Bài tập tư tưởng Hồ Chí Minh | Trường Đại học Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội
Đến thời Lênin, cách mạng giải phóng dân tộc đã trở thành một bộ phận của cách mạng vô sản, nên ông cho rằng cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản ở chính quốc cần phải liên minh với cuộc đấu tranh của các dân tộc bị áp bức ở các thuộc địa. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!
Môn: Tư tưởng hồ chí minh(VNU)
Trường: Trường Đại học Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc:
Mục tiêu hàng đầu của Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc
chính là việc tập hợp được tất cả các lực lượng quần chúng, đặc biệt là
giai cấp công nhân và nông dân để tiến hành cuộc đấu tranh cách mạng
giải phóng dân tộc, đi theo con đường cách mạng vô sản.
Với việc tiếp thu những tư tưởng, lý luận sắc bén của chủ nghĩa Mác-
Lênin, Nguyễn Ái Quốc đã có những bước chuyển biến về chất trong tư
tưởng của mình. Người từ chủ nghĩa yêu nước đến chủ nghĩa Mác-
Lênin, từ giác ngộ dân tộc đến giác ngộ giai cấp và từ một người con
yêu nước thành một người cộng sản.
Người đã vận dụng một cách sáng tạo, phù hợp với hoàn cảnh lịch sử
của dân tộc để đưa ra những đường lối đúng đắn đối với cách mạng
nước ta. Đồng thời, Hồ Chí Minh cũng nhấn mạnh vai trò của việc đoàn
kết với phong trào cách mạng quốc tế, không để chủ nghĩa tư bản có
điều kiện cô lập phong trào giành độc lập và các cuộc cách mạng tư ở
từng quốc gia, từng thuộc địa.
Với hàng loạt các tác phẩm như: Bản án chế độ thực dân Pháp (1925),
Đường Kách mệnh (1927), văn kiện Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn
tắt, Chương trình và Điều lệ vắn tắt của Đảng… đã đánh dấu sự hình
thành cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về con đường cách mạng giải
phóng dân tộc của Việt Nam.
2. Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc:
Do có không ít các quan điểm, những luồng ý kiến khác nhau về nội
dung tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc, em xin
phép được nêu vắn tắt thành một hệ thống luận điểm sau đây:
2.1. Cách mạng giải phóng dân tộc đi theo con đường cách mạng vô sản:
Từ đầu những năm 20 thế kỷ XX, Nguyễn Ái Quốc đã chỉ rõ: Chủ nghĩa
đế quốc là một con đỉa hai vòi, một vòi bám vào chính quốc, một vòi
bám vào thuộc địa. Muốn đánh bại chủ nghĩa đế quốc, phải đồng thời cắt
cả hai cái vòi của nó đi, tức là phải kết hợp cách mạng vô sản ở chính
quốc với cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa; phải xem cách mạng
ở thuộc địa như là “một trong những cái cánh của cách mạng vô sản”;
mặt khác, cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải đi theo con
đường cách mạng vô sản.
2.2. Lực lượng của cách mạng giải phóng dân tộc chính là đoàn kết
toàn dân trên cơ sở liên minh công – nông:
Hồ Chí Minh cho rằng, cách mạng giải phóng dân tộc là việc chung của
dân chúng, vì vậy phải đoàn kết toàn dân, sĩ, nông, công, thương đều
nhất trí chống lại cường quyền, nhưng trong sự tập hợp đó, luôn phải
nhớ: “Công nông là người chủ cách mệnh… Công nông là gốc cách mệnh”.
Như vậy, tổ chức chính trị có thể thực hiện việc quy tụ, tập hợp rộng rãi
mọi tầng lớp nhân dân là “Mặt trận dân tộc thống nhất” dưới sự lãnh đạo
của Đảng nhằm tạo ra sức mạnh của cả dân tộc trong cuộc đấu tranh
giành độc lập, tự do; đấu tranh chống lại kẻ thù là bọn đế quốc và đại địa chủ phong kiến, tay sai.
2.3. Cách mạng giải phóng dân tộc cần được tiến hành chủ động,
sáng tạo và có khả năng giành thắng lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc:
Cách mạng giải phóng dân tộc cần được tiến hành chủ động, sáng tạo và
có khả năng giành thắng lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc. Đây
là một luận điểm mới và sáng tạo của Hồ Chí Minh. Trong phong trào
cộng sản quốc tế lúc bấy giờ đã từng tồn tại quan điểm xem thắng lợi
của cách mạng thuộc địa phụ thuộc trực tiếp vào thắng lợi của cách
mạng vô sản chính quốc. Do nhận thức được thuộc địa là một khâu yếu
trong hệ thống của chủ nghĩa đế quốc, do đánh giá đúng đắn sức mạnh
của chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc, ngay từ năm 1924, Người
đã sớm cho rằng cách mạng thuộc địa không những không phụ thuộc
vào cách mạng vô sản ở chính quốc mà có thể giành thắng lợi trước. Đây
là một cống hiến rất quan trọng vào kho tàng lý luận Mác – Lênin, đã
được thắng lợi của cách mạng Việt Nam chứng minh là hoàn toàn đúng đắn.
