Bài tập tình huống - Luật ngân hàng | Đại học Mở Hà Nội

Bài 1:
Trong 3 chiếc tàu đã nêu: - tàu X là tàu quân sự
- tàu Y (tàu chở khách) và tàu Z (tàu chở hàng) là tàu dân sự dùng trong lĩnh
vực thương mại. Tài liệu được sưu tầm giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao trong kì thi sắp tới. Mời bạn đọc đón xem !

Môn:
Trường:

Đại học Mở Hà Nội 405 tài liệu

Thông tin:
23 trang 3 tháng trước

Bình luận

Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để gửi bình luận.

Bài tập tình huống - Luật ngân hàng | Đại học Mở Hà Nội

Bài 1:
Trong 3 chiếc tàu đã nêu: - tàu X là tàu quân sự
- tàu Y (tàu chở khách) và tàu Z (tàu chở hàng) là tàu dân sự dùng trong lĩnh
vực thương mại. Tài liệu được sưu tầm giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao trong kì thi sắp tới. Mời bạn đọc đón xem !

36 18 lượt tải Tải xuống
Bài 1:
Trong 3 chiếc tàu đã nêu: - tàu X tàu quân sự
- tàu Y (tàu chở khách) tàu Z (tàu chở hàng) tàu dân sự dùng trong lĩnh
vực thương mại
a.
Ø   tàu X vi  pháp  vùng     gia A:
Căn cứ tiểu mục C của Công ước luật biển 1982, tàu X tàu quân sự nên
được hưởng quyền miễn trtuyệt đối về pháp và được coi bất khả m phạm.
Quốc gia A không có quyền tài phán hành vi vi phạm và thiệt hại do tàu X gây ra.
Trong trường hợp này, quốc gia A quyền:
- Yêu cầu tàu X ra khỏi nội thủy trong một thời gian nhất định (Điều 30 CƯ);
- Yêu cầu quốc gia tàu X phải áp dụng chế tài hợp pháp với thủy thủ vi
phạm;
- Yêu cầu quốc gia tàu X phải bồi thường thiệt hại do hành vi vi phạm của tàu X gây ra
trong thời gian đậu ở nội thủy của quốc gia A iều 31 CƯ).
Ø   tàu Y u Z vi  pháp  vùng    
gia A:
v Nếu vi phạm pháp luật đó vi phạm hình sự: Tàu Y và tàu Z phải chịu sự tài
phán của quốc gia A. Quốc gia A quyền bắt giữ, truy tố, xét xử theo pháp luật của
nước mình trước Tòa án của nước mình đối với hành vi phạm pháp trên nội thủy của 2
tàu này (khoản 2 Điều 27 CƯ). Những hành động phạm pháp xảy ra trên tàu trong thời
gian tàu đang đậu nội thủy của quốc gia A thì quốc gia A quyền xét xử trong các
trường hợp sau:
- Nếu hành vi phạm tội do một người ngoài thủy thủ đoàn thực hiện;
- Nếu thuyền trưởng yêu cầu chính quyền nước A can thiệp;
- Nếu hậu quả của nó ảnh hưởng tới an ninh trật tự của nội thủy.
v Nếu vi phạm pháp luật đó vi phạm dân sự: Tòa án của quốc gia A quyền
xét xử các vụ kiện dân sự (khoản 3 Điều 28 CƯ):
- Giữa tàu Y tàu Z với nhau hoặc với các tàu nước ngoài khác cùng đậu nội
thủy của quốc gia A;
- Giữa thủy thủ đoàn của tàu với công dân nước A.
v Nếu vi phạm pháp luật đó vi phạm hành chính: quan thẩm quyền của
quốc gia A quyền xử phạt vi phạm hành chính đối với tàu thủy thủ đoàn của tàu
Y, Z khi vi phạm pháp luật trong lãnh thổ của quốc gia A (Nội thủy một bộ phận của
lãnh thổ quốc gia).
b.
Ø Về mặt hình sự: Nếu nhân viên của 3 chiếc tàu trên vi phạm pháp luật hình sự
quốc gia A khi đã lên trên bờ thì quốc gia A thẩm quyền bắt giữ, truy tố xét xử
hành vi phạm tội theo pháp luật hình sự của quốc gia A.
Ø Về mặt dân sự: quan thẩm quyền của quốc gia A có quyền xét xử các vụ
kiện dân sự có liên quan đến nhân viên của 3 chiếc tàu này khi họ đã lên bờ.
Ø Về mặt hành chính: quan thẩm quyền của quốc gia A quyền điều tra,
xem xét các vụ vi phạm hành chính của c nhân viên 3 chiếc tàu này khi họ đã n
trên bờ.
Bài 2:
a. Đối với tàu đánh cá:
Tàu đánh của quốc gia B khi đi qua đang đi qua lãnh hải của quốc gia cho 1
máy bay dân sự (đang đậu trên tàu) cất cánh ttàu đánh này đã vi phạm quy định
về quyền đi qua không gây hại tại Điều 17 Công ước về Luật Biển 1982. Cụ thể, việc
tàu đánh đi qua lãnh hải cho máy bay đang đậu trên tàu cất cánh được xem
phương hại đến hòa bình, an ninh, trật tự của quốc gia ven biển, được quy định tại
điểm d khoản 2 Điều 19 của Công ước về Luật Biển 1982. Theo đó: “Việc đi qua của
một tàu thuyền nước ngoài bị coi như phương hại đến hòa bình, trật tự hay an ninh của
quốc gia ven biển, nếu như trong lãnh hải, tàu thuyền này tiến hành một trong bất kỳ
hoạt động nào sau đây:
d) Phóng đi, tiếp nhận hay xếp lên tàu các phương tiện bay;
…”.
Như vậy, khi tàu này vi phạm, quốc gia ven biển được phép thực hiện các biện
pháp nhằm ngăn cản việc đi qua hại theo quy định tại Điều 25 của Công ước v
Luật Biển 1982 và có quyền tài phán về mặt hình sự đối với tàu đánh nước B, theo
quy định tại điểm b khoản 1 Điều 27 của Công ước về Luật Biển 1982.
 25.    các  gia ven 
1. Quốc gia ven biển thể thi hành các biện pháp cần thiết trong lãnh hải của
mình để ngăn cản mọi việc đi qua có gây hại.
2. Đối với tàu thuyền đi vào vùng nội thủy hay vào một công trình cảng bên
ngoài vùng nội thủy đó, quốc gia ven biển ng quyền thi hành những biện pháp
cần thiết để ngăn ngừa mọi sự vi phạm đối với các điều kiện tàu thuyền này buộc
phải tuân theo để được phép vào vùng nội thủy hay công trình cảng nói trên.
3. Quốc gia ven biển thể tạm thời đình chỉ việc thực hiện quyền đi qua không
gây hại của tàu thuyền nước ngoài tại các khu vực nhất định trong lãnh hải của mình,
nếu biện pháp này cần thiết để bảo đảm an ninh của mình, kể cả để thử khí,
nhưng không được phân biệt đối xử vmặt pháp hay về mặt thực tế giữa các tàu
thuyền nước ngoài. Việc đình chỉ này chỉ hiệu lực sau khi đã được công bố theo
đúng thủ tục.
Điều 27. Quyền tài phán hình sự trên một tàu nước ngoài
1. Quốc gia ven biển không được thực hiện quyền tài phán hình sự của mình
trên một tàu nước ngoài đi qua lãnh hải để tiến hành việc bắt giữ hay tiến hành việc dự
thẩm sau một vụ vi phạm hình sự xảy ra trên con tàu trong khi nó đi qua lãnh hải, trừ
các trường hợp sau đây:
a) Nếu hậu quả của vụ vi phạm đó mở rộng đến quốc gia ven biển;
b) Nếu vụ vi phạm tính chất phá hoại hòa bình của đất nước hay trật tự trong
lãnh hải;
c) Nếu thuyền trưởng hay một viên chức ngoại giao hoặc một viên chức lãnh sự
của quốc gia tàu mang cờ yêu cầu sgiúp đỡ của các nhà đương cục địa phương
hoặc
d) Nếu các biện pháp này cần thiết để trấn áp việc buôn lậu chất ma túy hay
các chất kích thích.
2. Khoản 1 không đụng chạm đến quyền của quốc gia ven biển áp dụng mọi
luật pháp luật trong nước mình qui định nhằm tiến hành các việc bắt giữ hay tiến
hành việc dự thẩm ở trên con tàu nước ngoài đi qua lãnh hải, sau khi rời khỏi nội thủy.
3. Trong những trường hợp nêu các khoản 1 2, nếu thuyền trưởng yêu cầu,
quốc gia ven biển phải thông báo trước v mọi biện pháp cho một viên chức ngoại
giao hay cho một viên chức lãnh sự của quốc gia mà tàu mang cờ phải tạo điều kiện
dễ dàng cho viên chức ngoại giao hay viên chức lãnh sự đó tiếp xúc với đoàn thủy thủ
của con tàu. Tuy nhiên trong trường hợp khẩn cấp, việc thông báo này thể tiến hành
trong khi các biện pháp đang được thi hành.
4. Khi xem xét nên bắt giữ các thể thức của việc bắt giữ, nhà đương cục địa
phương cần phải chú ý thích đáng đến các lợi ích về hàng hải.
5. Trừ trường hợp áp dụng phần XII hay trong trường hợp sự vi phạm các luật
quy định được định ra theo đúng phần V, quốc gia ven biển không được thực hiện
một biện pháp nào trên một con tàu nước ngoài khi đi qua lãnh hải nhằm tiến
hành bắt giữ hay tiến hành việc dự thẩm sau một vụ vị phạm nh sự xảy ra trước khi
con tàu đi vào lãnh hải mà không đi vào nội thủy.
b. Đối với máy bay dân sự:
Lãnh hải bảo gồm lớp nước biển, đáy biển, lòng đất dưới đáy biển vùng trời
bao trùm trên lãnh hải. Trong đó, đối với đáy biển, lòng đất dưới đáy biển và vùng trời
bao trùm lên lãnh hải, quốc gia ven biển chủ quyền tuyệt đối. Vùng trời bao trùm
trên lãnh hải một bộ phận cấu thành vùng trời quốc gia, do đó, quốc gia chủ
quyền tối cao trọn vẹn trong việc thiết lập thực hiện các quyền năng về chiếm
hữu, sử dụng và định đoạt các vấn đề pháp liên quan. Cụ thể, các quốc gia có quyền
quyết định chế độ pháp của vùng trời nước mình một cách độc lập cũng như quy
định trình tự, thủ tục các điều kiện phương tiện bay nước ngoài sdụng vùng
trời quốc gia phải đáp ứng, quốc gia sẽ không cho phép bất một loại phương tiện
giao thông nào của nước ngoài qua lại không gây hại trên lãnh thổ của mình. Mọi hành
vi qua lại của người, phương tiện giao thông nước ngoài đều xin phép, hoặc áp dụng
theo những quy định của các điều ước quốc tế đã được các quốc gia hữu quan kết.
Mọi hành vi tự ý bay vào không được sự cho phép của quốc gia sở tại đều hành
vi m phạm vào lãnh thổ quốc gia. Như vậy, hành vi vi phạm của máy bay dân sự sẽ
không được điều chỉnh, xử bằng Công ước về Luật viển 1982 mà bằng luật của
quốc gia A.
Bài 3:
è Đối với tàu chở hàng của quốc gia B:
đề bài không cho dữ liệu nên nhóm chia ra các trường hợp sau:
- Nếu tàu này không sự vi phạm các luật hay quy định của quốc gia đó về hải
quan, thuế khóa, y tế hay nhập trong phạm vi lãnh thổ hay lãnh hải của mình thì
quốc gia A không có quyền gì cả.
- Nếu sự vi phạm các luật hay quy định của quốc gia đó về hải quan, thuế
khóa, y tế hay nhập cư thì tùy vào hướng đi của con tàu này mà sẽ giải quyết như sau:
· Tàu này đang đi theo hướng vào vùng lãnh hải thì quốc gia A được quyềntiến
hành các biện pháp kiểm soát cần thiết, nhằm ngăn chặn sự vi phạm.
· Tàu này đang từ vùng tiếp giáp đi ra vùng biển quốc tế sự vi phạm này không xảy ra
trong phạm vi lãnh thổ hay lãnh hải của quốc gia A t quốc gia A không được quyền làm gì
cả.
· Tàu này đi ra vùng biển quốc tế nhưng sự vi phạn này xảy ra trong phạm vi
lãnh thổ hay lãnh hải của quốc gia A thì quốc gia A được quyền trừng trị sự vi phạm đó
đối với chiếc tàu này.
sở pháp lý: khoản 1 Điều 33 Công ước của Liên hợp quốc về Luật biển năm
1982.
è Đối với tàu hàng của quốc gia A:
Quốc gia A sẽ đầy đủ các quyền tài phán theo quy định pháp luật của quốc
gia A. Bởi lẽ, đây tàu hàng của quốc gia A nên phải hoạt động và chịu sự điều chỉnh
của pháp luật do quốc gia A ban hành. Trong trường hợp việc bốc dỡ container hàng
chứa xe hơi này vi phạm các quy định về thuế hay hải quan thì quốc gia A toàn
quyền thực hiện các quyền tài phán của quốc gia mình đối với con tàu hàng này.
è Đối với chiếc máy bay dân sự cất cánh từ vùng tiếp giáp lãnh hải:
Theo nhóm cần chia ra hai trường hợp, nếu chiếc tàu dân sự này cất cánh bay về
phía lãnh hải của quốc gia A thì quốc gia A quyền ngăn chặn không cho phép máy
bay trên bay vào bởi lẽ máy bay phương tiện bay không được hưởng quyền đi
qua không gây hại dành cho tàu biển theo quy định tại Điều 17 Công ước vluật biển
1982 của Liên Hợp quốc. Còn trong trường hợp máy bay này bay ra phía biển quốc tế,
thì quốc gia A không có quyền gì đối với máy bay dân sự này.
Bài 4:
1.   pháp riêng  vùng   kinh 
Vùng đặc quyền kinh tế vùng biển nằm phía ngoài lãnh hải tiếp liền với
lãnh hải rộng không quá 200 hải kể từ đường sở dùng để tính chiều rộng của lãnh
hải, được đặt dưới chế độ pháp riêng theo đó các quyền chủ quyền quyền tài
phán của quốc gia ven biển cũng như các quyền và các quyền tdo của quốc gia khác
đều do các quy định thích hợp của Công ước điều chỉnh.
sở pháp lý: Điều 55 Công ước LHQ về Luật biển 1982.
Vùng đặc quyền về kinh tế không phải biển cả một vùng đặc thù sui
generic, trong đó quốc gia ven biển thực hiện thẩm quyền riêng biệt của mình nhằm
mục đích kinh tế được Công ước của Liên Hợp Quốc về Luật biển năm 1982 quy định.
Để xác lập vùng đặc quyền về kinh tế, quốc gia ven biển cần đưa ra tuyên bố về vùng
đặc quyền về kinh tế để xác lập quyền của mình.
v Các quyền, quyền tài phán nghĩa vụ của các quốc gia ven biển trong vùng
đặc quyền kinh tế:
Theo Điều 56 Công ước của Liên hợp quốc vluật biển 1982, trong vùng đặc
quyền về kinh tế, quốc gia ven biển có:
a) Các quyền thuộc chủ quyền về thăm khai thác, bảo tồn quản các tài
nguyên thiên nhiên, sinh vật hoặc không sinh vật, của vùng nước bên trên đáy biển
lòng đất dưới đáy biển, cũng như về những hoạt động khác nhằm thăm dò và khai thác
vùng này vì mục đích kinh tế, như việc sản xuất năng lượng từ nước, hải lưu và gió.
b) Quyền tài phán theo đúng những quy định thích hợp của Công ước về việc:
i. Lắp đặtsử dụng các đảo nhân tạo, các thiết bị và công trình;
ii. Nghiên cứu khoa học về biển;
iii. Bảo vệ và gìn giữ môi trường biển;
c) Các quyền và nghĩa v khác do Công ước quy định.
Đồng thời, trong vùng đặc quyền kinh tế, các quốc gia khác đều được hưởng
quyền tự do hàng hải, hàng không, quyền tự do đặt dây cáp ống dẫn ngầm cũng như
quyền tự do sử dụng biển vào các mục đích khác hợp pháp về mặt quốc tế gắn liền
với việc thực hiện các quyền tự do này phù hợp với các quy định khác của Công
ước (Điều 58 Công ước Liên Hợp Quốc về Luật biển 1982).
2.   tình  pháp lý:
a) Tàu   B        trong vùng  
kinh    A.
Trong vùng đặc quyền kinh tế của quốc gia A, tàu của quốc gia B thực hiện đánh
bắt hải sản. Vậy quốc gia A quyền đối với tàu của quốc gia B hay không? Để giải
quyết tình huống này nhóm xin đặt ra 3   sau:
Thứ nhất, trong trường hợp quốc gia A cho phép tàu của quốc gia B được khai
thác đánh bắt số lượng cá thông qua các điều ước hoặc các thỏa thuận khác tại Điều
62 của Công ước Liên Hợp Quốc về Luật biển 1982 đồng thời tàu của quốc gia B
cũng đã tuân thủ các biện pháp bảo tồn các thể thức, các điều kiện khác được đề ra
trong các luật quy định của quốc gia A thì việc tàu quốc gia B thực hiện đánh bắt
hải sản trong vùng đặc quyền kinh tế của quốc gia A hợp pháp. Quốc gia A các
quyền đối với tàu đánh bắt hải sản của quốc gia B vcác vấn đề được quy định tại
Khoản 4 Điều 62 Công ước LHQ về Luật biển 1982.
 o m 2000 giữa Chính phủ nước CHXHCN Việt Nam và Chính phủ
nước CHDCND Trung Hoa đã ký với nhau “Hiệp định hợp tác nghề cá Vịnh Bắc Bộ”.
Qua sáu vòng đàm phán cấp chuyên viên về nghề cá, qua thương lượng, hai bên đã
nhất trí hợp tác nghề trong vịnh Bắc Bộ bằng việc thiết lập một Vùng đánh
chung. Phạm vi Vùng đánh chung trong vịnh Bắc Bộ từ tuyến 20° Bắc xuống
đường đóng cửa Vịnh, bề rộng 30,5 hải kể từ đường phân định vmỗi phía;
tổng diện tích 33.500 km², khoảng 27,9% diện tích Vịnh. Thời hạn của Vùng đánh
cá chung là 15 năm (12 năm chính thức và ba năm gia hạn).
Thứ hai, đối với trường hợp cả hai nước đều không thỏa thuận hay kết các
điều ước cho phép khai thác đánh bắt số lượng quốc gia A, thì lúc này việc
đánh bắt của tàu quốc gia B trái phép, không hợp pháp, đã m phạm đến lợi ích
về quản khai thác tài nguyên sinh vật của quốc gia A. Do đó, quốc gia A sẽ các
quyền tài phán xử hành vi vi phạm theo quy định tại Điều 73 Công ước Liên Hợp
Quốc về Luật biển 1982. Quốc gia A quyền thi hành mọi biện pháp cần thiết, kể cả
việc khám xét, kiểm tra, bắt giữ khởi tố pháp để bảo đảm việc tôn trọng các quy
định mà họ đã ban hành theo đúng Công ước. Tuy nhiên, cần lưu ý:
- Khi sự bảo lãnh hay một bảo đảm đầy đủ khác thì cần thả ngay chiếc tàu bị
bắt và trả tự do ngay cho đoàn thủy thủ của chiếc tàu này.
- Không được áp dụng các hình phạt giam giữ cũng như các hình phạt thân th
khác nếu không có thỏa thuận khác.
- Phải thông báo ngay cho quốc gia B biết các biện pháp cũng như các chế tài
áp dụng đối với hành vi đánh bắt cá trái phép đối với tàu của quốc gia B.
 Giới chức Philippines ngày 17/5/2016 xác nhận vụ bắt giữ hai tàu
Trung Quốc cùng 25 ngư dân, khi các tàu giả treo cờ Philippines đánh bắt trộm
trong vùng biển nước này.
Cảnh sát biển Philippines phối hợp với Cục Nghề Nguồn lợi thủy sản
(BFAR) bắt giữ 2 tàu Trung Quốc giữa khu vực vùng biển ngoài khơi đảo
Babuyan và tỉnh Batanes, phía Bắc Philippines.
Vị trí hai tàu bị bắt gặp hoạt động đánh bắt trái phép nằm trong vùng đặc
quyền kinh tế (EEZ) của Philippines, không phải trong vùng biển tranh chấp Biển
Đông.
