chất phóng xạ phải chịu trách nhiệm hình sự trong Mọi trường hợp?
=> Nhận định này Sai. Vì căn cứ K1 Đ9 Bộ luật Hình sự Việt Nam về tội ít nghiêm trọng, tội phạm
nghiêm trọng, tội phạm rất nghiêm, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng và căn cứ vào K1 Đ14 Bộ luật
Hình sự Việt Nam về trách nhiệm hình sự đối với người chuẩn bị phạm tội thì: Nếu người chuẩn lOMoAR cPSD| 58968691
bị phạm tội chiếm đoạt chất phóng xạ thuộc K1 Đ310 thì không phải chịu trách nhiệm hình sự vì
đây là tội nghiêm trọng có mức cao nhất khung hình phạt là 10 năm tù.
24. Hành vi chuẩn bị phạm tội chữa mại dâm luôn phải chịu trách nhiệm hình sự?
=> Nhận định này Sai. Vì căn cứ K1 Đ9 Bộ luật Hình sự Việt Nam về tội phạm ít nghiêm trọng,
tội phạm nghiêm trọng, tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng và căn cứ vào
K1 Đ14 Bộ luật Hình sự Việt Nam về trách nhiệm hình sự đối với người chuẩn bị phạm tội thì:
Nếu người phạm tội chứa mại dâm thuộc K1 Đ327 thì không phải chịu trách nhiệm hình sự vì đây
là tội nghiêm trọng có mức cao nhất của khung hình phạt là 5 năm tù.
25. Người có hành vi giúp sức ở dạng “hứa hẹn trước” phải chịu trách nhiệm hình sự ngay
cả khi lời hứa đó không đước thức hiện?
=> Nhận định này Đúng. Vì Luật hình sự không đòi hỏi lời hứa hẹn trước của người giúp sức phải
được thức hiện, bởi lẻ chính lời hứa hẹn của người giúp sức đã cũng cố ý định phạm tội, cũng cố
quyết tâm phạm tội hoặc quyết tâm phạm tội đến cùng của người trực tiếp thực hiện tội phạm.
26. Không phải Mọi trường hợp chuẩn bị phạm tội hiếp dâm đểu phải chịu trách nhiệm hình sự?
=> Nhận định này Đúng. Vì căn cứ K1 Đ9 Bộ luật Hình sự Việt Nam về tội phạm ít nghiêm trọng,
tội phạm nghiêm trọng, tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng và căn cứ vào
K1 Đ14 Bộ luật Hình sự Việt Nam về trách nhiệm hình sự đối với người chuẩn bị phạm tội thì:Nếu
người chuẩn bị phạm tội hiếp dâm thuộc K1 Đ141 BLHS Việt Nam thì không phải chịu trách
nhiệm hình sự vì đây là tội nghiêm trọng có mức cao nhất của khung hình phạt là 7 năm tù.
27. Không phải Mọi tình tiết thuộc về nhân thân người phạm tội đều phải được cân nhắc đến
khi quy định hình phạt?
=> Nhận định này Đúng. Vì khi quy định hình phạt hội đồng xét xử cần chú ý đến 1 số đặc điểm
nhân thân của người phạm tội có ảnh hưởng đến tính chất nguy hiểm của hành vi phạm tội cũng
như khả năng cải tạo giáo dục của người đó.
Ví dụ: như các đặc điểm mang tính chất pháp lý: tái phạm, tái phạm nguy hiểm, tiền án, tiền sự.
28. Tội phạm ít nghiêm trọng và tội phạm nghiêm trọng khác nhau ở chổ hình phạt tù cụ thể
Đ8 là đưới 3 năm và trên 3 năm?
=> Nhận định này Sai. Vì căn cứ K1 Đ9 Bộ luật Hình sự Việt Nam việc phân biệt tội phạm nghiêm
trọng và ít nghiêm trọng là dựa vào mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy mà luật hình
sự đã quy định chứ không dựa vào hình phạt cụ thể đã tuyên.
29. Đối tượng Điều chỉnh của luật hình sự là những quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ
và ghi rõ tại khoản 1 Điều 8?
=> Nhận định này Sai. Vì đối tượng Điều chỉnh của luật hình sự là quan hệ phát sinh giữa nhà
nước và người phạm tội khi người đó thực hiện 1 tội phạm. Còn những quan hệ xã hội được quy
định tại khoản 1 Điều 8 Bộ luật Hình sự Việt Nam là những khách thể được luật hình sự bảo vệ.
30. Đạo luật hình sự là Bộ luật Hình sự Việt Nam? lOMoAR cPSD| 58968691
=> Nhận định này Sai. Vì đạo luật hình sự là văn bản PL do cơ quan quyền lực tối cao của nhà
nước ban hành quy định tội phạm và hình phạt cũng như các chế định khác liên quan đến việc xcá
định tội phạm và hình phạt đồng thời quy định nguyên tắc chung của luật hình sự Việt Nam. Đạo
luật hình sự có thể là pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa ngày 2/10/1970
hoặc là những sắc luật như sắc luật số 03/SL ngày 15/3/1976 hoặc sắc lệnh số 150/ SL ngày
12/4/1953 trừng trị bọn địa chủ cường hào ngoan cố hoặc là 1 Bộ luật Hình sự Việt Nam hoàn chỉnh.
Bộ luật Hình sự Việt Nam chỉ là 1 hình thức cụ thể của đạo luật hình sự và là hình thức hoàn thiện
nhất. Như vậy khái niệm đạo luật hình sự rộng hơn khái niệm Bộ luật Hình sự Việt Nam.
31. Việc phân biệt giữa lỗi cố ý trực tiếp và lỗi cố ý gián tiếp trong khi áp dung luật hình sự
chỉ có ý nghĩa đối với việc quy định hình phạt mà không có ý nghĩa đối với việc định tội?
=> Nhận định này Sai. Vì khi áp dung luật hình sự lỗi cố ý trực tiếp và lỗi cố ý gián tiếp không
phải chỉ có ý nghĩa đối với việc quy định hình phạt mà còn có ý nghĩa đối với việc định tội.
Ví dụ:Tội bức tử(Đ130 Bộ luật Hình sự Việt Nam) nếu người phạm tội với lỗi cố ý gián tiếp làm
nạn nhân xử tự sát thì xử theo Đ130 Bộ luật Hình sự Việt Nam. Nếu người phạm tội có lỗi cố ý
trực tiếp đối với hậu quả làm nạn nhân chết thì sẽ bị xử lý theo Đ123 Bộ luật Hình sự Việt Nam.
32. Khi áp dung luật hình sự chỉ phải xác định hậu quả của tội phạm nếu như tôi đó là tội có
cấu thành tội phạm vật chất?
=> Nhận định này Sai. Vì trong Mọi trường hợp khi áp dung luật hình sự đều phải xác định hậu
quả của hành vi người phạm tội để định tội hoặc định hình phạt, chứ không phải cấu thành tội
phạm vật chất mới xác định hậu quả của tội phạm.
