-
Thông tin
-
Quiz
Bài tập tư tưởng Hồ Chí Minh | Học viện Báo chí và Tuyên truyền
Môn học tư tưởng Hồ Chí Minh đã mang lại cho anh/chị những điều gì? Cảm nhận của anh/chị sau chuyến đi thực tế tại Phủ Chủ Tịch. Tóm tắt chương Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hoá, con người và Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời đọc đón xem!
Tư tưởng Hồ Chí Minh (TTHCM) 39 tài liệu
Học viện Báo chí và Tuyên truyền 2.1 K tài liệu
Bài tập tư tưởng Hồ Chí Minh | Học viện Báo chí và Tuyên truyền
Môn học tư tưởng Hồ Chí Minh đã mang lại cho anh/chị những điều gì? Cảm nhận của anh/chị sau chuyến đi thực tế tại Phủ Chủ Tịch. Tóm tắt chương Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hoá, con người và Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời đọc đón xem!
Môn: Tư tưởng Hồ Chí Minh (TTHCM) 39 tài liệu
Trường: Học viện Báo chí và Tuyên truyền 2.1 K tài liệu
Thông tin:
Tác giả:











Tài liệu khác của Học viện Báo chí và Tuyên truyền
Preview text:
Câu 1: Môn học tư tưởng Hồ Chí Minh đã mang lại cho anh/chị những
điều gì? Cảm nhận của anh/chị sau chuyến đi thực tế tại Phủ Chủ Tịch. (*)
Môn học Tư Tưởng Hồ Chí Minh đã mang lại cho em rất nhiều cảm nhận sâu sắc
và ý nghĩa. Trước hết, qua môn học, em hiểu rõ hơn về cuộc đời và sự nghiệp cách
mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh – vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc Việt Nam và là
danh nhân văn hóa thế giới. Cuộc đời của Bác không chỉ gắn liền với sự nghiệp
đấu tranh giành độc lập dân tộc mà còn là tấm gương sáng về đạo đức, phong cách
và tinh thần cống hiến vì nhân dân. Mỗi bài học từ tư tưởng Hồ Chí Minh đều giúp
em nhận thức sâu sắc hơn về giá trị của cuộc sống, của lý tưởng cách mạng và sự
nỗ lực không ngừng nghỉ.
Môn học còn giúp em hiểu được những giá trị cốt lõi trong tư tưởng yêu nước của
Bác. Hồ Chí Minh là người đã dành cả cuộc đời để tìm ra con đường giải phóng
dân tộc khỏi ách thống trị của thực dân, phong kiến. Với tinh thần yêu nước sâu
sắc, Bác luôn đặt lợi ích của đất nước và nhân dân lên hàng đầu, sẵn sàng hi sinh
bản thân vì sự nghiệp độc lập, tự do. Điều này giúp em nhận ra rằng lòng yêu nước
không chỉ là tình cảm mà còn phải được thể hiện qua hành động cụ thể, qua sự
đóng góp vào xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Học tập bộ môn tư tưởng này, em thấy
bản thân cần phải có trách nhiệm hơn đối với đất nước, không chỉ dừng lại ở việc
học tập tốt mà còn cần tham gia vào các hoạt động xã hội, góp phần phát triển cộng đồng và quốc gia.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về tinh thần đoàn kết dân tộc cũng là một bài học quý báu
mà môn học này đã mang lại. Bác Hồ luôn coi trọng sự đoàn kết, xem đây là sức
mạnh to lớn giúp đất nước vượt qua mọi khó khăn, thử thách. Trong sự nghiệp
cách mạng, Người luôn nhấn mạnh vai trò của sự đồng lòng giữa các tầng lớp nhân
dân, không phân biệt giai cấp, tôn giáo hay địa vị xã hội. Tinh thần đoàn kết ấy
không chỉ giúp Việt Nam giành chiến thắng trong các cuộc đấu tranh chống ngoại
xâm, mà còn là nguồn lực mạnh mẽ để phát triển đất nước trong thời kỳ hòa bình.
Qua đó, em càng ý thức rõ hơn về vai trò của mình trong việc xây dựng mối quan
hệ tốt đẹp với mọi người xung quanh, biết đoàn kết, chia sẻ, giúp đỡ lẫn nhau để
cùng nhau phát triển và cống hiến cho xã hội.