Thứ ba, dựa vào vùng tính chất lịch sử (ngư trường đánh bắt truyền thống).
Nếu tàu của quốc gia B đánh bắt trong vùng đặc quyền kinh tế của quốc gia A
nhưng đây lại vùng tính chất lịch sử của quốc gia B quốc gia B đã căn cứ
chứng minh về vùng nước này thì việc đánh bắt của tàu trong trường hợp này hợp
pháp. Bởi lẽ đây vùng ngư dân quốc gia B đã khai thác, sử dụng lâu đời được
cộng đồng quốc tế thừa nhận đồng thời đây vùng nước mang lại nguồn cung cấp
kinh tế rất lớn, chủ yếu cho quốc gia B nên u của quốc gia B quyền đánh bắt
trên vùng tính chất lịch sử của quốc gia mình hay còn gọi ngư trường đánh bắt
truyền thống.
 Indonesia vốn không phải một bên trong cuộc tranh chấp trên biển Đông,
nhưng nước này đã bị kéo vào cuộc, sau khi Bắc Kinh tuyên bố vùng đặc quyền kinh
tế gần quần đảo Natuna của Indonesia một phần trong “ngư trường đánh truyền
thống” của Trung Quốc và tàu cá Trung Quốc được tự do đánh bắt trong khu vực này.
Tất nhiên, Indonesia không xem vùng đặc quyền kinh tế của mình “ngư trường
truyền thống” của Trung Quốc, luận điệu Bắc Kinh thường xuyên lặp lại. Thay vào
đó, Jakarta coi hoạt động đánh cá của các nước khác ở khu vực này là trộm cắp.
Bộ trưởng Các vấn đề hàng hải ngư nghiệp Indonesia đã phát biểu: “Chúng tôi
không biết về điều này (như Trung Quốc tuyên bố), chúng tôi không công nhận bất kỳ
tuyên bố chủ quyền của bên nào về ntrường bên trong vùng đặc quyền kinh tế của
Indonesia; ngoại trừ một vùng mà chúng tôi đã thỏa thuận với Malaysia Eo
Malacca”.
b)  gia B cho máy bay  cánh  tàu.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 58 Công ước Liên hợp quốc v Luật biển
(CƯLB 1982), trong vùng đặc quyền kinh tế, tất cả các quốc gia, quốc gia đó
biển hay không biển thuộc trong những điều kiện, những quy định thích hợp của
Công ước đã trù định, được hưởng các quyền tự do hàng hải và hàng không,… nêu
Điều 87 của Công ước này.
Đối với hành động cho máy bay hạ cánh xuống tàu của quốc gia B đang trong
vùng đặc quyền kinh tế của quốc gia A thì theo quy định của CƯLB 1982 đã trình bày
trên, thể thấy tàu thuyền, máy bay của quốc gia B quyền được tự do hàng hải
tự do hàng không trong vùng đặc quyền kinh tế của quốc gia A. Tuy nhiên, với dữ
kiện đề đưa ra ta thể chia thành 2 trường hợp tùy từng trường hợp cụ thể
quốc gia A quyền đối với tàu và máy bay của quốc gia B khác nhau:
Thứ nhất, theo quy định của khoản 2 Điều 58 CƯLB 1982 nếu quốc gia B thực
hiện quyền tự do hàng hải, hàng không, quyền tự do sử dụng biển thông qua hành
động cho hạ cánh máy bay xuống tàu nhằm những mục đích khác nhau nhưng đảm
bảo tính hợp pháp về mặt quốc tế gắn liền với việc thực hiện các quyền tự do hàng hải,
hàng không của mình trong vùng đặc quyền kinh tế của quốc gia A. Mục đích cho hạ
cánh máy bay phải nhằm thực hiện hoạt động thích hợp với các quy tắc, pháp luật
quốc tế qui định được áp dụng vùng đặc quyền kinh tế, thực hiện hoạt động tự do
nhưng trong chừng mực, khuôn khổ cho phép không mâu thuẫn với phần V của
Công ước, phù hợp với các quy định khác của CƯLB 1982, thì máy bay của quốc gia
B quyền tự do hạ cánh xuống tàu của quốc gia mình khi trong vùng đặc quyền
kinh tế của quốc gia A. Do đó, trong trường hp này quốc gia A không quyền đối
với hoạt động của tàu và máy bay nói trên.
Thứ hai, tàu thuyền, máy bay của quốc gia B quyền tự do hàng hải tự do
hàng không trong vùng đặc quyền kinh tế của quốc gia A nhưng tàu thuyền, máy bay
của họ thực hiện các hoạt động gắn liền với các quyền này bằng việc cho máy bay h
cánh xuống tàu nhằm mục đích thực hiện những hoạt động nằm ngoài khuôn khổ được
khai thác theo quy định, không phù hợp, vượt quá giới hạn hay mâu thuẫn với phần V
cũng như các quy định khác của LB 1982 hoặc vi phạm các qui định pháp luật của
quốc gia A đã ban hành theo đúng các quy định của Công ước và không mâu thuẫn với
các quy tắc khác của pháp luật quốc tế thì theo khoản 3 Điều 53 CƯLB 1982, quốc gia
A quyền áp dụng pháp luật quốc gia của mình đã ban hành cụ thể, điều chỉnh các
hoạt động mà tàu, máy bay nói trên vi phạm (nếu có). Ngoài ra, quốc gia A còn
quyền dùng các quy tắc khác của pháp luật quốc tế để xử đối với hành vi vi phm
của tàu và máy bay của quốc gia B đã thực hiện.
 Malaysia bị sốc trước hai đợt tập trận trong vòng chưa đầy một năm của
hải quân Trung Quốc gần bãi cạn James nằm trong vùng đặc quyền kinh tế của mình.
Bắc Kinh xem bãi cạn James phần lãnh thổ cực Nam của nước này. Tháng 3/2013,
Malaysia từng phản đối 4 tàu Trung Quốc m nhập James. Các thủy thủ Trung Quốc
đã bắn chỉ thiên khi ghé vào bãi cạn này. Sau đó, tháng 4/2013, 1 tàu hải giám Trung
Quốc quay lại bãi cạn James và đặt ở đó những cột bằng thép đánh dấu chủ quyền.
Quan chức ngoại giao của Malaysia cho biết, vụ việc hải quân Trung Quốc tập
trận gần bãi cạn James khiến Malaysia quyết định thúc đẩy hợp tác với các quốc gia
khác trong ASEAN, nhằm khiến Trung Quốc phải tuân thủ quy tắc ứng xtrên biển
Đông. Những tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc trên biển Đông cũng thể đẩy
Malaysia xích lại gần Mỹ hơn. Trước đó, Malaysia thường hạ nhiệt các lo ngại về an
ninh nhằm theo đuổi quan hệ kinh tế thân thiết hơn với đối tác thương mại lớn, nhất
Trung Quốc.
Bài 5:
Giả sử quốc gia A biển sâu. vậy, quốc gia A chỉ áp dụng đường sở để
xác định chiều rông của thềm lục địa trong trường hợp bờ ngoài của rìa lục địa ợt
quá 200 hải tính từ đường sở (không áp dụng đường đẳng sâu 2.500m để xác
định chiều rông của thềm lục địa).
Quốc gia A sẽ quyền khai thác dầu ktrong khu vực cách đường sở dùng
để tính chiều rông của lãnh hải 280 hải lý trong hai (02) trường hợp sau:
(1)   1:  ngoài  rìa    gia A nh
 280 
     dùng  nh   lãnh 
- Trong trường hợp này, khu vực cách đường sở dùng để tính chiều rông của
lãnh hải 280 hải này sẽ nằm bên ngoài thềm lục địa của quốc gia A thuôc
phần
Biển quốc tế Vùng (Đáy đại dương). Theo khoản 1 Điều 1 Công ước của Liên Hiêp
Quốc về Luât
biển 1982 thì vùng (zone) toàn bô đáy biển lòng đất dưới đáy biển
nằm bên ngoài giới hạn quyền tài phán của quốc gia”. Như y
, viêc
quốc gia A tiến
hành viêc
khai thác dầu khí tại khu vực 280 hải tức quốc gia A đang tiến hành
khai thác dầu khí tại phần Vùng (Đáy đại dương). căn cứ theo quy định tại Điều
136 khoản 1 Điều 137 Công ước của Liên Hiêp
Quốc về Lt
biển 1982 thì vùng
(đáy đại dương) và tài nguyên của di sản chung của nhân loại không một quốc
gia nào quyền đòi hỏi chủ quyền hay các quyền chủ quyền đáy biển quốc tế, kể cả
tài nguyên ở đó.
è y
quyền thuôc
nên quốc gia A không quyền khai thác dầu khí tại khu vực này như t
quyền chủ quyền của mình.
è Tuy nhiên, quốc gia A vẫn thể tiến hành khai thác dầu khí tại khu vực này
nhưng không được thực hiên t
cách tự do phải được tổ chức t
cách hiêu
quả; phải tuân theo pháp luât
, p
quán quốc tế phải đăt
dưới sự điều hành, kiểm
soát của quan quyền lực quốc tế về đáy biển (khoản 2 Điều 1 Công ước của Liên
Hợp Quốc về Luât
biển 1982). Đây là môt
tổ chức quốc tế liên chính phủ, được thành
p
theo phần XI của Công ước của Liên Hợp Quốc về Luật Biển 1982, nhằm mục
đích bảo đảm viêc
phân chia công bằng, trên sở không phân bt
đối xử những lợi
ích tài chính và những lợi ích kinh tế khác do những hoạt đông tiến hành trong Vùng
thông qua máy của mình. quan quyền lực quốc tế về đáy biển quyền tự quyết
định khai thác hoăc
cho các nước khai thác theo điều kiên
do quan đó quyết định.
·
Ngh
a    gia A trong   này:
- Trước hết, vùng phải được sử dụng nhằm mục đích hoà bình an ninh quốc
tế, vì lợi ích thúc đẩy sự hợp tác quốc tế.
- Bên cạnh đó, hoạt đông khai thác dầu khí của quốc gia A vùng phải được
tiến hành vì mục đích:
+ Phục vụ toàn thể loài người (Điều 140 Công ước của Liên Hợp Quốc về Luât
biển 1982);
+ Mang lại lợi ích cho tất cả các quốc gia trên thế giới, không phân biêt
vị trí địa
lý, nước biển hay không biển (Điều 141 Công ước của Liên Hợp Quốc v Luât
biển 1982);
+ Đăc
biêt
chú ý đến nhu cầu của các nước đang phát triển (Điều 148 Công ước
của Liên Hợp Quốc về Lt
biển 1982).
- Quốc gia A phải tôn trọng đầy đủ các quyền lợi chính đáng của quốc gia ven
biển (Điều 142 Công ước của Liên Hợp Quốc về Luât
biển 1982).
- Các hiên t
tính chất cổ lịch sử tìm thấy trong vùng sẽ được bảo tồn
định đoạt lợi ích của toàn thể loài người (Điều 149 Công ước của Liên Hợp Quốc về
Luât
biển 1982).
- Quốc gia A phải tuân thủ các quy định tại Mục 3, Phần IX Công ước của Liên
Hợp Quốc về Luât
biển 1982 về khai thác các tài nguyên của vùng.
(2)   2:  ngoài  rìa    gia A     280
      dùng  nh   nh 
- Trong trường hợp này, vùng thềm lục địa pháp của quốc gia A thể sẽ nằm
trong phạm vi 280 hải lý đến tối đa 350 hải lý kể từ đường sở dùng để tính chiều
rông lãnh hải (Điều 76 Công ước của Liên Hiêp
Quốc về Luât
biển 1982). Như y
,
viêc
quốc gia A tiến hành khai thác dầu ktrong khu vực cách đường sở dùng để
tính chiều rông của lãnh hải 280 hải này được thực hiên
của quốc gia A.
trong khu vực thềm lục địa
è Do đó, quốc gia A quyền khai thác dầu khí trong khu vực này bởi quốc
gia ven biển được thực hiện các quyền chủ quyền đối với thềm lục địa của mình v
mặt thăm khai thác tài nguyên thiên nhiên (khoáng sản, tài nguyên không sinh
vật như dầu khí, các tài nguyên sinh vật như cá, tôm…) của mình. đây đặc quyền
của quốc gia A nên không ai quyền tiến nh các hoạt động như vậy nếu không
sự thỏa thuận với quốc gia A. Nghĩa chỉ quốc gia A mới quyền cho phép quy
định việc khoan thềm lục địa bất kỳ vào mục đích gì. Tuy nhiên, quốc gia A khi thực
hiện quyền đối với thềm lục địa của mình kng được đụng chạm đến chế độ pháp
của vùng nước phía trên, không được gây thiệt hại đến hàng hải hay các quyền tdo
của các quốc gia khác.
- sở pháp lý: Điều 77 Công ước của Liên Hiệp Quốc về Luật biển 1982.
·
Ngh
a    gia A trong   này:
- Thông báo những thông tin về ranh giới các thềm lục địa của mình khi thềm
lục địa mở rộng quá 200 hải tính từ đường sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải
cho Ủy ban ranh giới thềm lục địa (Khoản 8 Điều 76 Công ước Liên Hiệp Quốc về
Luật biển 1982);
- Gửi cho Tổng thư Liên Hiệp Quốc các tài liệu cần thiết để chỉ một cách
thường xuyên thềm lục địa của mình (Khoản 9 Điều 76 Công ước Liên Hiệp Quốc về
Luật biển 1982);
- Không cản trở chế độ pháp của vùng nước phía trên và vùng trời phía trong
vùng nước đó (Điều 78 Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật biển 1982);
- Không cản trở quốc gia khác đặt dây cáp ngầm ống dẫn ngầm trên thềm lục
địa (Điều 79 Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật biển 1982);
- Do quốc gia A tiến hành khai thác thềm lục địa ngoài 200 hải kể từ đường
sở nên A phải nộp một khoản đóng góp bằng tiền hay hiện vật về việc khai thác tài
nguyên thiên nhiên không sinh vật (Điều 82 Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật biển
1982).
Bài 6:
Tàu quân sự của quốc gia
B đi qua lãnh hải (không vào nội thủy) của quốc gia
A. Việc chỉ trình bày việc đi qua (passage) theo điểm a khoản 1 Điều 18 UNCLOS
1982, chưa thể xác định được chế pháp được áp dụng với tàu quân sự của quốc
gia B này khi m nhập lãnh hải của quốc gia ven biển, do đó để giải quyết cần thiết
việc chia trường hợp là đi qua không gây hại hay đi qua y qua gây hai.
  1:  qua không gây 
A. Tàu quân sự của nước a được phép đi qua lãnh hải không cần xin phép
đây quyền được đi qua không gây hại bất kỳ tàu biển nào cũng được hưởng theo
Điều 17 UNCLOS 1982, quốc gia ven biển trách nhiệm tạo điều kiện cho tàu biển
được thực hiện quyền này theo khoản 1 Điều 24 Công ước này. Tuy nhiên, Tàu quân
sự nước B phải thông báo cho A và phải tuân thủ các luật và quy định của Luật biển.
B. Theo nhóm, việc tàu quân sự của quốc gia B đi qua lãnh hải của quốc gia A
cần phải thông báo trước cho quốc gia A phải tuân theo nguyên tắc đi qua không
gây hại trong lãnh hải theo tiểu mục A, Mục 3 Công ước Viên Luật biển 1982.
Tuy không quy định cụ thể nào trong Công ước viên của Liên Hợp Quốc về
Luật biển 1982 quy định về việc tàu quân sự nước ngoài phải thông báo trước cho
quốc gia ven biển được biết về việc tàu quân sự nước ngoài đi vào lãnh hải của quốc
gia mình. Nhưng xét thấy các quy định trong Công ước đã gợi mcho các quốc gia
ven biển quyền thiết lập các biện pháp cần thiết nhằm ngăn cản mọi việc đi qua
gây hại, được biểu đạt qua các lập luận sau:
(i) Theo Điều 19 (Nghĩa của thuật ngữ đi qua không gây hại) Điều 25 (Quyền
bảo vệ của quốc gia ven biển), Quốc gia ven biển quyền thi hành các biện pháp cần
thiết để bảo vệ lợi ích an ninh quốc gia, điều này sẽ bao gồm cả việc yêu cầu tàu quân
sự nước ngoài phải tiến hành thông báo trước khi vào lãnh hải của quốc gia đó. Khoản
1 Điều 25 quy định rằng quốc gia ven biển thể thi hành các biện pháp cần thiết
trong lãnh hải của mình để ngăn cản mọi việc đi qua gây hại. Khoản 3 Điều 25 cho
phép quốc gia ven biển đình chỉ thực hiện việc đi qua không gây hại của tàu thuyền
nước ngoài tại các khu vực nhất định trong lãnh hải của mình, nếu biện pháp này
cần thiết để bảo đảm an ninh.
(ii) Các quy định tại Điều 30 Công ước Luật biển 1982 liên quan đến việc tàu
chiến không tuân thủ các luật quy định của quốc gia ven biển khi đi qua lãnh hải,
cho phép quốc gia ven biển được xây dựng các luật lệ về lãnh hải. Do đó, các quốc gia
này thể đưa ra những quy định bắt buộc u quân sự phải xin phép hoặc thông o
trước khi vào lãnh hải trong luật lệ của mình.
(iii) Hơn nữa, Lãnh hải luôn là một phần lãnh thổ của quốc gia ven biển và thuộc
chủ quyền của quốc gia. vậy, theo nguyên tắc bảo đảm stoàn vẹn lãnh thổ bảo
vệ chủ quyền, an ninh quốc gia, quốc gia ven biển được phép áp dụng các quy định
trên.
C. Dựa vào khoản 2 Điều 12 Luât
Biển Viêt
Nam 2012 quy định: Đối với tàu
quân sự nước ngoài khi thực hiện quyền đi qua không gây hại trong lãnh hải Việt Nam,
thông báo trước cho quan thẩm quyền của Việt Nam”. Chính vì thế khi tàu quân
sự nước B đi qua lãnh hải của Việt Nam phải nghĩa vụ thông báo cho quan quản
lý nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam.
Nhìn nhận quy định phải thông báo đối với nh vi đi qua không gây hại của tàu
quân sự dưới lăng kính của luật quốc tế, thì nhiều người thể đánh giá rằng quy định
này vi phạm nguyên tắc tận tâm thực hiện các điều ước quốc tế đã ký kết, bởi theo quy
định tại Điều 17 đây quyền của tất cả các tàu thuyền, hơn nữa không một quy chế
cụ thể nào trong Công ước ràng buộc để quốc gia ven biển thể hạn chế quyền đi qua
không gây hại như yêu cầu phải xin phép, thông báo. Tuy nhiên nhóm cho rằng đánh
giá như trên không thuyết phục, quy định của Điều 12 Luật biển Việt Nam hợp
lý, tuân thủ Công ước:
Một, lãnh hải một phần lãnh thổ của quốc gia ven biển và thuộc chủ quyền của
quốc gia. vậy, theo nguyên tắc bảo đảm sự toàn vẹn lãnh thổ và bảo vệ chủ quyền,
an ninh quốc gia, quốc gia ven biển được phép áp dụng.
Hai là, tại khoản 1 Điều 19 Công ước quy định “không làm phương hại đến hòa
bình trật tự an ninh của quốc gia viên biển”. Việc tàu quân sự đi qua lãnh thổ một
quốc gia ít hay nhiều cũng hàm chứa những rủi ro nhất định, nên việc yêu cầu
thông báo, như là một sự chuẩn bị sự phòng vệ của quốc gia quen biển,
Ba là, pháp luật Việt Nam chỉ quy định phải “thông báo”, việc thông báo này
không hạn chế quyền đi qua không gây hại, gần giống như một thủ tục báo
trước đối với Việt Nam.
Bốn, các quy định tại Điều 30 Công ước Luật biển 1982 liên quan đến việc tàu
chiến không tuân thủ các luật quy định của quốc gia ven biển khi đi qua lãnh hải,
cho phép quốc gia ven biển được xây dựng các luật lệ về lãnh hải. Do đó, các quốc gia
này thể đưa ra những quy định bắt buộc tàu quân sự phải xin phép hoặc thông báo
trước khi vào lãnh hải trong luật lệ của mình.
