



















Preview text:
Họ và tên: Nguyễn Thị Yến Nhi Lớp: Ảnh báo chí_k42 Mã sinh viên: 2256030036 Bài tự học số 1:
1. Quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin về chính trị?
Chủ nghĩa Mác -Lênin khẳng định chính trị luôn mang bản chất giai cấp.Bản chất
giai cấp của chính trị được quy định bởi lợi ích ,trước hết là lợi ích kinh tế của giai
cấp,nó luôn vận động trong mối quan hệ giữa kinh tế với chính trị .Lênin cho rằng:
"chính trị là sự biểu hiện tập trung của kinh tế"
Chính trị không chỉ mang bản chất giai cấp mà còn mang bản chất dân tộc ,cho nên
trong đấu tranh chính trị ,việc xử lý quan hệ giai cấp-dân tộc được đặt ra rất thường
xuyên.Không thể tuyệt đối hóa vấn đề giai cấp mà quên vấn đề dân tộc và ngược
lại. Nếu tuyệt đối hóa vấn đề giai cấp sẽ dẫn tới chủ nghĩa biệt phái,nếu tuyệt đối
hóa vấn đề dân tộc thì sẽ rơi vào chủ nghĩa dân tộc cực đoan .Vấn đề giai cấp,vấn
đề dân tộc gắn liền với vấn đề nhân loại .Chính trị hiện đại luôn coi trọng vấn đề
nhân loại ,giải quyết vấn đề nhân loại trên quan điểm giai cấp.Giải phóng giai
cấp,giải phóng dân tộc ,giải phóng xã hội là những vấn đề quan hệ gắn bó mật thiết
với nhau của nền chính trị vô sản,trở thành xu hướng phát triển của chính trị nhân loại.
Các nhà kinh điển mácxit chỉ ra rằng, đấu tranh chính trị là đỉnh cao của đấu tranh
giai cấp.Đấu tranh giai cấp là hiện tượng tất yếu của lịch sử.Cuộc đấu tranh này
trải qua ba nấc thang,ba giai đoạn ,phản ánh ba trình độ phát triển khác nhau của
đấu tranh giai cấp từ tự phát đến tự giác,từ sự thỏa mãn những nhu cầu sinh hoạt
tức thời đến nhận thức và hiện thực hóa sứ mệnh lịch sử của giai cấp.
Trình độ thấp nhất của đấu tranh giai cấp là đấu tranh kinh tế.Thông qua đấu tranh
về những lợi ích kinh tế hàng ngày mà giác ngộ công nhân về lợi ích giai cấp.Tuy
là hình thức thấp nhất nhưng lại rất quan trọng vì nó tạo môi trường thực tiễn,giúp
giai cấp công nhân giác ngộ vai trò sứ mệnh lịch sử của mình.
Giai đoạn thứ 2 của đấu tranh giai cấp là đấu tranh tư tưởng lý luận .Các nhà kinh
điển chỉ ra rằng ,giai cấp vô sản là giai cấp triệt để cách mạng không phải vì nó là
giai cấp nghèo nhất,mà trước hết vì lợi ích của nó đối lập với lợi ích của giai cấp tư
sản;nó đại diện cho phương thức sản xuất cách mạng.Các ông cũng chỉ rõ kẻ thù
của giai cấp vô sản là toàn bộ giai cấp tư sản quốc tế ,chứ không phải chỉ dừng lại
ở một vài nhà tư bản cá biệt .Vì vậy ,giai cấp vô sản sẽ không thể hoàn thành được
sứ mệnh lịch sử của mình là giải phóng toàn xã hội thoát khỏi ách áp bức bóc lột tư
bản,xây dựng xã hội cộng sản chủ nghĩa nếu như nó không được vũ trang bằng 1 tư
tưởng lý luận cách mạng là chủ nghĩa Mác-Lênin.Theo Lênin, giác ngộ giai cấp
làm cho công nhân hiểu rõ sứ mệnh lịch sử của mình thì phải tiến hành cuộc đấu
tranh tư tưởng;giải phóng công nhân khỏi hệ tư tưởng tư sản và các tư tưởng không
vô sản,đưa lý luận mácxits vào phong trào công nhân ,làm cho giai cấp vô sản từ
giai cấp "tự nó"(tự phát) thành giai cấp "cho nó"(tự giác)
Giai đoạn thứ 3 ( cao nhất) của đấu tranh giai cấp là đấu tranh chính trị .Nhiệm vụ
cơ bản của đấu tranh chính trị là thủ tiêu bộ máy nhà nước cũ,thiết lập nền chuyên
chính mới và sử dụng chuyên chính đó để xây dựng xã hội mới.Lúc này ,vấn đề
giành quyền lực nhà nước được đặt ra một cách trực tiếp.Đấu tranh chính trị gắn
liền với sự bùng nổ cách mạng xã hội .C Mác cho rằng:"bước thứ 1 trong cuộc
cách mạng công nhân là giai cấp vô sản biến thành giai cấp thống trị ,là giành lấy
dân chủ ".Lê nin cũng khẳng định :"chỉ người nào mở rộng việc thừa nhận đấu
tranh giai cấp đến mức thừa nhận chuyên chính vô sản thì mới là người mácxits.Đó
là điều khác nhau sâu sắc nhất giữa người mácxit và người tiểu tư sản(và cả tư sản lớn) tầm thường".