Bên cạnh đó, tư tưởng đạo đức cách mạng của Hồ Chí Minh là một trong những
nội dung trọng tâm mà môn học đã truyền tải, giúp em rút ra nhiều bài học quý giá
trong việc rèn luyện bản thân. Bác Hồ luôn đề cao đức tính cần, kiệm, liêm, chính,
chí công vô tư, xem đó là nền tảng của một người cán bộ cách mạng chân chính.
Điều này không chỉ có ý nghĩa đối với những người hoạt động chính trị mà còn là
bài học đạo đức cho mỗi con người trong cuộc sống thường ngày. Học tập theo
tấm gương của Bác, em hiểu rằng việc tu dưỡng đạo đức là vô cùng quan trọng.
Mỗi người, dù ở vị trí nào trong xã hội, cũng cần phải giữ gìn sự trung thực, ngay
thẳng, sống giản dị, chân thành và biết đặt lợi ích chung lên trên lợi ích cá nhân.
Điều này giúp em nhận thức rõ ràng hơn về trách nhiệm đối với bản thân và cộng
đồng, từ đó cố gắng rèn luyện để trở thành một người công dân tốt.
Ngoài ra, môn học Tư Tưởng Hồ Chí Minh còn giúp em nhận thức sâu sắc hơn về
phong cách lãnh đạo và lối sống của Bác. Dù là một lãnh tụ vĩ đại, Hồ Chí Minh
luôn giữ cho mình một lối sống giản dị, gần gũi với nhân dân. Phong cách lãnh đạo
của Bác dựa trên sự lắng nghe, thấu hiểu và quan tâm đến mọi tầng lớp trong xã
hội, đặc biệt là những người nghèo khổ. Em cảm nhận được rằng, một người lãnh
đạo thực sự là người biết quan tâm, chia sẻ và đồng cảm với những khó khăn của
người khác, đồng thời luôn giữ cho mình sự khiêm tốn, giản dị trong lối sống và
công việc. Đây cũng là bài học quý báu mà em cần áp dụng vào cuộc sống của
mình. Dù ở bất kỳ vị trí nào, em cũng cần giữ cho mình tinh thần cầu thị, khiêm
nhường và luôn sẵn sàng học hỏi từ mọi người xung quanh.
Cuối cùng, một trong những tư tưởng quan trọng mà em rút ra được từ môn học là
tinh thần học tập suốt đời của Bác Hồ. Bác luôn coi trọng việc học, không ngừng
học hỏi từ sách vở, từ cuộc sống và từ mọi người xung quanh. Tinh thần ấy đã
truyền cho em một động lực mạnh mẽ, nhắc nhở em rằng việc học không bao giờ
có điểm dừng, và để trở thành một con người có ích cho xã hội, em cần không
ngừng nỗ lực trau dồi kiến thức, kỹ năng và phẩm chất. Những giá trị mà môn học
truyền tải đã khắc sâu trong tâm trí em, trở thành kim chỉ nam để em tự rèn luyện
bản thân và đóng góp cho xã hội, xứng đáng với những hy sinh mà các thế hệ cha
ông đã dày công vun đắp. (*)
Sau chuyến đi thực tế tại Phủ Chủ tịch, em đã có rất nhiều cảm nhận sâu sắc về
cuộc đời và tấm gương vĩ đại của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Trước hết, Phủ Chủ tịch
là nơi ghi dấu ấn của nhiều sự kiện lịch sử quan trọng và là nơi Bác Hồ đã sống,
làm việc trong những năm tháng cuối đời. Được tận mắt chứng kiến không gian
sinh hoạt, làm việc và phong cách sống giản dị của Bác, em càng thêm hiểu và
ngưỡng mộ tấm gương đạo đức cao đẹp của Người.
Ngôi nhà sàn của Bác là một trong những nơi khiến em ấn tượng nhất trong chuyến
tham quan. Ngôi nhà nhỏ bé, mộc mạc, chỉ với vài vật dụng đơn sơ, nhưng lại là
nơi Bác đã sống và làm việc suốt nhiều năm. Trong không gian ấy, Bác đã suy
nghĩ và đưa ra những quyết sách quan trọng để lãnh đạo đất nước trong những thời
điểm khó khăn nhất của dân tộc. Nhìn thấy chiếc giường gỗ đơn giản, bàn làm việc
với những cuốn sách và tấm bản đồ, em nhận ra rằng Bác Hồ không chỉ là một nhà
lãnh đạo lỗi lạc, mà còn là một người sống giản dị, kiên định với lý tưởng của
mình. Điều này làm em vô cùng cảm phục và ngưỡng mộ tinh thần cống hiến của Người.