Cuối cùng, quy định này không chỉ được Việt Nam áp dụng, mà nó còn được cái
nước áp dụng một cách rộng rãi, dần trở thành một “nguyên tắc” trong quy chế đi
qua không gây hại của tàu quân sự trong lãnh hải quốc gia. Điển hình như đối với một
số các quốc gia như Croatia, Egypt, Finland, Guyana, India, South Korea, Libya,
Malta, Mauritius, và Serbia phải tiến hành thủ tục thông báo trước.
  hai:  qua gây 
Đây trường hợp tàu quân sự quốc gia B mặc dù đi qua lãnh hải không vào nội
thủy, đi liên tục hành chóng nhưng một hoặc một số hoạt động quy định tại khoản 2
điều 19 UNCLOS.
a. Tàu quân sự này bắt buộc phải xin phép quốc gia ven biển, trừ trường hợp
quốc gia tàu quân sự quốc gia ven biển thỏa thuận khác, bởi đây lãnh thổ
của quốc gia ven biển, quốc gia ven biển chủ quyền hoàn toàn đầy đủ. Tàu quân
sự có những hoạt động gây hại không được hưởng các quyền được quy định tại Điều
17. Phải xin phép tuân thủ các quy định pháp luật của quốc gia ven biển, chịu một
số hạn chế nhất định. Mặc khác theo quy định tại khoản 1 Điều 25 UNCLOS “quốc gia
ven biển thể thi hành các biện pháp cần thiết trong lãnh hải của mình để ngăn chặn
mọi việc đi qua hại”. Đối với các trường hợp đi qua gây hại, thì thường các quốc
gia quen biển sẽ không cho phép hành vi này diễn ra trên lãnh hải quốc gia mình.
b. Trong Công ước không có quy định cụ thể về việc thông báo, tuy nhiên thể
căn cứ theo điều 25, quốc gia ven biển thể yêu cầu tàu quân sự đi qua gây hại thể
thông báo hoặc không thông báo, tuy nhiên trước đó vẫn phải thực hiện nghĩa vụ xin
phép, trừ trường hợp hai quốc gia có thỏa thuận khác.
c. Trước hết pháp luật Việt Nam không quy định trực tiếp về giải quyết việc
đi qua gây hại. Tuy nhiên, căn cứ vào Luật biển Việt Nam quy “Nhà nước thực hiện
chủ quyền đầy đủ và toàn vẹn đối với lãnh hải”. Nên đối với tàu quân sự phải được sự
cho phép của Việt Nam mới được đi qua lãnh hải, thể áp dụng các quy định về
chế độ pháp lý về biên giới quốc gia trong trường hợp này.
Dưới góc độ luật quốc tế đây là một quy định hợp được thừa nhận chung, đảm
bảo được các nguyên tắc bản trong công pháp quốc tế, tuân thủ các quy định trong
UNCLOS 1982.
Bài 7: Tàu    gia B  trong vùng   kinh   
Nam.
a/ Tàu    gia B  này không?
Chế độ pháp riêng của vùng đặc quyền kinh tế được quy định cụ thể tại phần V
của Công ước của Liên Hợp Quốc về Luật biển 1982 (UNCLOS), bao gm các quyền
chủ quyền quyền tài phán của quốc gia ven biển, các quyền tự do của các quốc gia
khác.
Điều 56 UNCLOS quy định quốc gia ven biển (trường hợp này Việt Nam)
quyền khai thác các tài nguyên thiên nhiên sinh vật trong vùng đặc quyền kinh tế của
mình. Theo mục 3 Tuyên bố của Chính phủ nước Cộng hòa hội chủ nghĩa Việt Nam
về lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế thềm lục địa của Việt
Nam ngày 12/5/1997 (sau đây gọi tắt Tuyên bố ngày 12/5/1997): “Nước Cộng hòa
hội chủ nghĩa Việt Nam có chủ quyền hoàn toàn về việc thăm dò, khai thác, bảo v
và quản tất cả các tài nguyên thiên nhiên, sinh vật và không sinh vật vùng nước,
đáy biển và trong lòng đất dưới đáy biển của vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam; có
quyền thẩm quyền riêng biệt vcác hoạt động khác phục vụ cho việc thăm
khai thác vùng đặc quyền kinh tế nhằm mục đích kinh tế;…” tại điểm a khoản 1
Điều 16 Luật Biển Việt Nam 2012 nhấn mạnh: “Trong vùng đặc quyền kinh tế, Nhà
nước thực hiện: a) Quyền chủ quyền về việc thăm dò, khai thác, quản và bảo tồn tài
nguyên thiên nhiên thuộc vùng nước bên trên đáy biển, đáy biển và lòng đất dưới đáy
biển;…”. Như vậy, việc đánh bắt trong vùng đặc quyền kinh tế thuộc quyền chủ
quyền của quốc gia ven biển (Việt Nam), mọi hành vi tùy tiện đánh bắt của các
quốc gia khác trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam vi phạm Công ước
UNCLOS.
Tuy nhiên, tàu đánh nước B thể được quyền khai thác trong vùng đặc
quyền kinh tế của Việt Nam nếu:
- B là quốc gia đang phát triển không có biển hoặc bất lợi về mặt địa hoặc c
quốc gia đang phát triển khác trong cùng khu vực hoặc phân khu vực với Việt Nam;
- Nước B được Việt Nam cho phép hoạt động khai thác số khối lượng
vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam thông qua việc kết các điều ước quốc tế
tàu thuyền đánh cá nước B được Việt Nam cấp giấy phép đánh bắt;
- Tàu đánh nước B thực hiện việc đánh bắt tuân thủ theo pháp luật và các quy
định của Việt Nam đưa ra.
(CSPL: khoản 2,3,4 Điều 62; Điều 69 Điều 70 UNCLOS).
b/  Nam cho phép các  gia khác  khai thác    
 cho phép   trong vùng   kinh    Nam không? 
 pháp lý?
Theo quy định tại khoản 2,3 Điều 62 UNCLOS, đối với các tài nguyên sinh vật
trong vùng đặc quyền kinh tế, quốc gia ven biển tự định ra tổng khối lượng thể
đánh bắt được, tự đánh giá khả năng thực tế của mình trong việc khai thác các tài
nguyên sinh vật biển ấn định số của khối lượng cho phép đánh bắt. Nếu số
này tồn tại thì quốc gia ven biển được quyền cho phép các quốc gia khác, thông qua
các điều ước hoặc những thoả thuận liên quan, khai thác số của khối lượng cho
phép đánh bắt này, ưu tiên cho các quốc gia không biển hoặc các quốc gia bất lợi
về mặt địa lý.
Như vậy, Việt Nam được quyền cho phép các quốc gia khác khai thác số khối
lượng cho phép đánh bắt trong vùng đặc quyền kinh tế của mình trên thực tế Việt
Nam Trung Quốc đã kết Hiệp định phân định vịnh Bắc Bộ hợp tác nghề
giữa Cộng hòa hội chủ nghĩa Việt Nam Cộng hòa nhân dân Trung Hoa ngày
26/12/2000, trong đó Điều 3.1 quy định hai n kết nhất trí thành lập vùng đánh
chung trong vùng đặc quyền kinh tế của mỗi nước theo tinh thần Điều 6 của Hiệp
định này thì sản lượng được phép đánh bắt trong vùng đánh chung sản lượng
tổng được phép đánh bắt của cả hai nước cho nên nếu như trong trường hợp các tàu
đánh của Việt Nam khai thác không hết khối lượng cho phép đánh bắt của mình thì
tàu đánh của Trung Quốc được quyền khai thác số này nhưng vẫn phải trong
phạm vi sản lượng chung được phép đánh bắt trong vùng đánh chung, vùng này
được thành lập trong vùng đặc quyền kinh tế của 2 nước Việt Nam Trung Quốc.
Ngoài ra, Việt Nam còn cho Lào quốc gia đang phát triển không biển khai thác số
cá dư trong vùng đặc quyền kinh tế của mình theo thỏa thuận giữa hai bên.
c/ Các  quan   nào   Nam     truy
    nh vi truy  gì?
Theo quy định của UNCLOS tại khoản 5 Điều 111 UNCLOS: “Quyền truy đuổi
chỉ thể được thực hiện bởi các tàu quân sự hay các phương tiện quân sự hoặc các
tàu hay phương tiện nay khác có mang các dấu hiệu bên ngoài chỉ ràng rằng, các
tàu hay phương tiện bay đó được sử dụng cho một quan Nhà nước được phép
làm nhiệm vnày”. Dựa trên quy định của UNCLOS về các phương tiện được thực
hiện quyền truy đuổi, pháp luật Việt Nam quy định cụ thể các quan trong nước
thẩm quyền thực hiện quyền truy đuổi tại khoản1 Điều 41 Luật Biển Việt Nam 2012,
đó là: “Lực lượng tuần tra, kiểm soát trên biển quyền truy đuổi tàu thuyền nước
ngoài…” và theo Điều 47 Luật Biển Việt Nam thì lực lượng tuần tra, kiểm soát trên
biển bao gồm: các lực lượng thẩm quyền thuộc Quân đội nhân dân, Công an nhân
dân, các lực lượng tuần tra, kiểm soát chuyên ngành khác; các lực lượng dân quân
tự vệ của các tỉnh, thành phố ven biển trực thuộc trung ương, lực lượng bảo vcủa
quan, tổ chức đóng ven biển các lực lượng khác cũng trách nhiệm tham gia tuần tra,
kiểm soát biển khi được quan có thẩm quyền huy động.
Kết quả của hành vi truy đuổi là:
- Nếu tàu bị truy đuổi dừng lại trong các vùng biển của quốc gia ven biển hoặc
biển quốc tế thì lực lượng tuần tra, kiểm soát trên biển thể áp dụng các biện pháp
ngăn chặn quy định tại Điều 51 Luật biển Việt Nam 2012: bắt, tạm giữ, tạm giam các
nhân hành vi vi phạm pháp luật; tạm giữ tàu thuyền sử dụng thực hiện hành vi vi
phạm pháp luật; thể ra quyết định xử vi phạm tại chỗ tùy theo tích chất mức
độ vi phạm hoặc dẫn giải người, tàu thuyền vi phạm vào bờ hoặc yêu cầu quan hữu
quan của quốc gia mà tàu mang cờ, quốc gia nơi tàu đó đến để xử lý vi phạm (Điều 50
Luật biển Việt Nam 2012).
- Nếu tàu bị truy đuổi đi vào lãnh hải của quốc gia thuộc quyền hay của
một quốc gia khác thì quyền truy đuổi của quốc gia ven biển chấm dứt (khoản 3 Điều
111 UNCLOS, khoản 3 Điều 41 Luật biển Việt Nam 2012).
Những hành động này của quan thẩm quyền nhà nước nhằm mục đích
ngăn chặn các thiệt hại xấu xảy ra trừng phạt kịp thời những đối tượng hành vi
vi phạm pháp luật đối với quốc gia ven biển.
Bài 8:
Câu 1: Trung Quốc quốc gia thành viên của Công ưc của Liên Hiệp quốc về
luật Biển 1982. Do đó, việc Trung Quốc mở rộng vùng biển thuộc chủ quyền quyền
chủ quyền phải phù hợp với mục tiêu các nguyên tắc của Liên Hiệp Quốc đã được
nêu trong Hiến chương.
Theo như nhóm tìm hiểu:  cn  là tên gọi dùng để chỉ đường quốc
giới hải vực biển Đông Cộng hòa Nhân n Trung Hoa chủ trương và đơn phương
tuyên bố chủ quyền m 2009 gửi lên Tổng thư Liên Hiệp Quốc vào ngày 7
tháng 5 năm 2009. Đến tháng 6/2014, Trung Quốc chính thức đưa ra tuyên bố yêu sách
10 đoạn. Trung Quốc dựa vào các cơ sở như sau:
· Thứ nhất, "Đường ời một đoạn" trong phụ lục "Bản đồ vị trí các đảo Nam
Hải"( xuất hiện công khai lần đầu tiên vào tháng 2 năm 1948) của "Bản đồ khu vực
hành chính Trung Hoa Dân Quốc" do Cục Phương vực Bộ Nội chính Trung Hoa Dân
Quốc phát hành.
· Thứ hai, Trung Quốc đã cho rằng mình xuất bản bản đồ thể hiện "đường
lưỡi bò" trong một thời gian dài nhưng không bất cứ một quốc gia nào phản đối hay
cuộc đàm phán song phương đa phương nào về vùng biển Trung Quốc đã được
in trên bản đồ.
Tuy nhiên, đường này xuất hiện do thời điểm đó Trung Hoa Dân quốc không
khả năng đo lường các hòn đảo để xác định mọi địa hình tạo đường phân định cho khu
vực hành chính xung quanh thế họ vẽ ra đường chạy qua điểm giữa các hòn đảo
vùng đất lân bang để chỉ ra rằng các đảo nằm bên trong đường vẽ ra lãnh thổ Trung
Hoa. Đường này chạy qua điểm trung tuyến giữa các điểm nhô ra nhất của các hòn đảo
địa hình của đất liền xung quanh. Không hề các tọa độ địa cụ thể được nêu ra
và những bản đồ mỗi thời in đường chín đoạn này lại khác nhau. Đến năm 1953 thì bỏ
hai đoạn trong vịnh Bắc Bộ, trở thành "đường chín đoạn". Thực tế lịch sử cho thấy, cả
Chính phủ Trung Hoa Dân quốc lẫn Chính phủ Cộng Hòa Nhân dân Trung Hoa chưa
bao giờ đưa ra lời tuyên bố hoặc giải thích chính thức vường lưỡi bò" đó. Năm
1993, chính phủ Đài Loan công bố Nam Hải Chính sách Cương lĩnh cho rằng Đường
chín đoạn phân định ra vùng nước lịch sử. Nhưng đễn năm 2003 Tổng thống Đài
Loan Trần Thủy Biển đã bác bỏ chính sách này.
Theo quan điểm của nhóm:
Về mặt lịch sử, đường lưỡi Trung Quốc gửi lên Liên Hiệp Quốc nhằm hợp
pháp hóa vùng biển thuộc chủ quyền quyền chủ quyền nằm bên trong đường lưỡi
đã không giá trị. về mặt lịch sử, đường này được tuyên không mang danh của
nước Công hòa nhân dân Trung Hoa mà thực chất chỉtuyên bố của một nhân. Do
vậy, vùng biển nằm bên trong đường lưỡi Trung Quốc tuyên bố không
“quyền lịch sử” với các vùng biển ở Biển Đông.
Về mặt pháp lí, đường lưỡi không phù hợp với cách tính của Công ước Liên
Hiệp Quốc về Luật Biển 1982 Trung Quốc thành viên, cụ thể không ràng
về vùng biển thuộc chủ quyền quyền chủ quyền nằm trong đường lưỡi bò. Bản đồ
này chứa một số lỗi như sau: Tỉ lệ xích thì đúng nhưng thước tỉ lệ thì vẽ sai: 1 km
được thể hiện bằng 635 mét. Như vậy nếu dùng thước tỷ lệ này vào việc đo 200 hải
(370 km) trên bản đồ, chỉ bằng 127 hải (235 km) trên thực địa. Hơn nữa, áp thước tỷ
lệ này trên các bản đồ của Mỹ thì hóa ra 1 km chỉ 630 m. Trong khi đó theo
UNCLOS quy định: 1 hải thì bằng 1852m trên thực địa. Như vậy việc Trung Quốc
đơn phương tuyên bố đường chính đoạn đã vi phạm: Điều 8 UNCLOS quy định về
nội thủy, Điều 3 4 UNCLOS quy định về lãnh hải, Điều 33 UNCLOS quy định
về vùng tiếp giáp lãnh hải, Điều 55 - UNCLOS, vùng đặc quyền kinh tế, Điều 76 -
UNCLOS, thềm lục địa của một quốc gia ven biển.
Khái niệm “vịnh lịch sử” hay “vùng nước lịch sử” mà đó một quốc gia thực
hiện quyền lực thuộc chủ quyền của mình đã được luật pháp quốc tế chấp nhận trong
một số hoàn cảnh hạn chế. Điều 10 của UNCLOS thừa nhận sự tồn tại của một vùng
nước như vậy, một số các vịnh biển không đáp ứng được các tiêu chuẩn chính
thức của một “vịnh” theo Điều 10 đã được trao cho quy chế này theo thời gian.
Khái niệm về yêu sách lịch sđược chấp nhận vào năm 1951 bởi Tòa án quốc tế
(ICJ) khi phán xét về yêu sách của Na uy về vùng nước nằm tiếp liền bờ biển của nước
này.
Theo đó thì một vịnh hay một vùng nước được coi lịch sử, căn cứ theo tập
quán quốc tế các phán quyết của tòa án phải thỏa mãn ít nhất hai điều kiện sau: 1)
Quốc gia ven biển thực thi chủ quyền của mình đối với vùng được yêu sách; 2) Sự liên
tục của việc thực thi quyền lực đó theo thời gian; 3) Quan điểm của các quốc gia kc
với yêu sách đó. Ngoài ra, một quốc gia yêu sách danh nghĩa lịch sử phải trách
nhiệm đưa ra bằng chứng đối với các vùng nước có vấn đề đang tranh cãi này.
Bất cứ chính quyền nào yêu sách vùng nước nằm trong “đường lưỡi bò” vùng
nước lịch sử thì quy chế pháp đối với vùng nước này như thế nào, nếu các vùng
nước này được yêu sách như vùng nội thủy thì các chính quyền yêu sách đó phải
chứng minh được họ đã thực thi chủ quyền một cách liên tục đối với các vùng nước
bao bọc trong “đường lưỡi bò” qua một thời gian tương đối giống như đã thực thi chủ
quyền đối với các vùng nội thủy khác. Nếu các vùng nước này được yêu sách như lãnh
hải thì quốc gia yêu sách phải chỉ ra được rằng họ đã thực thi chủ quyền một cách liên
tục đối với các vùng nước bị bao bọc này trong một thời gian dài như họ đã thực thi
chủ quyền đối với các vùng lãnh hải khác. Cũng tương tự như vậy nếu họ muốn yêu
sách các vùng nước bị bao bọc như là vùngớc lịch sử.
a. Đối với yêu sách như các vùng nội thủy
Theo chế độ pháp của các vùng nội thủy, một quốc gia ven biển thực thi chủ
quyền đầy đủ đối với vùng nước nằm phía bên trong đường sở để tính chiều rộng
lãnh hải, tàu nước ngoài không quyền đi qua không gây hại trong vùng nội thủy của
quốc gia ven biển, trừ khi được sự đồng ý của quốc gia đó.
Vậy vùng nước bị bao bọc bởi “đường lưỡi bò”có thể được coi vùng nội thủy
không? Câu trả lời đến ngay từ một học giả Đài Loan không, bởi những do sau
đây: thứ nhất, chính quyền Cộng hòa Trung Hoa chưa bao giờ yêu sách vùng nước bên
trong “đường lưỡi bò” như vùng nội thủy. Thứ hai, tàu nước ngoài, trong đó cả
tàu chiến vẫn thực hiện quyền đi lại trên vùng nước nằm trong đường lưỡi bò” này từ
khi “đường lưỡi bò” này xuất hiện trên bản đồ do Cộng Hòa Trung Hoa xuất bản năm
1948, chính quyền Cộng Hòa Trung Hoa đã không một hành động nào ngăn cản
các tàu nước ngoài qua lại vùng này.
b. Đối với yêu sách như lãnh hải”.
Theo quy định tại Điều 3 Công ước Luật biển của Liên Hợp Quốc m 1982
(UNCLOS) thì: “Mọi quốc gia đều quyền ấn định chiều rộng lãnh hải của mình;
chiều rộng này không vượt quá 12 hải kể từ đường sở được vạch ra theo đúng
Công ước”. Mọi quốc gia quyền thực thi chủ quyền đối với vùng lãnh hải của mình.
Tàu thuyền nước ngoài chỉ được hưởng quyền đi qua không gây hại cho trong vùng
lãnh hải của các quốc gia ven biển, trừ khi các điều khoản, điều ước chuyên môn
khác. Đối với vùng trời phía trên lãnh hải, c máy bay nước ngoài được quyền bay
qua không gây hại.
Máy bay nước ngoài đã bay qua vùng trời phía trên của vùng nước này từ m
1948 khi bản đồ được xuất bản. Như đã trình bày trên, máy bay của nước ngoài
không được phép bay qua không gây hại trên vùng trời phía trên của lãnh hải quốc gia
ven biển. Như vậy, đây không được xem là lãnh hải của Trung Quốc.
c. Đối với yêu sách như các vùng nước quần đảo.
Khái niệm về các vùng nước quần đảo một khái niệm mới trong luật biển
quốc tế, được đưa ra trong Hội nghị Liên Hợp Quốc về Luật biển lần III (UNCLOS
III), theo đó, các vùng nước nằm bên trong đường sở thẳng của quần đảo vùng
nước quần đảo, không phải nội thủy, cũng không phải lãnh hải. Một quốc gia
quần đảo quyền thực thi chủ quyền đối với vùng nước quần đảo của mình. Chủ
quyền quốc gia “được mrộng đến vùng trời phía trên của vùng nước quần đảo cũng
như đến đáy của vùng nước đó lòng đất tương ứng đến các nguồn tài nguyên
đó”. Tàu nước ngoài được quyền đi qua không gây hại tại vùng nước quần đảo, tàu
biển và máy bay nước ngoài được quyền đường hàng hải, đường hàng không đi qua
vùng nước quần đảo.
