-
Thông tin
-
Quiz
Quan điểm Hồ Chí Minh về các chuẩn mực đạo đức cách mạng và liên hệ với việc rèn luyện, tu dưỡng đạo đức của bản thân | Tiểu luận Tư tưởng Hồ Chí Minh
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn là tấm gương sáng ngời về đạo đức cách mạng. Người không chỉ để lại cho dân tộc ta một sự nghiệp cách mạng vĩ đại, mà còn để lại cho toàn Đảng, toàn dân ta một di sản cao quý, đó là tấm gương sáng ngời về phẩm chất đạo đức cao đẹp, suốt đời hy sinh phấn đấu quên mình cho đất nước và hạnh phúc của nhân dân. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời đọc đón xem!
Tư tưởng Hồ Chí Minh (TTHCM) 69 tài liệu
Học viện Báo chí và Tuyên truyền 2.5 K tài liệu
Quan điểm Hồ Chí Minh về các chuẩn mực đạo đức cách mạng và liên hệ với việc rèn luyện, tu dưỡng đạo đức của bản thân | Tiểu luận Tư tưởng Hồ Chí Minh
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn là tấm gương sáng ngời về đạo đức cách mạng. Người không chỉ để lại cho dân tộc ta một sự nghiệp cách mạng vĩ đại, mà còn để lại cho toàn Đảng, toàn dân ta một di sản cao quý, đó là tấm gương sáng ngời về phẩm chất đạo đức cao đẹp, suốt đời hy sinh phấn đấu quên mình cho đất nước và hạnh phúc của nhân dân. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời đọc đón xem!
Môn: Tư tưởng Hồ Chí Minh (TTHCM) 69 tài liệu
Trường: Học viện Báo chí và Tuyên truyền 2.5 K tài liệu
Thông tin:
Tác giả:




















Tài liệu khác của Học viện Báo chí và Tuyên truyền
Preview text:
0
HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN
KHOA TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH --- --- TIỂU LUẬN
MÔN: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH Đề tài:
Quan điểm Hồ Chí Minh về các chuẩn mực đạo đức cách
mạng và liên hệ với việc rèn luyện, tu dưỡng đạo đức của bản thân. Học viên : Phạm Hồng Ngọc Mã sinh viên : 2153010054 Lớp : Xã Hội Học K41 HÀ NỘI – 2021 1 MỤC LỤC Table of Contents
MỞ ĐẦU........................................................................................................2
1. Lý do chọn đề tài...................................................................................2
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu.........................................................3
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.........................................................4
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu............................................4
5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn...................................................................5
6. Kết cấu bài tiểu luận: ............................................................................6
NỘI DUNG....................................................................................................7
CHƯƠNG 1: QUAN ĐIỂM HỒ CHÍ MINH VỀ CÁC CHUẨN MỰC
ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG............................................................................7
I. QUAN ĐIỂM HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠO ĐỨC VÀ VỊ TRÍ, VAI TRÒ
CỦA ĐẠO ĐỨC.............................................................................................7
1. Quan điểm Hồ Chí Minh về đạo đức:....................................................7
2. Quan điểm Hồ Chí Minh về vị trí, vai trò của đạo đức........................11 II.
QUAN ĐIỂM HỒ CHÍ MINH VỀ NHỮNG CHUẨN MỰC ĐẠO
ĐỨC CÁCH MẠNG...................................................................................13
1. Trung với nước, hiếu với dân.............................................................13
2. Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư.............................................16
3. Yêu thương con người.........................................................................20
4. Tinh thần quốc tế trong sáng...............................................................22
Tu dưỡng đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên theo tư tưởng Hồ
Chí Minh....................................................................................................25
CHƯƠNG 2: LIÊN HỆ VỚI VIỆC RÈN LUYỆN, TU DƯỠNG ĐẠO
ĐỨC CỦA BẢN THÂN – THANH NIÊN NÓI CHUNG TRONG GIAI
ĐOẠN HIỆN NAY.......................................................................................32
1. Nội dung cơ bản của giáo dục đạo đức cách mạng cho thanh niên trong
tư tưởng Hồ Chí Minh...................................................................................33
2. Thực trạng việc giáo dục đạo đức cách mạng cho thanh niên theo tư
tưởng Hồ Chí Minh.......................................................................................36
3. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả giáo dục đạo đức cách mạng cho
thanh niên theo tư tưởng Hồ Chí Minh.........................................................37
KẾT LUẬN..................................................................................................42
TÀI LIỆU THAM KHẢO..........................................................................45 2 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn là tấm gương sáng ngời về đạo
đức cách mạng. Người không chỉ để lại cho dân tộc ta một sự nghiệp cách
mạng vĩ đại, mà còn để lại cho toàn Đảng, toàn dân ta một di sản cao quý,
đó là tấm gương sáng ngời về phẩm chất đạo đức cao đẹp, suốt đời hy sinh
phấn đấu quên mình cho đất nước và hạnh phúc của nhân dân. Đạo đức Hồ
Chí Minh là di sản tinh thần được hội tụ và hun đúc từ truyền thống dân tộc
và trải nghiệm trong thực tiễn đấu tranh cách mạng, trong cuộc đời vì nước,
vì dân của Người. Đạo đức Hồ Chí Minh là đạo đức của một nhà tư tưởng
lớn mang tầm vóc vĩ nhân của thời đại; lớn lao, cao cả nhưng lại được biểu
hiện một cách chân thực, rất mực giản dị, gần gũi. Trong tác phẩm “Đạo đức
cách mạng” đăng trên Tạp chí học tập, số 12 năm 1958, Hồ Chí Minh viết:
“Đạo đức cách mạng không phải trên trời sa xuống. Nó do đấu tranh, rèn
luyện bền bỉ hằng ngày phát triển và cũng cố. Cũng như ngọc càng mài càng
sáng, vàng càng luyện càng trong. Có hì sung sướng vẻ vang hơn là trau dồi
đạo đức cách mạng để góp phần xứng đáng vào sự nghiệp xây dựng chủ
nghĩa xã hội và giải phóng loài người”.