33. Cơ sở duy nhất của việc quy định độ tuổi của Điều 12 Bộ luật Hình sự Việt Nam: độ tuổi
là Điều kiện để có năng lực trách nhiệm hình sự?
=> Nhận định này Sai. Vì ngoài cơ sở độ tuổi quy định tại Đ12 Bộ luật Hình sự Việt Nam là Điều
kiện để có năng lực trách nhiệm hình sự còn có các cơ sở sau:
– Về chính sách hình sự: chính sách nhân đạo của Đảng và nhà nước ta đối với người chưa thành niên.
– Yêu cầu đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm trong từng thời điềm giai đoạn nhất định.
34. Người bị mắc bệnh tâm thần luôn không phải chịu trách nhiệm hình sự?
=> Nhận định này Sai. Vì người bị mắc bệnh tâm thần ở dạng nhẹ mà năng lực nhận thức vẫn còn
và họ có khả năng Điều khiển hành vi của họ, tuy khả năng nhận thức và khả năng Điều khiển
hành vi bị hạn chế, nếu có hành vi phạm tội thì vẫn có thể truy cứu trách nhiệm hình sự, tình tiết
bị hạn chế khả năng Điều khiển hành vi là một tình tiết giảm nhẹ được quy định ở điểm q khoản 1
Đ51 Bộ luật Hình sự Việt Nam. lOMoAR cPSD| 58968691
Nhận định đúng sai Luật hình sự phần các tội phạm
35. Hành vi vi phạm các quy định an toàn giao thông vận tải chỉ cấu thành tội theo Điều 260
Bộ luật Hình sự Việt Nam khi hành vi đó gây ra thiệt hại nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng?
=> Nhận định này Sai. Vì căn cứ khoản 4 Điều 260 Bộ luật Hình sự Việt Nam “Vi phạm quy định
về tham gia giao thông đường bộ trong trường hợp có khả năng thực tế dẫn đến hậu quả quy định
tại một trong các điểm a, b và c khoản 3 Điều này nếu không được ngăn chặn kịp thời, thì bị phạt
tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 01 năm hoặc phạt
tù từ 03 tháng đến 01 năm”.
Ví dụ: người bẻ ghi đường sắt đã không thực hiện nhiệm vụ của mình (do ngủ gật) song có người
phát hiện và bẻ ghi để 2 đoàn tàu không đâm vào nhau. Trong trường hợp này mặc dù chưa có hậu
quả (tai nạn) xảy ra nhưng người bẻ ghi vẫn phải bị truy cứu trách nhiệm hinh sự theo K4 Điều
202 Bộ luật Hình sự Việt Nam.
36. Nếu người đưa hối lộ chủ động khái báo thì họ được coi là không có lỗi?
=> Nhận định này Sai. Vì căn cứ khoản 7 Điều 364 Bộ luật Hình sự Việt Nam: “Người đưa hối lộ
tuy không bị ép buộc nhưng đã chủ động khai báo trước khi bị phát giác, thì có thể được miễn
trách nhiệm hình sự và được trả lại một phần hoặc toàn bộ của đã dùng để đưa hối lộ.”
37. Tình tiết hiếp dâm có tổ chức và tình tiết nhiều người hiếp 1 người tất cả đều đồng phạm hiếp dâm?
=> Nhận định này Sai. Vì hiếp dâm có tổ chức và tình tiết nhiều người hiếp dâm 1 người không
phải là đồng phạm hiếp dâm.
Hiếp dâm có tổ chức là trường hợp đồng phạm hiếp dâm ở hình thức có tổ chức tức là có sự cấu
kết chặt chẻ giữa những người phạm tội, ở trương hợp này không phải là buộc tất cả những tên
phạm tội đêu phải thực hiện hành vi giao cấu với 1 hoặc nhiều nạn nhân mà chủ thể của trường
hợp này có thể là nữ giới với vai trò là người tổ chức giúp sức, xúi giục.
Nhiều người hiếp 1 người cũng là trương hợp đồng phạm hiếp dâm nhưng chưa đến mức đồng bọn
có tổ chức, ở trường hợp này tất cả những tên phạm tội đều có hành vi thực hiện giao cấu với cùng
1 nạn nhân và chủ thể trong trường hợp này chỉ có thể là nam giới.
38. Tất cả các quan hệ xã hội bị tội phạm xâm hại đều là khách thể trực tiếp của tội phạm đó?
=> Nhận định này Sai. Vì khách thể trực tiếp của tội phạm là quan hệ xã hội cụ thể bị 1 loại tội
phạm cụ thể trực tiếp xâm hại và sự xâm hại này thể hiệh được bản chất nguy hiểm cho xã hội của
tội phạm đó. ví dụ: hành vi giết người gây thiệt hại cho nhiều quan hệ xã hội như quan hệ giữa nạn
nhân với gia đình, giữa nạn nhân với cơ quan nơi người đó làm việc, quyền sống, quyền được tôn
trọng bảo vệ của người đó. Trong tội giết người quy định tại Đ123 Bộ luật Hình sự Việt Nam khách
thể trực tiếp chính là quyền sống quyền được tôn trọng và bảo vệ tính mạng.
39. Người giúp sức ở dạng « hứa hẹn trước » chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự trong trường
hợp họ đã thực hiện lời hứa hẹn đó? lOMoAR cPSD| 58968691
=> Nhận định này Sai. Vì người giúp sức ở dạng hứa hẹn trước mặc dù họ chưa thực hiện lời hứa
hẹn trước nhưng vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự bởi lẽ lời hứa hẹn trước đó đã làm cho người
phạm tội vững tâm về tư tưởng để họ thực hiện tội phạm.
VD: A hứa với C tới giờ hẹn sẽ đi xe tới chở tài sản mà C trộm cắp được nhưng đến giờ hẹn A
không đến mà C đã thực hiện xong hành vi của mình thì A vẫn bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
40. Hành vi tấn công – cơ sở của phòng vệ chính đáng luôn là một tội phạm?
=> Nhận định này Sai. Vì hành vi tấn công là cơ sở của phòng vệ chính đáng phải có tính nguy
hiểm đáng kể cho xã hội, có thể có dấu hiệu cấu thành tội phạm, nhưng luật hình sự không bắt
buộc phải như vậy. bởi thực tế có những hành vi nguy hiểm cho xã hội không phải là tội phạm.
VD: Hành vi người điên dùng dao tấn công người khác là cơ sở của phòng vệ chính đáng và hành
vi này không phải là hành vi của tội phạm.
41. Người không thấy trước hậu quả nguy hiểm cho xã hội của hành vi của mình không phải
chịu trách nhiệm hình sự?
=> Nhận định này Sai. Vì trong trường hợp họ tuy không thấy trước hậu quả cho xã hội của hành
vi của mình nhưng họ buộc phải thấy trước hậu quả đó. Đây là trường hợp phạm tội với lỗi vô ý cẩu thả.