Chuyến đi thực tế còn giúp em hiểu rõ hơn về tình yêu thương bao la mà Bác Hồ
dành cho nhân dân, đặc biệt là những người lao động. Trong Phủ Chủ tịch, các
hướng dẫn viên đã kể lại những câu chuyện giản dị về Bác, như việc Người thường
xuyên dành thời gian trồng cây, chăm sóc vườn tược, và trò chuyện với những
người lao động quanh khu vực. Bác luôn quan tâm đến cuộc sống của người dân,
từ những việc nhỏ nhặt nhất, và luôn động viên họ sống và làm việc tốt hơn. Từ
những hành động rất đỗi giản dị ấy, em hiểu rằng Bác Hồ luôn coi trọng và quý
mến mọi tầng lớp trong xã hội, không phân biệt địa vị hay xuất thân. Đây cũng là
một bài học quý báu mà em rút ra từ cuộc đời của Bác, rằng sự gần gũi, quan tâm
đến người khác chính là một phần không thể thiếu của một nhà lãnh đạo chân chính.
Bên cạnh đó, Phủ Chủ tịch còn là nơi lưu giữ những hiện vật gắn liền với những
hoạt động ngoại giao quan trọng của Bác Hồ. Trong suốt cuộc đời hoạt động cách
mạng của mình, Bác không chỉ là người lãnh đạo trong nước mà còn là một nhà
ngoại giao tài ba, góp phần khẳng định vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.
Khi đứng trước các bức ảnh và hiện vật liên quan đến các cuộc gặp gỡ của Bác với
các nhà lãnh đạo quốc tế, em cảm nhận được tầm vóc vĩ đại của Người, không chỉ
trong vai trò lãnh đạo dân tộc mà còn trong việc xây dựng mối quan hệ quốc tế hòa
bình, hữu nghị. Điều này càng làm em thêm tự hào về Bác và về đất nước Việt Nam.
Một khía cạnh khác mà em cảm nhận sâu sắc từ chuyến đi thực tế này là tinh thần
học tập không ngừng nghỉ của Bác Hồ. Trong nhà sàn, Bác dành một góc nhỏ để
đọc sách, nghiên cứu tài liệu. Bác không ngừng học hỏi từ mọi người, từ sách vở
và từ thực tiễn cuộc sống, bất kể ở độ tuổi nào hay ở cương vị nào. Câu chuyện về
việc Bác học ngoại ngữ vào mỗi buổi sáng sớm khi đã ở tuổi cao niên là một minh
chứng cho tinh thần ham học hỏi, cầu tiến của Người. Điều này nhắc nhở em về
tầm quan trọng của việc học tập suốt đời, rằng tri thức là vô hạn và mỗi chúng ta
cần không ngừng nỗ lực để hoàn thiện bản thân. Học tập không chỉ để phục vụ cho
bản thân mà còn là cách để đóng góp cho sự phát triển của đất nước, theo đúng tinh
thần mà Bác Hồ đã nhấn mạnh.
Ngoài ra, chuyến tham quan còn mang đến cho em những suy nghĩ sâu sắc về sự
giản dị và tiết kiệm của Bác Hồ. Bên cạnh những hiện vật mộc mạc trong ngôi nhà
sàn, Bác còn sử dụng những vật dụng đã cũ nhưng vẫn được Người giữ gìn, trân
trọng. Điều này khiến em liên tưởng đến lời dạy của Bác về việc sống giản dị, tiết
kiệm, không xa hoa lãng phí. Trong cuộc sống hiện đại ngày nay, khi mà nhiều
người có xu hướng chạy theo những thứ xa xỉ, thì tấm gương của Bác là một bài
học quý báu về sự khiêm nhường và giản dị. Em hiểu rằng giá trị của một con
người không nằm ở những gì bên ngoài mà là ở cách sống và những đóng góp cho xã hội.
Chuyến đi thực tế tại Phủ Chủ tịch đã giúp em không chỉ hiểu rõ hơn về cuộc đời
và sự nghiệp của Chủ tịch Hồ Chí Minh, mà còn truyền cho em nhiều bài học sâu
sắc về đạo đức, phong cách sống và tinh thần cống hiến. Từ tinh thần yêu nước, sự
giản dị, khiêm nhường, đến lòng yêu thương nhân dân và tinh thần học tập suốt
đời, Bác Hồ đã để lại cho em một tấm gương sáng để noi theo. Qua chuyến đi này,
em càng cảm thấy tự hào khi được sinh ra và lớn lên trên mảnh đất Việt Nam, nơi
có một lãnh tụ vĩ đại như Bác Hồ. Em tự nhủ rằng sẽ cố gắng học tập và rèn luyện
bản thân theo gương Bác, để có thể đóng góp một phần nhỏ bé vào sự phát triển
của đất nước, tiếp nối những giá trị mà Bác đã dày công vun đắp.
Câu 2: Tóm tắt chương Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hoá, con người
và Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức.
CHƯƠNG 6: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VĂN HOÁ, CON NGƯỜI I-
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VĂN HOÁ
1. Hồ Chí Minh – Nhà văn hoá kiệt xuất Việt Nam
“Nhà văn hoá” dân tộc là những con người kiệt xuất có tên tuổi, có cống hiến
lớn lao cho nền văn hoá dân tộc, được lịch sử, dân tộc, người dân biết đến, ghi
nhận và đánh giá cao, đại diện, tiêu biểu, biểu trưng cho một nền văn hoá.
“Nhà văn hoá” thế giới là những nhà văn hoá có tên tuổi trên thế giới, có đóng
góp xuất sắc không chỉ cho sự phát triển văn hoá dân tộc mà còn cho sự phát triển
văn hoá chung của nhân loại, để lại một dấu ấn trong quá trình phát triển của nhân
loại; là đại diện, biểu trưng cho một nền văn hoá thế giới đa bản sắc, vừa thấm
đượm văn hoá dân tộc, vừa thấm đượm tinh hoa văn hoá nhân loại.
Chủ tịch Hồ Chí Minh - người đã để lại một dấu ấn trong quá trình phát triển
của nhân loại vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Người có sự
đóng góp quan trọng về nhiều mặt trong các lĩnh vực văn hoá, giáo dục, nghệ
thuật, chú trọng phát triển văn hoá, nâng cao dân trí, chống giặc dốt, xoá mù chữ.
Người cho rằng, văn hoá phải sửa đổi tham nhũng, lười biếng, phù hoa, xa xỉ, quan
tâm đến việc xây dựng con người mới, chú trọng đến việc giáo dục lý tưởng, giáo dục đạo đức.
“Sự nghiệp văn hoá quan trọng nhất của Người là đã lãnh đạo toàn dân đánh
đuổi giặc ngoại xâm trong thời đại mới, giành lại cho nhân dân những quyền sống
của con người, một cuộc sống có văn hoá. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã góp phần
cùng với loài người loại trừ một trở lực to lớn trên con đường tiến lên thế giới văn
minh, xoá đi vết nhơ trong lịch sử là chế độ thuộc địa”
Chủ tịch Hồ Chí Minh có sự thống nhất giữa nhà chính trị và nhà văn hoá, cả
hai được kết hợp một cách nhuần nhuyễn, tạo nên nhân cách văn hoá Hồ Chí Minh.
Mọi sản phẩm văn hoá của Hồ Chí Minh đều chứa đựng quan điểm chính trị, quan
điểm văn hoá và quan điểm văn hoá chính trị.
2. Quan niệm về văn hoá
Quan niệm về văn hoá là quan niệm chung của nhân loại. Văn hóa là toàn bộ
những giá trị vật chất và tinh thần do loài người sáng tạo ra trong quá trình lịch sử
và tiêu biểu cho trình độ mà xã hội đạt được trong từng giai đoạn về các mặt học
vấn, khoa học, kỹ thuật, văn học, nghệ thuật, triết học, đạo đức, sản xuất... Văn hoá
có những đặc trưng và chức năng cơ bản sau:
Tính hệ thống: Văn hoá làm tăng tính ổn định của xã hội. Nhờ có tính hệ thống mà
văn hóa thực hiện được chức năng tổ chức xã hội.