Đạo đức là một vấn đề rất quen thuộc và gần gũi trong cuộc sống của
mối chúng ta, nó được coi như một biều hiện của nhân cách văn hóa xã hội
nói chung, của con nguời nói riêng. Hồ Chí Minh bắt đầu sự nghiệp cứu
nước, cứu dân bằng cách giáo dục lý tuởng và đạo đức cách mạng cho tất cả
mọi người. Nguời đưa nội dung đạo đức cách mạng vào trong những bài
giảng đẩu tiên cho lớp thanh niên tri thức yêu nước đời đầu của Việt Nam.
Tư tưởng đạo đức của Hồ Chí Minh thuộc hệ tư tuởng của giai cập vô sản –
đạo đức Mác- Lênin, mang bản chất cách mạng và khoa học triệt để, đậm đà 3
truyền thống nhân ái Việt Nam và của toàn nhân loại. Hồ Chí Minh coi đạo
đức là nền tảng của cách mạng, cũng giông như: "Gốc của cây, ngọn nguồn
của sông suối". Việc chăm lo cái gốc, cái nguồn ấy phải là công việc thường
xuyên của toàn Đảng, toàn dân cùng với gia đỉnh và mỗi người trong xã hội.
Do vậy, việc tìm hiểu học tập, vận dụng tư tưởng đạo đức của mỗi người cán
bộ, đảng viên, sinh viên trong giai đoạn hiện nay có ý nghĩa vô cùng quan
trọng và cần thiết trong việc rèn luyện, tu dưỡng, bôi dưỡng đạo đửc để góp
phần xây dựng, đổi mới và đưa đất nước phát triển vững mạnh.
Là một sinh viên, em nhận thức được toàn diện về những vấn đề nói
trên và thấy sự cấp thiết và quan trọng của điều đó, trên nền tảng kiến thức
đã được học tập, nghiêm cứu cùng với việc tiếp cận từ một số những tài liệu
liên quan, em xin phép đi sâu vào nghiên cứu và chọn đề tài: “Quan điểm
Hồ Chí Minh về các chuẩn mực đạo đức cách mạng và liên hệ với việc
rèn luyện, tu dưỡng đạo đức của bản thân.” để kết thúc cho học phần “Tư tưởng Hồ Chí Minh”.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Tiểu luận nêu lên được một cách khái quát nhất quan điểm Hồ Chí
Minh về các chuẩn mực đạo đức cách mạng, sự cần thiết phải nâng cao
nhiệm vụ rèn luyện đạo đức theo tư tưởng Hồ Chí Minh trong cán bộ, đảng
viên cũng như học sinh, sinh viên hiện nay, Từ đó có được kiến thức vững
chắc trong việc xây dựng đạo đức bản thân theo tấm gương đạo đức Hồ Chí
Minh, hiểu rõ quan điểm để không bị lệch lạc cách suy nghĩ, phòng chống,
đẩy lùi tình trạng suy thoái về đạo đức.
Đồng thời, bày tỏ lòng kính yêu vô hạn đến lãnh tụ Hồ Chí Minh, trân
trọng những tư tưởng quý báu của Người đã để lại - một bậc đại nhân, đại 4
trí, đại nghĩa, đại dũng, đại liêm, một tấm gương sáng ngời về đạo đức cách
mạng của Đảng và dân tộc Việt Nam.
Đặc biệt, trong tình hình thế giới đang diễn biến phức tạp, nhanh
chóng, khó lường cũng như có những hiện tượng suy thoái, suy đồi về mặt
đạo đức thì tính cấp thiết của việc tu dưỡng đạo đức, nghiên cứu tìm hiểu lại
càng được đề cao. Một đất nước Việt Nam trong thời kỳ phát triển mới,
chúng ta cần thấm nhuần sâu sắc, vận dụng sáng tạo những nguyên lý và
phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lê nin, Tư tưởng Hồ Chí Minh để
giải quyết những vấn đề nóng bỏng mà thực tiễn đang đặt ra; nghiên cứu,
tuyên truyền, giáo dục Tư tưởng Hồ Chí Minh phải trở thành một nhiệm vụ
mấu chốt của công tác Tư tưởng của Đảng, cần được toàn Đảng, toàn dân
thực hiện chặt chẽ, có chấtlượng và hiệu quả.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu chủ yếu của môn Tư tưởng Hồ Chí Minh là hệ
thống Tư tưởng Hồ Chí Minh, đó là hệ thống tri thức mang tính quy
luật về đối tượng, đòi hỏi phải có thời gian mới có điều kiện xác lập
được một cách đầy đủ và chính xác, mối quan hệ biện chứng giữa lý
luận và thực tiễn của hệ thống quan điểm Hồ Chí Minh, và quá trình
hiện thực hoá TTHCM trong đời sống xã hội.
- Phạm vi nghiên cứu trong các quan điểm của Người về đạo đức cách
mạng và trong thời thì đổi mới hiện nay.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
a. Cơ sở phương lý luận
- Khẳng định được đạo đức trở thành nhân tố quyết định sự thành bại
của mọi công việc và là phẩm chất cần có của mỗi con người. Người
viết: “Cũng như sông thì có nguồn mới có nước, không có nguồn thì 5
sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách
mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng
không lãnh đạo được nhân dân. Vì muốn giải phóng cho dân tộc, giải
phóng cho loài người là một công việc to tát, mà tự mình không có
đạo đức, không có căn bản, tự mình đã hủ hóa, xấu xa thì còn làm nổi việc gì?”.