VD: Y tá do cẩu thả đã phát thuốc nhằm cho bệnh nhân uống. Trong trường hợp người y tá tuy
không thấy trước hậu quả nguy hiểm cho xã hội của hành vi của mình nhưng với nghề y tá buộc
họ phải thấy trước và có dấu hiệu chuyên môn để thấy trước là bệnh nhân uống nhằm thuốc sẽ dẫn
đến hậu quả nguy hiểm. Người y tá phải chịu trách nhiệm hình sự với vô ý cẩu thả.
42. Người say rượu phạm tội luôn phải chịu trách nhiệm hình sự?
=> Nhận định này Sai. Vì nếu người say rượu bệnh lý « người phạm tội bị mắc 1 chứng bệnh vì
liên quan đến bệnh nên chỉ uống rượu một lượng rượu rất nhỏ cũng có thể vẫn đến năng lực, nhận
thức và năng lực Điều khiển hành vi của con người hoàn toàn bị loại trừ » ( điểm q Điều 51 BLHS)
thì họ không có lỗi với tình trạng say rượu của mình, do vậy cũng không được coi là không có lỗi
với hành vi nguy hiểm cho xã hội mà họ thực hiện trong tình trạng say rượu.
43. Bộ luật Hình sự Việt Nam có hiệu lực đối với các trường hợp người nước ngoài phạm tội
ở ngoài lãnh thổ Việt Nam?
=> Nhận định này Sai. Vì nếu người nước ngoài phạm tội ở ngoài lãnh thổ Việt Nam mà họ không
thực hiện các tội quy định ở chương 26 Bộ luật Hình sự Việt Nam thì họ không bị truy cứu trách
nhiệm hình sự. Người nước ngoài phạm tội ở ngoài lãnh thổ Việt Nam cũng có thể bị truy cứu
trách nhiệm hình sự theo Bộ luật Hình sự Việt Nam trong những trường hợp được quy định trong
các hiệp ước quốc tế mà Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký kết hoặc công nhận
theo K2 Đ6 Bộ luật Hình sự Việt Nam và các tội trong chương 26 Bộ luật Hình sự Việt Nam.
44. Trong mọi trường hợp người nước ngoài phạm tội ở Việt Nam Đều phải chịu trách nhiệm
hình sự theo Bộ luật Hình sự Việt Nam?
=> Nhận định này Sai. Căn cứ theo K2 Điều 5 BLHS 2015 thì người nước ngoài khi phạm tội
trong lãnh thổ Việt Nam sẽ bị xử lý theo 1 trong 2 trường hợp:
- Trường hợp 1: Người phạm tội không thuộc đối tượng miễn trừ ngoại giao hoặc lãnh sự. lOMoAR cPSD| 58968691
Với trường hợp này, người nước ngoài phạm tội sẽ phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định
của pháp luật Việt Nam.
- Trường hợp 2: Người phạm tội thuộc đối tượng hưởng quyền miễn trừ ngoại giao hoặc lãnh sự
theo pháp luật Việt Nam, theo điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên hoặc theo tập quán quốc tế.
Với trường hợp này, vấn đề trách nhiệm hình sự của người phạm tội được giải quyết theo quy
định của điều ước quốc tế hoặc tập quán quốc tế có liên quan. Nếu điều ước quốc tế đó không
quy định hoặc không có tập quán quốc tế thì trách nhiệm hình sự của người phạm tội được giải
quyết bằng con đường ngoại giao.
45. Mọi hành vi nguy hiểm cho xã hội bị coi là tội phạm khi hành vi đó gây ra những thiệt hại đáng kể?
=> Nhận định này Sai. Khoản 1, Điều 8 BLHS 2015 “Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội
được quy định trong Bộ luật hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân
thương mại thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn
vẹn lãnh thổ Tổquốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh,
trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm quyền con người, quyền,
lợi ích hợp pháp của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ
nghĩa mà theo quy định của Bộ luật này phải bị xử lý hình sự”.
Và có hành vi nguy hiểm cho xã hội nhưng không bị coi là tội phạm mặc dù hành vi đó gây ra
những thiệt hại đáng kể.
Ví dụ: Người phạm tội không có năng lực trách nhiệm hình sự; phòng vệ chính đáng, tình thế cấp thiết.
46. Hình thức thứ hai của lỗi cố ý là cố ý gián tiếp; trường hợp này người phạm tội không
trực tiếp gây ra hậu quả nguy hiểm cho xã hội?
=> Nhận định này Sai. Vì lỗi cố ý trực tiếp hay gián tiếp là căn cứ vào thái độ tâm lý của người
phạm tội đối với hành vi nguy hiểm và đối với hậu quả hoàn toàn không phải căn cứ vào việc
người đó trực tiếp gây ra hậu quả để xác định lỗi của một người. Sự phân biệt 2 loại cố ý trực tiếp
và gián tiếp dựa trên cơ sở Mối quan hệ giữa 2 yếu tố ý chí và lý trí. Từ 2 yếu tố tâm lý khác nhau
của can phạm đối với hành vi nguy hiểm của mình cũng như khả năng thấy trước và khuynh hướng
ý chí đối với hậu quả mong muốn có xảy ra hay không.
47. Gây thiệt hại trong trường hợp bị cưỡng bức về thân thể không thể chịu trách nhiệm
hình sự vì họ bị uy hiếp về tinh thần?
=> Nhận định này Sai. Vì cưỡng bức về thân thể là trường hợp dùng sức mạnh bạo lực vật chất tác
động lên cơ thể khiến người này không thể hoạt động theo ý muốn của mình được. Người bị cưỡng
bức thân thể vẫn có thể phải chịu trách nhiệm hình sự về xử sự gây ra thiệt hại cho xã hội. Căn cứ
vào điểm k khoản 1 Điều 51 BLHS 2015 thì “Phạm tội vì bị người khác đe dọa hoặc cưỡng bức”
chỉ được xem là tình tiết giảm nhẹ TNHS.
48. Đạo luật hình sự là ngành luật độc lập trong hệ thống pháp luật Việt Nam có đối tượng
Điều chỉnh và phương pháp Điều chỉnh riêng? lOMoAR cPSD| 58968691
=> Nhận định này Sai. Vì đạo luật hình sự là văn bản pháp luật do cơ quan quyền luật tối cao của
Nhà nước ban hành quy định tội phạm và hình phạt đồng thời quy định nguyên tắc chung của luật hình sự Việt Nam.
Luật hình sự là ngành luật độc lập trong hệ thống pháp luật của Nhà nước bao gồm hệ thống pháp
luật do nhà nước ban hành, quy định những hành vi nguy hiểm cho xã hội là tội phạm, đồng thời
quy định những hình phạt đối với tội phạm ấy.
49. Giết người bằng phương pháp có khả năng làm chết nhiều người là trường hợp phạm tội
phải có hậu quả nhiều người chết, kẻ phạm tội mới bị xử lý theo điểm 1 K1 Đ123 Bộ luật Hình sự Việt Nam?