Tính giá trị: Văn hóa là thước đo mức độ nhân bản của xã hội và con người. Từ
việc điều chỉnh xã hội, văn hóa có chức năng bộ phận là định hướng các chuẩn
mực, điều chỉnh các ứng xử của con người. Từ việc điều chỉnh xã hội, văn hoá có
chức năng phái sinh là động lực cho sự phát triển của xã hội.
Tính nhân sinh: Văn hóa đối lập với tự nhiên, là cái tự nhiên được biến đổi dưới tác
động con người. Nó có chức năng giao tiếp.
Tính lịch sử: Văn hóa được hình thành trong một quá trình và được tích lũy qua
nhiều thế hệ. Tính lịch sử của văn hóa duy trì bằng truyền thống văn hóa. Truyền
thống văn hóa được tồn tại nhờ giáo dục. Vì vậy văn hóa có chức năng giáo dục,
chức năng phái sinh là đảm bảo tính kế tục của lịch sử.
Hồ Chí Minh có bốn cách tiếp cận chủ yếu về văn hoá: 1) Tiếp cận theo nghĩa
rộng, tổng hợp mọi phương thức sinh hoạt của con người; 2) Tiếp cận theo nghĩa
hẹp là đời sống tinh thần của xã hội, thuộc kiến trúc thượng tầng; 3) Tiếp cận theo
nghĩa hẹp hơn là bàn đến các trường học, số người đi học, xoá nạn mù chữ, biết
đọc, biết viết; 4) Tiếp cận theo “phương thức sử dụng công cụ sinh hoạt”.
3. Quan điểm của Hồ Chí Minh về quan hệ giữa văn hoá và các lĩnh vực khác
- Quan hệ giữa văn hóa với chính trị:
+ Văn hóa phải phục vụ nhiệm vụ chính trị
+ Mọi hoạt động của tổ chức và nhà chính trị phải có hàm lượng văn hóa.
+ Người cho rằng “Văn hóa hiểu rộng cũng là chính trị. Chính trị hiểu sâu sắc cũng là văn hóa”.
- Quan hệ giữa văn hóa với kinh tế:
+ Văn hóa không hoàn toàn phụ thuộc vào kinh tế, mà có vai trò tác động tích cực trở lại kinh tế.
+ Sự phát triển của chính trị, kinh tế, xã hội sẽ thúc đẩy văn hóa phát triển và ngược lại.
- Quan hệ giữa văn hóa với xã hội: Giải phóng chính trị đồng nghĩa với giải
phóng xã hội, từ đó văn hóa mới có điều kiện phát triển.
4. Quan điểm của Hồ Chí Minh về giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc, tiếp
thu văn hoa văn hoá nhân loại.
- Giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc:
+ Phải trân trọng, khai thác, giữ gìn, phát huy, phát triển những giá trị tiên tiến của văn hóa dân tộc
+ Mỗi dân tộc phải chăm lo đặc tính dân tộc mình: chăm lo cốt cách dân tộc
đồng thời cần triệt để tẩy trừ mọi dị hại thuộc địa và ảnh hưởng nô dịch của văn
hóa đế quốc, tôn trọng phong tục tập quán, văn hóa của các dân tộc ít người.
- Tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại:
+ Văn hóa của các dân tộc cần phải được nghiên cứu toàn diện.
+ Giữ gìn văn hóa dân tộc nhưng đồng thời phải tiếp thu văn hóa nhân loại.
5. Quan điểm của Hồ Chí về vai trò của văn hoá
- Văn hóa là mục tiêu của cách mạng
- Văn hóa là động lực của cách mạng được hiểu là thúc đẩy xã hội phát triển
- Văn hóa là một mặt trận
- Văn hóa phục vụ quần chúng nhân dân
6. Quan điểm của Hồ Chí Minh về xây dựng nền văn hoá mới
- Là một nền văn hóa toàn diện
- Giữ gìn được cốt cách văn hóa dân tộc
- Bảo đảm tính khoa học, dân chủ, tiến bộ và nhân văn, hướng đến các giá trị chân thiện – mỹ. II-
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CON NGƯỜI
1. Quan niệm về con người
Hồ Chí Minh cho rằng, con người là một chỉnh thể thống nhất về trí lực, tâm
lực, thể lực, đa dạng bởi mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội (quan hệ gia đình,
dòng tộc, làng xã, quan hệ giai cấp, dân tộc…) và các mối quan hệ xã hội (quan hệ
chính trị, văn hoá, đạo đức, tôn giáo,…).
Nét đặc sắc trong quan niệm của Hồ Chí Minh về con người là nhìn nhận đặc
điểm con người Việt Nam với những điều kiện lịch sử, những cấu trúc kinh tế, xã
hội cụ thể. Cách tiếp cận này đi đến việc giải quyết mối quan hệ dân tộc và giai cấp
rất sáng tạo, không chỉ về mặt đường cách mạng mà cả về mặt con người.
2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về vai trò của con người
- Con người là mục tiêu của cách mạng:
+ Giải phóng dân tộc: Con người trong giải phóng dân tộc là cả cộng đồng dân
tộc Việt Nam; còn trên phạm vi thế giới là giải phóng các dân tộc thuộc địa.
+ Giải phóng xã hội: Xã hội đó phát triển cao nhất là xã hội cộng sản, giai đoạn
đầu là xã hội xã hội chủ nghĩa.
+ Giải phóng giai cấp: Con người trong giải phóng xã hội là các giai cấp cần
lao, trước hết là giai cấp công nhân và giai cấp nông dân.
+ Giải phóng con người: Con người trong giải phóng con người là cá nhân mỗi
con người; trên phạm vi thế giới, có thể hiểu là giải phóng loài người.
- Con người là động lực của cách mạng:
+ Theo Hồ Chí Minh, con người là vốn quý nhất, là động lực, nhân tố quyết
định thành công của sự nghiệp cách mạng.
+ Người nhấn mạnh “mọi việc đều do người làm ra”; “trong bầu trời không gì
quý bằng nhân dân. Trong thế giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của
nhân dân"". "Ý dân là ý trời”.
3. Quan điểm của Hồ Chí Minh về xây dựng con người
- Nội dung xây dựng con người phải toàn diện, vừa “hồng” vừa “chuyên”:
+ Có ý thức làm chủ, tinh thần tập thể xã hội chủ nghĩa và tư tưởng “mình vì mọi
người, mọi người vì mình”.
+ Cần kiệm xây dựng đất nước, hăng hái bảo vệ Tổ quốc.
+ Có lòng yêu nước nồng nàn, tinh thần quốc tế trong sáng.
+ Có phương pháp làm việc khoa học, phong cách quần chúng, dân chủ, nêu gương.
- Xây dựng con người phải bằng những phương pháp khoa học, cách mạng.
III- XÂY DỰNG VĂN HOÁ, CON NGƯỜI VIỆT NAM HIỆN NAY
THEO TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
1. Sự cần thiết phải xây dựng văn hoá, con người Việt Nam hiện nay
Văn hóa chưa được quan tâm tương xứng với kinh tế và chính trị.
Vai trò của văn hóa trong xây dựng con người chưa được xác định đúng tầm, còn
có chiều hướng coi trọng chức năng giải trí đơn thuần.
Công tác lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý văn hóa còn nhiều lúng túng, trậm chễ trong
công việc thể chế hóa quan điểm, chủ trương của Đảng về văn hóa.
Việc giới thiệu, quảng bá văn hóa Việt Nam ra nước ngoài còn chưa mạnh; tiếp
nhận tinh hoa văn hóa nhân loại còn có mặt hạn chế.
2. Một số nội dung xây dựng văn hoá, con người Việt Nam hiện nay theo
tư tưởng Hồ Chí Minh
Thứ nhất, về tư tưởng: Kiên định trong việc lựa chọn con đường xã hội chủ
nghĩa, gắn liền độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội. Giữ vững bản chất giai cấp
công nhân, phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng để đưa sự nghiệp xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở nước ta thắng lợi hoàn toàn, thực hiện mục tiêu dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, xã hội công bằng, văn minh.
Thứ hai, về đạo đức: Một lòng một dạ phục vụ Tổ quốc, phụng sự nhân dân;
luôn luôn trung thực, khiêm tốn, giản dị, trong sạch; đoàn kết tương thân tương ái,
tôn sư trọng đạo, tôn vinh những người có công với nước; giữ đạo hiếu trong gia
đình, biết ơn tổ tiên, cha ông; sống thủy chung, tình nghĩa, hợp đạo lý.
Thứ ba, về lối sống: Yêu lao động, tận tụy, quên mình, lao động bền bỉ, tự giác,
sáng tạo vì lợi ích chung của xã hội. Sống trung thực, trọng sự thật, trọng chân lý,
yêu lẽ phải, ghét sự giả dối. Can đảm, đấu tranh bảo vệ lẽ phải, sự thật công lý;
chống cách sống tùy thời, cơ hội chủ nghĩa. Sống giản dị, tiết kiệm, trọng sự thiết
thực, trọng thực chất, không phù phiếm hình thức, phô trương một cách giả tạo.
CHƯƠNG 7: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠO ĐỨC I-
HỒ CHÍ MINH VÀ NỀN ĐẠO ĐỨC MỚI VIỆT NAM
1. Đạo đức – vấn đề quan tâm hàng đầu của Hồ Chí Minh trong sự nghiệp cách mạng
Hồ Chí Minh là hình mẫu nhân cách cao đẹp của con người, của nhà lãnh đạo
cộng sản được nhân dân Việt Nam kính trọng, tin yêu. Tư tưởng đạo đức của Hồ
Chí Minh rất phong phú, sâu sắc, có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn, đã trở thành
tài sản tinh thần vô giá của văn hoá dân tộc và nhân loại, là sức mạnh to lớn làm
nên mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Hồ Chí Minh bắt đầu sự nghiệp cứu
nước bằng cách giáo dục lý tưởng và đạo đức cách mạng cho mọi người.
Như vậy, trong tiến trình cách mạng, trong bất kỳ hoàn cảnh nào, Chủ tịch Hồ
Chí Minh cũng luôn chủ trương phát triển văn hoá, nâng cao dân trí, giáo dục đạo
đức và nâng cao nhân cách cho cán bộ, đảng viên, cho thế hệ trẻ và nhân dân.
Đó là đạo đức làm người, hoàn thiện con người, đạo đức vì thắng lợi của sự
nghiệp vĩ đại là giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người; xây
dựng chủ nghĩa xã hội đem lại ấm no, tự do, hạnh phúc cho nhân dân.
2. Phương pháp tiếp cận của Hồ Chí Minh về đạo đức
Cách tiếp cận khái niệm đạo đức của Hồ Chí Minh: Hồ Chí Minh không đưa ra
định nghãi đạo đức. Trong cuộc sống, những thuật ngữ đạo đức được Người sử
dụng, thực hành đã trở thành hệ thống luận điểm về đạo đức của con người Việt Nam trong thời đại mới.
Quan điểm của Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng:
+ Đối với công dân: Đạo đức Hồ Chí Minh là đạo đức của toàn dân
+ Đối với cán bộ: Hồ Chí Minh chú trọng quan tâm tới đạo đức cán bộ, đảng viên.
+ Đối với Đảng viên, Hồ Chí Minh yêu cầu kiên quyết làm đúng chính sách và
nghị quyết của Đảng, làm gương mẫu cho quần chúng.
+ Đối với lực lượng vũ trang: “Trung với Đảng, hiếu với dân, sẵn sàng chiến đấu
hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội. Nhiệm vụ nào cũng
hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng”. Với cán bộ
chỉ huy quân đội, Người yêu cầu phấn đấu đạt tới "Trí, dũng, nhân, liêm, trung".
+ Đối với công an: Người đòi hỏi tư cách người công an cách mạng là: “Đối với tự
mình, phải cần, kiệm, liêm, chính. Đối với đồng sự, phải thân ái giúp đỡ. Đối với
Chính phủ, phải tuyệt đối trung thành. Đối với nhân dân, phải kính trọng, lễ phép.
Đối với công việc, phải tận tụy. Đối với địch, phải cương quyết, khôn khéo"; phải
“vì nước quên thân, trung thành với Đảng, tận tụy với dân"
+ Đối với những người làm công tác y tế: Hồ Chí Minh mong rằng người thầy
thuốc phải luôn luôn đề cao “y đức”, “y thuật”, “thầy thuốc phải như mẹ hiền”,
“Lương y phải như từ mẫu”.
+ Đối với thầy giáo, cô giáo: Người đã dạy phải thương yêu học sinh, ra sức dạy
tốt, dạy dễ hiểu, yêu nghề, yêu người, xứng đáng là người anh hùng vô danh...".
+ Đối với đoàn viên, thanh niên, Hồ Chí Minh đặt niềm tin rất lớn vào tuổi trẻ.