- Bảo đảm nguyên tắc: Thống nhất tính Đảng và tính khoa học
- Quan điểm thực tiễn và nguyên tắc “Lý luận gắn liền với thực tiễn”
- Quan điểm lịch sử cụ thể
- Quan điểm toàn diện và hệ thống
- Quan điểm thừa kế và phát triển
- Nghiên cứu các tác phẩm và thực tiễn chỉ đạo cách mạng của Hồ Chí Minh
b. Phương pháp nghiên cứu
- Các phương pháp chung (duy vật biện chứng, duy vật lịch sử)
- Các phương pháp cụ thể (Phương pháp lịch sử và logic) - Phương pháp liên ngành
- Phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh,...
- Phương pháp áp dụng thực tiễn
5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
Trong Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII năm 1991, lần đầu tiên
Đảng ta đã nêu lên khái niệm tư tưởng Hồ Chí Minh đó là: “Tư tưởng Hồ
Chí Minh chính là kết quả của sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin
trong điều kiện cụ thể của nước ta” và khẳng định lấy chủ nghĩa Mác-Lênin
và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành
động của Đảng. Trong Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương 6
Đảng khóa VIII thông qua tại Đại hội đại biểu lần thứ IX của Đảng năm
2001, ghi rõ: “Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện
và sâu sắc về những vấn đề cơ bản cách mạng Việt nam, là kết quả của sự
vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể
của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân
tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người”. Tư tưởng Hồ Chí Minh soi
đường cho cuộc đấu tranh của nhân dân ta giành thắng lợi, là tài sản tinh
thần to lớn của Đảng và dân tộc ta.
Bài tiểu luận đã khẳng định giá trị và chứng minh được những quan
điểm đạo đức của Người nói riêng cũng như Tư tưởng Hồ Chí Minh nói
chung là một tài sản vô giá mà Bác đã để lại, bản thân chính Tư tưởng, quan
điểm của Người đã đều có giá trị thực tiễn đối với toàn cán bộ, đảng viên,
với toàn Đảng, toàn dân. Mỗi điều Bác viết, Bác căn dặn, gửi gắm đều dựa
vào dân, dựa vào tình cảnh thực tế để áp dụng mà ai cũng có thể rèn luyện
và thực hiện được. Những điều đó không chỉ mang tính lý thuyết hay thực
hành mà còn củng cố niềm tin, bồi dưỡng lòng yêu nước trong mỗi người.
6. Kết cấu bài tiểu luận: Gồm 2 chương lớn
- Chương 1: Quan điểm Hồ Chí Minh về các chuẩn mực đạo đức cách mạng.
- Chương 2: Liên hệ với việc rèn luyện, tu dưỡng đạo đức của bản thân –
thanh niên nói chung trong giai đoạn hiện nay. NỘI DUNG 7
CHƯƠNG 1: QUAN ĐIỂM HỒ CHÍ MINH VỀ CÁC CHUẨN
MỰC ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG. I.
QUAN ĐIỂM HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠO ĐỨC VÀ VỊ TRÍ, VAI TRÒ CỦA ĐẠO ĐỨC
1. Quan điểm Hồ Chí Minh về đạo đức:
Hiếm có một lãnh tụ nào trên thế giới lại quan tâm và bàn về đạo đức
nhiều như chủ tịch Hồ Chí Minh. Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh luôn được
thể hiện rõ trong những bài viết, bài nói một cách hết sức ngắn gọn, cô đọng,
dễ hiểu, dễ nhớ và quan trọng là dễ thực hiện. Theo Người, đạo đức mới
khác hẳn về chất so với đạo đức cũ: “Có người cho đạo đức cũ và đạo đức
mới không có gì khác nhau. Nói như vậy là lầm to. Đạo đức cũ và đạo đức
mới khác nhau nhiều. Đạo đức cũ như người đầu ngược xuống đất chân
chống lên trời. Đạo đức mới như người hai chân đứng vững được dưới đất,
đầu ngửng lên trời”. Ở Hồ Chí Minh đã hình thành những tư tưởng về đạo
đức mới, đạo đức cách mạng bởi Người vừa tiếp thu các giá trị đạo đức
truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tinh hoa đạo đức nhân loại vừa kế thừa và
phát triển một cách sáng tạo đạo đức học Mácxít.
Đạo đức cách mạng xóa bỏ những gì đã lỗi thời và phát huy mạnh mẽ
những tiềm năng tinh thần, những phẩm chất đạo đức mạng đã giải phóng
con người về kinh tế, chính trị, đồng thời giải phóng con người về mặt đạo
đức truyền thống tốt đẹp của dân tộc và nhân loại. Theo Hồ Chí Minh, phát
huy sức mạnh của đạo đức, đồng thời phải tạo ra một sự chuyển biến trong
truyền thống đạo đức ở Việt Nam, tạo bước ngoặt lịch sử trong sự phát triển
những truyền thống ấy cùng với sự vận động của thực tiễn cách mạng Việt
Nam. Sự nghiệp cách mạng đòi hỏi phải có những con người cách mạng, do
vậy, đạo đức cách mạng chính là bước ngoặt lớn, bước ngoặt căn bản trong 8
lịch sử đạo đức nước nhà. Đạo đức này phải phục vụ sự nghiệp cách mạng
và bản thân nó cũng phải tạo cho mình một sự chuyển biến cách mạng.