=> Nhận định này Sai. Vì Luật hình sự không đòi hỏi giết người bằng phương pháp có khả năng
làm chết nhiều người phải có hậu quả nhiều người chết. VD: A thù tức C định giết C, A đã ném
thuốc nổ vào nhà C trong lúc C và vợ con đang ăn cơm, thuốc nổ không nổ C và vợ con C không
chết nhưng A vẫn bị xử lý về trường hợp giết người bằng phương pháp có khả năng làm chết nhiều
người « Điểm 1 K1 Đ 93 Bộ luật Hình sự Việt Nam.
50. Không phải mọi hành vi không hành động phạm tội Điều cấu thành tội phạm vật chất?
=> Nhận định này Đúng. Vì không hành động phạm tội có thể cấu thành tội phạm vật chất hoặc ở
cấu thành tội phạm hình thức.
VD: Tội bắt cóc chiếm đoạt tài sản được coi là hành vi cấu thành tội phạm hình thức. Có nghĩa là,
người phạm tội chỉ cần thực hiện hành vi về mặt khách quan như: bắt cóc con tin, đe dọa chiếm
đoạt tài sản là đủ để cấu thành tội phạm mà không cần hậu quả xảy ra.
51. Đối tượng Điều chỉnh của luật hình sự là tất cả các quan hệ xã hội phát sinh khi có một
tội phạm được thực hiện.
=> Nhận định này Sai. Khi có một tội phạm được thực hiện sẽ phát sinh nhiều quan hệ xã hội
(quan hệ dân sự, quan hệ hành chính,…). Trong khi luật hình sự chỉ Điều chỉnh quan hệ xã hội
phát sinh giữa Nhà nước và người phạm tội khi người này thực hiện tội phạm, hay còn gọi là quan hệ pháp luật hình sự.
52. Đối tượng Điều chỉnh của luật hình sự là những quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ.
=> Nhận định này Sai. Đối tượng Điều chỉnh của luật hình sự là quan hệ xã hội phát sinh giữa NN
và người phạm tội khi người này thực hiện tội phạm. Còn quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ
là các quan hệ xã hội được quốc gia tuyên bố bảo vệ trước sự xâm hại của tội phạm. Các quan hệ
này khi bị xâm phạm sẽ trở thành khách thể của tội phạm.
53. Bãi nại của người bị hại là căn cứ pháp lý có giá trị bắt buộc làm chấm dứt quan hệ pháp luật hình sự.
=> Nhận định này Sai. Bãi nại được hiểu là rút yêu cầu khởi kiện. Tuy nhiên không phải mọi các
hành vi phạm tội đều không bị xử lí hình sự khi có bãi nại. Căn cứ vào Điều 155 BLTTHS 2015
thì chỉ được khởi tố vụ án hình sự khi có yêu cầu của người bị hại (hoặc đại diện người bị hại) đối
với 10 tội danh được quy định Điều luật này quy định. Vì thế, bãi nại chỉ có giá trị pháp lí bắt buộc
làm chấm dứt quan hệ PL hình sự đối với một số tội danh do luật định mà thôi.
Cơ sở pháp lý: Điều 155 BLHS 2015. lOMoAR cPSD| 58968691
54. Trong mọi trường hợp một tội phạm chỉ được coi là thực hiện tại Việt Nam nếu tội phạm
đó bắt đầu và kết thúc trên lãnh thổ Việt Nam.
=> Nhận định này Sai. Tội phạm được xem là thực hiện trên lãnh thổ Việt Nam khi tội phạm ấy có
một giai đoạn được thực hiện trên lãnh thổ Việt Nam. Nghĩa là tội phạm đó có thể được thực hiện
trọn vẹn trên lãnh thổ Việt Nam, hoặc bắt đầu hoặc diễn ra hoặc kết thúc trên lãnh thổ Việt Nam.
55. Căn cứ phân loại tội phạm theo Điều 9 Bộ luật Hình sự là mức hình phạt do Tòa án áp
dụng đối với người phạm tội.
=> Nhận định này Sai. Căn cứ vào Điều 9 BLHS thì phân loại tội phạm dựa trên tính chất và mức
độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi được quy định trong Bộ luật này. Nói cách khác, căn cứ phân
loại tội phạm phải dựa trên mức cao nhất của khung hình phạt (do Điều luật quy định), còn mức
hình phạt do Tòa án áp dụng là hoạt động áp dụng pháp luật của Tòa án, không phải căn cứ phân
loại tội phạm theo Điều 9 BLHS. Cơ sở pháp lý: Điều 9 BLHS 2015
56. Trong một tội danh bắt buộc phải có 3 loại cấu thành tội phạm: cấu thành cơ bản, tăng
nặng và giảm nhẹ.
=> Nhận định này Sai. Trong một tội danh không bắt buộc có đủ 3 loại CTTP. Ví dụ: Điều 173
BLHS 2015 quy định về tội trộm cắp tài sản. Theo đó, Khoản 1 là cấu thành tội phạm cơ bản,
Khoản 2 và Khoản 3 là cấu thành tội phạm tăng nặng, Khoản 5 là hình phạt bổ sung. Điều luật này
không quy định về cấu thành tội phạm giảm nhẹ.
57. Tội phạm có cấu thành vật chất là một tội phạm mà trên thực tế đã gây hậu quả nguy hiểm cho xã hội.
=> Nhận định này Sai. Để xác đinh một tội phạm có cấu thành vật chất là phải dựa vào mặt khách
quan của tội phạm do luật định, tức là hậu quả của tội phạm được quy định cụ thể trong Điều luật,
không dựa vào hậu quả đã xảy ra trên thực tế.
Ví dụ: Tội giết người cướp tài sản thì người phạm tội đã thực hiện hành vi giết người và cướp tài
sản, hậu quả để lại là người bị hại chết, tài sản mất. Mối quan hệ nhân quả trong trường hợp này
đó là cái chết của người bị hại và tài sản bị mất là do hành vi giết người cướp tài sản của người phạm tội.
58. Khách thể của tội phạm là các quan hệ xã hội mà luật hình sự có nhiệm vụ Điều chỉnh.
=> Nhận định này Sai. Khách thể của tội phạm là quan hệ xã hội được luật Hình sự bảo vệ và bị
tội phạm xâm hại. Còn quan hệ xã hội được luật hình sự Điều chỉnh là quan hệ xã hội phát sinh
giữa Nhà nước và người phạm tội khi người này thực hiện một tội phạm, đây là quan hệ pháp luật hình sự.
59. Đối tượng tác động của một tội phạm luôn là đối tượng vật chất cụ thể.
=> Nhận định này Sai. Đối tượng tác động của tội phạm có thể là con người (VD: hành vi giết
người), đối tượng vật chất (VD: trộm cắp tài sản) hoặc hoạt động bình thường của con người (VD: đưa hối lộ). lOMoAR cPSD| 58968691
60. Mọi tội phạm suy cho cùng đều là xâm phạm đến khách thể chung.
=> Nhận định này Đúng. Khách thể của tội phạm là quan hệ xã hội được luật Hình sự bảo vệ khỏi
xự xâm phạm của tội phạm. Bất kể tội phạm nào khi được thực hiện đều đã xâm phạm đến các
mối quan hệ đó. Vì vậy, suy cho cùng đều xâm phạm đến một khách thể chung là các quan hệ xã
hội được pháp luật Hình sự bảo vệ. lOMoAR cPSD| 58968691
61. Nếu trên thực tế tội phạm đã làm cho đối tượng tác động của tội phạm tốt hơn so với tình
trạng ban đầu thì không bị coi là gây thiệt hại cho xã hội.