Như vậy ,chủ nghĩa Mác -Lênin chỉ ra 3 hình thức đấu tranh giai cấp cơ bản,và
khẳng định rằng ,các hình thức này có quan hệ mật thiết với nhau ,ảnh hưởng và bổ
sung cho nhau .Đấu tranh tư tưởng lý luận và đấu tranh kinh tế phục vụ đấu tranh
chính trị .Đấu tranh chính trị là hình thức đấu tranh cao nhất,quyết định thắng lợi
cuối cùng và căn bản của giai cấp vô sản đối với giai cấp tư sản.
2. Tư tưởng cơ bản của Hồ Chí Minh về chính trị?
1. Độc lập dân tộc gắn liền với Chủ nghĩa xã hội
Trong toàn bộ tiến trình đấu tranh cách mạng của dân tộc ta, tư tưởng bao trùm là
tư tưởng “ không có gì quy’ hơn độc lập tư do” và “ độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội”.
Độc lập dân tộc, theo chủ tích Hồ Chí Minh bao gồm những nội dung sau :
Dân tộc đó thoát khỏi nô lệ( dưới mọi hình thức) bằng con đường cách mạng
do chính dân tộc đó tiến hành “ đem sức đó mà giải phóng cho ta”
Dân tộc đó phải có chủ quyền và vẹn toàn lãnh thổ, phải có quyền tự quyết
định sự phát triển của dân tộc mình.
Độc lập dân tộc phải là một nền độc lập thực sự chứ không phải là giả hiệu,
phải thực hiện các giá trị tự do, dân chủ, công bằng, bình đẳng đối với nhân
dân chứ không phải là những lời hoa mĩ.
Độc lập về chính trị phải gắn liền với sự phồn thịnh về mọi mặt : kinh tế, văn hóa, xã hội..
Phải tự giành lấy bằng con đường cách mạng, tự lực tự cường và tự trọng.
người cho rằng, một dân tộc không có khả năng y’ thức độc lập, tự lực, tự
cường thì dân tộc đó không xứng đáng được hưởng độc lập
Hồ Chí Minh rút ra kết luận “ độc lập dân tộc phải thực sự gắn liền với chủ nghĩa
xã hội, trong đó độc lập là tiền đề, điều kiện để đi đến chủ nghĩa xã hội, còn chủ
nghĩa xã hội đảm bảo chắc chắn nhất, thực chất nhất cho độc lập dân tộc.
2. Tư tưởng về đại đoàn kết
Đại đoàn kết là một tư tưởng lớn trong tư tưởng Hồ Chí Minh, trở thành chiến lược
đại đoàn kết của Đảng ta và một nhân tố cực kì quan trọng thường xuyên góp phần
quyết định thắng lợi trong sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân ta qua mọi thời kì.
Hồ Chí Minh quan niệm sức mạnh là đại đoàn kết toàn dân, ở sự đồng lòng của
toàn xã hội “ toàn dân đoàn kết và chặt chẽ và rộng rãi..” “ đồng bào ta từ già đến
trẻ đều đoàn kết thành một khối cho nên cách mạng đã thành công”
Đoàn kết phải dựa trên có cơ sở có lí, có tình, có nghĩa. Đoàn kết là để phát triển,
để làm nhiệm vụ cách mạng, để làm tốt nhiệm vụ cách mạng, cách mạng muốn
thắng lợi thì phải đoàn kết, đoàn kết lấy liên minh công – nông – trí thức làm nền
tảng, lấy lợi ích tối cao của dân tộc làm điểm quy tụ để bảo đảm hài hòa giữa các lợi ích.
Chiến lược đại đoàn kết của Hồ Chí Minh vừa là sự đúc kết và phát huy truyền
thống đại đoàn kết của dân tộc ta qua hàng nghìn năm dựng nước, giữ nước và phát
triển đất nước, vừa thể hiện tinh thần bất hủ của chủ nghĩa Mác – Lênin là “ vô sản
các nước và các dân tộc bị áp bức toàn thế giới đoàn kết lại”.
Trong sự nghiệp đổi mới hôm nay, Đảng và nhân dân ta hơn bao giờ hết, đã và
đang giương cao ngọn cờ đại đoàn kết toàn dân, thực hiện chính sách đối ngoại độc
lập, tự chủ, mở rộng, đa phương hóa, đa dạng hóa với tinh thần Việt Nam là bạn
với tất cả các nước trong cộng đồng thế giới…
3. Tư tưởng về xây dưng thể chế chính trị
Trong xây dựng thể chế chính trị quan trọng nhất là xây dựng thể chế nhà nước.
đây là một nội dung giữ vị trí đặc biệt của tư tưởng Hồ Chí Minh. Điều mà chủ tịch
Hồ Chí Minh quan tâm là tính chất nhà nước. nhà nước đó có phải là nhà nước của
dân hay không ? chế độ dân chủ có phù hợp với chế độ nhà nước không ?
Người đã quyết định lựa chọn kiểu nhà nước theo học thuyết Mác – Lênin và cũng
không “bê nguyên xi” kiểu nhà nước xô viết vào hoàn cảnh nước ta. Người chủ
trương lập nhà nước cộng hòa dân chủ ( tức là nhà nước dân chủ nhân dân)
Dân chủ có nghĩa là dân được làm chủ. Giá trị thực chất của dân chủ là phải có
cơm ăn, áo mặc, học hành.. xem dân chủ là chìa khóa tiến bộ xã hội.