Cuộc cách mạng trên lĩnh vực đạo đức là một cuộc biến đổi về chất, là
một sự phủ định biến chứng đối với đạo đức cũ. Nó đặt lại vấn đề cũ, cương
quyết xóa bỏ đi những cái đã lỗi thời, tấn công và xóa bỏ đạo đức phong
kiến. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lật đổ một cách triệt để cái mà đạo đức
phong kiến vẫn tôn thờ, xóa bỏ vị trí độc tôn của vua chúa phong kiến, đặt
vào đó là vị trí của quần chúng nhân dân.
Đạo đức cách mạng không chỉ xóa bỏ sự bất bình đẳng về xã hội, đưa
nhân dân lao động từ chỗ bị khinh rẻ thành những người đáng được kính
trọng, không những vậy còn xóa bỏ tình trạng bất bình đẳng giới, xóa bỏ
mọi sự bất công đối với người phụ nữ trong gia đình và ngoài xã hội. Đạo
đức cách mạng phá tan mọi ràng buộc trong gia đình, mở rộng cánh cửa để
phụ nữ có cơ hội bình đẳng với nam giới, cùng là chủ thể của sự nghiệp cách
mạng, chủ thể của đất nước.
Đạo đức cách mạng phá tan sự nô dịch về tinh thần mà xã hội phong
kiến và chế độ thực dân đã tạo ra. Từ những nhân tố lạc hậu trong tôn giáo,
trong đạo đức, trong giao tiếp, trong phong tục tập quán, đạo đức cách mạng
đem lại cho con người những nhận thức thực sự khoa học về bản thân, gia
đình và xã hội. Yếu tố chính trị, yếu tố tự giác mang một ý nghĩa quyết định
trong đạo đức cách mạng.
Hồ Chí Minh sử dụng các thuật ngữ: “đạo đức mới”, “đạo đức cách
mạng”... để nói về nền đạo đức mới. Đạo đức mà Hồ Chí Minh thường nói
tới là đạo đức của người cách mạng Việt Nam, của cán bộ, đảng viên, thanh
niên và của nhân dân Việt Nam. Gọi là “đạo đức mới”, bởi vì nó chưa hề
xuất hiện trong lịch sử, nó chỉ hình thành và phát triển cùng với tiến trình
xây dựng xã hội mới trên đất nước Việt Nam. Gọi là “đạo đức cách mạng” vì 9
nó là đạo đức phục vụ cách mạng, đạo đức mà người cách mạng cần phải có,
vì đó là đạo đức được nảy sinh và phát triển trong cách mạng. Đạo đức cách
mạng là đạo đức vĩ đại vì “nó không phải vì danh vọng của cá nhân, mà vì
lợi ích chung của Đảng, của dân tộc, của loài người”.
Đặc trưng của tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh là tính hệ thống và tính toàn diện.
Thứ nhất, tính hệ thống của đạo đức cách mạng. Từ sự nhận thức sâu
sắc về vai trò, vị trí của đạo đức cách mạng trong sự nghiệp giải phóng dân
tộc và xây dựng đất nước, nên vấn đề đạo đức đã được Hồ Chí Minh bàn đến
trong suốt quá trình hoạt động cách mạng của Người. Tính hệ thống trong tư
tưởng đạo đức Hồ Chí Minh được biểu hiện ở những nội dung cơ bản sau:
Lần đầu tiên Hồ Chí Minh bàn về đạo đức vào năm 1922 trong tác phẩm Lời
than vãn của Bà Trưng Trắc. Thông qua việc đả kích tên vua bù nhìn Khải
Định khi y sang Pháp, Hồ Chí Minh đã nói về đạo đức của những bậc quân
vương anh minh, của những người lãnh đạo nhân dân đó là phải biết “chịu
khổ trước dân và chia sướng sau dân”, làm theo ý dân, sẵn sàng hi sinh bản
thân để đem lại hạnh phúc cho nhân dân. Trong tác phẩm Đường cách mệnh
viết năm 1927, Người đã dành trang đầu tiên để nói về tư cách đạo đức của
người cách mạng trong ứng xử với mình, với người và với công việc. Tháng
10-1945, Hồ Chí Minh gửi thư cho Ủy ban nhân dân các địa phương trong
cả nước chỉ ra những căn bệnh cần phải kiên quyết sửa chữa của một số cán
bộ, đảng viên thoái hóa biến chất trong Đảng. Tháng 3-1947, với bút danh
Tân Sinh, Hồ Chí Minh viết tác phẩm Đời sống mới. Dưới hình thức hỏi -
đáp, cuốn sách giới thiệu một cách vắn tắt, rõ ràng, dễ hiểu những nội dung
của đời sống mới và nêu ra những yêu cầu cụ thể đối với mỗi người, mỗi gia
đình, từng giới và từng ngành. Tháng 10-1947, khi cuộc kháng chiến chống
Pháp của nhân dân ta đang bước vào giai đoạn khó khăn, quyết liệt, để giáo 10
dục đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên, Người đã viết tác phẩm Sửa
đổi lối làm việc. Tháng 6-1949, với bút danh Lê Quyết Thắng, Người viết
bài Cần, kiệm, liêm, chính đăng trên báo Cứu quốc (từ số 1255 đến số
1258), trong đó Hồ Chí Minh yêu cầu toàn thể cán bộ, đảng viên và nhân
dân phải nghiêm chỉnh thực hiện các phẩm chất cần, kiệm, liêm, chính để
đẩy nhanh cuộc kháng chiến của nhân dân ta đi đến thắng lợi. Tháng 6-1955,
trên báo Nhân Dân, Hồ Chí Minh viết bài Đạo đức cách mạng. Cùng với
việc đưa ra quan niệm về đạo đức cách mạng, Người còn yêu cầu Đảng ta
phải chú trọng hơn đến việc giáo dục đạo đức cách mạng, mở rộng tự phê