=> Nhận định này Sai. Thông thường, hành vi phạm tội làm biến đổi tình trạng bình thường của
đối tượng tác động, gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại cho khách thể của tội phạm. Có những
trường hợp hành vi phạm tội không làm xấu đi tình trạng của đối tượng tác động, nhưng vẫn gây
thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại cho khách thể.
Ví dụ: A trộm dây chuyền vàng của B. A mang về, cất đi, bảo quản và không làm gì hư hại đến sợi
dây chuyền. Nhưng hành vi trộm cắp tài sản của A đã gây thiệt hại cho quyền sở hữu của B. Nên
hành vi của A vẫn gây nguy hiểm cho xã hội và cấu thành tội phạm.
62. Tuổi chịu trách nhiệm hình sự là tiền đề để xác định lỗi của người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội.
=> Nhận định này Đúng. Vì chỉ khi một người đạt đến một độ tuổi nhất định (do luật quy định) thì
người này mới có khả năng nhận thức và Điều khiển hành vi của bản thân. Từ đó, vấn đề “lỗi” mới
được đặt ra nếu người này đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự.
63. Người mắc bệnh tâm thần thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong
BLHS thì không phải chịu trách nhiệm hình sự.
=> Nhận định này Sai. Căn cứ vào Điều 21 BLHS 2015 quy định: “Người thực hiện hành vi
nguy hiểm cho xã hội trong khi đang mắc bệnh tâm thần, một bệnh khác làm mất khả năng nhận
thức hoặc khả năng Điều khiển hành vi của mình, thì không phải chịu trách nhiệm hình sự”. Theo
đó, người mắc bệnh tâm thần chỉ là Điều kiện cần để loại trừ trách nhiệm hình sự. Chỉ khi nào một
người đang mắc bệnh tâm thần dẫn đến mất khả năng nhận thức hoặc Điều khiển hành vi trong
khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội (Điều kiện đủ) thì mới được xem là không có năng lực trách nhiệm hình sự.
Cơ sở pháp lý: Điều 21 BLHS 2015.
64. Sự kiện bất ngờ là tình tiết loại trừ yếu tố lỗi của hành vi phạm tội.
=> Nhận định này Đúng. Căn cứ vào Điều 20 BLHS 2015 thì “Người thực hiện hành vi gây hậu
quả nguy hại cho xã hội trong trường hợp không thể thấy trước hoặc không buộc phải thấy trước
hậu quả của hành vi đó, thì không phải chịu trách nhiệm hình sự”. Theo đó, trong trường hợp sự
kiện bất ngờ thì người có hành vi gây thiệt hại được xem là không có lỗi vì họ không thể thấy trước
hoặc không buộc phải thấy trước hậu quả. Do đó, họ không phải chịu trách nhiệm hình sự.
Cơ sở pháp lý: Điều 20 BLHS 2015
65. Mục đích phạm tội có ý nghĩa bắt buộc trong một số cấu thành tội phạm.
=> Nhận định này Đúng. Mục đích phạm tội không phải là dấu hiệu bắt buộc trong mọi cấu thành
tội phạm, mà chỉ có ý nghĩa bắt buộc đối với một số cấu thành tội phạm. Ví dụ: đối với các tội
xâm phạm an ninh quốc gia đều có mục đích phạm tội là chống chính quyền nhân dân.
66. Người bị cưỡng bức thân thể, trong mọi trường hợp không phải chịu trách nhiệm hình
sự về xử sự gây ra thiệt hại cho xã hội. lOMoAR cPSD| 58968691
=> Nhận định này Sai. Người bị cưỡng bức thân thể vẫn có thể phải chịu trách nhiệm hình sự về
xử sự gây ra thiệt hại cho xã hội. Căn cứ vào điểm k khoản 1 Điều 51 BLHS 2015 thì “Phạm tội
vì bị người khác đe dọa hoặc cưỡng bức” chỉ được xem là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.
Cơ sở pháp lý: điểm k Khoản 1 Điều 51 BLHS 2015
67. Mọi trường hợp biểu lộ ý định phạm tội đều không bị xử lý theo pháp luật hình sự.
=> Nhận định này Sai. Về nguyên tắc, biểu lộ ý định phạm tội không phải là 1 giai đoạn thực hiện
tội phạm, cho nên không phải chịu trách nhiệm hình sự. Tuy nhiên, trong một số trường hợp đặc
biệt, việc biểu lộ ý định tội phạm đã có tính nguy hiểm cho xã hội. Vì vậy, trong các trường hợp
này, luật hình sự quy định việc biểu lộ ý định phạm tội thành 1 tội độc lập và người biểu lộ ý định
vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự như bình thường. Ví dụ: Điều 133 BLHS quy định về tội đe dọa giết người.
68. Tội phạm có cấu thành hình thức là loại tội phạm không có giai đoạn phạm tội chưa đạt.
=> Nhận định này Sai. Căn cứ vào Điều 15 BLHS 2015 thì “Phạm tội chưa đạt là cố ý thực hiện
tội phạm nhưng không thực hiện được đến cùng vì những nguyên nhân ngoài ý muốn của người
phạm tội”. Theo đó, đối với những tội phạm có cấu thành tội phạm hình thức mà hành vi khách
quan bao gồm nhiều hành vi, nếu người phạm tội chưa thực hiện hết tất cả các hành vi mà dừng
lại do nguyên nhân khách quan thì được coi là phạm tội chưa đạt.
Ví dụ: Tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản (Điều 169 BLHS 2015) là tội phạm có cấu thành tội
phạm hình thức về mặt khách quan bao gồm: hành vi bắt cóc con tin, hành vi đe dọa chỉ tài sản
nhằm chiếm đoạt tài sản. Nếu người phạm tội chỉ mới thực hiện hành vi bắt cóc con tin mà đã bị
bắt giữ thì trường hợp này ở giai đoạn phạm tội chưa đạt.
69. Tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội không bị coi là phạm tội.
=> Nhận định này Sai. Căn cứ vào Điều 16 BLHS 2015 thì “Người tự ý nửa chừng chấm dứt việc
phạm tội được miễn trách nhiệm hình sự về tội định phạm; nếu hành vi thực tế đã thực hiện có đủ
yếu tố cấu thành của một tội khác, thì người đó phải chịu trách nhiệm hình sự về tội này”. Theo
đó, tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội sẽ được miễn trách nhiệm hình sự về tội định phạm do
chính sách khoan hồng của Nhà nước, chứ không phải là không phạm tội.