2.4. Cách mạng giải phóng dân tộc được thực hiện bằng phương
pháp cách mạng bạo lực, kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang:
Theo Hồ Chí Minh, cách mạng bạo lực là sử dụng bạo lực cách mạng
của quần chúng nhân dân để chống lại bạo lực phản cách mạng của bọn
xâm lược cấu kết với những kẻ phản động. Người viết: “Trong cuộc đấu
tranh gian khổ chống kẻ thù của giai cấp và của dân tộc, cần dùng bạo
lực cách mạng chống lại bạo lực phản cách mạng, giành lấy chính quyền
và bảo vệ chính quyền. Tháng 5/1941, tại Hội nghị Trung Ương VIII,
Người cũng đã đưa ra nhận định: “Cuộc cách mạng Đông Dương phải
kết liễu bằng một cuộc khởi nghĩa vũ trang”.
Như vậy, qua sự tư duy của Hồ Chí Minh và trí tuệ của Đảng Cộng sản
Việt Nam, đường lối và phương pháp đấu tranh của cách mạng vô sản đã
chuyển thành đường lối và phương pháp đấu tranh của cách mạng giải
phóng dân tộc, phù hợp với thực tiễn đất nước ta; Người đã vận dụng
sáng tạo và phát triển học thuyết của Lênin về cách mạng thuộc địa
thành một hệ thống luận điểm mới mẻ, sáng tạo, trong đó bao gồm cả
đường lối chiến lược, sách lược và phương pháp tiến hành cách mạng
giải phóng dân tộc ở thuộc địa.
3. Phân tích quan điểm sáng tạo của Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc:
3.1. Quan điểm trước đó của Quốc tế Cộng sản:
Từ năm 1919 đến năm 1928, Quốc tế Cộng sản vẫn luôn cho rằng: “Chỉ
có thể thực hiện hoàn toàn công cuộc giải phóng các thuộc địa khi giai
cấp vô sản giành được thắng lợi ở các nước tư bản tiên tiến”. Ý kiến này
đã giảm tính chủ động, sáng tạo của cách mạng thuộc địa, làm cho
phong trào cách mạng ở các nước rơi vào tình trạng thoái trào.
3.2. Quan điểm của Hồ Chí Minh:
Trong khi Quốc tế Cộng sản đánh giá thấp vị trí, vai trò của cách mạng
thuộc địa trong mối quan hệ với cách mạng vô sản ở chính quốc,
Nguyễn Ái Quốc lại đưa ra những quan điểm khác với quan điểm của
Quốc tế Cộng sản. Người khẳng định: “…Vận mệnh của giai cấp vô sản
thế giới và đặc biệt là vận mệnh của giai cấp vô sản ở các nước đi xâm
lược thuộc địa gắn chặt với vận mệnh của giai cấp bị áp bức ở các thuộc
địa… nọc độc và sức sống của con rắn độc tư bản chủ nghĩa đang tập
trung ở các thuộc địa…”, và nếu khinh thường cách mạng ở thuộc địa
tức là “…muốn đánh chết rắn đẳng đuôi”.
Người đã chỉ rõ cái sai của Quốc tế Cộng sản lúc bấy giờ và tìm ra được
liều thuốc vực dậy cuộc cách mạng thuộc địa; Nguyễn Ái Quốc thẳng
thắn phê bình những người cộng sản ở các nước tư bản đã coi nhẹ vấn đề
thuộc địa và không thực hiện đúng di huấn của Lênin về vấn đề dân tộc
và thuộc địa; ngay cả những người lãnh đạo Quốc tế Cộng sản lúc bấy
giờ cũng đặt cách mạng thuộc địa phụ thuộc vào cách mạng vô sản ở
chính quốc, đặt sự nghiệp giải phóng dân tộc phụ thuộc vào sự nghiệp
giải phóng giai cấp vô sản, coi phong trào giải phóng dân tộc là “hậu bị
quân” của cách mạng vô sản ở chính quốc.