bình và phê bình một bộ phận cán bộ, đảng viên hủ hóa. Tháng 12-1958, khi
miền Bắc đang tiến hành công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, miền Nam
đang tiếp tục tiến hành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, Người
viết bài Đạo đức cách mạng đăng trên Tạp chí Học tập. Bác yêu cầu toàn thể
cán bộ, đảng viên và nhân dân phải ra sức rèn luyện đạo đức cách mạng hơn
nữa để hoàn thành nhiệm vụ cách mạng to lớn nhưng hết sức vẻ vang của
dân tộc. Trong Di chúc viết tháng 5-1965, vấn đề đạo đức cách mạng một
lần nữa lại được Người đề cập. Hồ Chí Minh căn dặn cán bộ, đảng viên và
nhân dân ta phải tu dưỡng đạo đức, thấm nhuần đạo đức cách mạng, chống
chủ nghĩa cá nhân, Nhân kỷ niệm lần thứ 39 ngày thành lập Đảng ta (03-02-
1969), Hồ Chí Minh viết bài Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ
nghĩa cá nhân đăng trên báo Nhân Dân. Trong bài viết này, Hồ Chí Minh phê
phán căn bệnh cá nhân chủ nghĩa của một số cán bộ, đảng viên trong Đảng
và đòi hỏi đạo đức cách mạng là phải kiên quyết chống lại chủ nghĩa cá
nhân. Lần cuối cùng vấn đề đạo đức được Hồ Chí Minh bàn đến khi nói
chuyện với cán bộ cao cấp toàn quân ngày 11-5-1969, trong đó, Người cho
rằng cán bộ, đảng viên phải không ngừng học tập và luôn luôn gương mẫu
về đạo đức cách mạng. 11
Thứ hai, tính toàn diện của đạo đức cách mạng. Đạo đức mới, đạo đức
cách mạng được Hồ Chí Minh bàn đên một cách toàn diện với mọi đối
tượng, mọi lĩnh vực hoạt động, trên mọi phạm vị và các mối quan hệ chủ yếu của con người.
Đối với mọi đối tượng - từ cán bộ, đảng viên, công nhân, nông dân, lực
lượng vũ trang, trí thức, phụ nữ, thầy thuốc, thanh niên, thiếu niên; từ đồng
bào các dân tộc thiểu số đến đồng bào các tôn giáo, các nhà tu hành... Cùng
với việc đề cập đạo đức công dân, Người đặc biệt quan tâm đến đạo đức của
cán bộ, đảng viên, thanh niên, Trên mọi lĩnh vực hoạt động của con người -
từ đời sống riêng tư đến đời công, như sinh hoạt, học tập, lao động, chiến
đấu, lãnh đạo, quản lý...
Trên mọi phạm vi từ hẹp đến rộng - từ gia đình đến xã hội (làng xóm,
phố phường, một tập thể, một đơn vị, một tổ chức...), từ giai cấp đến dân tộc,
từ các vùng miền, địa phương, cả nước, từ quốc gia đến quốc tế.
Trong cả ba mối quan hệ chủ yếu của mỗi người - đối với mình, đối với
người, đối với công việc. Đối với mình, không tự kiêu, tự đại, không tự cho
mình là giỏi nhất, sống độ lượng và có chỉ tiến thủ... Đối với người, phải
thực sự yêu quý, kính trọng nhân dân, sống chân thành, không “thiên tư,
thiên vị”, khiêm tốn học hỏi, đoàn kết giúp đỡ nhau cùng tiến bộ, không
nghe nịnh hót cũng không nịnh hót người trên... Đối với công việc, phải tận
tụy, tích cực, chủ động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm.
2. Quan điểm Hồ Chí Minh về vị trí, vai trò của đạo đức
Theo Hồ Chí Minh đạo đức mới, đạo đức cách mạng trước hết là gốc,
là nền tảng của người cách mạng. “Nó là một bộ phận năng động nhất của
thế giới quan, là hiện thực trực tiếp của tự tưởng, có tác dụng chỉ đạo hành
vi ứng xử của con người trong mọi tình huống”. Trong cuộc đấu tranh cách 12
mạng gian khổ, phức tạp và lâu dài, người cách mạng cần phải có đạo đức
làm nền tảng thì mới có thể vượt qua được những khó khăn thử thách, vững
bước trên con đường mà mình đã chọn. Sự nghiệp độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội là sự nghiệp rất to lớn, khó khăn, nặng nề, gian khổ, lâu dài,
không phải một sớm, một chiều. Nó đòi hỏi sự phấn đấu không ngừng của
mỗi người, của mỗi thế hệ, hơn nữa còn của nhiều thế hệ nối tiếp nhau. Song
thời gian nhanh hay chậm, thuận lợi hay khó khăn lại tùy thuộc vào cái tâm,
cái đức của mỗi con người, nhất là người cách mạng.
Hồ Chí Minh ví đạo đức như gốc của cây, như nguồn của sông. Người
viết: “Cũng như sông thì có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông
cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có
đạo đức, không có đạo đức thì dủ tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được
nhân dân”. Sự nghiệp cách mạng là gánh nặng và đường xa, đòi hỏi người
cách mạng phải có đạo đức làm nền tảng mới vượt qua được. Người dạy:
“Sức có mạnh mới gánh được nặng và đi được xa. Người cách mạng phải có
đạo đức cách mạng làm nền tảng, mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ vang”.