70. Mức độ thực hiện hành vi phạm tội là 1 trong những căn cứ ảnh hưởng đến mức độ trách nhiệm hình sự.
=> Nhận định này Đúng. Căn cứ vào Điều 57 BLHS 2015 thì ta thấy trách nhiệm hình sự của phạm
tội chưa đạt và chuẩn bị phạm tội nhẹ hơn so với tội phạm hoàn thành.
71. Mỗi tội phạm chỉ trực tiếp xâm hại đến 1 quan hệ xã hội cụ thể.
=> Nhận định này Sai. Các quan hệ xã hội tồn tại như một hệ thống, có tác động qua lại lẫn nhau.
Vì vậy khi một tội phạm được thực hiện, nó có thể xâm phạm đến nhiều quan hệ xã hội khác nhau
được luật hình sự bảo vệ.
Ví dụ: hành vi cướp tài sản trực tiếp xâm hại quan hệ sở hữu và quan hệ nhân thân.
72. Người phạm tội và người bị hại có quyền thỏa thuận với nhau về mức độ trách nhiệm
hình sự của người phạm tội. lOMoAR cPSD| 58968691
=> Nhận định này Sai. Xuất phát từ phương pháp Điều chỉnh của luật hình sự là phương pháp
quyền uy – phục tùng. Trong đó Nhà nước buộc người phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự về
hành vi phạm tội mà họ đã thực hiện. Vì thế, không có sự thỏa thuận nào trong trách nhiệm hình
sự giữa người phạm tội và người bị hại.
73. Tình tiết loại trừ tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi là tình tiết loại trừ tính chất phạm tội.
=> Nhận định này Đúng. Tình thế loại trừ tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi được ghi nhận
trong BLHS 2015 từ Điều 20 đến Điều 26. Theo đó, tình tiết loại trừ tính nguy hiểm cho xã hội
của hành vi là một trong 2 dạng tình tiết loại trừa tính chất phạm tội (cùng với tình tiết loại trừ tính
có lỗi của hành vi). Tình tiết loại trừ tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi là cơ sở pháp lí quan
trọng để phân định tội phạm và các hành vi không phải là tội phạm.
74. Tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội thì không bị coi là phạm tội.
=> Nhận định này Sai. Căn cứ vào Điều 16 BLHS 2015 thì “Người tự ý nửa chừng chấm dứt việc
phạm tội được miễn trách nhiệm hình sự về tội định phạm; nếu hành vi thực tế đã thực hiện có đủ
yếu tố cấu thành của một tội khác, thì người đó phải chịu trách nhiệm hình sự về tội này”. Theo
đó, tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội sẽ được miễn trách nhiệm hình sự về tội định phạm do
chính sách khoan hồng của Nhà nước, chứ không phải là không phạm tội.
75. Phòng vệ khi sự tấn công chưa xảy ra luôn là phòng vệ quá sớm.
=> Nhận định này Sai. Phòng vệ quá sớm là trường hợp có hành vi chống trả khi chưa có những
biểu hiện đe dọa sự tấn công sẽ xảy ra ngay tức khắc. Theo đó, mặc dù hành vi tấn công chưa xảy
ra nhưng đã đe dọa xảy ra ngay tức khắc cũng làm phát sinh quyền phòng vệ chính đáng được ghi
nhận tại Điều 22 BLHS 2015.
76. Giúp sức để kết thúc tội phạm vào thời điểm sau khi tội phạm hoàn thành trong mọi
trường hợp đều là đồng phạm.
=> Nhận định này Đúng. Vì căn cứ vào khoản 3 Điều 17 BLHS 2015 thì: “Người giúp sức là
người tạo Điều kiện tinh thần hoặc vật chất cho việc thực hiện tội phạm”. Giúp sức để kết thúc tội
phạm tức là được tiến hành trước khi tội phạm kết thúc. Đây là điệu kiện để hành vi giúp sức của
người giúp sức trở thành đồng phạm.
77. Hành vi khách quan của các tội phạm quy định trong Chương các tôi xâm phạm sở hữu
chỉ là hành vi chiếm đoạt tài sản.
=> Nhận định này Sai. Vì hành vi phạm tội xâm phạm sở hữu rất đa dạng, không phải chỉ duy nhất
hành vi chiếm đoạt tài sản mới là hành vi khách quan của các tội phạm này. Ngoài hành vi chiếm
đoạt tài sản, còn có các nhóm hành vi khách quan khác như:
+ Hành vi chiếm giữ trái phép tài sản. (Điều 176 BLHS).
+ Hành vi sử dụng trái phép tài sản. (Điều 177 BLHS).
+ Hành vi hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản. (Điều 178 BLHS).
+ Hành vi vô ý gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản.(Điều 180 BLHS).
78. Không phải mọi loại tài sản bị chiếm đoạt đều là đối tượng tác động của các tội phạm
xâm phạm sở hữu. lOMoAR cPSD| 58968691
=> Nhận định này Đúng. Không phải mọi loại tài sản bị chiếm đoạt đều là đối tượng của tội xâm
phạm sở hữu. Vì để trở thành đối tượng tác động của tội xâm phạm sở hữu thì tài sản đó phải thỏa
mãn một số Điều kiện.
Ví dụ như: Vật: muốn thành đối tượng tác động của tội phạm xâm phạm sở hữu thì vật đó không
có tính năng đặc biệt ví dụ như ma túy, vũ khí quân dụng… Lúc bấy giờ nếu có hành vi xâm phạm
đến quyền chiếm hữu, định đoạt, sử dụng những vật có tính năng đặc biệt như trên thì không cấu
thành đối tượng tác động của các tội phạm sở hữu, mà cấu thành những tội riêng biệt. Như hành
vi cướp ma túy của người khác không cấu thành tội cướp tài sản (Điều 168 BLHS) mà cấu thành
tội chiếm đoạt chất ma túy (Điều 252 BLHS).
79. Mọi hành vi đe dọa dùng vũ lực nhằm chiếm đoạt tài sản đều cấu thành Tội cướp tài sản (Điều 1168 BLHS).
=> Nhận định này Sai. Hành vi đe dọa dùng vụ lực nhằm chiếm đoạt tài sản là hành vi khách quan
trong cấu thành tội cướp tài sản (Điều 168 BLHS) và Tội cưỡng đoạt tài sản (Diêu 170 BLHS).
Do đo, hành vi này không chỉ cấu thành tội cướp tài sản mà còn có thể cấu thành tội cưỡng đoạt
tài sản tùy vào trường hợp.
VD: A đe dọa B giao 5 triệu vào ngày mai nếu không sẽ cùng nhóm bạn đánh hội đồng B. Trong
trường hợp này, hành vi đe dọa dùng vụ lực của A không diễn ran gay tức khắc, nạn nhân là B
cũng không rơi vào tình trạng không thể chống cự được ngay tức khắc, B chỉ bị tác động, quyền
xử sự vẫn do B quyết định. Trường hợp này, hành vi đe dọa dùng vũ lực nhằm chiếm đoạt tài sản
của A cấu thành Tội cưỡng đoạt tài sản (Điều 170 BLHS)
80. Dùng vũ lực nhằm chiếm đoạt tài sản mà dẫn đến hậu quả chết người là hành vi cấu
thành cả hai tội: Tội cướp tài sản (Điều 168 BLHS) và Tội giết người (Điều 123 BLHS).