Vận dụng công thức của C.Mác, với nhận thức cách mạng giải phóng
dân tộc cần được tiến hành chủ động, sáng tạo, Hồ Chí Minh chỉ rõ: “…
Công cuộc giải phóng anh em chỉ có thể thực hiện được bằng sự nỗ lực
của bản thân anh em”. Theo Người, tất cả sinh lực của chủ nghĩa tư bản,
đế quốc đều lấy ở các xứ thuộc địa.
Người đã lấy hình ảnh con đỉa hai vòi để minh họa cho chủ nghĩa tư bản
lúc bấy giờ với hai đầu hút máu ở chính quốc và thuộc địa. Khi đánh vào
đầu ở chính quốc, nó sẽ tích cực hút máu ở thuộc địa làm cho sức sống
của thuộc địa cạn kiệt, sức đấu tranh không còn, con đỉa bị đánh nhanh
chóng hồi phục và quay lại chống cách mạng chính quốc, điều đó không
những gây tổn thất cho phong trào chống cách mạng chính quốc mà còn
khiến nó quen mùi, hút mạnh hơn ở thuộc địa.
Cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa là tất yếu. Hồ Chí Minh đã
chỉ ra rằng nhân dân thuộc địa đang tiềm ẩn một sức mạnh to lớn mà
cách mạng giải phóng dân tộc là sự nghiệp thiết thân của họ, họ phải
đứng lên tự giải phóng mà không thể dựa vào sự cầu viện ở bất cứ ai.
Nếu được thức tỉnh thì nhân dân thuộc địa sẽ là một lực lượng khổng lồ
có thể làm nên sự nghiệp cách mạng.
Người cũng chỉ ra rằng, cách mạng chính quốc và cách mạng thuộc địa
cùng với các dân tộc cần đoàn kết để tiến hành một cuộc cách mạng triệt
để. Một mặt tấn công ở chính quốc, đồng thời cũng tấn công ở thuộc địa,
khi bị đau ở cả hai đầu, “con đỉa” ấy sẽ có xu hướng quay về giữ sân nhà
của mình, tạo đà cho cuộc cách mạng thuộc địa giành thắng lợi.
Sau khi mất nguồn sinh lực của mình, sức mạng của chủ nghĩa tư bản
dần dần bị suy giảm, lúc ấy cách mạng ở chính quốc sẽ đặt dấu chấm hết
cho chúng. Người khẳng định: Cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc
địa có thể nổ ra và giành thắng lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc,
rồi sau đó giúp đỡ cho những người anh em của mình ở chính quốc trong
nhiệm vụ giải phóng hoàn toàn.
Suy luận sáng tạo của Hồ Chí Minh đã được Đại hội VII Quốc tế Cộng
sản nhận ra và lập tức chuyển hướng chiến lược, kêu gọi: “Vô sản ở tất
cả các nước và các dân tộc áp bức đoàn kết lại”, chủ động thực hiện cách
mạng đấu tranh giành độc lập tự do của chính mình.
3.3. Lý giải cho sự hình thành tư tưởng sáng tạo của Hồ Chí Minh:
Theo Hồ Chí Minh, cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa
có sức bật thuận lợi vì:
Chính sách khai thác, bóc lột thuộc địa hết sức tàn bạo và dã man của
chủ nghĩa đế quốc ở nhiều nơi đã đẩy nhan dân thuộc địa vào khó khưn,
túng quẫn; Điều đó đã làm cho lòng căm thù, tức giận chủ nghĩa đế quốc
tư bản trong nhân dân thuộc địa vô cùng sâu sắc.
Tinh thần yêu nước chân chính của các dân tộc là một sức mạnh to lớn,
một vũ khí tiềm ẩn của cách mạng giải phóng dân tộc. Sức mạnh đó nếu
được giác ngộ và soi đường sẽ tạo thành một sức mạnh to lớn thật sự, có
thể đánh đổ được chủ nghĩa tư bản.
Hồ Chí Minh nhận thấy, thuộc địa là một khâu yếu nhất trong hệ thống
của chủ nghĩa đế quốc, còn chủ nghĩa yêu nước ở thời hiện đại đã thực
sự trở thành động lực giải phóng dân tộc.
3.4. Lý giải cho sự sáng tạo của Hồ Chí Minh:
Có thể thấy rằng trong công cuộc giải phóng các dân tộc thuộc địa và
nửa thuộc địa thì quan điểm : Chỉ có thể giải phóng các thuộc địa khi
giai cấp vô sản giành được thắng lợi ở các nước tư bản tiến tiến đã trở
thành một tôn chỉ duy nhât, bất di bất dịch, bởi đó là quan điểm xuất
phát từ tư tưởng Mác-Lênin. Nhưng đến Hồ Chí Minh, Người lại khẳng
định có thể xảy ra điều ngược lại. Điều đó trước hết bắt nguồn từ tư duy
và tầm nhìn của mỗi người. Không thể đi so sánh giữa Hồ Chí Minh và
Mác-Lênin, nhưng chúng ta có thể nhận thấy rằng yếu tố thời đại có ảnh
hưởng không nhỏ đến tư tưởng của mỗi người.