Đạo đức cách mạng liên quan trực tiếp tới sự thành bại của cách
mạng. Quần chúng nhìn vào Đảng, tin Đảng, đi theo Đảng, trước hết họ nhìn
vào đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng. Hồ Chí Minh nhắc nhở: “Trước
mặt quần chúng, không phải ta cứ viết lên trán chữ “cộng sản” mà ta được
họ yêu mến. Quần chúng chỉ quý mến những người có tư cách, đạo đức.”
Bên cạnh đó, đạo đức có vai trò hết sức quan trọng liên quan trực tiếp
tới sự thành bại của cách mạng. Bởi cái gốc của cách mạng là quần chúng
nhân dân. Cái gốc của công viêc là cán bộ. Cái gốc của cán bộ là đạo đức:
“Mọi việc thành hay là bại, chủ chốt là do cán bộ có thấm nhuần đạo đức
cách mạng, hay là không” 13
Hồ Chí Minh coi đạo đức là gốc, là nền tảng nhưng không tuyệt đối hóa
vai trò của đạo đức, không hạ thấp, tách rời nó với tài năng của người cách
mạng. Trong tư tưởng đạo đức của Người, chữ “đức” luôn đi đôi với chữ
“tài”, có đức là phải có tài, tài càng lớn thì đức phải càng cao, “Đức – Tài”
hòa quyện với nhau trong nhân cách của người cách mạng, trong đó đạo đức
là cơ sở, điều kiện để phát huy, phát triển tài năng con người. Người chỉ rõ:
“Có tài mà không có đức là người vô dụng, có đức mà không có tài thì làm
việc gì cũng khó.” Cán bộ, đảng viên có đạo đức cách mạng thì dù thuận lợi
hay khó khăn vẫn sẽ luôn một lòng trung thành với sự nghiệp cách mạng,
cách mạng sẽ thành công; và ngược lại, cách mạng sẽ gặp khó khăn, thậm
chí là thất bại. Do vậy, bất cứ giai đoạn nào của cách mạng cũng phải quan
tâm đến việc giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên. II.
QUAN ĐIỂM HỒ CHÍ MINH VỀ NHỮNG CHUẨN MỰC ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG.
1. Trung với nước, hiếu với dân
Trong mối quan hệ đạo đức thì mối quan hệ giữa mỗi người với đất
nước, với nhân dân, với dân tộc là mối quan hệ lớn nhất. Trung, hiếu là
phẩm chất đạo đức quan trọng nhất, bao trùm nhất. Đây là phẩm chất đạo
đức chung nhất, quan trọng nhất và chi phối các phẩm chất khác của con
người Việt Nam. Người nhấn mạnh: “Người cán bộ phải có đạo đức cách
mạng. Phải giữ đạo đức cách mạng mới là người cán bộ cách mạng chân
chính. Đạo đức cách mạng có thể nói tóm tắt là: nhận rõ phải trái, giữ vững
lập trường. Tận trung với nước. Tận hiếu với dân”.
Trung, hiếu là những khái niệm đã có trong tư tưởng đạo đức truyền
thống Việt Nam và phương Đông, xong có nội dung hạn hẹp. Trung với vua, 14
hiếu với cha mẹ, phản ánh bổn phận, trách nhiệm của thần dân đối với vua,
con cái đối với cha mẹ. Tiếp thu giá trị truyền thống, Hồ Chí Minh đã không
gạt bỏ khái niệm trung, hiếu đã ăn sâu bám rễ trong con người Việt Nam mà
đưa vào khái niệm cũ nội dung mới mang tính cách mạng.
Trung với nước, hiếu với dân - đây là chuẩn mực đạo đức có ý nghĩa
hàng đầu. Từ chỗ trung với vua, hiếu với cha mẹ đến trung với nước, hiếu
với dân là một cuộc cách mạng trong quan niệm đạo đức. Hồ Chí Minh đã
gạt bỏ điều cốt lõi nhất trong quan niệm Nho giáo là lòng trung thành tuyệt
đối của nhân dân bị áp bức với chế độ phong kiến mà thiên tử là đại diện.
Nho giáo coi đẫn là để sai khiến, dân như cỏ, đạo đức người quân tử như
gió, gió lướt đến đầu, cỏ rạp đến đấy. Vua là người có quyền hành tuyệt đối,
“quân xử thần từ, thần bất tử bất trung”.
“Trung với nước” là trung thành với sự nghiệp dựng nước và giữ nước
của dân tộc, phải đặt lợi ích của cách mạng, của Tổ quốc lên trên hết, trước
hết và quyết tâm đấu tranh cho sự phồn vinh của đất nước, đem lại ấm no,
hạnh phúc cho Nhân dân. Do đó, theo Hồ Chí Minh, “trung với nước” cũng
là “trung với Đảng”, trung thành với mục tiêu, lý tưởng cách mạng của
Đảng, với sự nghiệp cách mạng của dân tộc do Đảng lãnh đạo, đó là độc lập
dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
“Hiếu với dân” – theo Hồ Chí Minh là phải tôn trọng, yêu kính Nhân
dân, gắn bó máu thịt với Nhân dân, khẳng định sức mạnh to lớn của Nhân
dân và phải coi dân là gốc, nền tảng của sự nghiệp cách mạng.