Do chế độ pháp của “các vùng nước quần đảo” được phát triển trong giai đoạn
hội nghị lần thứ III của UNCLOS (từ năm 1973 1982) và bản đồ thể hiện “đường
lưỡi bò” xuất bản lần đầu năm 1948, nên kthể chứng minh được vùng nước bên
trong “đường lưỡi bò” đó được quy chế pháp lý của các vùng nước quần đảo, Cộng
Hòa Trung Hoa đã không thực thi chủ quyền quyền tài phán của mình đối toàn bộ
các vùng nước bên trong “đường lưỡi bò” này, tàu và máy bay nước ngoài vẫn tiếp tục
được hưởng quyền tự do hàng hải và hàng không trong vùng nước nằm trong đường
này, thay cho quyền đi qua không gây hại quyền được qua lại các tuyến hàng hải
hàng không đã được ấn định của vùng nước quần đảo. thế, thể kết luận toàn
bộ các vùng nước bên trong “đường lưỡi bò” không thể được xem các vùng nước
quần đảo của Cộng hòa Trung Hoa.
Theo các tiêu chí để thỏa mãn một vùng nước được coi vùng nước lịch sử, thì
Trung Quốc cũng phải chứng minh được họ đã thực thi chủ quyền trên toàn bộ vùng
nước trong đường lưỡi này một cách thật sự và liên tục trong một thời gian dài.
Điều này thật không đơn giản, bởi vì:
Thời điểm Trung Quốc thực sự đặt chân lên quần đảo Hoàng Sa là năm 1909,
với hành động của Chuẩn, tuy nhiên lúc này Hoàng Sa đã không còn một lãnh
thổ vô chủ nữa. Việt Nam đã thực thi chủ quyền của mình từ ít nhất là năm 1816.
Đường lưỡi không phải con đường tính ổn định xác định. Từ 11 đoạn,
năm 1953, Trung Quốc đã phải bỏ đi hai đoạn trong vịnh Bắc Bộ vì quá lý. Tính
chất không liên tục của con đường y được các tác giả Trung Quốc giải thích đ
cho “những điều chỉnh cần thiết trong tương lai”. Đặc tính quan trọng nhất của một
đường biên giới quốc tế sự ổn định dứt khoát. Đường lưỡi bò” không thể hiện
được đặc tính đó, thêm nữa, vị trí củalại không được xác định tọa độ ràng, thế
khó mà biểu thị là một đường biên giới được.
Vấn đề thứ hai theo Yann Huei Song thì mặc đường lưỡi bò” đã xuất hiện
trên các bản đồ xuất bản Trung Hoa lục địa từ năm 1949, nhưng chưa bao giờ Cộng
Hòa Nhân Dân Trung Hoa yêu sách chính thức các vùng nước nằm trong đường này
như các vùng nước lịch sử. Đại diện của Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa đã kng
tuyên bố như vậy trong Hội nghị Công ước Luật biển lần III.Theo luật pháp quốc tế,
các hành vi quốc gia thể hiện phải mang tính công khai ý chí thực thi chủ quyền
trên lãnh thổ đó. Những hành vi mật không thể tạo nên sở cho quyền lịch sử, ít
nhất các quốc gia phải có cơ hội được biết những gì đang diễn ra.
Như vậy, kể cả Cộng Hòa Trung Hoa lẫn Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa đều
chưa bao giờ công bố chính thức yêu sách về vùng biển bên trong “đường lưỡi bò” đó.
Đặc biệt, Điều 1 Tuyên bố năm 1958 về lãnh hải của Cộng hòa Nhân dân Trung
Hoa đã nhấn mạnh rằng:
“Chiều rộng lãnh hải nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa 12 hải lý. Điều
khoản này áp dụng cho tất cả các lãnh thổ của nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa,
bao gồm lục địa Trung Quốc các đảo ven b của lục địa cũng như các đảo Đài Loan
xung quanh đó, quần đảo Penghu (Bành Hồ) tất cả các đảo khác thuộc Trung
Quốc bị phân cách với đất liền và các đảo ven bờ biển của nó bởi biển cả”.
Như vậy, Tuyên bố 1958 của Trung Quốc xác định ràng các đảo bị tách biệt
với lục địa bởi biển cả, chứ không phải vùng nước lịch sử. Chẳng lẽ lại tồn tại vùng
biển cả nằm trong nội thủy của Trung Quốc? Không thể điều vô đó. Do vậy,
Tuyên bố các đạo luật của các nhà chức trách Trung Quốc, đặc biệt Tuyên bố m
1958 của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa không phù hợp với yêu sách lịch sử được
phân định bởi “đường lưỡi bò”.
Tuyên bố về đường sở của Trung Quốc ngày 15/5/1996 càng làm cho sự mập
mờ này của họ bởi họ yêu sách một đường snối cả Hoàng Sa nhưng lại không đề
cập gì đến Trường Sa.
Hơn nữa, tại hội nghị San Francisco tháng 9 năm 1951, các quốc gia tham gia đã
khước từ đề nghị trao trả cho Trung Quốc hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa
thực tế tranh chấp về chủ quyền trên Hoàng Sa giữa Việt Nam Trung Quốc hay
tranh chấp chủ quyền đối với toàn bộ hay một phần quần đảo Trường Sa giữa Việt
Nam, Malaysia, Philippines Trung Quốc cho thấy không thể nói “đường lưỡi bò”
được các quốc gia khác công nhận. Như vậy, thể nói là yêu sách này chưa bao giờ
có được sự thừa nhận của cộng đồng quốc tế.
Từ những phân tích trên, nhóm khẳng định rằng, việc Trung Quốc tuyên bố
đường lưỡi không sở pháp không quyền lịch sử với các vùng biển
Biển Đông theo Công ước Liên Hiệp Quốc vLuật Biển 1982 Trung Quốc
thành viên.
Câu 2:
Các quốc gia bị ảnh hưởng bởi tuyên bố "Đường lưỡi bò" của Trung Quốc Việt
Nam, Philippines, Malaysia, Indonesia, Brunei.
Đường lưỡi của Trung Quốc lấn lên vùng đặc quyền kinh tế thềm lục địa
của các quốc gia này.
Theo năm tháng, "đường lưỡi bò” dần dần bành trướng đến khi nó bao trùm phần
lớn Biển Đông, vào cách bờ biển của các nước khác dưới 100 hải lý, kng hề
một lập luận nào dựa trên luật pháp hay tập quán quốc tế.
Bài 9:
1. Philippines  Trung     gì?
Với cách một quốc gia thành viên Công ước của Liên Hợp Quốc về Luật
Biển 1982 (UNCLOS), ngày 22/1/2013, Philippines đã đệ đơn kiện về việc Trung
Quốc đã giải thích và áp dụng sai UNCLOS theo Điều 279, Điều 283, Điều 284 lên
Tòa Trọng tài Thường trực The Haye (PCA).
Cụ thể, Philippines khởi kiện Trung Quốc 15  dung, tập trung vào 3
nhóm vấn đề:
a. Yêu sách đường chín đoạn Trung Quốc đưa ra dựa trên "Quyền lịch sử" không phù
hợp với UNCLOS cho nên nó vô giá trị.
b. Philippines yêu cầu PCA xác định xem, theo UNCLOS, thì một số thực thể địa lý,
cả Philippines lẫn Trung Quốc yêu sách, đảo, đá, bãi cạn lúc nổi lúc chìm hay bãi ngầm
nằm hoàn toàn dưới mực nước biển, trên cơ sở đó để xác định hiệu lực pháp của các thực
thể này đến đâu (có hay không có lãnh hải 12 hải , vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý).
c. Philippines yêu cầu PCA tuyên bố Trung Quốc đã vi phạm UNCLOS khi cản trở
Philippines thực thi các quyền ch quyền, quyền tài phán và quyền tự do của Philippines theo
UNCLOS cũng như việc Trung Quốc gây tổn hại môi trường biển trong các hoạt động bồi lấp
xây dựng đảo, đánh bắt cá mà nước này tiến hành.
Ngày 29/10/2015, PCA - Tòa Trọng tài Thường trực The Haye, ra thông cáo o
chí về vụ kiện giữa Cộng hòa Philippines với Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa; trong đó
đã khẳng định rằng PCA có thẩm quyền thụ lý, xét xử vụ kiện này theo đúng quy định
của UNCLOS rằng, cả Trung Quốc Philippines đều thành viên ràng buộc của
UNCLOS trách nhiệm nghĩa vụ tuân thủ mọi điều khoản của UNCLOS. Việc
Trung Quốc từ chối tham gia vụ kiện không làm mất đi thẩm quyền ra phán quyết của
PCA.
PCA đã bác bỏ lập luận của Trung Quốc rằng Philippines chủ yếu khởi kiện c
nội dung liên quan đến chủ quyền lãnh thổ phân định biên giới biển giữa 2 nước, do
đó vượt qua thẩm quyền của PCA. Ngược lại Tòa khẳng định, bản chất vụ kiện của
Philippines phản ánh tranh chấp giữa 2 nước liên quan đến việc giải thích áp dụng
UNCLOS.
Đồng thời, PCA cũng đã bác bỏ lập luận của Trung Quốc cho rằng Tuyên bố v
ứng xử của các bên trên Biển Đông (DOC) giữa Trung Quốc với ASEAN năm 2002
thỏa thuận để giải quyết tranh chấp Biển Đông thông qua thương lượng. PCA phán
quyết rằng DOC chỉ một thỏa thuận chính trị mà không ràng buộc pháp lý, do đó
không liên quan đến các quy định trong UNCLOS về việc ưu tiên giải quyết tranh
chấp thông qua bất kỳ phương tiện nào mà hai bên đồng ý.
2.   VII  Công     1982      dung
gì?
Phụ lục VII của CULB 1982
đề cập       
tranh    tài gồm các nội dung như sau:
Thứ 1, thẩm quyền thành lập trọng tài quy định tại Điều 1 Phụ lục VII
CULB1982; Thứ 2, Theo quy định của Điều 3, Phụ lục VII về trọng tài, trọng tài gồm
5 thành viên, trừ khi các bên tranh chấp có thỏa thuận khác;
Thứ 3, chức năng của trọng tài: Theo quy định tại Điều 4, Phụ lục VII của
UNCLOS, trọng tài thi hành các chức năng theo đúng Phụ lục VII các quy định
khác của UNCLOS, Điều 6 về những nghĩa vụ của các bên;
Thứ 4, về xét xử vắng mặt của một bên được quy định tại Điều 9 Phụ lục VII;
Thứ 5: giải thích và thi hành bản án.
Toà trọng tài được thành lập hoạt động theo đúng Phụ lục VII của Công ước
luật biển, là cơ quan tài phán quốc tế.
Toà trọng tài thực hiện các chức năng của mình theo đúng phụ lục VII các quy
định khác của Công ước trong việc giải quyết các tranh chấp liên quan tới luật biển.
Bản án của Toà trọng tài tính tối hậu không được kháng cao, trừ khi các bên
trong vụ tranh chấp đã thoả thuận trước về một thủ tục kháng cáo. Tất cả các bên
trong vụ tranh chấp khi được Toà trọng tài giải quyết vụ việc bằng bản án thì đều phải
tuân theo.
  VII
"ĐIỀU 1. Việc khởi tố
Với điều kiện phải tuân thủ Phần XV, bất kỳ bên nào trong một vụ tranh chấp đều
thể đưa vụ tranh chấp ra giải quyết bằng thủ tục trọng tài đã trù định trong Phụ lục
này bằng một thông báo viết gửi tới bên kia hoặc hoặc các bên kia trong vụ tranh chấp.
Thông báo kèm theo bản trình bày các yêu sách và các do làm căn cứ cho các
yêu sách đó.
ĐIỀU 2. Danh sách các trọng tài
1. Tổng thư Liên hợp quốc lập ra và giữ một bản danh sách các trọng tài. Mỗi
quốc gia thành viên thể chỉ định bốn trọng tài kinh nghiệm về những vấn đề biển
nổi tiếng nhất về sự công bằng, vnăng lực và liêm khiết. Tên của những người
được chỉ định như vậy được ghi rõ trên một bản danh sách.
2. Vào một thời điểm nào đó, nếu số lượng trọng tài được một quốc gia thành
viên chỉ định và có trong bản danh sách dưới bốn người thì quốc gia này quyền tiến
hành việc chỉ định bổ sung mà mình có quyền.
3. Tên của một trọng tài được ghi trên bản danh sách cho đến khi quốc gia
thành viên đã chỉ định người trọng tài này rút người đó khỏi danh sách; nhiên, người
trọng tài này phải tiếp tục làm nhiệm vụ trong mọi Toà trọng tài họ được cử cho
đến khi thủ tục tiến hành trước toà này kết thúc.
ĐIỀU 3. Thành lập Toà trọng tài
Theo thủ tục được trù định trong Phụ lục này, trừ khi các bên liên quan thoả
thuận khác, Toà trọng tài được lập ra, như sau:
a) Với điều kiện tuân thủ điểm g, Toà trọng tài gồm năm thành viên;
b) Bên nguyên cử một thành viên mình tuỳ ý lựa chọn trên bản danh sách
nói Điều 2 của Phụ lục này người đó thể là công dân của mình. Tên của người
đó được ghi trong bản thông báo nói trong Điều 1 của Phụ lục này;
c) Bên bị trong vụ tranh chấp cử trong thời hạn 30 ngày, tính từ khi nhận được
thông o nói Điều 1 của Phụ lục này một thành viên mình tuỳ ý lựa chọn trên
bản danh sách, người đó thể công dân của mình. Nếu họ không cử người trong
thời hạn nói trên, thì bên nguyên thể yêu cầu tiến hành việc cử thành viên đó theo
đúng điểm c trong hai tuần lễ sau khi hết thời hạn này;
d) Ba thành viên khác được các bên thoả thuận cử ra. Họ được các bên tuỳ ý
chọn trên bản danh sách và công dân của các quốc gia thứ ba, trừ khi các bên
thoả thuận khác. Các bên cử Chánh toà của Toà trọng tài trong số ba thành viên đó.
Nêu trong thời hạn 60 ngày kể từ ngày nhận được thông báo nói Điều 1 của Phụ lục
này, các bên hữu quan không thể thoả thuận về việc chỉ định một hay nhiều thành viên
của Toà mà họ phải cử theo thoả thuận chung hay là về việc cử Chánh toà, thì theo yêu
cầu của bất kỳ bên nào trong vụ tranh chấp, cần tiến hành cử 1 người hay những người
đó theo đúng điểm e Yêu cầu đó phải được đưa lên trong hai tuần sau khi hết hạn 60
ngày này;
e) Trừ khi các bên hữu quan thoả thuận giao cho một người hoặc cho một quốc
gia thba do họ lựa chọn tiến hành các việc cử nời cần thiết theo điểm c và d,
Chánh án của Toà án quốc tế về luật biển cần tiến hành việc hành. Nếu Chánh án bận
hoặc công dân của một trong các bên trong vụ tranh chấp, thì việc cử người giao cho
thành viên thâm niên nhất của Toà án quốc tế về luật biển sẵn sàng làm việc này
không phải công dân của một trong các bên hữu quan. Việc cử người tiến hành bằng
cách lựa chọn trên bản danh cách nói Điều 2 của Phụ lục này trong một thời hạn
30 ngày kể từ ngày nhận được đơn yêu cầu tham kháo ý kiến của các bên. Các
thành viên được cử như thế cần phải thuộc các quốc tịch khác nhau, không được m
việc cho một bên nào trong vụ tranh chấp; họ không trú ngthường xuyên trên lãnh
thổ của một trong các bên hữu quan đó và không phải là công dân của một bên nào;
f) Mọi ghế bị trống đều được cử nời thay thế theo các quy định cho lần bổ
nhiệm đầu tiên ;
g) Các bên cùng một phía cùng nhau cử một thành viên của Toà qua thoả thuận
chung. Khi nhiều bên đối lập nhau hay trong trường hợp không thống nhất vđiểm
liệu các bên đứng vào cùng một phía không, thì mỗi bên trong số họ cử một thành
viên của Toà. Số lượng thành viên của Toà do các bên cử riêng rẽ bao giờ cũng phải ít
hơn một người so với số lượng các thành viên của Toà được các bên hữu quan cùng cử
;
h) Các điểm a đến f được áp dụng đến hết mức có thể vào các vụ tranh chấp xảy
ra có quá hai bên hữu quan trở lên.
ĐIỀU 4. Các chức năng của Toà trọng tài
Một toà trọng tài được thành lập theo Điều 3 của Phụ lục này thi hành các chức
năng của mình theo đúng Phụ lục này và quy định khác của Công ước.
ĐIỀU 5. Thủ tục
Trừ khi các bên thoả thuận khác, Toà trọng tài tự quy định thủ tục của mình
bằng cách cho mỗi bên khả năng bảo vệ các quyền của mình trình bày căn cứ
của mình.
ĐIỀU 6. Những nghĩa vụ của các bên
Các bên tham gia tranh chấp tạo điều kiện dễ dàng cho Toà trọng tài thực hiện
nhiệm vụ của mình và, đặc biệt , theo đúng pháp luật của mình bằng tất cả các
phương tiện thuộc quyền sử dụng của mình, cần phải:
a) Cung cấp cho Toà mọi tài liệu, các điều kiện dễ dàng các thông tin thích
hợp; và b) Cho Toà, khi điều đó cần thiết, khả năng dẫn ra và nghe người làm
chứng hoặc các chuyên gia và đến tại chỗ.
ĐIỀU 7. Lệ phí
Trừ khi Toà trọng tài quyết định khác vì có những hoàn cảnh đặc biệt của vụ
việc, lệ phí của Toà, kể ca thù lao cho các thành viên của Toà, phải do các bên trong v
tranh chấp chịu ngang nhau.
ĐIỀU 8. Đa số cần thiết phải thông qua các bản án
Các quyết định của Toà trọng tài được thông qua theo đa số các thành viên của
Toà. Sự vắng mặt hoặc bỏ phiếu trắng của ới một nửa số thành viên không cản trở
Toà ra quyết định. Trong trường hợp số phiếu ngang nhau, phiếu của Chánh toà
phiếu quyết định.
ĐIỀU 9. Vắng mt
Khi một trong số các bên trong vụ tranh chấp không ra Toà hoặc không trình bày
các lẽ của mình, thì bên kia thể yêu cầu Toà tiếp tục trình tự tố tụng và phán
quyết. Việc một bên vắng mặt hay việc một bên không trình bày các lẽ của mình
không cản trở cho trình tự tố tụng. Trước khi ra phán quyết, Toà trọng tài cần phải biết
chắc chắn rằng không những Toà thẩm quyền xét xử vụ tranh chấp còn chắc
chắn rằng đơn kiện có cơ sở về mặt thực tế pháp lý.
ĐIỀU 10. Bản án
Bản án của Toà trọng tài được giới hạn nội dung của vụ tranh chấp phải nêu
căn cứ. Bản án nêu tên của các thành viên của Toà trọng tài đã tham gia xét xử và thời
gian ra bản án. Bất kỳ thành viên nào của Toà cũng thể đính thêm vào bản án trình
bày ý kiến riêng hoặc bất đồng của mình.
ĐIỀU 11. Tính chất tối hậu của bản án
Bản án tính chất tối hậu không được kháng cáo, trừ khi các bên trong vụ
tranh chấp phải tuân theo bản án này.
| 1/23

Preview text:

Bài 1:
Trong 3 chiếc tàu đã nêu: - tàu X là tàu quân sự
- tàu Y (tàu chở khách) và tàu Z (tàu chở hàng) là tàu dân sự dùng trong lĩnh vực thương mại a.
Ø Trường hợp tàu X vi phạm pháp luật vùng nội thủy của quốc gia A:
Căn cứ tiểu mục C của Công ước luật biển 1982, vì tàu X là tàu quân sự nên
được hưởng quyền miễn trừ tuyệt đối về tư pháp và được coi là bất khả xâm phạm.
Quốc gia A không có quyền tài phán hành vi vi phạm và thiệt hại do tàu X gây ra.