Hồ Chí Minh khẳng đinh “ nước ta là nước dân chủ. Bao nhiêu quyền lực đều vì
dân, bao nhiêu quyền hạn đều của dân, công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân…
Hồ Chí Minh cho rằng chế độ dân chủ phù hợp với nhà nước ta, đó là một nhà
nước của dân, do dân và vì dân. Nhà nước của dân có nghĩa là dân có quyền được
kiểm soát nhà nước, có quyền bãi miễn đại biểu quốc hội. “việc gì có lợi cho dân
thì phải làm cho kì được, việc gì có hại cho dân thì phải hết sức tránh”.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về thể chế chính trị, thể chế nhà nước đã trở thành nguyên
tắc xuyên suốt, thuộc về bản chất của nhà nước ta.
4. Lí luận về đảng cầm quyền
Hồ Chí Minh luôn coi xây dựng Đảng của giai cấp công nhân Việt Nam là một
nhiệm vụ cực kì quan trọng, nhất là nhân tố quyết định trước hết đối với mọi thắng lợi của cách mạng.
Hồ Chí Minh khẳng định “ trước hết phải có Đảng cách mệnh..” có nghĩa là “ đảng
của giai cấp vô sản, đội tiên phong của vô sản giai cấp”.
Quan điểm của Hồ Chí Minh về sự hình thành một Đảng cộng sản ở Việt Nam vừa
quán triệt đầy đủ học thuyết Mác- Lênin về Đảng cộng sản, vừa phù hợp với hoàn
cảnh một nước thuộc địa lạc hậu, chậm phát triển, nơi có truyền thống đấu tranh
yêu nước lâu đời của nhân dân…
ở Việt Nam, quan điểm trên của Hồ Chí Minh có y nghĩa cực kì quan trọng đối với
chính sách đại đoàn kết dân tộc trong lịch sử.
5. Về phương pháp cách mạng
là lãnh tự chính trị của cách mạng Việt Nam, chủ tích Hồ Chí Minh chẳng những
đã xác định đường lối đúng đắn cho cách mạng nước ta mà còn xác định và vận
dụng những phương pháp cách mạng đầy sáng tạo.
cũng như các nhà kinh điển, bản thân Hồ Chí Minh chưa đưa ra một định nghĩa về
phương pháp cách mạng, song Người là bậc thầy về phương pháp cách mạng trong
mọi thời kì, mọi giai đoạn cách mạng, trong toàn bộ tiến trình cách mạng Việt Nam.
Có thể hiểu phương pháp cách mạng Việt Nam theo hai nghĩa sau :
Theo nghĩa rộng : đó là sự vận động của tư tưởng Hồ Chí Minh trong thực tiễn của
quần chúng nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng, mà theo đó tư tưởng chính trị của
Người được hiện thực hóa.
Theo nghĩa hẹp : đó là cách thức tiến hành cách mạng với tính cách là hệ thống các
nguyên tắc được thể hiện bằng hình thức, biện pháp, bước đi thích hợp để thực
hiện thắng lợi đường lối cách mạng, biến đường lối cách mạng thành hiện thực.
Phương pháp cách mạng Hồ Chí Minh là phương pháp cách mạng vô sản được vận
dụng và phát triển một cách sang tạo vào một nước thuộc địa nửa phong kiến.
Có thể khái quát một hệ thống các phương pháp cách mạng chung cơ bản của Hồ Chí Minh như sau :
Xuất phát từ thực tế ở Việt Nam, lấy cải tạo biến đổi hiện thực Việt Nam là
mục tiêu cho hoạt động cách mạng
Thực hiện đại đoàn kết dân tộc, tập hợp, huy động lực lượng toàn dân, kết
hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại
Dĩ bất biến, ức vạn biện
Nắm vững thời cơ, giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa thời, thế, lực Biết
thắng từng bước, biết phát động và biết kết thúc chiến tranh
Kết hợp các phương pháp đấu tranh cách mạng một cách sang tạo
Tư tưởng chính trị Hồ Chí Minh mà nội dung cốt lõi là “ độc lập dân tộc gắn liền
với chủ nghĩa xã hội”.
Người đã vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác- Lênin vào điều kiện Việt Nam, một
nước thuộc địa nửa phong kiến tiến lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa.
Tư tưởng chính trị Hồ Chí Minh đã trở thành tài sản tinh thần quy’ báu của toàn
Đảng, toàn dân. Nó đã và đang biến thành lực lượng vật chất hung hậu và là kim
chỉ nam cho cách mạng Việt Nam.
Trải qua bao khúc quanh của lịch sử và những biến cố khắc nghiệt của thời đại, tư
tưởng Hồ Chí Minh nói chung và tử tưởng chính trị Hồ Chí Minh nói riêng vẫn có
trong hành trang dân tộc ta đi tới mục tiêu “ dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ văn minh”.
3. Chứng minh những sáng tạo của Hồ Chí Minh trong việc vận dụng học
thuyết chính trị Mác – Lênin vào điều kiện Việt Nam.
Trong suốt những năm tháng hoạt động sôi nổi, gian khổ, dũng cảm, Hồ Chí Minh
đã tích cực nghiên cứu, vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào
điều kiện thực tiễn của cách mạnh Việt Nam, đó là:
Thứ nhất, xác định đúng đắn con đường giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước.