Người mong muốn thanh niên cần phải vừa “hồng” vừa “chuyên", "yêu đạo đức.
+ Đối với các cháu thiếu niên nhi đồng: “Non sông Việt Nam có trở nên dươi đẹp
hay không, dân tộc Việt Nam có bước tới đài vinh quang đẻ sánh vai với các cường
quốc năm châu được hay không, chính là nhừo một phần lớn ở công học tập của các em”.
3. Hồ Chí Minh thực hiện một cuộc cách mạng trên lĩnh vực đạo đức ở Việt Nam.
Hồ Chí Minh kế thừa có chọn lọc, tiếp nhận và biến đổi những giá trị đạo đức
truyền thống của dân tộc, tinh hoa đạo đức nhân loại và đạo đức của học thuyết
Mác - Lênin, đề xuất kiến tạo một nền đạo đức mới, phù hợp với yêu cầu của cách
mạng Việt Nam và xu thế lịch sử của thời đại.
Những chỉ dẫn thiết thực của Hồ Chí Minh về vai trò, chuẩn mực, những
nguyên tắc và phương pháp xây dựng đạo đức cách mạng có ý nghĩa bền vững.
Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh là một bộ phận của văn hóa dân tộc, là động
lực to lớn của nhân dân trong cuộc đấu tranh chống lại các hiện tượng tha hóa về đạo đức trong xã hội. II-
NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠO ĐỨC
1. Đạo đức là gốc, là nền tảng tinh thần của xã hội, của người cách mạng
Người cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng mới hoàn thành được
nhiệm vụ các mạng vẻ vang.
Người coi đạo đức cách mạng là nguồn nuôi dưỡng và phát triển con người, rất
quan trọng như gốc cây, như ngọn nguồn của sông, suối
Người coi đạo đức cách mạng là chỗ dựa giúp con người vững vàng trong mọi thử thách.
Đạo đức trở thành nhân tố quyết định sự thành bại của mọi công việc, phẩm chất mỗi người.
2. Quan điểm về những chuẩn mực đạo đức cách mạng
Trung với nước, hiếu với dân: Theo Hồ Chí Minh, muốn trung với nước, hiếu với
dân phải chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu và chủ nghĩa cá nhân.
Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư: Là nội dung cốt lõi của đạo đức cách mạng,
đó là phẩm chất đạo đức gắn liền với hoạt động hằng ngày của mỗi người. Cần,
kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, là đại cương đạo đức Hồ Chí Minh.
Thương yêu con người, sống có tình nghĩa: Hồ Chí Minh quan niệm, người cách
mạng là người giàu tình cảm, có tình cảm cách mạng mới đi làm cách mạng. Vì
yêu thương nhân dân, yêu thương con người mà Hồ Chí Minh sẵn sàng chấp nhận
mọi gian khổ, hy sinh để đem lại độc lập cho dân tộc, tự do, hạnh phúc cho con người.
Tinh thần quốc tế trong sáng: Là thực hiện đoàn kết với nhân dân lao động các
nước vì mục tiêu chung: đấu tranh giải phóng con người khỏi ách áp bức, bóc lột;
là tình đoàn kết quốc tế giữa những người vô sản toàn thế giới; là đoàn kết với các
dân tộc vì hòa bình, công lý và tiến bộ xã hội
3. Quan điểm về những nguyên tắc xây dựng đạo đức cách mạng
Nói đi đôi với làm, nêu gương về đạo đức Xây đi đôi với chống
Tu dưỡng đạo đức suốt đời
III- HỌC TẬP VÀ LÀM THEO TẤM GƯƠNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH
1. Học trung với nước, hiếu với dân, suốt đời đấu tranh cho sự nghiệp cách mạng
2. Học cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, đời riêng trong sáng, nếp sống
giản dị và đức khiêm tốn, trung thực
3. Học đức tin tuyệt đối vào sức mạnh của nhân dân, kính trọng nhân dân và
hết lòng, hết sức phục vụ nhân dân; luôn nhân ái, vị tha, khoan dung và nhân hậu với con người
4. Học tấm gương về ý chí và nghị lực tinh thần to lớn, quyết tâm vuọt qua mọi
thử thách, gian nguy để đạt được mục đich cuộc sống
5. Học tấm gương về chủ nghĩa yêu nước kết hợp với chủ nghĩa quốc tế vô sản trong sáng