Trong trường hợp này, quốc gia A có quyền:
- Yêu cầu tàu X ra khỏi nội thủy trong một thời gian nhất định (Điều 30 CƯ);
- Yêu cầu quốc gia có tàu X phải áp dụng chế tài hợp pháp với thủy thủ vi phạm; -
Yêu cầu quốc gia có tàu X phải bồi thường thiệt hại do hành vi vi phạm của tàu X gây ra
trong thời gian đậu ở nội thủy của quốc gia A (Điều 31 CƯ).
Ø Trường hợp tàu Y tàu Z vi phạm pháp luật vùng nội thủy của quốc gia A:
v Nếu vi phạm pháp luật đó là vi phạm hình sự: Tàu Y và tàu Z phải chịu sự tài
phán của quốc gia A. Quốc gia A có quyền bắt giữ, truy tố, xét xử theo pháp luật của
nước mình trước Tòa án của nước mình đối với hành vi phạm pháp trên nội thủy của 2
tàu này (khoản 2 Điều 27 CƯ). Những hành động phạm pháp xảy ra trên tàu trong thời
gian tàu đang đậu ở nội thủy của quốc gia A thì quốc gia A có quyền xét xử trong các trường hợp sau:
- Nếu hành vi phạm tội do một người ngoài thủy thủ đoàn thực hiện;
- Nếu thuyền trưởng yêu cầu chính quyền nước A can thiệp;
- Nếu hậu quả của nó ảnh hưởng tới an ninh trật tự của nội thủy.
v Nếu vi phạm pháp luật đó là vi phạm dân sự: Tòa án của quốc gia A có quyền
xét xử các vụ kiện dân sự (khoản 3 Điều 28 CƯ):
- Giữa tàu Y và tàu Z với nhau hoặc với các tàu nước ngoài khác cùng đậu ở nội thủy của quốc gia A;
- Giữa thủy thủ đoàn của tàu với công dân nước A.
v Nếu vi phạm pháp luật đó là vi phạm hành chính: Cơ quan có thẩm quyền của
quốc gia A có quyền xử phạt vi phạm hành chính đối với tàu và thủy thủ đoàn của tàu
Y, Z khi vi phạm pháp luật trong lãnh thổ của quốc gia A (Nội thủy là một bộ phận của lãnh thổ quốc gia). b.
Ø Về mặt hình sự: Nếu nhân viên của 3 chiếc tàu trên vi phạm pháp luật hình sự
quốc gia A khi đã lên trên bờ thì quốc gia A có thẩm quyền bắt giữ, truy tố và xét xử
hành vi phạm tội theo pháp luật hình sự của quốc gia A.
Ø Về mặt dân sự: Cơ quan có thẩm quyền của quốc gia A có quyền xét xử các vụ
kiện dân sự có liên quan đến nhân viên của 3 chiếc tàu này khi họ đã lên bờ.
Ø Về mặt hành chính: Cơ quan có thẩm quyền của quốc gia A có quyền điều tra,
xem xét các vụ vi phạm hành chính của các nhân viên 3 chiếc tàu này khi họ đã lên trên bờ. Bài 2:
a. Đối với tàu đánh cá:
Tàu đánh cá của quốc gia B khi đi qua đang đi qua lãnh hải của quốc gia cho 1
máy bay dân sự (đang đậu trên tàu) cất cánh thì tàu đánh cá này đã vi phạm quy định
về quyền đi qua không gây hại tại Điều 17 Công ước về Luật Biển 1982. Cụ thể, việc
tàu đánh cá đi qua lãnh hải và cho máy bay đang đậu trên tàu cất cánh được xem là
phương hại đến hòa bình, an ninh, trật tự của quốc gia ven biển, được quy định tại
điểm d khoản 2 Điều 19 của Công ước về Luật Biển 1982. Theo đó: “Việc đi qua của
một tàu thuyền nước ngoài bị coi như phương hại đến hòa bình, trật tự hay an ninh của
quốc gia ven biển, nếu như ở trong lãnh hải, tàu thuyền này tiến hành một trong bất kỳ
hoạt động nào sau đây: …
d) Phóng đi, tiếp nhận hay xếp lên tàu các phương tiện bay; …”.
Như vậy, khi tàu này có vi phạm, quốc gia ven biển được phép thực hiện các biện
pháp nhằm ngăn cản việc đi qua có hại theo quy định tại Điều 25 của Công ước về
Luật Biển 1982 và có quyền tài phán về mặt hình sự đối với tàu đánh cá nước B, theo
quy định tại điểm b khoản 1 Điều 27 của Công ước về Luật Biển 1982.
Điều 25. Quyền bảo vệ các quốc gia ven biển
1. Quốc gia ven biển có thể thi hành các biện pháp cần thiết trong lãnh hải của
mình để ngăn cản mọi việc đi qua có gây hại.
2. Đối với tàu thuyền đi vào vùng nội thủy hay vào một công trình cảng ở bên
ngoài vùng nội thủy đó, quốc gia ven biển cũng có quyền thi hành những biện pháp
cần thiết để ngăn ngừa mọi sự vi phạm đối với các điều kiện mà tàu thuyền này buộc
phải tuân theo để được phép vào vùng nội thủy hay công trình cảng nói trên.
3. Quốc gia ven biển có thể tạm thời đình chỉ việc thực hiện quyền đi qua không
gây hại của tàu thuyền nước ngoài tại các khu vực nhất định trong lãnh hải của mình,
nếu biện pháp này là cần thiết để bảo đảm an ninh của mình, kể cả để thử vũ khí,
nhưng không được phân biệt đối xử về mặt pháp lý hay về mặt thực tế giữa các tàu
thuyền nước ngoài. Việc đình chỉ này chỉ có hiệu lực sau khi đã được công bố theo đúng thủ tục.
Điều 27. Quyền tài phán hình sự ở trên một tàu nước ngoài
1. Quốc gia ven biển không được thực hiện quyền tài phán hình sự của mình ở
trên một tàu nước ngoài đi qua lãnh hải để tiến hành việc bắt giữ hay tiến hành việc dự
thẩm sau một vụ vi phạm hình sự xảy ra trên con tàu trong khi nó đi qua lãnh hải, trừ
các trường hợp sau đây:
a) Nếu hậu quả của vụ vi phạm đó mở rộng đến quốc gia ven biển;
b) Nếu vụ vi phạm có tính chất phá hoại hòa bình của đất nước hay trật tự trong lãnh hải;
c) Nếu thuyền trưởng hay một viên chức ngoại giao hoặc một viên chức lãnh sự
của quốc gia mà tàu mang cờ yêu cầu sự giúp đỡ của các nhà đương cục địa phương hoặc
d) Nếu các biện pháp này là cần thiết để trấn áp việc buôn lậu chất ma túy hay các chất kích thích.
2. Khoản 1 không đụng chạm gì đến quyền của quốc gia ven biển áp dụng mọi
luật pháp mà luật trong nước mình qui định nhằm tiến hành các việc bắt giữ hay tiến
hành việc dự thẩm ở trên con tàu nước ngoài đi qua lãnh hải, sau khi rời khỏi nội thủy.
3. Trong những trường hợp nêu ở các khoản 1 và 2, nếu thuyền trưởng yêu cầu,
quốc gia ven biển phải thông báo trước về mọi biện pháp cho một viên chức ngoại
giao hay cho một viên chức lãnh sự của quốc gia mà tàu mang cờ và phải tạo điều kiện
dễ dàng cho viên chức ngoại giao hay viên chức lãnh sự đó tiếp xúc với đoàn thủy thủ
của con tàu. Tuy nhiên trong trường hợp khẩn cấp, việc thông báo này có thể tiến hành
trong khi các biện pháp đang được thi hành.
4. Khi xem xét có nên bắt giữ và các thể thức của việc bắt giữ, nhà đương cục địa
phương cần phải chú ý thích đáng đến các lợi ích về hàng hải.
5. Trừ trường hợp áp dụng phần XII hay trong trường hợp có sự vi phạm các luật
và quy định được định ra theo đúng phần V, quốc gia ven biển không được thực hiện
một biện pháp nào ở trên một con tàu nước ngoài khi nó đi qua lãnh hải nhằm tiến
hành bắt giữ hay tiến hành việc dự thẩm sau một vụ vị phạm hình sự xảy ra trước khi
con tàu đi vào lãnh hải mà không đi vào nội thủy.
b. Đối với máy bay dân sự:
Lãnh hải bảo gồm lớp nước biển, đáy biển, lòng đất dưới đáy biển và vùng trời
bao trùm trên lãnh hải. Trong đó, đối với đáy biển, lòng đất dưới đáy biển và vùng trời
bao trùm lên lãnh hải, quốc gia ven biển có chủ quyền tuyệt đối. Vùng trời bao trùm
trên lãnh hải là một bộ phận cấu thành vùng trời quốc gia, do đó, quốc gia có chủ
quyền tối cao và trọn vẹn trong việc thiết lập và thực hiện các quyền năng về chiếm
hữu, sử dụng và định đoạt các vấn đề pháp lý liên quan. Cụ thể, các quốc gia có quyền
quyết định chế độ pháp lý của vùng trời nước mình một cách độc lập cũng như quy
định trình tự, thủ tục và các điều kiện mà phương tiện bay nước ngoài sử dụng vùng
trời quốc gia phải đáp ứng, quốc gia sẽ không cho phép bất kì một loại phương tiện
giao thông nào của nước ngoài qua lại không gây hại trên lãnh thổ của mình. Mọi hành
vi qua lại của người, phương tiện giao thông nước ngoài đều xin phép, hoặc áp dụng
theo những quy định của các điều ước quốc tế đã được các quốc gia hữu quan kí kết.
Mọi hành vi tự ý bay vào không được sự cho phép của quốc gia sở tại đều là hành
vi xâm phạm vào lãnh thổ quốc gia. Như vậy, hành vi vi phạm của máy bay dân sự sẽ
không được điều chỉnh, xử lý bằng Công ước về Luật viển 1982 mà bằng luật của quốc gia A. Bài 3:
è Đối với tàu chở hàng của quốc gia B:
Vì đề bài không cho rõ dữ liệu nên nhóm chia ra các trường hợp sau:
- Nếu tàu này không có sự vi phạm các luật hay quy định của quốc gia đó về hải
quan, thuế khóa, y tế hay nhập cư trong phạm vi lãnh thổ hay lãnh hải của mình thì
quốc gia A không có quyền gì cả.
- Nếu có sự vi phạm các luật hay quy định của quốc gia đó về hải quan, thuế
khóa, y tế hay nhập cư thì tùy vào hướng đi của con tàu này mà sẽ giải quyết như sau:
· Tàu này đang đi theo hướng vào vùng lãnh hải thì quốc gia A được quyềntiến
hành các biện pháp kiểm soát cần thiết, nhằm ngăn chặn sự vi phạm.
· Tàu này đang từ vùng tiếp giáp đi ra vùng biển quốc tế và sự vi phạm này không xảy ra
trong phạm vi lãnh thổ hay lãnh hải của quốc gia A thì quốc gia A không được quyền làm gì cả.
· Tàu này đi ra vùng biển quốc tế nhưng sự vi phạn này xảy ra trong phạm vi
lãnh thổ hay lãnh hải của quốc gia A thì quốc gia A được quyền trừng trị sự vi phạm đó
đối với chiếc tàu này.
Cơ sở pháp lý: khoản 1 Điều 33 Công ước của Liên hợp quốc về Luật biển năm 1982.
è Đối với tàu hàng của quốc gia A:
Quốc gia A sẽ có đầy đủ các quyền tài phán theo quy định và pháp luật của quốc
gia A. Bởi lẽ, đây là tàu hàng của quốc gia A nên phải hoạt động và chịu sự điều chỉnh
của pháp luật do quốc gia A ban hành. Trong trường hợp việc bốc dỡ container hàng
chứa xe hơi này vi phạm các quy định về thuế hay hải quan thì quốc gia A có toàn
quyền thực hiện các quyền tài phán của quốc gia mình đối với con tàu hàng này.
è Đối với chiếc máy bay dân sự cất cánh từ vùng tiếp giáp lãnh hải:
Theo nhóm cần chia ra hai trường hợp, nếu chiếc tàu dân sự này cất cánh bay về
phía lãnh hải của quốc gia A thì quốc gia A có quyền ngăn chặn không cho phép máy
bay trên bay vào bởi lẽ máy bay là phương tiện bay và không được hưởng quyền đi
qua không gây hại dành cho tàu biển theo quy định tại Điều 17 Công ước về luật biển
1982 của Liên Hợp quốc. Còn trong trường hợp máy bay này bay ra phía biển quốc tế,
thì quốc gia A không có quyền gì đối với máy bay dân sự này. Bài 4:
1. Chế độ pháp riêng của vùng đặc quyền kinh tế:
Vùng đặc quyền kinh tế là vùng biển nằm ở phía ngoài lãnh hải và tiếp liền với
lãnh hải rộng không quá 200 hải lý kể từ đường cơ sở dùng để tính chiều rộng của lãnh
hải, và được đặt dưới chế độ pháp lý riêng theo đó các quyền chủ quyền và quyền tài
phán của quốc gia ven biển cũng như các quyền và các quyền tự do của quốc gia khác
đều do các quy định thích hợp của Công ước điều chỉnh.
Cơ sở pháp lý: Điều 55 Công ước LHQ về Luật biển 1982.
Vùng đặc quyền về kinh tế không phải là biển cả mà là một vùng đặc thù sui
generic, trong đó quốc gia ven biển thực hiện thẩm quyền riêng biệt của mình nhằm
mục đích kinh tế được Công ước của Liên Hợp Quốc về Luật biển năm 1982 quy định.
Để xác lập vùng đặc quyền về kinh tế, quốc gia ven biển cần đưa ra tuyên bố về vùng
đặc quyền về kinh tế để xác lập quyền của mình.
v Các quyền, quyền tài phán và nghĩa vụ của các quốc gia ven biển trong vùng đặc quyền kinh tế:
Theo Điều 56 Công ước của Liên hợp quốc về luật biển 1982, trong vùng đặc
quyền về kinh tế, quốc gia ven biển có:
a) Các quyền thuộc chủ quyền về thăm dò và khai thác, bảo tồn và quản lý các tài
nguyên thiên nhiên, sinh vật hoặc không sinh vật, của vùng nước bên trên đáy biển và
lòng đất dưới đáy biển, cũng như về những hoạt động khác nhằm thăm dò và khai thác
vùng này vì mục đích kinh tế, như việc sản xuất năng lượng từ nước, hải lưu và gió.
b) Quyền tài phán theo đúng những quy định thích hợp của Công ước về việc:
i. Lắp đặt và sử dụng các đảo nhân tạo, các thiết bị và công trình;
ii. Nghiên cứu khoa học về biển;
iii. Bảo vệ và gìn giữ môi trường biển;
c) Các quyền và nghĩa vụ khác do Công ước quy định.
Đồng thời, trong vùng đặc quyền kinh tế, các quốc gia khác đều được hưởng
quyền tự do hàng hải, hàng không, quyền tự do đặt dây cáp và ống dẫn ngầm cũng như
quyền tự do sử dụng biển vào các mục đích khác hợp pháp về mặt quốc tế và gắn liền
với việc thực hiện các quyền tự do này và phù hợp với các quy định khác của Công
ước (Điều 58 Công ước Liên Hợp Quốc về Luật biển 1982).
2. Giải quyết tình huống pháp lý:
a) Tàu
của nước B thực hiện việc đánh bắt hải sản trong vùng đặc quyền
kinh tế của nước A.
Trong vùng đặc quyền kinh tế của quốc gia A, tàu của quốc gia B thực hiện đánh
bắt hải sản. Vậy quốc gia A có quyền gì đối với tàu của quốc gia B hay không? Để giải
quyết tình huống này nhóm xin đặt ra 3 trường hợp sau:
Thứ nhất, trong trường hợp quốc gia A cho phép tàu của quốc gia B được khai
thác đánh bắt số lượng cá dư thông qua các điều ước hoặc các thỏa thuận khác tại Điều
62 của Công ước Liên Hợp Quốc về Luật biển 1982 và đồng thời tàu của quốc gia B
cũng đã tuân thủ các biện pháp bảo tồn và các thể thức, các điều kiện khác được đề ra
trong các luật và quy định của quốc gia A thì việc tàu quốc gia B thực hiện đánh bắt
hải sản trong vùng đặc quyền kinh tế của quốc gia A là hợp pháp. Quốc gia A có các
quyền đối với tàu đánh bắt hải sản của quốc gia B về các vấn đề được quy định tại
Khoản 4 Điều 62 Công ước LHQ về Luật biển 1982.
dụ: Vào năm 2000 giữa Chính phủ nước CHXHCN Việt Nam và Chính phủ
nước CHDCND Trung Hoa đã ký với nhau “Hiệp định hợp tác nghề cá Vịnh Bắc Bộ”.
Qua sáu vòng đàm phán cấp chuyên viên về nghề cá, qua thương lượng, hai bên đã
nhất trí hợp tác nghề cá trong vịnh Bắc Bộ bằng việc thiết lập một Vùng đánh cá
chung. Phạm vi Vùng đánh cá chung trong vịnh Bắc Bộ từ vĩ tuyến 20° Bắc xuống
đường đóng cửa Vịnh, bề rộng là 30,5 hải lý kể từ đường phân định về mỗi phía; có
tổng diện tích là 33.500 km², khoảng 27,9% diện tích Vịnh. Thời hạn của Vùng đánh
cá chung là 15 năm (12 năm chính thức và ba năm gia hạn).
Thứ hai, đối với trường hợp cả hai nước đều không thỏa thuận hay ký kết các
điều ước cho phép khai thác đánh bắt số lượng cá dư ở quốc gia A, thì lúc này việc
đánh bắt cá của tàu quốc gia B là trái phép, không hợp pháp, đã xâm phạm đến lợi ích
về quản lý khai thác tài nguyên sinh vật của quốc gia A. Do đó, quốc gia A sẽ có các
quyền tài phán xử lý hành vi vi phạm theo quy định tại Điều 73 Công ước Liên Hợp
Quốc về Luật biển 1982. Quốc gia A có quyền thi hành mọi biện pháp cần thiết, kể cả
việc khám xét, kiểm tra, bắt giữ và khởi tố tư pháp để bảo đảm việc tôn trọng các quy
định mà họ đã ban hành theo đúng Công ước. Tuy nhiên, cần lưu ý:
- Khi có sự bảo lãnh hay một bảo đảm đầy đủ khác thì cần thả ngay chiếc tàu bị
bắt và trả tự do ngay cho đoàn thủy thủ của chiếc tàu này.
- Không được áp dụng các hình phạt giam giữ cũng như các hình phạt thân thể
khác nếu không có thỏa thuận khác.
- Phải thông báo ngay cho quốc gia B biết các biện pháp cũng như các chế tài
áp dụng đối với hành vi đánh bắt cá trái phép đối với tàu của quốc gia B.
dụ: Giới chức Philippines ngày 17/5/2016 xác nhận vụ bắt giữ hai tàu cá
Trung Quốc cùng 25 ngư dân, khi các tàu giả treo cờ Philippines và đánh bắt trộm
trong vùng biển nước này.
Cảnh sát biển Philippines phối hợp với Cục Nghề cá và Nguồn lợi thủy sản
(BFAR) bắt giữ 2 tàu cá Trung Quốc ở giữa khu vực vùng biển ngoài khơi đảo
Babuyan và tỉnh Batanes, phía Bắc Philippines.
Vị trí hai tàu bị bắt gặp có hoạt động đánh bắt trái phép nằm trong vùng đặc
quyền kinh tế (EEZ) của Philippines, không phải trong vùng biển tranh chấp ở Biển Đông.
Thứ ba, dựa vào vùng có tính chất lịch sử (ngư trường đánh bắt truyền thống).
Nếu tàu của quốc gia B đánh bắt cá trong vùng đặc quyền kinh tế của quốc gia A
nhưng đây lại là vùng có tính chất lịch sử của quốc gia B và quốc gia B đã có căn cứ
chứng minh về vùng nước này thì việc đánh bắt cá của tàu trong trường hợp này là hợp
pháp. Bởi lẽ đây là vùng mà ngư dân quốc gia B đã khai thác, sử dụng lâu đời được
cộng đồng quốc tế thừa nhận và đồng thời đây là vùng nước mang lại nguồn cung cấp
kinh tế rất lớn, chủ yếu cho quốc gia B nên tàu của quốc gia B có quyền đánh bắt cá
trên vùng có tính chất lịch sử của quốc gia mình hay còn gọi là ngư trường đánh bắt truyền thống.
dụ: Indonesia vốn không phải một bên trong cuộc tranh chấp trên biển Đông,
nhưng nước này đã bị kéo vào cuộc, sau khi Bắc Kinh tuyên bố vùng đặc quyền kinh
tế gần quần đảo Natuna của Indonesia là một phần trong “ngư trường đánh cá truyền
thống” của Trung Quốc và tàu cá Trung Quốc được tự do đánh bắt trong khu vực này.