=> Nhận định này Sai. Vì: Trước tiên, dùng vũ lực nhằm chiếm đoạt tài sản mà dẫn đến hậu quả
chết người có thể cấu thành một trong hai tội danh: –
Tội cướp tài sản với tình tiết định khung tăng nặng là “làm chết người” được quy định tại
điểm c khoản 4 Điều 168 BLHS; –
Tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản với tình tiết định khung tăng nặng là “làm chết
người”được quy định tại điểm d khoản 5 Điều 169 BLHS.
Tuy nhiên, tùy thuộc vào hình thức lỗi mà người dùng vũ lực nhằm chiếm đoạt tài sản mà dẫn đến
hậu quả chết người có thể cấu thành một tội danh hoặc hai tội danh. Cụ thể: –
Trường hợp cấu thành một tội danh: Nếu lỗi của người dùng vũ lực nhằm chiếm đoạt tài
sản là lỗi hỗn hợp, tức là người phạm tội cố ý với hành vi dùng vũ lực nhằm chiếm đoạt tài sản
nhưng vô ý với hậu quả chết người thì chỉ cấu thành một tội danh là Tội cướp tài sản hoặc Tội bắt
cóc nhằm chiếm đoạt tài sản với tình tiết định khung tăng nặng là “làm chết người”. –
Trường hợp cấu thành hai tội danh: Nếu người dùng vũ lực nhằm chiếm đoạt tài sản ngoài
cố ý với hành vi dùng vũ lực nhằm chiếm đoạt tài sản còn cố ý với hành vi giết người thì cấu thành
cả hai tội danh là Tội cướp tài sản hoặc Tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản và Tội giết người.
Như vậy, dùng vũ lực nhằm chiếm đoạt tài sản không phải lúc nào cũng cấu thành hai tội danh và
trong trường hợp cấu thành hai tội danh không chỉ có trường hợp Tội cướp tài sản và Tội giết
người mà còn có trường hợp Tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản và Tội giết người.
81. Hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản trong Tội trộm cắp tài sản (Điều 173 BLHS) đòi hỏi
người phạm tội phải lén lút với tất cả mọi người.
=> Nhận định này Sai. Hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản trong Tội trộm cắp tài sản (Điều 173
BLHS) không đòi hỏi người phạm tội phải lén lút với tất cả mọi người vì trong ý thức chủ quan
của người phạm tội, chủ thể mà họ mong muốn che giấu hành vi phạm tội của mình nhất chính là lOMoAR cPSD| 58968691
người quản lý tài sản bởi chính người quản lý tài sản là chủ thể dễ dàng nhất trong việc nhận thức
được tài sản mình đang trong tình trạng thế nào, ở đâu ….., chính vì thế, dấu hiệu đặc trưng của
tội trộm cắp tài sản thể hiện ở hành vi chiếm đoạt tài sản một cách lén lút, bí mật đối với người
quản lý tài sản mà không đòi hỏi phải lén lút với tất cả mọi người, ở đây, trong một số trường hợp,
có thể người phạm tội công khai hành vi dịch chuyển tài sản của mình trước người không có trách
nhiệm quản lý tài sản, nếu họ thấy việc công khai này không ảnh hưởng đến việc chiếm đoạt tài sản của họ.
82. Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ 2 triệu đồng trở lên mà có biểu hiện gian dối là hành vi
chỉ cấu thành Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản (Điều 174 BLHS)
=> Nhận định này Sai. Vì: Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ 2 triệu đồng trở lên mà có biểu hiện gian
dối là hành vi không chỉ cấu thành Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản (Điều 174 BLHS) mà cò cấu
thành Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoat tài sản (Điều 175 BLHS) nếu thỏa mãn hết các dấu hiệu
định tội. Xét về biểu hiện khách quan:
Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản (Điều 174 BLHS) quy định người nào dùng thủ đoạn gian dối
để chiếm đoạt tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng trở lên thì cấu thành Tội lừa
đảo chiếm đoạt tài sản.
Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản (Điều 175 BLHS) quy định người nào thực hiện
hành vi chiếm đoạt tài sản của người khác có giá trị từ dưới 4 triệu đồng (đối với trường hợp
Luật định) bằng việc vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận tài sản của người
khác bằng hình thức hợp đồng rôi dùng thủ đoạn gian dối để chiếm đoạt tài sản (Điểm a
Khoản 1) thì cũng sẽ cấu thành tội này.
Trong trường hợp chiếm đoạt tài sản có giá trị từ 2 triệu đồng trở lên mà có biểu hiện gian dối
nhưng biểu hiện gian dối này không là hành vi để Tội phạm chiếm đoạt được tài sản thì sẽ không
cấu thành Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản (Điều 174 BLHS).
83. Mọi hành vi không trả lại tài sản sau khi đã vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc
nhận được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng khác mà tài sản từ 4 triệu
đồng trở lên đều cấu thành Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản (Điều 175 BLHS).
=> Nhận định này Sai. Hành vi không trả lại tài sản sau khi đã vay, mượn, thuê tài sản của người
khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng khác mà tài sản từ 4
triệu đồng trở lên có thể không cấu thành tội quy định tại Điều 175. Lúc này, quan hệ giữa các bên là quan hệ dân sự.
Hành vi này chỉ cấu thành Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản khi đi cùng với hành vi khách
quan dùng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản đó hoặc đến thời hạn trả lại tài sản mặc dù có Điều
kiện, khả năng nhưng cố tình không trả; hoặc đã sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp
dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản.
Cơ sở pháp lý khoản 1 Điều 175 BLHS.
84. Nạn nhân tử vong là dấu hiệu định tội của Tội bức tử (Điều 130 BLHS).
=> Nhận định này Sai. Vì: Tội bức tử được hiểu là hành vi đối xử tàn án, thường xuyên ức hiếp,
ngược đãi hoặc làm nhục người lệ thuộc mình làm người đó tự sát.
Điều 130 BLHS chỉ quy định về hành vi phạm tội “người nào có hành vi đối xử tàn ác, thường
xuyên ức hiếp, ngược đãi hoặc làm nhục người lệ thuộc mình làm người đó tự sát” mà không quy
định hậu quả. Căn cứ theo quy định trên cấu thành tội phạm của tội bức tử là cấu thành tội phạm lOMoAR cPSD| 58968691
hình thức, nghĩa là không quan tâm đến hậu quả xảy ra, chỉ có hành vi phạm tội là dấu hiệu bắt
buộc. Tội phạm cấu thành khi có xử sự tự sát của nạn nhân bất kể sự tự sát có thành hay không.
Do đó nạn nhận tử vong không phải là dấu hiệu định tội của tội phạm này.
Cơ sở pháp lý: Điều 130 BLHS.
84. Cố ý tước đoạt tính mạng của người khác theo yêu cầu của người bị hại là hành vi cấu
thành Tội giúp người khác tự sát (Điều 131 BLHS).