Dưới chính sách cai trị tàn bạo của thực dân Pháp, xã hội Việt Nam chịu cảnh áp
bức, bóc lột nặng nề, đời sống nhân dân vô cùng khổ cực, lầm than. Không chịu
khuất phục trước cảnh nước mất nhà tan và cũng không đi theo những vết xe đổ
của các bậc tiền bối. Năm 1911, người thanh niên Nguyễn Tất Thành đã ra đi tìm
đường cứu nước. Người đi nhiều nước, làm nhiều nghề khác nhau, vừa nghiên cứu,
vừa học tập một cách độc lập, tự chủ, sáng tạo.
Trải qua cuộc sống lao động, học tập, nghiên cứu lý luận và nhất là qua thực tiễn
đấu tranh cách mạng phong phú đã làm giàu văn hóa, mở rộng tầm nhìn và nâng
cao trí tuệ của Hồ Chí Minh. Người đã nhận thấy vấn đề giải phóng dân tộc và con
người không chỉ là nhu cầu cấp thiết của dân tộc Việt Nam mà là đòi hỏi của các
dân tộc thuộc địa, phụ thuộc và nhân dân bị áp bức trên toàn thế giới. Tiếp thu thế
giới quan, phương pháp luận cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin,
bằng thiên tài trí tuệ, nhận thức đúng xu thế phát triển tất yếu của loài người và
tính chất của thời đại mới, Người khẳng định: “Muốn cứu nước và giải phóng dân
tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản” và “chỉ có chủ
nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và
những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ”.
Với nhãn quan chính trị nhạy bén, nhận rõ tính chất thời đại mới từ sau Cách mạng
Tháng Mười Nga và xu thế phát triển của nhân loại, đặt cách mạng giải phóng dân
tộc ở các nước thuộc địa và phụ thuộc trong quỹ đạo của cách mạng vô sản và là
một bộ phận khăng khít của cách mạng thế giới, Hồ Chí Minh đã tìm ra con đường
đúng đắn cho cách mạng Việt Nam. Đó là con đường cách mạng dân tộc dân chủ
nhân dân do Đảng Cộng sản, đội tiên phong của giai cấp công nhân, nhân dân lao
động và dân tộc lãnh đạo nhằm đánh đổ đế quốc và phong kiến tay sai, giành độc
lập dân tộc, thực hiện người cày có ruộng, sau đó tiến lên làm cách mạng xã hội
chủ nghĩa, thực hiện chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản ở Việt Nam. Đó là
đường lối giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, kết hợp chủ
nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân, kết hợp
sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại nhằm thực hiện mục tiêu giải phóng dân
tộc, giải phóng xã hội và giải phóng con người. Tư tưởng đó thể hiện tính quy luật
của sự phát triển lịch sử xã hội Việt Nam: “cách mạng giải phóng dân tộc phải phát
triển thành cách mạng xã hội chủ nghĩa thì mới giành được thắng lợi hoàn toàn”.
Thứ hai, vận dụng và giải quyết sáng tạo vấn đề dân tộc và thuộc địa.
Cuộc hành trình qua nhiều nước vào những năm đầu thế kỷ XX giúp Hồ Chí Minh
nhận thấy rằng, phải có được quan hệ hợp tác giúp đỡ giữa cách mạng chính quốc
và cách mạng thuộc địa. Ngay từ năm 1921, Người khẳng định, thực dân, đế quốc
là kẻ thù của nhân dân thuộc địa và cũng là kẻ thù của nhân dân lao động chính
quốc. Bởi vậy, để chống lại kẻ thù chung, để giải phóng thân phận nô lệ và bị bóc
lột, đòi hỏi sự đoàn kết liên minh chặt chẽ nhân dân lao động ở thuộc địa và chính
quốc. Ðiểm mới và sâu sắc trong tư tưởng của Người là: Bọn đế quốc không chỉ áp
bức bóc lột nhân dân các nước thuộc địa, mà còn thống trị nhân dân lao động và
giai cấp vô sản chính quốc. Người đã ví chủ nghĩa đế quốc giống như “con đỉa hai
vòi”. Người đã sớm nhìn thấy mối quan hệ biện chứng giữa cách mạng vô sản và
cách mạng thuộc địa. Người nhận thấy không những cách mạng vô sản ảnh hưởng
đến cách mạng thuộc địa mà cách mạng thuộc địa cũng tác động đến cách mạng vô
sản. Người còn đưa ra dự báo hết sức khoa học đó là cách mạng thuộc địa có thể
thắng lợi trước: “Cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải thực hiện liên
minh chiến đấu giữa giai cấp vô sản ở thuộc địa với giai cấp vô sản ở chính quốc....
Do đó, cách mạng thuộc địa không chỉ trông chờ vào kết quả của cách mạng vô sản
ở chính quốc, hơn nữa cần phải chủ động và có thể giành thắng lợi trước, và bằng
thắng lợi của mình sẽ góp phần vào sự nghiệp cách mạng ở chính quốc”. Dự báo
đó đã trở thành định hướng, kim chỉ nam và được hiện thực hóa ở cách mạng Việt Nam.
Thứ ba, vận dụng và phát triển sáng tạo lý luận về thành lập chính đảng giai cấp vô sản.