Tất nhiên, Indonesia không xem vùng đặc quyền kinh tế của mình là “ngư trường
truyền thống” của Trung Quốc, luận điệu mà Bắc Kinh thường xuyên lặp lại. Thay vào
đó, Jakarta coi hoạt động đánh cá của các nước khác ở khu vực này là trộm cắp.
Bộ trưởng Các vấn đề hàng hải và ngư nghiệp Indonesia đã phát biểu: “Chúng tôi
không biết về điều này (như Trung Quốc tuyên bố), chúng tôi không công nhận bất kỳ
tuyên bố chủ quyền của bên nào về ngư trường bên trong vùng đặc quyền kinh tế của
Indonesia; ngoại trừ một vùng mà chúng tôi đã ký thỏa thuận với Malaysia ở Eo Malacca”.
b) Quốc gia B cho máy bay hạ cánh xuống tàu.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 58 Công ước Liên hợp quốc về Luật biển
(CƯLB 1982), trong vùng đặc quyền kinh tế, tất cả các quốc gia, dù là quốc gia đó có
biển hay không có biển thuộc trong những điều kiện, những quy định thích hợp của
Công ước đã trù định, được hưởng các quyền tự do hàng hải và hàng không,… nêu ở
Điều 87 của Công ước này.
Đối với hành động cho máy bay hạ cánh xuống tàu của quốc gia B đang ở trong
vùng đặc quyền kinh tế của quốc gia A thì theo quy định của CƯLB 1982 đã trình bày
ở trên, có thể thấy tàu thuyền, máy bay của quốc gia B có quyền được tự do hàng hải
và tự do hàng không trong vùng đặc quyền kinh tế của quốc gia A. Tuy nhiên, với dữ
kiện đề đưa ra ta có thể chia thành 2 trường hợp và tùy từng trường hợp cụ thể mà
quốc gia A có quyền đối với tàu và máy bay của quốc gia B khác nhau:
Thứ nhất, theo quy định của khoản 2 Điều 58 CƯLB 1982 nếu quốc gia B thực
hiện quyền tự do hàng hải, hàng không, quyền tự do sử dụng biển thông qua hành
động cho hạ cánh máy bay xuống tàu nhằm những mục đích khác nhau nhưng đảm
bảo tính hợp pháp về mặt quốc tế gắn liền với việc thực hiện các quyền tự do hàng hải,
hàng không của mình trong vùng đặc quyền kinh tế của quốc gia A. Mục đích cho hạ
cánh máy bay phải nhằm thực hiện hoạt động thích hợp với các quy tắc, pháp luật
quốc tế qui định được áp dụng ở vùng đặc quyền kinh tế, thực hiện hoạt động tự do
nhưng trong chừng mực, khuôn khổ cho phép và không mâu thuẫn với phần V của
Công ước, phù hợp với các quy định khác của CƯLB 1982, thì máy bay của quốc gia
B có quyền tự do hạ cánh xuống tàu của quốc gia mình khi ở trong vùng đặc quyền
kinh tế của quốc gia A. Do đó, trong trường hợp này quốc gia A không có quyền đối
với hoạt động của tàu và máy bay nói trên.
Thứ hai, tàu thuyền, máy bay của quốc gia B có quyền tự do hàng hải và tự do
hàng không trong vùng đặc quyền kinh tế của quốc gia A nhưng tàu thuyền, máy bay
của họ thực hiện các hoạt động gắn liền với các quyền này bằng việc cho máy bay hạ
cánh xuống tàu nhằm mục đích thực hiện những hoạt động nằm ngoài khuôn khổ được
khai thác theo quy định, không phù hợp, vượt quá giới hạn hay mâu thuẫn với phần V
cũng như các quy định khác của CƯLB 1982 hoặc vi phạm các qui định pháp luật của
quốc gia A đã ban hành theo đúng các quy định của Công ước và không mâu thuẫn với
các quy tắc khác của pháp luật quốc tế thì theo khoản 3 Điều 53 CƯLB 1982, quốc gia
A có quyền áp dụng pháp luật quốc gia của mình đã ban hành cụ thể, điều chỉnh các
hoạt động mà tàu, máy bay nói trên vi phạm (nếu có). Ngoài ra, quốc gia A còn có
quyền dùng các quy tắc khác của pháp luật quốc tế để xử lý đối với hành vi vi phạm
của tàu và máy bay của quốc gia B đã thực hiện.
dụ: Malaysia bị sốc trước hai đợt tập trận trong vòng chưa đầy một năm của
hải quân Trung Quốc gần bãi cạn James nằm trong vùng đặc quyền kinh tế của mình.
Bắc Kinh xem bãi cạn James là phần lãnh thổ cực Nam của nước này. Tháng 3/2013,
Malaysia từng phản đối 4 tàu Trung Quốc xâm nhập James. Các thủy thủ Trung Quốc
đã bắn chỉ thiên khi ghé vào bãi cạn này. Sau đó, tháng 4/2013, 1 tàu hải giám Trung
Quốc quay lại bãi cạn James và đặt ở đó những cột bằng thép đánh dấu chủ quyền.
Quan chức ngoại giao của Malaysia cho biết, vụ việc hải quân Trung Quốc tập
trận gần bãi cạn James khiến Malaysia quyết định thúc đẩy hợp tác với các quốc gia
khác trong ASEAN, nhằm khiến Trung Quốc phải tuân thủ quy tắc ứng xử trên biển
Đông. Những tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc trên biển Đông cũng có thể đẩy
Malaysia xích lại gần Mỹ hơn. Trước đó, Malaysia thường hạ nhiệt các lo ngại về an
ninh nhằm theo đuổi quan hệ kinh tế thân thiết hơn với đối tác thương mại lớn, nhất là Trung Quốc. Bài 5:
Giả sử quốc gia A có biển sâu. Vì vậy, quốc gia A chỉ áp dụng đường cơ sở để
xác định chiều rông của thềm lục địa trong trường hợp bờ ngoài của rìa lục địa vượt
quá 200 hải lý tính từ đường cơ sở (không áp dụng đường đẳng sâu 2.500m để xác
định chiều rông của thềm lục địa).
Quốc gia A sẽ có quyền khai thác dầu khí trong khu vực cách đường cơ sở dùng
để tính chiều rông của lãnh hải 280 hải lý trong hai (02) trường hợp sau:
(1) Trường hợp 1: Bờ ngoài của rìa lục địa quốc gia A nhỏ hơn 280 hải
kể từ đường sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải.
- Trong trường hợp này, khu vực cách đường cơ sở dùng để tính chiều rông của
lãnh hải 280 hải lý này sẽ nằm bên ngoài thềm lục địa của quốc gia A và thuôc ̣ phần
Biển quốc tế và Vùng (Đáy đại dương). Theo khoản 1 Điều 1 Công ước của Liên Hiêp ̣
Quốc về Luât ̣biển 1982 thì “vùng (zone) là toàn bô ̣đáy biển và lòng đất dưới đáy biển
nằm bên ngoài giới hạn quyền tài phán của quốc gia”. Như vây ̣ , viêc ̣ quốc gia A tiến
hành viêc ̣ khai thác dầu khí tại khu vực 280 hải lý tức là quốc gia A đang tiến hành
khai thác dầu khí tại phần Vùng (Đáy đại dương). Mà căn cứ theo quy định tại Điều
136 và khoản 1 Điều 137 Công ước của Liên Hiêp̣ Quốc về Luât ̣ biển 1982 thì vùng
(đáy đại dương) và tài nguyên của nó là di sản chung của nhân loại và không một quốc
gia nào có quyền đòi hỏi chủ quyền hay các quyền chủ quyền ở đáy biển quốc tế, kể cả tài nguyên ở đó.
è Vây ̣ nên quốc gia A không có quyền khai thác dầu khí tại khu vực này như môt ̣
quyền thuôc ̣ quyền chủ quyền của mình.
è Tuy nhiên, quốc gia A vẫn có thể tiến hành khai thác dầu khí tại khu vực này
nhưng không được thực hiêṇ môt ̣ cách tự do mà phải được tổ chức môt ̣ cách có hiêụ
quả; phải tuân theo pháp luât,̣ tâp̣ quán quốc tế và phải đăt ̣ dưới sự điều hành, kiểm
soát của Cơ quan quyền lực quốc tế về đáy biển (khoản 2 Điều 1 Công ước của Liên
Hợp Quốc về Luât ̣biển 1982). Đây là môt ̣ tổ chức quốc tế liên chính phủ, được thành
lâp ̣ theo phần XI của Công ước của Liên Hợp Quốc về Luật Biển 1982, nhằm mục
đích bảo đảm viêc ̣ phân chia công bằng, trên cơ sở không phân biêt ̣ đối xử những lợi
ích tài chính và những lợi ích kinh tế khác do những hoạt đông tiến hành trong Vùng
thông qua bô ̣máy của mình. Cơ quan quyền lực quốc tế về đáy biển có quyền tự quyết
định khai thác hoăc ̣ cho các nước khai thác theo điều kiêṇ do cơ quan đó quyết định.
· Nghi ̃a vụ của quốc gia A trong trường hợp này:
- Trước hết, vùng phải được sử dụng nhằm mục đích hoà bình và an ninh quốc
tế, vì lợi ích thúc đẩy sự hợp tác quốc tế.
- Bên cạnh đó, hoạt đông khai thác dầu khí của quốc gia A ở vùng phải được
tiến hành vì mục đích:
+ Phục vụ toàn thể loài người (Điều 140 Công ước của Liên Hợp Quốc về Luât ̣ biển 1982);
+ Mang lại lợi ích cho tất cả các quốc gia trên thế giới, không phân biêt ̣vị trí địa
lý, nước có biển hay không có biển (Điều 141 Công ước của Liên Hợp Quốc về Luât ̣ biển 1982);
+ Đăc̣ biêt ̣ chú ý đến nhu cầu của các nước đang phát triển (Điều 148 Công ước
của Liên Hợp Quốc về Luât ̣biển 1982).
- Quốc gia A phải tôn trọng đầy đủ các quyền lợi chính đáng của quốc gia ven
biển (Điều 142 Công ước của Liên Hợp Quốc về Luât ̣ biển 1982).
- Các hiên ̣ vât ̣có tính chất cổ và lịch sử tìm thấy trong vùng sẽ được bảo tồn và
định đoạt vì lợi ích của toàn thể loài người (Điều 149 Công ước của Liên Hợp Quốc về Luât ̣biển 1982).
- Quốc gia A phải tuân thủ các quy định tại Mục 3, Phần IX Công ước của Liên
Hợp Quốc về Luât ̣ biển 1982 về khai thác các tài nguyên của vùng.
(2) Trường hợp 2: Bờ ngoài của rìa lục địa quốc gia A lớn hơn hoặc bằng 280
hải kể từ đường cở sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải.
- Trong trường hợp này, vùng thềm lục địa pháp lý của quốc gia A có thể sẽ nằm
trong phạm vi 280 hải lý đến tối đa 350 hải lý kể từ đường cơ sở dùng để tính chiều
rông lãnh hải (Điều 76 Công ước của Liên Hiêp̣ Quốc về Luât ̣ biển 1982). Như vây ̣ ,
viêc ̣ quốc gia A tiến hành khai thác dầu khí trong khu vực cách đường cơ sở dùng để
tính chiều rông của lãnh hải 280 hải lý này được thực hiên ̣ trong khu vực thềm lục địa của quốc gia A.
è Do đó, quốc gia A có quyền khai thác dầu khí trong khu vực này bởi vì quốc
gia ven biển được thực hiện các quyền chủ quyền đối với thềm lục địa của mình về
mặt thăm dò và khai thác tài nguyên thiên nhiên (khoáng sản, tài nguyên không sinh
vật như dầu khí, các tài nguyên sinh vật như cá, tôm…) của mình. Vì đây là đặc quyền
của quốc gia A nên không ai có quyền tiến hành các hoạt động như vậy nếu không có
sự thỏa thuận với quốc gia A. Nghĩa là chỉ quốc gia A mới có quyền cho phép và quy
định việc khoan ở thềm lục địa bất kỳ vào mục đích gì. Tuy nhiên, quốc gia A khi thực
hiện quyền đối với thềm lục địa của mình không được đụng chạm đến chế độ pháp lý
của vùng nước phía trên, không được gây thiệt hại đến hàng hải hay các quyền tự do của các quốc gia khác.
- Cơ sở pháp lý: Điều 77 Công ước của Liên Hiệp Quốc về Luật biển 1982.
· Nghi ̃a vụ của quốc gia A trong trường hợp này:
- Thông báo những thông tin về ranh giới các thềm lục địa của mình khi thềm
lục địa mở rộng quá 200 hải lý tính từ đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải
cho Ủy ban ranh giới thềm lục địa (Khoản 8 Điều 76 Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật biển 1982);
- Gửi cho Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc các tài liệu cần thiết để chỉ rõ một cách
thường xuyên thềm lục địa của mình (Khoản 9 Điều 76 Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật biển 1982);
- Không cản trở chế độ pháp lý của vùng nước phía trên và vùng trời phía trong
vùng nước đó (Điều 78 Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật biển 1982);
- Không cản trở quốc gia khác đặt dây cáp ngầm và ống dẫn ngầm trên thềm lục
địa (Điều 79 Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật biển 1982);
- Do quốc gia A tiến hành khai thác thềm lục địa ngoài 200 hải lý kể từ đường
cơ sở nên A phải nộp một khoản đóng góp bằng tiền hay hiện vật về việc khai thác tài
nguyên thiên nhiên không sinh vật (Điều 82 Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật biển 1982). Bài 6:
Tàu quân sự của quốc gia B đi qua lãnh hải (không vào nội thủy) của quốc gia
A. Việc chỉ trình bày việc đi qua (passage) theo điểm a khoản 1 Điều 18 UNCLOS
1982, chưa thể xác định được cơ chế pháp lý được áp dụng với tàu quân sự của quốc
gia B này khi xâm nhập lãnh hải của quốc gia ven biển, do đó để giải quyết cần thiết
việc chia trường hợp là đi qua không gây hại hay đi qua gây qua gây hai.
Trường hợp 1: đi qua không gây hại.
A. Tàu quân sự của nước a được phép đi qua lãnh hải mà không cần xin phép vì
đây là quyền được đi qua không gây hại mà bất kỳ tàu biển nào cũng được hưởng theo
Điều 17 UNCLOS 1982, quốc gia ven biển có trách nhiệm tạo điều kiện cho tàu biển
được thực hiện quyền này theo khoản 1 Điều 24 Công ước này. Tuy nhiên, Tàu quân
sự nước B phải thông báo cho A và phải tuân thủ các luật và quy định của Luật biển.
B. Theo nhóm, việc tàu quân sự của quốc gia B đi qua lãnh hải của quốc gia A
cần phải thông báo trước cho quốc gia A và phải tuân theo nguyên tắc đi qua không
gây hại trong lãnh hải theo tiểu mục A, Mục 3 Công ước Viên Luật biển 1982.
Tuy không có quy định cụ thể nào trong Công ước viên của Liên Hợp Quốc về
Luật biển 1982 quy định về việc tàu quân sự nước ngoài phải thông báo trước cho
quốc gia ven biển được biết về việc tàu quân sự nước ngoài đi vào lãnh hải của quốc
gia mình. Nhưng xét thấy các quy định trong Công ước đã gợi mở cho các quốc gia
ven biển có quyền thiết lập các biện pháp cần thiết nhằm ngăn cản mọi việc đi qua có
gây hại, được biểu đạt qua các lập luận sau:
(i) Theo Điều 19 (Nghĩa của thuật ngữ đi qua không gây hại) và Điều 25 (Quyền
bảo vệ của quốc gia ven biển), Quốc gia ven biển có quyền thi hành các biện pháp cần
thiết để bảo vệ lợi ích an ninh quốc gia, điều này sẽ bao gồm cả việc yêu cầu tàu quân
sự nước ngoài phải tiến hành thông báo trước khi vào lãnh hải của quốc gia đó. Khoản
1 Điều 25 quy định rằng quốc gia ven biển có thể thi hành các biện pháp cần thiết
trong lãnh hải của mình để ngăn cản mọi việc đi qua gây hại. Khoản 3 Điều 25 cho
phép quốc gia ven biển đình chỉ thực hiện việc đi qua không gây hại của tàu thuyền
nước ngoài tại các khu vực nhất định trong lãnh hải của mình, nếu biện pháp này là
cần thiết để bảo đảm an ninh.
(ii) Các quy định tại Điều 30 Công ước Luật biển 1982 liên quan đến việc tàu
chiến không tuân thủ các luật và quy định của quốc gia ven biển khi đi qua lãnh hải,
cho phép quốc gia ven biển được xây dựng các luật lệ về lãnh hải. Do đó, các quốc gia
này có thể đưa ra những quy định bắt buộc tàu quân sự phải xin phép hoặc thông báo
trước khi vào lãnh hải trong luật lệ của mình.
(iii) Hơn nữa, Lãnh hải luôn là một phần lãnh thổ của quốc gia ven biển và thuộc
chủ quyền của quốc gia. Vì vậy, theo nguyên tắc bảo đảm sự toàn vẹn lãnh thổ và bảo
vệ chủ quyền, an ninh quốc gia, quốc gia ven biển được phép áp dụng các quy định trên.
C. Dựa vào khoản 2 Điều 12 Luât ̣ Biển Viêt ̣ Nam 2012 quy định: “Đối với tàu
quân sự nước ngoài khi thực hiện quyền đi qua không gây hại trong lãnh hải Việt Nam,
thông báo trước cho cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam”. Chính vì thế khi tàu quân
sự nước B đi qua lãnh hải của Việt Nam phải có nghĩa vụ thông báo cho cơ quan quản
lý nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam.
Nhìn nhận quy định phải thông báo đối với hành vi đi qua không gây hại của tàu
quân sự dưới lăng kính của luật quốc tế, thì nhiều người có thể đánh giá rằng quy định
này vi phạm nguyên tắc tận tâm thực hiện các điều ước quốc tế đã ký kết, bởi theo quy
định tại Điều 17 đây là quyền của tất cả các tàu thuyền, hơn nữa không có một quy chế
cụ thể nào trong Công ước ràng buộc để quốc gia ven biển có thể hạn chế quyền đi qua
không gây hại như yêu cầu phải xin phép, thông báo. Tuy nhiên nhóm cho rằng đánh
giá như trên là không thuyết phục, và quy định của Điều 12 Luật biển Việt Nam hợp
lý, tuân thủ Công ước:
Một, lãnh hải là một phần lãnh thổ của quốc gia ven biển và thuộc chủ quyền của
quốc gia. Vì vậy, theo nguyên tắc bảo đảm sự toàn vẹn lãnh thổ và bảo vệ chủ quyền,
an ninh quốc gia, quốc gia ven biển được phép áp dụng.
Hai là, tại khoản 1 Điều 19 Công ước quy định “không làm phương hại đến hòa
bình trật tự và an ninh của quốc gia viên biển”. Việc tàu quân sự đi qua lãnh thổ một
quốc gia dù ít hay nhiều cũng hàm chứa những rủi ro nhất định, nên việc yêu cầu
thông báo, như là một sự chuẩn bị sự phòng vệ của quốc gia quen biển,
Ba là, pháp luật Việt Nam chỉ quy định là phải “thông báo”, việc thông báo này
không hạn chế quyền đi qua không gây hại, mà nó gần giống như một thủ tục báo
trước đối với Việt Nam.
Bốn, các quy định tại Điều 30 Công ước Luật biển 1982 liên quan đến việc tàu
chiến không tuân thủ các luật và quy định của quốc gia ven biển khi đi qua lãnh hải,
cho phép quốc gia ven biển được xây dựng các luật lệ về lãnh hải. Do đó, các quốc gia
này có thể đưa ra những quy định bắt buộc tàu quân sự phải xin phép hoặc thông báo
trước khi vào lãnh hải trong luật lệ của mình.
Cuối cùng, quy định này không chỉ được Việt Nam áp dụng, mà nó còn được cái
nước áp dụng một cách rộng rãi, và dần trở thành một “nguyên tắc” trong quy chế đi
qua không gây hại của tàu quân sự trong lãnh hải quốc gia. Điển hình như đối với một
số các quốc gia như Croatia, Egypt, Finland, Guyana, India, South Korea, Libya,
Malta, Mauritius, và Serbia phải tiến hành thủ tục thông báo trước.
Trường hợp hai: đi qua gây hại.