Đối với Hồ Chí Minh, nước là nước của dân, do dân làm chủ, bao nhiêu
quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân. Nước là của dân nên trung với nước
phải đi liền hiếu với dân. Vì “dân” trong quan niệm của Hồ Chí Minh, dân
phải gắn liền với nước, dân là chủ của đất nước, dân có quyền quyết định 15
vận mệnh quốc gia, “bao nhiêu quyền hành, lực lượng đều thuộc về dân”. Vì
vậy, hiếu với dân là phải một lòng, một dạ “phụng sự Nhân dân. Nghĩa là
làm đầy tớ cho dân”6. Ở Người, lý luận luôn gắn chặt với thực tiễn, lời nói
luôn đi đôi với việc làm. Cuộc đời của Người là minh chứng sinh động về tư
tưởng tận trung với nước, tận hiếu với dân. Trung với nước thể hiện mối
quan hệ giữa cá nhân với cộng đồng, xã hội, thể hiện trách nhiệm với sự
nghiệp dụng nước và giữ nước. Tư tưởng trung với nước, hiếu với dân của
Hồ Chí Minh đã vượt qua những hạn chế của chủ nghĩa yêu nước truyền
thống Việt Nam. “Trung với Đảng, hiếu với dân, sẵn sàng chiến đấu hy sinh
vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội. Nhiệm vụ nào cũng hoàn
thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng”. Đây
không chỉ là lời kêu gọi mà còn là sự định hướng chính trị - đạo đức cho mỗi
người Việt Nam không phải chỉ trong cuộc đấu tranh cách mạng trước kia và
hiện nay, mà còn lâu dài về sau. Yêu nước, trung với nước xưa nay vẫn đứng
đầu bảng giá trị tỉnh thần đạo đức truyền thống của dân tộc Việt Nam. Ngày
nay, trung với nước là: Tuyệt đối trung thành với sự nghiệp xây dựng và bảo
vệ đất nước, đặt lợi ích của Đảng, của Tổ quốc, của nhân dân, của cách
mạng lên trên hết. Phấn đấu thực hiện mục tiêu cách mạng; thực hiện tốt mọi
chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước.
Đối với cán bộ, đảng viên, Hồ Chí Minh còn đòi hỏi phải “tận trung với
nước, tận hiếu với dân” mới xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ
trung thành của nhân dân, Hồ Chí Minh dặn dò: “Cán bộ từ trên xuống dưới,
từ Bác đến cán bộ xã đều là đày tớ của nhân dân, không phải là vua, là quan
như ngày trước mà đè đầu cưỡi cố nhân dân”. Do đó, trung với nước phải đi
liền với hiếu với nhân dân. Hiếu với dân không chỉ dừng lại ở chỗ thương
dân mà còn phải phục vụ dânChính điều này đã làm cho tư tưởng đạo đức
Hồ Chí Minh hoàn toàn khác về bản chất so với đạo đức cũ. Vì vậy, ngày 16
nay hiếu với dân là: Yêu dân, kính trọng dân, lấy dân làm gốc. Đề cao tinh
thần phục vụ nhân dân, có trách nhiệm trước nhân dân. Do vậy, trách nhiệm
của người cán bộ là trách nhiệm với nhân dân, với công việc và với cấp trên;
luôn quan tâm chăm lo cho đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân, chăm
lo cải thiện đời sống cho dân; khi dân còn thiếu thì không có quyền đòi hỏi
sung sướng cho riêng mình. Tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của dân,
nâng cao dân trí để dân biết và sử dụng quyền làm chủ của mình. Có được
cải đức ấy thì người cách mạng, người lãnh đạo sẽ được dân tin yêu, quý
trọng, nhất định sẽ tạo được sức mạnh to lớn cho cách mạng.
2. Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư
Khổng Tử đã từng nêu lên những khái niệm về cần, kiệm, liêm, chính
tuy nhiên ông cho rằng cần, kiệm, liêm, chính là những đức tính do “thiên
phú”. Tuy nhiên, khi vận dụng những khái niệm này của đạo đức cũ Người
lại cho rằng cần, kiệm, lêm, chính không phải do thiên phú mà do sự rèn
luyện bền bỉ mà nên, cho nên Người đã khằng đinh: đạo đức cách mạng
không phải tự trên trời sa xuống mà do sự rèn luyện bền bỉ mà nên.
Cần, kiệm, liêm, chính vốn là những khái niệm cũ của đạo đức phương
Đông, được Hồ Chí Minh vận dụng và đem vào nó một ý nghĩa mới. Người
đề cập đến phẩm chất này nhiều nhất, thường xuyên nhất, vì đây là phẩm
chất đạo đức mà mỗi người phải coi mình là đối tượng rèn luyện. Đối với
mỗi người, phẩm chất này có hay không, nhiều hay ít đều được thể hiện qua
hoạt động thực tiễn, trong đời công cũng như đời tư, trong sinh hoạt cũng
như trong công việc của người cách mạng đảm nhiệm. Trong cuộc sống, nếu
sự dối trá vẫn còn tìm được nhiều chỗ ẩn náu, thì những thói lười biếng, xa
hoa, lãng phí, bất liêm, bất chính, hủ bại, sa đọa, thu vén lợi ích riêng tư, làm 17
hại lợi ích chung,... có cơ hội trỗi dậy, nhưng lại khó che giấu được con mắt
của những người bình thường.