Trong quá trình hoạt động cách mạng, Hồ Chí Minh sớm nhận thức được vai trò
lãnh đạo của giai cấp công nhân, về sự cần thiết phải có Đảng Cộng sản để lãnh
đạo sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc. Vào những năm 20 thế kỷ XX, trong
một số bài viết về V.I.Lênin, về Quốc tế Cộng sản, Hồ Chí Minh nhiều lần khẳng
định sự cần thiết phải thành lập Đảng Cộng sản theo học thuyết Mác - Lênin ở các
nước thuộc địa. Trong tác phẩm Đường cách mệnh, Người nêu rõ: “Cách mệnh
trước hết phải có cái gì? Trước hết phải có đảng cách mệnh, để trong thì vận động
và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp
mọi nơi. Đảng có vững cách mệnh mới thành công, cũng như người cầm lái có
vững thuyền mới chạy”. Người khẳng định vấn đề có ý nghĩa quyết định trong xây
dựng Đảng là: “Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt, trong đảng ai cũng
phải hiểu, ai cũng phải theo chủ nghĩa ấy. Đảng mà không có chủ nghĩa cũng như
người không có trí khôn, tàu không có bàn chỉ nam. Bây giờ học thuyết nhiều, chủ
nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là
chủ nghĩa Lênin”. Song, theo Người, lấy chủ nghĩa Mác - Lênin “làm cốt”, nhưng
không được giáo điều, rập khuôn máy móc, mà phải hiểu bản chất cách mạng và
khoa học của học thuyết này để vận dụng một cách sáng tạo vào điều kiện cụ thể
của từng quốc gia, dân tộc, phải đề ra đường lối cách mạng đúng đắn. Theo nguyên
lý của chủ nghĩa Mác - Lênin, Đảng Cộng sản ra đời là sản phẩm của sự kết hợp
giữa chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân. Trong điều kiện Việt Nam
và các nước thuộc địa, Hồ Chí Minh cho rằng, tính chất Đảng Cộng sản không chỉ
ở thành phần xuất thân từ công nhân hết thảy, mà là ý thức tư tưởng chính trị và
theo đường lối của chủ nghĩa Mác - Lênin. Trong hoàn cảnh một nước thuộc địa
lạc hậu như Việt Nam, Hồ Chí Minh đã sáng tạo trong việc kết hợp nhân tố dân tộc
và nhân tố giai cấp để thành lập Đảng Cộng sản. Nhân tố dân tộc là chủ nghĩa yêu
nước, nhân tố giai cấp là chủ nghĩa Mác - Lênin và phong trào công nhân.
Thứ tư, vận dụng và phát triển sáng tạo tinh thần đoàn kết quốc tế vô sản.
Tiếp thu tinh thần nổi tiếng của C.Mác: “Vô sản tất cả các nước, đoàn kết lại!” và
sau này được V.I.Lênin bổ sung: “Vô sản tất cả các nước và các dân tộc bị áp bức
trên toàn thế giới đoàn kết lại”, Hồ Chí Minh đã vận dụng và phát triển sáng tạo
đối với thực tiễn cách mạng Việt Nam. Trong suốt quá trình tìm đường cứu nước
và hoạt động chính trị, Hồ Chí Minh đã đi qua nhiều nước trên thế giới. Người đã
chứng kiến cảnh cùng cực của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, đồng thời
thấy rõ cảnh sống xa hoa của bọn tư sản. Thực tế sinh động đã giúp Người đồng
cảm và nhận thức rõ: Nơi đâu cũng có người nghèo như ở xứ mình, dù ở các nước
thuộc địa hay chính quốc, họ đều bị áp bức, bóc lột tàn nhẫn bởi chủ nghĩa thực
dân tàn ác. Người đi tới kết luận: “dù màu da có khác nhau, trên đời này chỉ có hai
giống người: giống người bóc lột và giống người bị bóc lột. Mà cũng chỉ có một
mối tình hữu ái là thật mà thôi: tình hữu ái vô sản”. Kết luận này cho thấy nhận
thức của Người về ý thức dân tộc và ý thức giai cấp đã từ tầm nhìn quốc gia tới
tầm nhìn quốc tế. Kết luận trên cũng là sự khởi đầu của tư tưởng đoàn kết quốc tế
Hồ Chí Minh - đoàn kết với những người lao khổ, cần lao trên thế giới, luôn gắn
liền lợi ích dân tộc với lợi ích giai cấp, lợi ích quốc gia với lợi ích quốc tế.
Như vậy, thông qua quá trình hoạt động tích cực không biết mệt mỏi, Hồ Chí Minh
đã vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của
cách mạng Việt Nam, để lại cho toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta một hệ thống tư
tưởng và thực tiễn hết sức sâu sắc, không chỉ góp phần to lớn quyết định vào
những thắng lợi vĩ đại trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, công cuộc đổi mới đất
nước trong những năm qua mà còn có ý nghĩa chiến lược chỉ đạo lâu dài cho sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới. Bài tự học số 2:
1. Phân tích luận điểm: Chính trị vừa là khoa học, vừa là nghệ thuật.
Các hoạt động chính trị có ảnh hưởng rất lớn đến vận mệnh của một quốc gia và
hàng triệu con người. Vì vậy, để đảm bảo các hoạt động chính trị được thực hiện
một cách trơn tru, chính trị không chỉ cần có tính khoa học để đáp ứng được những
yêu cầu trong thực tiễn đời sống mà còn có tính nghệ thuật giúp tạo sự linh hoạt, mềm dẻo.
- Chính trị là khoa học vì:
Chính trị là một hiện tượng khách quan trong đời sống xã hội loài người khi
nó vừa xuất hiện cùng với giai cấp và nhà nước, vừa gắn liền với quyền lực,
đấu tranh cho giai cấp và dân tộc.
Chính trị là lĩnh vực tương đối độc lập trong đời sống xã hội loài người, cần
có logic phát triển sức mạnh nội tại và quy luật phát triển khách quan.