Đây là trường hợp tàu quân sự quốc gia B mặc dù đi qua lãnh hải không vào nội
thủy, đi liên tục hành chóng nhưng có một hoặc một số hoạt động quy định tại khoản 2 điều 19 UNCLOS.
a. Tàu quân sự này bắt buộc phải xin phép quốc gia ven biển, trừ trường hợp
quốc gia có tàu quân sự và quốc gia ven biển có thỏa thuận khác, bởi đây là lãnh thổ
của quốc gia ven biển, quốc gia ven biển có chủ quyền hoàn toàn và đầy đủ. Tàu quân
sự có những hoạt động gây hại không được hưởng các quyền được quy định tại Điều
17. Phải xin phép và tuân thủ các quy định pháp luật của quốc gia ven biển, chịu một
số hạn chế nhất định. Mặc khác theo quy định tại khoản 1 Điều 25 UNCLOS “quốc gia
ven biển có thể thi hành các biện pháp cần thiết trong lãnh hải của mình để ngăn chặn
mọi việc đi qua có hại”. Đối với các trường hợp đi qua gây hại, thì thường các quốc
gia quen biển sẽ không cho phép hành vi này diễn ra trên lãnh hải quốc gia mình.
b. Trong Công ước không có quy định cụ thể về việc thông báo, tuy nhiên có thể
căn cứ theo điều 25, quốc gia ven biển có thể yêu cầu tàu quân sự đi qua gây hại có thể
thông báo hoặc không thông báo, tuy nhiên trước đó vẫn phải thực hiện nghĩa vụ xin
phép, trừ trường hợp hai quốc gia có thỏa thuận khác.
c. Trước hết là pháp luật Việt Nam không có quy định trực tiếp về giải quyết việc
đi qua gây hại. Tuy nhiên, căn cứ vào Luật biển Việt Nam quy “Nhà nước thực hiện
chủ quyền đầy đủ và toàn vẹn đối với lãnh hải”. Nên đối với tàu quân sự phải được sự
cho phép của Việt Nam mới được đi qua lãnh hải, và có thể áp dụng các quy định về
chế độ pháp lý về biên giới quốc gia trong trường hợp này.
Dưới góc độ luật quốc tế đây là một quy định hợp lý được thừa nhận chung, đảm
bảo được các nguyên tắc cơ bản trong công pháp quốc tế, tuân thủ các quy định trong UNCLOS 1982.
Bài 7: Tàu đánh của quốc gia B đánh trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam.
a/ Tàu đánh của quốc gia B quyền này không?
Chế độ pháp lý riêng của vùng đặc quyền kinh tế được quy định cụ thể tại phần V
của Công ước của Liên Hợp Quốc về Luật biển 1982 (UNCLOS), bao gồm các quyền
chủ quyền và quyền tài phán của quốc gia ven biển, các quyền tự do của các quốc gia khác.
Điều 56 UNCLOS quy định quốc gia ven biển (trường hợp này là Việt Nam) có
quyền khai thác các tài nguyên thiên nhiên sinh vật trong vùng đặc quyền kinh tế của
mình. Theo mục 3 Tuyên bố của Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
về lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt
Nam ngày 12/5/1997 (sau đây gọi tắt là Tuyên bố ngày 12/5/1997): “Nước Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam có chủ quyền hoàn toàn về việc thăm dò, khai thác, bảo vệ
và quản lý tất cả các tài nguyên thiên nhiên, sinh vật và không sinh vật ở vùng nước, ở
đáy biển và trong lòng đất dưới đáy biển của vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam; có
quyền và thẩm quyền riêng biệt về các hoạt động khác phục vụ cho việc thăm dò và
khai thác vùng đặc quyền kinh tế nhằm mục đích kinh tế;…” và tại điểm a khoản 1
Điều 16 Luật Biển Việt Nam 2012 nhấn mạnh: “Trong vùng đặc quyền kinh tế, Nhà
nước thực hiện: a) Quyền chủ quyền về việc thăm dò, khai thác, quản lý và bảo tồn tài
nguyên thiên nhiên thuộc vùng nước bên trên đáy biển, đáy biển và lòng đất dưới đáy
biển;…”. Như vậy, việc đánh bắt cá trong vùng đặc quyền kinh tế thuộc quyền chủ
quyền của quốc gia ven biển (Việt Nam), mọi hành vi tùy tiện đánh bắt cá của các
quốc gia khác trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam là vi phạm Công ước UNCLOS.
Tuy nhiên, tàu đánh cá nước B có thể được quyền khai thác cá trong vùng đặc
quyền kinh tế của Việt Nam nếu:
- B là quốc gia đang phát triển không có biển hoặc bất lợi về mặt địa lý hoặc các
quốc gia đang phát triển khác trong cùng khu vực hoặc phân khu vực với Việt Nam;
- Nước B được Việt Nam cho phép hoạt động khai thác số dư khối lượng cá ở
vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam thông qua việc ký kết các điều ước quốc tế và
tàu thuyền đánh cá nước B được Việt Nam cấp giấy phép đánh bắt;
- Tàu đánh cá nước B thực hiện việc đánh bắt tuân thủ theo pháp luật và các quy
định của Việt Nam đưa ra.
(CSPL: khoản 2,3,4 Điều 62; Điều 69 và Điều 70 UNCLOS).
b/ Việt Nam cho phép các quốc gia khác được khai thác số của khối
lượng cho phép đánh bắt trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam không?
sở pháp lý?
Theo quy định tại khoản 2,3 Điều 62 UNCLOS, đối với các tài nguyên sinh vật
trong vùng đặc quyền kinh tế, quốc gia ven biển tự định ra tổng khối lượng có thể
đánh bắt được, tự đánh giá khả năng thực tế của mình trong việc khai thác các tài
nguyên sinh vật biển và ấn định số dư của khối lượng cho phép đánh bắt. Nếu số dư
này tồn tại thì quốc gia ven biển được quyền cho phép các quốc gia khác, thông qua
các điều ước hoặc những thoả thuận liên quan, khai thác số dư của khối lượng cho
phép đánh bắt này, có ưu tiên cho các quốc gia không có biển hoặc các quốc gia bất lợi về mặt địa lý.
Như vậy, Việt Nam được quyền cho phép các quốc gia khác khai thác số dư khối
lượng cho phép đánh bắt trong vùng đặc quyền kinh tế của mình và trên thực tế Việt
Nam và Trung Quốc đã ký kết Hiệp định phân định vịnh Bắc Bộ và hợp tác nghề cá
giữa Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Cộng hòa nhân dân Trung Hoa ngày
26/12/2000, trong đó Điều 3.1 quy định hai bên ký kết nhất trí thành lập vùng đánh cá
chung trong vùng đặc quyền kinh tế của mỗi nước và theo tinh thần Điều 6 của Hiệp
định này thì sản lượng được phép đánh bắt trong vùng đánh cá chung là sản lượng
tổng được phép đánh bắt của cả hai nước cho nên nếu như trong trường hợp các tàu
đánh cá của Việt Nam khai thác không hết khối lượng cho phép đánh bắt của mình thì
tàu đánh cá của Trung Quốc được quyền khai thác số dư này nhưng vẫn phải trong
phạm vi sản lượng chung được phép đánh bắt trong vùng đánh cá chung, mà vùng này
được thành lập trong vùng đặc quyền kinh tế của 2 nước Việt Nam và Trung Quốc.
Ngoài ra, Việt Nam còn cho Lào là quốc gia đang phát triển không có biển khai thác số
cá dư trong vùng đặc quyền kinh tế của mình theo thỏa thuận giữa hai bên.
c/ Các quan thẩm quyền nào của Việt Nam được thực hiện quyền truy
đuổi? Kết quả của hành vi truy đuổi gì?
Theo quy định của UNCLOS tại khoản 5 Điều 111 UNCLOS: “Quyền truy đuổi
chỉ có thể được thực hiện bởi các tàu quân sự hay các phương tiện quân sự hoặc các
tàu hay phương tiện nay khác có mang các dấu hiệu ở bên ngoài chỉ rõ ràng rằng, các
tàu hay phương tiện bay đó được sử dụng cho một cơ quan Nhà nước và được phép
làm nhiệm vụ này”. Dựa trên quy định của UNCLOS về các phương tiện được thực
hiện quyền truy đuổi, pháp luật Việt Nam quy định cụ thể các cơ quan trong nước có
thẩm quyền thực hiện quyền truy đuổi tại khoản1 Điều 41 Luật Biển Việt Nam 2012,
đó là: “Lực lượng tuần tra, kiểm soát trên biển có quyền truy đuổi tàu thuyền nước
ngoài…” và theo Điều 47 Luật Biển Việt Nam thì lực lượng tuần tra, kiểm soát trên
biển bao gồm: các lực lượng có thẩm quyền thuộc Quân đội nhân dân, Công an nhân
dân, các lực lượng tuần tra, kiểm soát chuyên ngành khác; và các lực lượng dân quân
tự vệ của các tỉnh, thành phố ven biển trực thuộc trung ương, lực lượng bảo vệ của cơ
quan, tổ chức đóng ven biển các lực lượng khác cũng có trách nhiệm tham gia tuần tra,
kiểm soát biển khi được cơ quan có thẩm quyền huy động.
Kết quả của hành vi truy đuổi là:
- Nếu tàu bị truy đuổi dừng lại trong các vùng biển của quốc gia ven biển hoặc
biển quốc tế thì lực lượng tuần tra, kiểm soát trên biển có thể áp dụng các biện pháp
ngăn chặn quy định tại Điều 51 Luật biển Việt Nam 2012: bắt, tạm giữ, tạm giam các
cá nhân có hành vi vi phạm pháp luật; tạm giữ tàu thuyền sử dụng thực hiện hành vi vi
phạm pháp luật; có thể ra quyết định xử lý vi phạm tại chỗ tùy theo tích chất và mức
độ vi phạm hoặc dẫn giải người, tàu thuyền vi phạm vào bờ hoặc yêu cầu cơ quan hữu
quan của quốc gia mà tàu mang cờ, quốc gia nơi tàu đó đến để xử lý vi phạm (Điều 50
Luật biển Việt Nam 2012).
- Nếu tàu bị truy đuổi đi vào lãnh hải của quốc gia mà nó thuộc quyền hay của
một quốc gia khác thì quyền truy đuổi của quốc gia ven biển chấm dứt (khoản 3 Điều
111 UNCLOS, khoản 3 Điều 41 Luật biển Việt Nam 2012).
Những hành động này của cơ quan có thẩm quyền nhà nước là nhằm mục đích
ngăn chặn các thiệt hại xấu xảy ra và trừng phạt kịp thời những đối tượng có hành vi
vi phạm pháp luật đối với quốc gia ven biển. Bài 8:
Câu 1: Trung Quốc là quốc gia thành viên của Công ước của Liên Hiệp quốc về
luật Biển 1982. Do đó, việc Trung Quốc mở rộng vùng biển thuộc chủ quyền và quyền
chủ quyền phải phù hợp với mục tiêu và các nguyên tắc của Liên Hiệp Quốc đã được nêu trong Hiến chương.
Theo như nhóm tìm hiểu: Đường chín đoạn là tên gọi dùng để chỉ đường quốc
giới hải vực biển Đông mà Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa chủ trương và đơn phương
tuyên bố chủ quyền năm 2009 và gửi lên Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc vào ngày 7
tháng 5 năm 2009. Đến tháng 6/2014, Trung Quốc chính thức đưa ra tuyên bố yêu sách
10 đoạn. Trung Quốc dựa vào các cơ sở như sau:
· Thứ nhất, "Đường mười một đoạn" trong phụ lục "Bản đồ vị trí các đảo Nam
Hải"( xuất hiện công khai lần đầu tiên vào tháng 2 năm 1948) của "Bản đồ khu vực
hành chính Trung Hoa Dân Quốc" do Cục Phương vực Bộ Nội chính Trung Hoa Dân Quốc phát hành.
· Thứ hai, Trung Quốc đã cho rằng mình xuất bản bản đồ có thể hiện "đường
lưỡi bò" trong một thời gian dài nhưng không có bất cứ một quốc gia nào phản đối hay
cuộc đàm phán song phương và đa phương nào về vùng biển mà Trung Quốc đã được in trên bản đồ.
Tuy nhiên, đường này xuất hiện do thời điểm đó Trung Hoa Dân quốc không có
khả năng đo lường các hòn đảo để xác định mọi địa hình tạo đường phân định cho khu
vực hành chính xung quanh vì thế họ vẽ ra đường chạy qua điểm giữa các hòn đảo và
vùng đất lân bang để chỉ ra rằng các đảo nằm bên trong đường vẽ ra là lãnh thổ Trung
Hoa. Đường này chạy qua điểm trung tuyến giữa các điểm nhô ra nhất của các hòn đảo
và địa hình của đất liền xung quanh. Không hề có các tọa độ địa lý cụ thể được nêu ra
và những bản đồ mỗi thời in đường chín đoạn này lại khác nhau. Đến năm 1953 thì bỏ
hai đoạn trong vịnh Bắc Bộ, trở thành "đường chín đoạn". Thực tế lịch sử cho thấy, cả
Chính phủ Trung Hoa Dân quốc lẫn Chính phủ Cộng Hòa Nhân dân Trung Hoa chưa
bao giờ đưa ra lời tuyên bố hoặc giải thích chính thức gì về "đường lưỡi bò" đó. Năm
1993, chính phủ Đài Loan công bố Nam Hải Chính sách Cương lĩnh cho rằng Đường
chín đoạn phân định ra vùng nước lịch sử. Nhưng đễn năm 2003 Tổng thống Đài
Loan Trần Thủy Biển đã bác bỏ chính sách này.
Theo quan điểm của nhóm:
Về mặt lịch sử, đường lưỡi bò mà Trung Quốc gửi lên Liên Hiệp Quốc nhằm hợp
pháp hóa vùng biển thuộc chủ quyền và quyền chủ quyền nằm bên trong đường lưỡi
bò đã không có giá trị. Vì về mặt lịch sử, đường này được tuyên không mang danh của
nước Công hòa nhân dân Trung Hoa mà thực chất chỉ là tuyên bố của một cá nhân. Do
vậy, vùng biển nằm bên trong đường lưỡi bò mà Trung Quốc tuyên bố không có
“quyền lịch sử” với các vùng biển ở Biển Đông.
Về mặt pháp lí, đường lưỡi bò không phù hợp với cách tính của Công ước Liên
Hiệp Quốc về Luật Biển 1982 mà Trung Quốc là thành viên, cụ thể là không rõ ràng
về vùng biển thuộc chủ quyền và quyền chủ quyền nằm trong đường lưỡi bò. Bản đồ
này chứa một số lỗi như sau: Tỉ lệ xích thì đúng nhưng thước tỉ lệ thì vẽ sai: 1 km
được thể hiện bằng 635 mét. Như vậy nếu dùng thước tỷ lệ này vào việc đo 200 hải lý
(370 km) trên bản đồ, chỉ bằng 127 hải lý (235 km) trên thực địa. Hơn nữa, áp thước tỷ
lệ này trên các bản đồ của Mỹ thì hóa ra 1 km chỉ có 630 m. Trong khi đó theo
UNCLOS quy định: 1 hải lí thì bằng 1852m trên thực địa. Như vậy việc Trung Quốc
đơn phương tuyên bố đường chính đoạn đã vi phạm: Điều 8 – UNCLOS quy định về
nội thủy, Điều 3 và 4 – UNCLOS quy định về lãnh hải, Điều 33 – UNCLOS quy định
về vùng tiếp giáp lãnh hải, Điều 55 - UNCLOS, vùng đặc quyền kinh tế, Điều 76 -
UNCLOS, thềm lục địa của một quốc gia ven biển.
Khái niệm “vịnh lịch sử” hay “vùng nước lịch sử” mà ở đó một quốc gia thực
hiện quyền lực thuộc chủ quyền của mình đã được luật pháp quốc tế chấp nhận trong
một số hoàn cảnh hạn chế. Điều 10 của UNCLOS thừa nhận sự tồn tại của một vùng
nước như vậy, và một số các vịnh biển mà không đáp ứng được các tiêu chuẩn chính
thức của một “vịnh” theo Điều 10 đã được trao cho quy chế này theo thời gian.
Khái niệm về yêu sách lịch sử được chấp nhận vào năm 1951 bởi Tòa án quốc tế
(ICJ) khi phán xét về yêu sách của Na uy về vùng nước nằm tiếp liền bờ biển của nước này.
Theo đó thì một vịnh hay một vùng nước được coi là lịch sử, căn cứ theo tập
quán quốc tế và các phán quyết của tòa án phải thỏa mãn ít nhất là hai điều kiện sau: 1)
Quốc gia ven biển thực thi chủ quyền của mình đối với vùng được yêu sách; 2) Sự liên
tục của việc thực thi quyền lực đó theo thời gian; 3) Quan điểm của các quốc gia khác
với yêu sách đó. Ngoài ra, một quốc gia yêu sách danh nghĩa lịch sử phải có trách
nhiệm đưa ra bằng chứng đối với các vùng nước có vấn đề đang tranh cãi này.
Bất cứ chính quyền nào yêu sách vùng nước nằm trong “đường lưỡi bò” là vùng
nước lịch sử thì quy chế pháp lý đối với vùng nước này như thế nào, nếu các vùng
nước này được yêu sách như vùng nội thủy thì các chính quyền yêu sách đó phải
chứng minh được là họ đã thực thi chủ quyền một cách liên tục đối với các vùng nước
bao bọc trong “đường lưỡi bò” qua một thời gian tương đối giống như đã thực thi chủ
quyền đối với các vùng nội thủy khác. Nếu các vùng nước này được yêu sách như lãnh
hải thì quốc gia yêu sách phải chỉ ra được rằng họ đã thực thi chủ quyền một cách liên
tục đối với các vùng nước bị bao bọc này trong một thời gian dài như họ đã thực thi
chủ quyền đối với các vùng lãnh hải khác. Cũng tương tự như vậy nếu họ muốn yêu
sách các vùng nước bị bao bọc như là vùng nước lịch sử.
a. Đối với yêu sách như các vùng nội thủy
Theo chế độ pháp lý của các vùng nội thủy, một quốc gia ven biển thực thi chủ
quyền đầy đủ đối với vùng nước nằm phía bên trong đường cơ sở để tính chiều rộng
lãnh hải, tàu nước ngoài không có quyền đi qua không gây hại trong vùng nội thủy của
quốc gia ven biển, trừ khi được sự đồng ý của quốc gia đó.
Vậy vùng nước bị bao bọc bởi “đường lưỡi bò”có thể được coi là vùng nội thủy
không? Câu trả lời đến ngay từ một học giả Đài Loan là không, bởi những lý do sau
đây: thứ nhất, chính quyền Cộng hòa Trung Hoa chưa bao giờ yêu sách vùng nước bên
trong “đường lưỡi bò” như là vùng nội thủy. Thứ hai, tàu nước ngoài, trong đó có cả
tàu chiến vẫn thực hiện quyền đi lại trên vùng nước nằm trong “đường lưỡi bò” này từ
khi “đường lưỡi bò” này xuất hiện trên bản đồ do Cộng Hòa Trung Hoa xuất bản năm
1948, và chính quyền Cộng Hòa Trung Hoa đã không có một hành động nào ngăn cản
các tàu nước ngoài qua lại vùng này.
b. Đối với yêu sách như “lãnh hải”.
Theo quy định tại Điều 3 Công ước Luật biển của Liên Hợp Quốc năm 1982
(UNCLOS) thì: “Mọi quốc gia đều có quyền ấn định chiều rộng lãnh hải của mình;
chiều rộng này không vượt quá 12 hải lý kể từ đường cơ sở được vạch ra theo đúng
Công ước”. Mọi quốc gia có quyền thực thi chủ quyền đối với vùng lãnh hải của mình.
Tàu thuyền nước ngoài chỉ được hưởng quyền đi qua không gây hại cho trong vùng
lãnh hải của các quốc gia ven biển, trừ khi có các điều khoản, điều ước chuyên môn
khác. Đối với vùng trời phía trên lãnh hải, các máy bay nước ngoài được quyền bay qua không gây hại.
Máy bay nước ngoài đã bay qua vùng trời phía trên của vùng nước này từ năm
1948 khi bản đồ được xuất bản. Như đã trình bày ở trên, máy bay của nước ngoài
không được phép bay qua không gây hại trên vùng trời phía trên của lãnh hải quốc gia
ven biển. Như vậy, đây không được xem là lãnh hải của Trung Quốc.
c. Đối với yêu sách như các vùng nước quần đảo.