Cần kiệm liêm chính, chí công vô tư được Hồ Chí Minh giải thích rất
rõ, rất cụ thể, rất dễ hiểu đối với mọi người. Nếu phẩm chất này đã rất cần
thiết đối với con người Việt Nam khi đất nước chiến tranh, thì nay lại càng
cần thiết khi cả nước đang quá độ lên chủ nghĩa xã hội, xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
o Cần: tức là siêng năng, chăm chỉ, cố gắng dẻo dai. Lao động có kế
hoạch, có năng suất cao; lao động với tinh thần tự lực cánh sinh,
không lười biếng, không ỷ lại, không dựa dẫm.
o Kiệm: là tiết kiệm, không xa xỉ, không hoang phí. Tiết kiệm sức lao
động, tiết kiệm thì giờ, tiết kiệm tiền của của dân, của nước, của bản
thân mình; phải tiết kiệm từ cái to đến cái nhỏ, nhiều cái nhỏ cộng lại
thành cái to, không xa xỉ, không hoang phí, không bừa bãi, không phô
trương hình thức, không liên hoan, chè chén lu bù.
o Liêm: là trong sạch, không tham lam... Không tham tiền của, địa vị,
danh tiếng, ăn ngon. Liêm tức là “luôn luôn tôn trọng, giữ gìn của
công và của dân”; “Không xâm phạm một đồng xu, hạt thóc của nhà
nước, của nhân dân”. Phải “trong sạch, không tham lam”, “không
tham địa vị. Không tham tiền tài. Không tham sung sướng. Không
ham người tâng bốc mình. Vì vậy mà quang minh chính đại không
bao giờ hủ hóa. Chỉ có một thứ ham là ham học, ham làm, ham tiến bộ. o
nghĩa là không tà, thẳng thắn, đứng đắn. Chính: 18
Chính là đối với mình - không tự cao, tự đại, luôn chịu khó học tập cầu
tiến bộ, luôn tự kiểm điểm để phát triển điều hay, sửa đổi điều dở của bản thân mình.
Đối với người - không nịnh hót người trên, không xem khinh người
dưới; luôn giữ thái độ chân thành, khiêm tốn, đoàn kết thật thà, không dối trá, lừa lọc.
Đối với việc - để việc công lên trên, lên trước việc tư, việc nhà. Đã phụ
trách việc gì thì quyết làm cho kỳ được, cho đến nơi đến chốn, không sợ khó
khăn; việc thiện thì dù nhỏ mấy cũng làm, việc ác thì dù nhỏ mấy cũng
tránh. Mỗi ngày cố làm một việc có lợi cho nước, cho dân o Chí công vô
tư: về thực chất là nối tiếp Cần, Kiệm, Liêm, Chính, Hồ
Chí Minh yêu cầu người cách mạng phải rất mực công minh, chính
trực, công bằng, công tâm, không thiên từ thiên vị, không nghĩ đến
mình trước, chỉ biết vì Đảng, vì Tổ quốc, vì đồng bào, đặt lợi ích của
cách mạng, của nhân dân lên trên hết, trước hết, Những yếu tố này có
mối quan hệ biện chứng với nhau: “CẦN, KIỆM, LIÊM, là gốc rễ của
CHÍNH. Thực hành chí công vô tư là quét sạch chủ nghĩa cá nhân,
nâng cao đạo đức cách mạng. “phải lo trước thiên hạ, vui sau thiên
hạ (tiên thiên hạ chi ưu nhi ưu, hậu thiên hạ chi lạc nhi lạc). Chủ nghĩa
cá nhân chỉ biết đến mình, muốn “mọi người vì mình”. Nó là giặc nội
xâm, còn nguy hiểm hơn cả giặc ngoại xâm. Hồ Chí Minh viết: “ Một
dân tộc, một đảng và mỗi con người, ngày hôm qua là vĩ đại, có sức
hấp dẫn lớn, không nhất định hôm nay vẫn được mọi người yêu mến
và ca ngợi, nếu lòng dạ không trong sáng nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cá
nhân”. Hồ Chí Minh cũng phân biệt lợi ích cá nhân và chủ nghĩa cá
nhân. Chí công vô tư là tính tốt có thể gồm 5 điều: nhân, nghĩa, trí,
dũng, liêm. Bồi dưỡng phẩm chất đạo đức cần, kiệm, liêm, chính, chí 19
công vô tư là để vững vàng qua mọi thử thách : Giàu sang không
quyến rũ, nghèo khó không thể chuyển lay, uy vũ không thể khuất
phục. Nhưng một cây cần có gốc rễ, lại cần có ngành, lá, hoa, quả mới
là hoàn toàn. Một người phải cần, Kiệm, Liêm nhưng còn phải
CHÍNH mới là người hoàn toàn”.
Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư lấy chính bản thân mỗi người
cách mạng làm đối tượng điều chỉnh. Nó diễn ra hàng ngày, hàng giờ trong
công tác, sinh hoạt, Cần, kiệm, liêm, chính, chỉ công vô tư là những khái
niệm đạo đức phương Đông, đạo đức truyền thống Việt Nam, được Hồ Chí
Minh cải biến nội dung, đưa vào yêu cầu và nội dung mới, Người nói: “Bọn
phong kiến ngày xưa nêu ra cần, kiệm, liêm, chính, nhưng không bao giờ
làm mà lại bắt nhân dân phải tuân theo để phụng sự quyền lợi cho chúng.
Ngày nay ta để ra cần, kiệm, liêm, chính cho cán bộ thực hiện làm gương
cho nhân dân theo để lợi cho nước cho dân”.
Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư cần thiết đối với tất cả mọi
người. Nó là thước đo bản chất người của một con người. Người ví những
đức tính đó như mùa của trời, phương của đất, đức của con người:
“Trời có bốn mùa: Xuân, Hạ, Thu, Đông.
Đất có bốn phương: Đông, Tây, Nam, Bắc.
Người có bốn đức: Cần, kiệm, Liêm, Chính.
Thiếu một mùa, thì không thành trời,
Thiếu một phương, thì không thành đất.
Thiếu một đức, thì không thành người”?.
Cần, kiệm, liêm, chính, càng vô cùng cần thiết đối với cán bộ, đảng
viên và đối với dân tộc. Người nói: “Một dân tộc biết cần, biết kiệm, liêm là
một dân tộc giàu về vật chất, mạnh về tinh thần, là một dân tộc văn minh
tiến bộ”. Thực hiện cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư phải đi liền với