Chính trị là một hệ thống các tri thức hoạt động theo đúng quy luật khách
quan bao gồm: Những tri thức từ tri thức kinh nghiệm đến tri thức lý luận hoàn chỉnh.
Tại Việt Nam, chính trị luôn được xem là khoa học vì chính trị ở Việt Nam
đang tập trung xem xét các vấn đề dân chủ hóa hệ thống xã hội.
- Chính trị là nghệ thuật vì:
Chính trị là những hoạt động có liên quan đến việc tranh giành quyền lực,
đấu tranh sống còn nên buộc những người thực hiện những hoạt động này
cần phải sử dụng mọi biện pháp, thủ đoạn một cách khéo léo để đạt được
mục tiêu, lợi ích chính trị.
Chính trị cần có sự linh hoạt, mềm dẻo và sáng tạo để có thể nhanh chóng
điều chỉnh sao cho phù hợp với thực tiễn nhằm đạt được kết quả cao nhất.
Chính trị có phạm vi hoạt động rộng lớn và phức tạp nên nhà hoạt động
chính trị phải là người có kỹ năng, trí tuệ
Chính trị là nghệ thuật xử lý tình huống vì trong quá trình hoạt động, nhà
chính trị cần xem xét kỹ lưỡng từng đường đi nước bước để đưa ra những
giải pháp, hiệp ước trong thời điểm quan trọng.
Chính trị là nghệ thuật nắm bắt xu hướng của sự vận động xã hội và đưa ra
những dự báo, dự đoán chính xác tình thế và thời cơ để có những quyết định
kịp thời và đúng đắn.
Chính trị là nghệ thuật dùng người để vận động quần chúng nhân dân tham
gia vào công cuộc bảo vệ tổ quốc.
2. Khái niệm thủ lĩnh chính trị và các phẩm chất của thủ lĩnh chính trị ?
Phân tích vai trò của thủ lĩnh chính trị.
Thủ lĩnh chính trị là gì?
Thủ lĩnh chính trị: Là người đứng đầu một tổ chức chính trị. Đó là nhân vật xuất
sắc trong lĩnh vực hoạt động chính trị, xuất hiện trong điều kiện lịch sử nhất định,
có sự giác ngộ lợi ích, mục tiêu, lí tưởng giai cấp, có khả năng nắm bắt và sử dụng
quy luật, có năng lực tổ chức và tập hợp quần chúng để giải quyết những nhiệm vụ
chính trị do lịch sử đặt ra.
Phẩm chất của thủ lĩnh chính trị:
Khái quát về phẩm chất thủ lĩnh chính trị thành 5 nhóm sau:
Về trình độ hiểu biết: nhất thiết đó phải là người thông minh, hiểu biết sâu
rộng các lĩnh vực, có tư duy khoa học, nắm vững được quy luật phát triển
của quá trình chính trị, có khả năng dự đoán được tình hình, làm chủ được
khoa học và công nghệ lãnh đạo, quản lí.
Về phẩm chất chính trị: là người giác ngộ lợi ích giai cấp, đại diện tiêu biểu
cho lợi ích của giai cấp, trung thành với mục tiêu lí tưởng đã chọn, dũng cảm
đấu tranh bảo vệ lợi ích của giai cấp. có bản lĩnh chính trị vững vàng trước
những biến động phức tạp của lịch sử.
Về năng lực tổ chức: là người có khả năng về công tác tổ chức, nghĩa là biết
đề ra mục tiêu đúng, phân công nhiệm vụ đúng chức năng cho cấp dưới và
cho từng người, biết tổ chức thực hiện nhiệm vụ chính trị, có khả năng động
viên, khích lệ mọi người hoạt động, kiểm tra, giám sát công việc.
Về đạo đức, tác phong: là người có tính trung thực, công bằng, cởi mở,
cương quyết. Có lối sống giản dị, có khả năng giao tiếp và mối quan hệ tốt
với mọi người. Có lòng tin vào bản thân, biết lắng nghe ý kiến của người
khác. Có lòng say mê công việc và lòng tin vào cấp dưới.
Về khả năng làm việc: Có sức khỏe tốt, khả năng làm việc với cường độ cao,
có khả năng giải quyết mọi vấn đề một cách sáng tạo, đưa ra những quyết
sách sáng suốt, nhạy cảm, năng động. Biết cảm nhận cái mới và đấu tranh vì cái mới.
Vai trò tích cực của thủ lĩnh chính trị:
Do nhận thức đúng yêu cầu phát triển của xã hội và khả năng hiện có, thủ lĩnh
chính trị có vai trò quan trọng trong việc xây dựng hoàn thiện hệ thống tổ chức
quyền lực mà họ chính là linh hồn của hệ thống đó, hướng hệ thống quyền lực
phục vụ nhằm thỏa mãn nhu cầu của xã hội, giai cấp, góp phần tạo động lực cho xã hội phát triển.
Cùng đội tiên phong của giai cấp, thủ lĩnh chính trị lôi kéo, tập hợp quần chúng,
thuyết phục, giáo dục và phát huy sức mạnh của quần chúng trong đấu tranh chính
trị nhằm giành, giữ và thực thi quyền lực chính trị phù hợp với nhu cầu xã hội và lợi ích giai cấp.