Khái niệm về các vùng nước quần đảo là một khái niệm mới trong luật biển
quốc tế, được đưa ra trong Hội nghị Liên Hợp Quốc về Luật biển lần III (UNCLOS
III), theo đó, các vùng nước nằm bên trong đường cơ sở thẳng của quần đảo là vùng
nước quần đảo, nó không phải là nội thủy, cũng không phải là lãnh hải. Một quốc gia
quần đảo có quyền thực thi chủ quyền đối với vùng nước quần đảo của mình. Chủ
quyền quốc gia “được mở rộng đến vùng trời phía trên của vùng nước quần đảo cũng
như đến đáy của vùng nước đó và lòng đất tương ứng và đến các nguồn tài nguyên ở
đó”. Tàu nước ngoài được quyền đi qua không gây hại tại vùng nước quần đảo, tàu
biển và máy bay nước ngoài được quyền có đường hàng hải, đường hàng không đi qua vùng nước quần đảo.
Do chế độ pháp lý của “các vùng nước quần đảo” được phát triển trong giai đoạn
hội nghị lần thứ III của UNCLOS (từ năm 1973 – 1982) và bản đồ thể hiện “đường
lưỡi bò” xuất bản lần đầu năm 1948, nên khó có thể chứng minh được vùng nước bên
trong “đường lưỡi bò” đó có được quy chế pháp lý của các vùng nước quần đảo, Cộng
Hòa Trung Hoa đã không thực thi chủ quyền và quyền tài phán của mình đối toàn bộ
các vùng nước bên trong “đường lưỡi bò” này, tàu và máy bay nước ngoài vẫn tiếp tục
được hưởng quyền tự do hàng hải và hàng không trong vùng nước nằm trong đường
này, thay cho quyền đi qua không gây hại và quyền được qua lại các tuyến hàng hải và
hàng không đã được ấn định của vùng nước quần đảo. Vì thế, có thể kết luận là toàn
bộ các vùng nước bên trong “đường lưỡi bò” không thể được xem là các vùng nước
quần đảo của Cộng hòa Trung Hoa.
Theo các tiêu chí để thỏa mãn một vùng nước được coi là vùng nước lịch sử, thì
Trung Quốc cũng phải chứng minh được họ đã thực thi chủ quyền trên toàn bộ vùng
nước trong đường lưỡi bò này một cách thật sự và liên tục trong một thời gian dài.
Điều này thật không đơn giản, bởi vì:
Thời điểm mà Trung Quốc thực sự đặt chân lên quần đảo Hoàng Sa là năm 1909,
với hành động của Lý Chuẩn, tuy nhiên lúc này Hoàng Sa đã không còn là một lãnh
thổ vô chủ nữa. Việt Nam đã thực thi chủ quyền của mình từ ít nhất là năm 1816.
Đường lưỡi bò không phải là con đường có tính ổn định và xác định. Từ 11 đoạn,
năm 1953, Trung Quốc đã phải bỏ đi hai đoạn trong vịnh Bắc Bộ vì quá vô lý. Tính
chất không liên tục của con đường này được các tác giả Trung Quốc giải thích là để
cho “những điều chỉnh cần thiết trong tương lai”. Đặc tính quan trọng nhất của một
đường biên giới quốc tế là sự ổn định và dứt khoát. “Đường lưỡi bò” không thể hiện
được đặc tính đó, thêm nữa, vị trí của nó lại không được xác định tọa độ rõ ràng, vì thế
khó mà biểu thị là một đường biên giới được.
Vấn đề thứ hai theo Yann Huei Song thì mặc dù “đường lưỡi bò” đã xuất hiện
trên các bản đồ xuất bản ở Trung Hoa lục địa từ năm 1949, nhưng chưa bao giờ Cộng
Hòa Nhân Dân Trung Hoa yêu sách chính thức các vùng nước nằm trong đường này
như các vùng nước lịch sử. Đại diện của Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa đã không
tuyên bố như vậy trong Hội nghị Công ước Luật biển lần III.Theo luật pháp quốc tế,
các hành vi mà quốc gia thể hiện phải mang tính công khai ý chí thực thi chủ quyền
trên lãnh thổ đó. Những hành vi bí mật không thể tạo nên cơ sở cho quyền lịch sử, ít
nhất các quốc gia phải có cơ hội được biết những gì đang diễn ra.
Như vậy, kể cả Cộng Hòa Trung Hoa lẫn Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa đều
chưa bao giờ công bố chính thức yêu sách về vùng biển bên trong “đường lưỡi bò” đó.
Đặc biệt, Điều 1 Tuyên bố năm 1958 về lãnh hải của Cộng hòa Nhân dân Trung
Hoa đã nhấn mạnh rằng:
“Chiều rộng lãnh hải nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa là 12 hải lý. Điều
khoản này áp dụng cho tất cả các lãnh thổ của nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa,
bao gồm lục địa Trung Quốc và các đảo ven bờ của lục địa cũng như các đảo Đài Loan
và xung quanh đó, quần đảo Penghu (Bành Hồ) và tất cả các đảo khác thuộc Trung
Quốc bị phân cách với đất liền và các đảo ven bờ biển của nó bởi biển cả”.
Như vậy, Tuyên bố 1958 của Trung Quốc xác định rõ ràng các đảo bị tách biệt
với lục địa bởi biển cả, chứ không phải là vùng nước lịch sử. Chẳng lẽ lại tồn tại vùng
biển cả nằm trong nội thủy của Trung Quốc? Không thể có điều vô lý đó. Do vậy,
Tuyên bố và các đạo luật của các nhà chức trách Trung Quốc, đặc biệt Tuyên bố năm
1958 của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa là không phù hợp với yêu sách lịch sử được
phân định bởi “đường lưỡi bò”.
Tuyên bố về đường cơ sở của Trung Quốc ngày 15/5/1996 càng làm cho sự mập
mờ này của họ bởi họ yêu sách một đường cơ sở nối cả Hoàng Sa nhưng lại không đề
cập gì đến Trường Sa.
Hơn nữa, tại hội nghị San Francisco tháng 9 năm 1951, các quốc gia tham gia đã
khước từ đề nghị trao trả cho Trung Quốc hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa và
thực tế tranh chấp về chủ quyền trên Hoàng Sa giữa Việt Nam và Trung Quốc hay
tranh chấp chủ quyền đối với toàn bộ hay một phần quần đảo Trường Sa giữa Việt
Nam, Malaysia, Philippines và Trung Quốc cho thấy không thể nói là “đường lưỡi bò”
được các quốc gia khác công nhận. Như vậy, có thể nói là yêu sách này chưa bao giờ
có được sự thừa nhận của cộng đồng quốc tế.
Từ những phân tích trên, nhóm khẳng định rằng, việc Trung Quốc tuyên bố
đường lưỡi bò là không có cơ sở pháp lí và không có quyền lịch sử với các vùng biển
ở Biển Đông theo Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển 1982 mà Trung Quốc là thành viên. Câu 2:
Các quốc gia bị ảnh hưởng bởi tuyên bố "Đường lưỡi bò" của Trung Quốc là Việt
Nam, Philippines, Malaysia, Indonesia, Brunei.
Đường lưỡi bò của Trung Quốc lấn lên vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của các quốc gia này.
Theo năm tháng, "đường lưỡi bò” dần dần bành trướng đến khi nó bao trùm phần
lớn Biển Đông, vào cách bờ biển của các nước khác dưới 100 hải lý, mà không hề có
một lập luận nào dựa trên luật pháp hay tập quán quốc tế. Bài 9:
1. Philippines kiện Trung quốc về vụ việc gì?
Với tư cách là một quốc gia thành viên Công ước của Liên Hợp Quốc về Luật
Biển 1982 (UNCLOS), ngày 22/1/2013, Philippines đã đệ đơn kiện về việc Trung
Quốc đã giải thích và áp dụng sai UNCLOS theo Điều 279, Điều 283, Điều 284 lên
Tòa Trọng tài Thường trực The Haye (PCA).
Cụ thể, Philippines khởi kiện Trung Quốc 15 nội dung, tập trung vào 3 nhóm vấn đề:
a. Yêu sách đường chín đoạn Trung Quốc đưa ra dựa trên "Quyền lịch sử" không phù
hợp với UNCLOS cho nên nó vô giá trị.
b. Philippines yêu cầu PCA xác định xem, theo UNCLOS, thì một số thực thể địa lý,
mà cả Philippines lẫn Trung Quốc yêu sách, là đảo, đá, bãi cạn lúc nổi lúc chìm hay bãi ngầm
nằm hoàn toàn dưới mực nước biển, trên cơ sở đó để xác định hiệu lực pháp lý của các thực
thể này đến đâu (có hay không có lãnh hải 12 hải lý, vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý).
c. Philippines yêu cầu PCA tuyên bố Trung Quốc đã vi phạm UNCLOS khi cản trở
Philippines thực thi các quyền chủ quyền, quyền tài phán và quyền tự do của Philippines theo
UNCLOS cũng như việc Trung Quốc gây tổn hại môi trường biển trong các hoạt động bồi lấp
xây dựng đảo, đánh bắt cá mà nước này tiến hành.
Ngày 29/10/2015, PCA - Tòa Trọng tài Thường trực The Haye, ra thông cáo báo
chí về vụ kiện giữa Cộng hòa Philippines với Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa; trong đó
đã khẳng định rằng PCA có thẩm quyền thụ lý, xét xử vụ kiện này theo đúng quy định
của UNCLOS và rằng, cả Trung Quốc và Philippines đều là thành viên ràng buộc của
UNCLOS có trách nhiệm và nghĩa vụ tuân thủ mọi điều khoản của UNCLOS. Việc
Trung Quốc từ chối tham gia vụ kiện không làm mất đi thẩm quyền ra phán quyết của PCA.
PCA đã bác bỏ lập luận của Trung Quốc rằng Philippines chủ yếu khởi kiện các
nội dung liên quan đến chủ quyền lãnh thổ và phân định biên giới biển giữa 2 nước, do
đó nó vượt qua thẩm quyền của PCA. Ngược lại Tòa khẳng định, bản chất vụ kiện của
Philippines phản ánh tranh chấp giữa 2 nước liên quan đến việc giải thích và áp dụng UNCLOS.
Đồng thời, PCA cũng đã bác bỏ lập luận của Trung Quốc cho rằng Tuyên bố về
ứng xử của các bên trên Biển Đông (DOC) ký giữa Trung Quốc với ASEAN năm 2002
là thỏa thuận để giải quyết tranh chấp Biển Đông thông qua thương lượng. PCA phán
quyết rằng DOC chỉ là một thỏa thuận chính trị mà không ràng buộc pháp lý, do đó
không liên quan đến các quy định trong UNCLOS về việc ưu tiên giải quyết tranh
chấp thông qua bất kỳ phương tiện nào mà hai bên đồng ý.
2. Phụ lục VII của Công ước về Luật Biển 1982 đề cập đến những nội dung gì?
Phụ lục VII của CULB 1982 đề cập về thẩm quyền, thủ tục giải quyết
tranh chấp bằng trọng tài gồm các nội dung như sau:
Thứ 1, thẩm quyền thành lập trọng tài quy định tại Điều 1 Phụ lục VII
CULB1982; Thứ 2, Theo quy định của Điều 3, Phụ lục VII về trọng tài, trọng tài gồm
5 thành viên, trừ khi các bên tranh chấp có thỏa thuận khác;
Thứ 3, chức năng của trọng tài: Theo quy định tại Điều 4, Phụ lục VII của
UNCLOS, trọng tài thi hành các chức năng theo đúng Phụ lục VII và các quy định
khác của UNCLOS, Điều 6 về những nghĩa vụ của các bên;
Thứ 4, về xét xử vắng mặt của một bên được quy định tại Điều 9 Phụ lục VII;
Thứ 5: giải thích và thi hành bản án.
Toà trọng tài được thành lập và hoạt động theo đúng Phụ lục VII của Công ước
luật biển, là cơ quan tài phán quốc tế.
Toà trọng tài thực hiện các chức năng của mình theo đúng phụ lục VII và các quy
định khác của Công ước trong việc giải quyết các tranh chấp liên quan tới luật biển.
Bản án của Toà trọng tài có tính tối hậu và không được kháng cao, trừ khi các bên
trong vụ tranh chấp đã có thoả thuận trước về một thủ tục kháng cáo. Tất cả các bên
trong vụ tranh chấp khi được Toà trọng tài giải quyết vụ việc bằng bản án thì đều phải tuân theo.
Phụ lục VII
"ĐIỀU 1. Việc khởi tố
Với điều kiện phải tuân thủ Phần XV, bất kỳ bên nào trong một vụ tranh chấp đều
có thể đưa vụ tranh chấp ra giải quyết bằng thủ tục trọng tài đã trù định trong Phụ lục
này bằng một thông báo viết gửi tới bên kia hoặc hoặc các bên kia trong vụ tranh chấp.
Thông báo có kèm theo bản trình bày các yêu sách và các lý do làm căn cứ cho các yêu sách đó.
ĐIỀU 2. Danh sách các trọng tài
1. Tổng thư ký Liên hợp quốc lập ra và giữ một bản danh sách các trọng tài. Mỗi
quốc gia thành viên có thể chỉ định bốn trọng tài có kinh nghiệm về những vấn đề biển
và nổi tiếng nhất về sự công bằng, về năng lực và liêm khiết. Tên của những người
được chỉ định như vậy được ghi rõ trên một bản danh sách.
2. Vào một thời điểm nào đó, nếu số lượng trọng tài được một quốc gia thành
viên chỉ định và có trong bản danh sách dưới bốn người thì quốc gia này có quyền tiến
hành việc chỉ định bổ sung mà mình có quyền.
3. Tên của một trọng tài được ghi ở trên bản danh sách cho đến khi quốc gia
thành viên đã chỉ định người trọng tài này rút người đó khỏi danh sách; dĩ nhiên, người
trọng tài này phải tiếp tục làm nhiệm vụ trong mọi Toà trọng tài mà họ được cử cho
đến khi thủ tục tiến hành trước toà này kết thúc.
ĐIỀU 3. Thành lập Toà trọng tài
Theo thủ tục được trù định trong Phụ lục này, trừ khi các bên liên quan có thoả
thuận khác, Toà trọng tài được lập ra, như sau:
a) Với điều kiện tuân thủ điểm g, Toà trọng tài gồm có năm thành viên;
b) Bên nguyên cử một thành viên mà mình tuỳ ý lựa chọn ở trên bản danh sách
nói ở Điều 2 của Phụ lục này và người đó có thể là công dân của mình. Tên của người
đó được ghi trong bản thông báo nói trong Điều 1 của Phụ lục này;
c) Bên bị trong vụ tranh chấp cử trong thời hạn 30 ngày, tính từ khi nhận được
thông báo nói ở Điều 1 của Phụ lục này một thành viên mà mình tuỳ ý lựa chọn trên
bản danh sách, và người đó có thể là công dân của mình. Nếu họ không cử người trong
thời hạn nói trên, thì bên nguyên có thể yêu cầu tiến hành việc cử thành viên đó theo
đúng điểm c trong hai tuần lễ sau khi hết thời hạn này;
d) Ba thành viên khác được các bên thoả thuận cử ra. Họ được các bên tuỳ ý
chọn trên bản danh sách và là công dân của các quốc gia thứ ba, trừ khi các bên có
thoả thuận khác. Các bên cử Chánh toà của Toà trọng tài trong số ba thành viên đó.
Nêu trong thời hạn 60 ngày kể từ ngày nhận được thông báo nói ở Điều 1 của Phụ lục
này, các bên hữu quan không thể thoả thuận về việc chỉ định một hay nhiều thành viên
của Toà mà họ phải cử theo thoả thuận chung hay là về việc cử Chánh toà, thì theo yêu
cầu của bất kỳ bên nào trong vụ tranh chấp, cần tiến hành cử 1 người hay những người
đó theo đúng điểm e Yêu cầu đó phải được đưa lên trong hai tuần sau khi hết hạn 60 ngày này;
e) Trừ khi các bên hữu quan thoả thuận giao cho một người hoặc cho một quốc
gia thứ ba do họ lựa chọn tiến hành các việc cử người cần thiết theo điểm c và d,
Chánh án của Toà án quốc tế về luật biển cần tiến hành việc hành. Nếu Chánh án bận
hoặc là công dân của một trong các bên trong vụ tranh chấp, thì việc cử người giao cho
thành viên thâm niên nhất của Toà án quốc tế về luật biển sẵn sàng làm việc này và
không phải là công dân của một trong các bên hữu quan. Việc cử người tiến hành bằng
cách lựa chọn trên bản danh cách nói ở Điều 2 của Phụ lục này trong một thời hạn là
30 ngày kể từ ngày nhận được đơn yêu cầu và có tham kháo ý kiến của các bên. Các
thành viên được cử như thế cần phải thuộc các quốc tịch khác nhau, không được làm
việc cho một bên nào trong vụ tranh chấp; họ không trú ngụ thường xuyên ở trên lãnh
thổ của một trong các bên hữu quan đó và không phải là công dân của một bên nào;
f) Mọi ghế bị trống đều được cử người thay thế theo các quy định cho lần bổ nhiệm đầu tiên ;
g) Các bên cùng một phía cùng nhau cử một thành viên của Toà qua thoả thuận
chung. Khi có nhiều bên đối lập nhau hay trong trường hợp không thống nhất về điểm
liệu các bên có đứng vào cùng một phía không, thì mỗi bên trong số họ cử một thành
viên của Toà. Số lượng thành viên của Toà do các bên cử riêng rẽ bao giờ cũng phải ít
hơn một người so với số lượng các thành viên của Toà được các bên hữu quan cùng cử ;
h) Các điểm a đến f được áp dụng đến hết mức có thể vào các vụ tranh chấp xảy
ra có quá hai bên hữu quan trở lên.
ĐIỀU 4. Các chức năng của Toà trọng tài
Một toà trọng tài được thành lập theo Điều 3 của Phụ lục này thi hành các chức
năng của mình theo đúng Phụ lục này và quy định khác của Công ước. ĐIỀU 5. Thủ tục
Trừ khi các bên có thoả thuận khác, Toà trọng tài tự quy định thủ tục của mình
bằng cách cho mỗi bên có khả năng bảo vệ các quyền của mình và trình bày căn cứ của mình.
ĐIỀU 6. Những nghĩa vụ của các bên
Các bên tham gia tranh chấp tạo điều kiện dễ dàng cho Toà trọng tài thực hiện
nhiệm vụ của mình và, đặc biệt là, theo đúng pháp luật của mình và bằng tất cả các
phương tiện thuộc quyền sử dụng của mình, cần phải:
a) Cung cấp cho Toà mọi tài liệu, các điều kiện dễ dàng và các thông tin thích
hợp; và b) Cho Toà, khi điều đó là cần thiết, có khả năng dẫn ra và nghe người làm
chứng hoặc các chuyên gia và đến tại chỗ. ĐIỀU 7. Lệ phí
Trừ khi Toà trọng tài có quyết định khác vì có những hoàn cảnh đặc biệt của vụ
việc, lệ phí của Toà, kể ca thù lao cho các thành viên của Toà, phải do các bên trong vụ
tranh chấp chịu ngang nhau.
ĐIỀU 8. Đa số cần thiết phải thông qua các bản án
Các quyết định của Toà trọng tài được thông qua theo đa số các thành viên của
Toà. Sự vắng mặt hoặc bỏ phiếu trắng của dưới một nửa số thành viên không cản trở
Toà ra quyết định. Trong trường hợp số phiếu ngang nhau, lá phiếu của Chánh toà là lá phiếu quyết định. ĐIỀU 9. Vắng mặt
Khi một trong số các bên trong vụ tranh chấp không ra Toà hoặc không trình bày
các lý lẽ của mình, thì bên kia có thể yêu cầu Toà tiếp tục trình tự tố tụng và phán
quyết. Việc một bên vắng mặt hay việc một bên không trình bày các lý lẽ của mình
không cản trở cho trình tự tố tụng. Trước khi ra phán quyết, Toà trọng tài cần phải biết
chắc chắn rằng không những Toà có thẩm quyền xét xử vụ tranh chấp mà còn chắc
chắn rằng đơn kiện có cơ sở về mặt thực tế pháp lý. ĐIỀU 10. Bản án
Bản án của Toà trọng tài được giới hạn ở nội dung của vụ tranh chấp và phải nêu
căn cứ. Bản án nêu tên của các thành viên của Toà trọng tài đã tham gia xét xử và thời
gian ra bản án. Bất kỳ thành viên nào của Toà cũng có thể đính thêm vào bản án trình
bày ý kiến riêng hoặc bất đồng của mình.
ĐIỀU 11. Tính chất tối hậu của bản án
Bản án có tính chất tối hậu và không được kháng cáo, trừ khi các bên trong vụ
tranh chấp phải tuân theo bản án này.