=> Nhận định này Sai. Vì: Giúp người khác tự sát là hành vi tạo ra những Điều kiện vật chất hoặc
tinh thần để người khác sử dụng các Điều kiện đó để tự sát.
Hành vi khách quan của Tội giúp người khác tự sát là hành vi tạo ra những Điều kiện vật chất hoặc
tinh thần để người khác tự sát như cung cấp thuốc độc để nạn nhân tự đầu độc hoặc chỉ dẫn cách
tự sát. Hành vi khách quan này chỉ đóng vai trò là Điều kiện để nạn nhân sử dụng các Điều kiện
đó mà tự sát. Chủ thể tội phạm không trực tiếp tước đi tính mạng của nạn nhân.
Còn hành vi cố ý tước đoạt tính mạng của người khác dù có theo yêu cầu của người bị hại hay
không đều là hành vi khách quan của tội giết người.
Như vậy, cố ý tước đoạt tính mạng của người khác theo yêu cầu của người bị hại không là hành vi
cấu thành tội giúp người khác tự sát. Cơ sở pháp lý: Điều 131, Điều 123 BLHS. 86.
Hàng hóa có hàm lượng, định lượng chất chính thấp hơn so với tiêu chuẩn chất lượng
đã đăng ký, công bố áp dụng hoặc ghi trên nhãn, bao bì hàng hóa là hàng giả.
=> Nhận định này Sai. Không phải cứ là hàng hóa có hàm lượng, định lượng chất chính thấp hơ
so với tiêu chuẩn đã đăng ký, công bố, ghi trên bào bì là hàng giả. Trong trường hợp trên, để hàng
hóa đó là hàng giả thì phải đáp ứng Điều kiện theo : “Hàng hóa có hàm lượng, định lượng chất
chính, tổng các chất dinh dưỡng hoặc đặc tính kỹ thuật cơ bản khác chỉ đạt mức từ 70% trở xuống
so với tiêu chuẩn chất lượng, quy chuẩn kỹ thuật đã đăng ký, công bố áp dụng hoặc ghi trên nhãn, bao bì hàng hóa”.
Cơ sở pháp lý: Điểm b- Khoản 1- Điều 4- Nghị định 08/2013. 87.
Hàng giả chỉ là đối tượng tác động của các tội phạm quy định tại Điều 192, 193, 194, 195 BLHS.
=> Nhận định này Sai. Hàng giả còn có thể là đối tượng tác động của Tội xâm phạm quyền sở hữu
công nghiệp nếu hàng hóa giả về nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý.
– Cơ sở pháp lý Điều 226 BLHS. 88.
Không phải mọi trường hợp trốn thuế từ 100 triệu đồng trở lên đều cấu thành tội
trốn thuế được quy định được quy định tại Điều 200 BLHS.
=> Nhận định này Đúng. Hành vi khách quan cấu thành tội trốn thuế là các hành vi được quy định
tại khoản 1 Điều 200. Trong đó có các hành vi cố ý không kê khai hoặc khai sai về thuế đối với
hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu; câu kết với người gửi hàng để nhập khẩu hành hóa; khai sai với
thực tế hàng hóa xuất khẩu nhập khẩu mà không khai bổ sung hồ sơ khai thuế sau khi hàng hóa đã
được thông quan ngoài cấu thành tội trốn thuế (Điều 200) còn có thể cấu thành các tội buôn lậu
(Điều 188), tội vận chuyển trái phép hành hóa, tiền tệ qua biên giới (Điều 189).. trong những
trường hợp thỏa mãn cấu thành tội phạm của các tội này.
Cơ sở pháp lý: Điều 188, Điều 189, Điều 200 BLHS. lOMoAR cPSD| 58968691 89.
Không phải mọi hành vi in trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước
đều cấu thành Tội in trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp từ ngân sách nhà nước (Điều 203 BLHS).
=> Nhận định này Đúng. Hành vi in trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước chỉ
cấu thành Tội in trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp từ ngân sách nhà nước nếu chứng từ, hóa đơn
từ thu nộp ngân sách ở dạng phôi từ 50 đến dưới 100 số hoặc hóa đơn, chứng từ đã ghi nội dung
từ 10 số đến dưới 30 số hoặc thu lợi bất chính từ 30.000.000 đồng đến dưới 100.000.000 đồng.
Cơ sở pháp lý: Điều 203 BLHS. 90.
Mọi hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp đang được bảo hộ tại Việt Nam
đều cấu thành Tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp (Điều 226 BLHS).
=> Nhận định này Sai. Dấu hiệu bắt buộc trong cấu thành tội phạm của Tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp:
+ Hành vi khách quan: Xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp đối với nahn4 hieu5 hoặc chỉ dẫn
địa lý đăng được bảo hộ tại Việt Nam.
+ Hậu quả: hàng hóa giả mạo nhãn hiệu hoặc chỉ dẫn địa lý với quy mô thương mại hoặc thu lợi
bất chính từ 100.000.000 đồng đến dưới 300.000.000 đồng hoặc gây thiệt hại cho chủ sở hữu nhãn
hiệu hoặc chỉ dẫn địa lý từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng hoặc hàng hóa vi phạm
trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng.
Tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp là tội phạm có cấu thành tội phạm vật chất do đó hành
vi, hậu quả, quan hệ nhân quả là dấu hiệu bắt buộc. Do đó, chỉ những hành vi xâm phạm quyền sở
hữu công nghiệp đang được bảo hộ tại Việt Nam mang lại hậu quả như quy định tại Khoản 1 Điều
226 BLHS thì mới cầu thành tội phạm này.
Cơ sở pháp lý: Điều 226 BLHS.
92. Mọi trường hợp giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh đều cấu thành
Tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh (Điều 125).
=> Nhận định này Sai. Vì không phải mọi trường hợp giết người trong trạng thái tinh thần bị kích
động mạnh đều cấu thành Tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh (Điều 125).
Để bị cấu thành tội Tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh thì hành vi phải
thỏa mãn 02 yếu tố sau:
Thứ nhất, đối với người bị giết phải là người có hành vi phạm tội nghiêm trọng:
Hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân, trước hết bao gồm nhưng hành vi vi phạm pháp
luật hình sự xâm phạm đến lợi ích của người phạm tội hoặc đối với những người thân thích của
người phạm tội. Thông thường những hành vi trái pháp luật của nạn nhân xâm phạm đến tính mạng,
sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự của người phạm tội và những người thân thích của người phạm tội.
Thứ hai, hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân là nguyên nhân dẫn tới trạng thái
tinh thần bị kích động mạnh của người phạm tội:
Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật với tinh thần bị kích động mạnh là mối quan hệ
tất yếu nội tại có cái này thì ắt có cái kia. Không có hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn
nhân thì không có tinh thần bị kích động mạnh của người phạm tội và vì thế nếu người phạm tội
không bị kích động bởi hành vi trái pháp luật của người khác thì không thuộc trường hợp phạm tội này.