Thủ lĩnh chính trị của giai cấp công nhân, đại biểu cho lợi ích của giai cấp, của dân
tộc, có khả năng nhìn xa trông rộng cho nên không những có khả năng tổ chức, tập
hợp lực lượng, lãnh đạo phong trào mà còn có khả năng đưa phong trào vượt qua
những khúc quanh co của lịch sử, thực hiện thắng lợi mục tiêu chính trị đã đề ra.
Thủ lĩnh có vai trò thúc đẩy nhanh quá trình cách mạng, mang lại hiệu quả cao cho
phong trào cách mạng, cho hoạt động của quần chúng. Sau khi hoàn thành nhiệm
vụ của thời đại đặt ra, thủ lĩnh chính trị đi vào lịch sử, sống trong tâm tưởng của thời đại sau.
3. Hãy chỉ ra vai trò của người đứng đầu ở Việt Nam hiện nay.
Tại Điều 10 Luật Cán bộ, công chức năm 2008 quy định nghĩa vụ, trách nhiệm của
người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị của Nhà nước như sau: người đứng đầu
cơ quan, đơn vị của Nhà nước có trách nhiệm chỉ đạo tổ chức thực hiện nhiệm vụ
được giao và chịu trách nhiệm về kết quả hoạt động của cơ quan, tổ chức, đơn vị
thuộc sự quản lý của mình; thực hiện kiểm tra, đôn đốc, hướng dẫn việc thi hành
công vụ của cán bộ công chức; thực hiện tổ chức thực hiện các biện pháp phòng,
chống quan liêu, tham nhũng, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí và chịu trách
nhiệm về việc để xảy ra tình trạng quan liêu, tham nhũng, lãng phí trong cơ quan,
tổ chức, đơn vị; thực hiện tổ chức thực hiện các quy định của pháp luật về dân chủ
cơ sở, văn hóa công sở trong cơ quan, tổ chức, đơn vị; tiến hành xử lý kịp thời,
nghiêm minh cán bộ công chức thuộc quyền quản lý của mình có hành vi vi phạm
kỷ luật, pháp luật, có thái độ quan liêu, hách dịch, cửa quyền, gây phiền hà cho
công dân; thực hiện giải quyết kịp thời, đúng pháp luật, theo thẩm quyền hoặc kiến
nghị cơ quan có thẩm quyền giải quyết khiếu nại, tố cáo và kiến nghị của cá nhân,
tổ chức và thực hiện các nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật.
Ngoài ra, trách nhiệm người đứng đầu cơ quan, đơn vị còn được quy định tại Điều
7 Nghị định số 157/2007/NĐ-CP ngày 27/10/2007 của Chính phủ quy định chế độ
trách nhiệm đối với người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị của Nhà nước trong
thi hành nhiệm vụ, công vụ, như sau: người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị của
Nhà nước trong thi hành nhiệm vụ, công vụ chịu trách nhiệm về toàn bộ hoạt động
của cơ quan, tổ chức, đơn vị được giao lãnh đạo, quản lý; người đứng đầu phải
gương mẫu và nghiêm chỉnh chấp hành đường lối, chủ trương của Đảng, chính
sách, pháp luật của Nhà nước và chỉ đạo của cấp trên; thực hiện tổ chức, điều hành
cơ quan, tổ chức, đơn vị thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, có chất
lượng và đúng thời hạn được giao; người đứng đầu có quyết định chủ trương, giải
pháp cần thiết để hoàn thành nhiệm vụ và chịu trách nhiệm về quyết định đó theo
quy định của pháp luật…
Như vậy, người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị của Nhà nước còn có trách
nhiệm chỉ đạo tổ chức thực hiện nhiệm vụ; thực hiện kiểm tra, đôn đốc, hướng dẫn
việc thi hành công vụ của cán bộ công chức; thực hiện tổ chức thực hiện các biện
pháp phòng, chống quan liêu, tham nhũng; giải quyết kiến nghị của cá nhân, tổ
chức hoặc kiến nghị cơ quan có thẩm quyền giải quyết khiếu nại, tố cáo theo quy
định của pháp luật. Bên cạnh đó người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị cũng có
trách nhiệm thực hiện tổ chức, điều hành cơ quan, tổ chức, đơn vị thực hiện đúng
chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, có chất lượng và đúng thời hạn được giao theo quy định. Bài tự học số 3:
1.Nội dung tư tưởng chính trị cơ bản của Nho gia Trung Quốc cổ đại? Khổng Tử (551- 479 TCN)
Khổng Tử là những người sáng lập ra trường phái Nho gia. Nội dung của tư tưởng
chính trị Khổng Tử: Tư tưởng chính trị của Khổng Tử là vì sự bình ổn của xã hội –
một xã hội thái bình thịnh trị. Theo Khổng Tử là chính đạo, đạo người làm chính
trị là phải ngay thẳng, lấy chính trị để dẫn dắt dân. Để thiên hạ có đạo, quay về lễ,
phải củng cố điều Nhân, coi trọng lễ nghĩa thì xã hội sẽ ổn định.
Khổng Tử đề ra thuyết : “Nhân – Lễ – Chính danh”. 1/ Nhân
Nhân là phạm trù trung tâm trong học thuyết chính trị của Khổng Tử. Nhân là
thước đo quyết định thành bại, tốt xấu của chính trị. Nội dung của Nhân bao hàm
các vấn đề đạo đức, luân lí của xã hội. Biểu hiện trong chính trị như sau: Thương yêu con người,
Tu dưỡng bản thân, sửa mình theo lễ là nhân,
Tôn trọng và sử dụng người hiền.
Nội dung của Nhân là nhân đạo, thương yêu con người, giúp đỡ lẫn nhau. 2/ Lễ
Lễ: Là qui định, nghi thức trong cúng tế. Khổng Tử lí luận hóa biến Lễ thành
những qui định, trật tự phân chia thứ bậc trong xã hội, thể hiện trong sinh hoạt:
hành vi, ngôn ngữ…. Ai ở địa vị nào thì sử dụng lễ ấy, lễ là bộ phận của Nhân; Lễ là ngọn, Nhân là gốc.
Lễ qui định chuẩn mực cho các đối tượng quan hệ: vua-tôi, cha-con, chồng-vợ,
chúng có quan hệ 2 chiều, phụ thuộc nhau. 3/ Chính danh
Chính danh là danh phận đúng đắn, ngay thẳng. Là phạm trù cơ bản trong thuyết
chính trị của Khổng Tử. Phải xác định danh phận, đẳng cấp, vị trí của từng các
nhân, tầng lớp trong xã hội. Danh phải phù hợp với thực, nội dung phải phù hợp
với hình thức. Đặt con người vào đúng vị trí, chức năng, phải xác định danh trước khi có thực
Chính danh và Lễ có mối quan hệ chặt chẽ: muốn Danh được Chính thì phải thực
hiện Lễ, chính danh là điều kiện để trau dồi lễ.
Học thuyết của Khổng Tử xây dựng trên 3 phạm trù cơ bản: Nhân – Lễ – Chính
danh. Nhân là cốt lõi vấn đề, vừa là điểm xuất phát cũng là mục đích cuối cùng của
hệ thống. Học thuyết của Khổng Tử là “đức trị” vì lấy đạo đức làm gốc. Điều Nhân
được biểu hiện qua Lễ, chính danh là con đường để đạt tới điều Nhân. Ba yếu tố có
quan hệ biện chứng tạo nên sự chặt chẽ của học thuyết.
Nội dung tư tưởng chính trị của Khổng Tử cũng chính là những mặt tích cực của trường phái Nho gia.
Tuy nhiên, Về bản chất, học thuyết chính trị của Khổng Tử là duy tâm và phản
động. Vì nó không tính đến các yếu tố vật chất của xã hội mà chỉ khai thác yếu tố
tinh thần. Mục đích của học thuyết này là bảo vệ chế độ, đẳng cấp, củng cố địa vị
thống trị của giai cấp quí tộc đã lỗi thời, đưa xã hội Trung Quốc trở về thời Tây Chu.
– Theo Khổng Tử, đạo Nhân không phải để cho tất cả mọi người mà chỉ có ở
những người quân tử (quí tộc, trí thức thuộc tầng lớp thống trị), còn kẻ tiểu
nhân( người lao động, tầng lớp bị trị) thì không bao giờ có.
– Lễ không phải dùng cho tất cả mọi người mà nó chỉ đem áp dụng cho những
người có Nhân vì: “không có nhân thì giữ lễ làm sao được”. “Kẻ tiểu nhân mà có
lễ lá điều chưa từng có”. Mạnh Tử (372- 298 TCN)
Mạnh Tử đã kế thừa và phát triển những tư tưởng của Khổng Tử, xây dựng học
thuyết “ Nhân chính”. Tư tưởng chính trị bao gồm những nội dung sau:
– Thuyết tính thiện: theo Mạnh Tử, bản tính tự nhiên của con người là thiện (nhân
chi sơ tính bản thiện). Con người có lòng trắc ẩn thì tự nhiên có lòng tu ố, từ
nhượng, thị phi. Lòng trắc ẩn là nhân, lòng tu ố là nghĩa, lòng từ nhượng là lễ, lòng thị phi là trí
– Quan niệm về vua-tôi-dân: Thiên tử là do trời trao cho thánh nhân, vận mệnh trời
nhất trí với ý dân. Quan hệ vua-tôi là quan hệ 2 chiều. Tiến thêm 1 bước ông cho
rằng: nếu vua không ra vua thì phải loại bỏ, vua tàn ác thì phải gọi là thằng.
Mạnh Tử là người đầu tiên đưa ra tư tưởng trọng dân: dân là quí nhất, quốc gia thứ
hai, vua không đáng trọng.
– Quan niệm quân tử – tiểu nhân: Quân tử là người lao tâm, cai trị người và được
cung phụng. Tiểu nhân là người lao lực, bị cai trị và phải cung phụng người. Mạnh
tử đề xuất chủ trương “ thượng hiền” dùng người hiền tài để thực hành nhân chính.
– Chủ trương vương đạo: Mạnh Tử kịch liệt phản đối “bá đạo”, nguồn gốc của mọi
rối ren loạn lạc. Chính trị “vương đạo” là nhân chính lấy dân làm gốc.
Học thuyết nhân chính của Mạnh Tử có nhiều tiến bộ so với Khổng Tử. Tuy vẫn
đứng trên lập trường của giai cấp thống trị nhưng ông đã nhìn thấp được sức mạnh
của nhân dân, chủ trương thi hành nhân chính, vương đạo. Đây là những tư tưởng
tiến bộ, nhân đạo. Tuy nhiên, điểm hạn chế của ông là còn tin vào mệnh trời và
tính thần bí trong việc giải quyết vấn đề quyền lực.
Mạnh Tử đưa ra luận điểm coi trọng dân chỉ là thủ đoạn chính trị để thống trị tốt hơn mà thôi.
2. Trình bày mối quan hệ chính trị với kinh tế ?