Thời C.Mác và Ph. Ăngghen, hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa tư bản đã
được mở rộng, nhưng cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc chưa phát
triển mạnh, bởi vậy, theo các ông, vận mệnh loài người, tương lai của
cách mạng giải phóng dân tộc vẫn phần lớn phụ thuộc vào thắng lợi của
cách mạng vô sản ở các nước tư bản chủ nghĩa phát triển.
Đến thời Lênin, cách mạng giải phóng dân tộc đã trở thành một bộ phận
của cách mạng vô sản, nên ông cho rằng cuộc đấu tranh của giai cấp vô
sản ở chính quốc cần phải liên minh với cuộc đấu tranh của các dân tộc
bị áp bức ở các thuộc địa. Bởi vậy, thay thế cho khẩu hiệu thời C.Mác
“Vô sản tất cả các nước liên hợp lại”, ông đưa ra khẩu hiệu: “Vô sản tất
cả các nước và các dân tộc bị áp bức đoàn kết lại”. Nhưng ông vẫn
không nhận ra được cách mạng ở các nước thuộc địa có thể giành thắng
lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc.
Tuy nhiên, Hồ Chí Minh trên góc độ của người thuộc địa, góc độ của các
dân tộc bị áp bức đã phê phán một cách có căn cứ và hết sức sâu sắc chủ
nghĩa đế quốc và đã chỉ ra rằng sức sống của chủ nghĩa đế quốc một
phần quan trọng nằm ở thuộc địa. Mặt khác, so với những bậc tiền bối đi
trước, Người có điều kiện để đi nhiều nơi, từ Châu Á sang Châu Âu, tới
Châu Phi nên người có điều kiện tìm hiểu, tiếp cận cuộc sống ở những
mảnh đất đó chứ không phải chỉ gói gọn trong mỗi Châu Âu và một
phần Châu Á (nước Nga) như Lênin,
Người nói: “Hiện nay nọc độc và sức sống của con rắn độc tư bản chủ
nghĩa đang tập trung ở các nước thuộc địa hơn là ở chính quốc”. Đây là
điều quan trọng mà Hồ Chí Minh bổ sung, phát triển chủ nghĩa Mác-
Lênin. Từ đó, Người viết: “CNTB là một con đỉa có một cái vòi bám vào
giai cấp vô sản ở chính quốc và một cái vòi khác bám vào giai cấp vô
sản ở các thuộc địa. Nếu người ta muốn giết con vật ấy, người ta phải
đồng thời cắt cả hai vòi.
Nếu người ta chỉ cắt một vòi thôi, thì cái cái vòi kia vẫn tiếp tục hút máu
của giai cấp vô sản, con vật vẫn tiếp tục sống và cái vòi bị cắt đứt sẽ lại
mọc ra”. Bởi vậy, vừa phải tiến hành đồng thời cach mạng ở chính quốc
và ở thuộc địa. Trên góc độ phê phán ấy, người đã nhìn ra được khả năng
cách mạng của các nước thuộc địa và đi đến khẳng định rằng: cách mạng
giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa có khả năng giành thắng lợi
trước cách mạng vô sản ở chính quốc.
3.5. Ý nghĩa của quan điểm sáng tạo về giải phóng dân tộc của Hồ Chí Minh:
Giá trị lý luận: Đây là một cống hiến vô cùng quan trọng vào kho tàng lý luận Mác – Lênin
Giá trị thực tiễn: Đây là quan điểm có ý nghĩa thực tiễn to lớn, giúp cách
mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam không thụ động, ỷ nại chờ sự giúp
đỡ từ bên ngoài mà luôn phát huy tính độc lập tự chủ, tự lực, tự cường.
Nhờ đó mà cách mạng Việt Nam giành được thắng lợi vĩ đại. Đồng thời
nó cũng góp phần định hướng cho phong trào giải phóng dân tộc ở các
nước khác trên thế giới trong thời kì bấy giờ. Thực tiễn cách mạng ở một
số nước thuộc địa và cách mạng Việt Nam đã chứng minh rằng đây là
một tư tưởng hoàn toàn đúng đắn.
Document Outline
- 2.4.Cách mạng giải phóng dân tộc được thực hiện bằng p
- 3.1.Quan điểm trước đó của Quốc tế Cộng sản:
- 3.2.Quan điểm của Hồ Chí Minh: