Bài tập về nhà môn Chủ nghĩa khoa học xã hội | Học viện Báo chí và Tuyên truyền
Phân tích những thuận lợi, khó khăn của giai cấp công nhân Việt Nam? Giải pháp để khắc phục khó khăn đó? Giai cấp công nhân Việt Nam. Thuận lợi của giai cấp công nhân Việt Nam. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời đọc đón xem!
Môn: Chủ nghĩa xã hội khoa học (CN211)
Trường: Học viện Báo chí và Tuyên truyền
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
BÀI TẬP VỀ NHÀ MÔN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC
Họ và tên sinh viên: Trần Thị Tú Trinh
Mã sinh viên: 2156070060
Lớp hành chính: Báo mạng điện tử K41
Đề bài: Phân tích những thuận lợi, khó khăn của giai cấp công nhân Việt
Nam? Giải pháp để khắc phục khó khăn đó?
1. Giai cấp công nhân Việt Nam
Giai cấp công nhân là một tập đoàn xã hội ổn định, hình thành và phát triển cùng
với quá trình phát triển của nền công nghiệp hiện đại, với nhịp độ phát triển của lực
lượng sản xuất có tính chất xã hội hóa ngày càng cao; là lực lượng sản xuất cơ bản
tiên tiến, trực tiếp hoặc tham gia vào quá trình sản xuất, tái sản xuất ra của cải vật
chất và cải tạo các quan hệ xã hội; là lực lượng chủ yếu của tiến trình lịch sử quá
độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội.
Ở các nước xã hội chủ nghĩa, giai cấp công nhân là những người cùng nhân dân lao
động, làm chủ những tư liệu sản xuất chủ yếu và cùng nhau hợp tác lao động vì lợi
ích chung của toàn xã hội, trong đó có lợi ích chính đáng của bản thân họ.
Giai cấp công nhân Việt Nam ra đời từ cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, gắn liền
với quá trình xâm lược và khai thác thuộc địa của thực dân Pháp. Ngay từ khi ra
đời, giai cấp công nhân Việt Nam đã chứng tỏ là giai cấp tiên tiến. Tại Hội nghị lần
thứ sáu của Ban chấp hành Trung ương khóa X, Đảng ta đã xác định “Giai cấp
công nhân Việt Nam là một lực lượng xã hội to lớn, đang phát triển, bao gồm
những người lao động chân tay và trí óc, làm công hưởng lương trong loại hình sản
xuất kinh doanh và dịch vụ công nghiệp hoặc sản xuất, kinh doanh, dịch vụ có tính chất công nghiệp”.
Ngoài những nét đặc thù do điều kiện lịch sử xã hội quy định, là một bộ phận của
giai cấp công nhân hiện đại, giai cấp công nhân Việt Nam cũng có những đặc trưng
cơ bản: hình thành, phát triển cùng quá trình phát triển của nền sản xuất công
nghiệp – lao động sản xuất vật chất gắn với quy trình công nghiệp hiện đại, là lực
lượng sản xuất cơ bản và tiên tiến của xã hội; có lợi ích cơ bản thống nhất với lợi
ích cơ bản của nhân dân lao động, của dân tộc; là giai cấp có hệ tư tưởng tiên tiến,
khoa học là chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, có đội tiên phong là
Đảng Cộng sản Việt Nam; có ý thức tổ chức, kỷ luật cao, có tinh thần triệt để cách
mạng; có khả năng tổ chức và lãnh đạo dân tộc thực hiện tiến trình cách mạng đi lên chủ nghĩa xã hội.
2. Thuận lợi của giai cấp công nhân Việt Nam
Giai cấp công nhân Việt Nam là giai cấp tiên phong trong sự nghiệp xây dựng chủ
nghĩa xã hội và là lực lượng đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa
đất nước. Đứng trước sự phát triển nhanh chóng và tác động của cách mạng công
nghiệp thứ tư, giai cấp công nhân Việt Nam có những thuận lợi nhất định.
Trước hết, hiện nay, giai cấp công nhân Việt Nam tăng nhanh về số lượng, đa dạng
về cơ cấu thành phần và ngành nghề. Theo báo cáo của Tổng cục Thống kê, hiện
nay, tổng số công nhân nước ta chiếm tỷ lệ khoảng 13% số dân và 24% lực lượng
lao động xã hội, bao gồm số công nhân làm việc trong các doanh nghiệp thuộc các
thành phần kinh tế trong nước; đang làm việc theo hợp đồng ở nước ngoài; số lao
động giản đơn trong các cơ quan đảng, nhà nước, đoàn thể.
Trước đổi mới, trong điều kiện nền kinh tế khép kín, vận hành theo cơ chế tập trung
quan liêu, bao cấp, giai cấp công nhân ít về số lượng, chủ yếu là công nhân lao
động trong thành phần kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể. Trong quá trình đổi
mới, mở cửa và hội nhập quốc tế, lực lượng công nhân lao động công nghiệp và
dịch vụ phát triển nhanh về số lượng, đa dạng về cơ cấu. Trong đó, số lượng công
nhân khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tăng nhanh, ngược lại, số
lượng công nhân khu vực doanh nghiệp có xu hướng giảm đi. Nguyên nhân chủ
yếu là trong quá trình chuyển sang cơ chế thị trường, nhiều xí nghiệp, cơ sở sản
xuất quốc doanh khó thích ứng, làm ăn thua lỗ, công nhân không có việc làm. Một
số công nhân có trình độ và tay nghề khá giỏi đã rời bỏ nhà máy, xí nghiệp, sang
làm việc ở cơ sở kinh tế tư nhân, liên doanh, có vốn đầu tư nước ngoài. Hiện nay,
trong giai cấp công nhân Việt Nam đã xuất hiện bộ phận công nhân có sở hữu cổ
phần, cổ phiếu, có thu nhập và lợi nhuận từ doanh nghiệp.
Bên cạnh đó, giai cấp công nhân Việt Nam còn được nâng cao về trình độ học vấn,
chuyên môn nghề nghiệp, đang hình thành tác phong và kỷ luật lao động theo
hướng hiện đại. Xuất phát từ nền sản xuất nông nghiệp, thủ công là chủ yếu nên
ban đầu, trình độ học vấn, chuyên môn nghề nghiệp, tính kỷ luật và tác phong lao
động công nghiệp của giai cấp công nhân còn hạn chế. Tuy nhiên, hiện nay, trong
quá trình thực hiện cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 và hội nhập quốc tế, công
nhân trong các khu công nghiệp, doanh nghiệp khu vực ngoài nhà nước và có vốn
đầu tư nước ngoài được tiếp xúc với máy móc, thiết bị tiên tiến, làm việc với các
chuyên gia nước ngoài nên được nâng cao tay nghề, kỹ năng lao động, rèn luyện
tác phong công nghiệp, phương pháp làm việc tiên tiến.
Giai cấp công nhân có điều kiện học hỏi phương thức, kỹ năng lao động, phương
thức sống của các nước có nền kinh tế phát triển. Những phương thức sản xuất tiên
tiến, hiện đại của thế giới sẽ mở mang, nâng cao tầm hiểu biết cũng như phương
thức hoạt động trong các lĩnh vực kinh tế- xã hội, khắc phục tầm tư duy và tâm lý
trông chờ, ỷ lại sự bao cấp. Cùng với đó, người công nhân Việt Nam cũng có cơ hội
tiếp thu các hệ tư tưởng tiến bộ, cách tư duy năng động, chuẩn mực đạo đức, lối
sống văn minh hiện đại của quốc gia phát triển, góp phần hạn chế, loại bỏ những
yếu tố tiêu cực trong đời sống tinh thần, làm tư tưởng, nhận thức nhạy bén, linh
hoạt, cởi mở, phù hợp với yêu cầu thời đại.
Lớp công nhân trẻ được đào tạo nghề theo nghề nghiệp ngay từ đầu, có trình độ học
vấn, văn hóa, được rèn luyện trong thực tiễn sản xuất hiện đại, sẽ là lực lượng lao
động chủ đạo, có tác động tích cực đến sản xuất công nghiệp.
Với trình độ ngày càng được nâng cao, giai cấp công nhân Việt Nam từng bước
hình thành ngày càng đông đảo bộ phận công nhân trí thức. Đây là bộ phận đóng
vai trò quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế thời kỳ hội nhập, đồng thời sự
lãnh đạo của giai cấp công nhân từng bước được trí thức hóa. Theo số liệu thống
kê, công nhân trí thức hiện chiếm khoảng 10,1% tổng số công nhân. Bộ phận công
nhân này chủ yếu lao động ở một số ngành, lĩnh vực sản xuất mới như công nghệ
thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ tự động hóa, công nghệ vật liệu mới,
công nghệ xây dựng cầu đường,... Đây là xu hướng tất yếu trong quá trình phát
triển của giai cấp công nhân trong điều kiện Việt Nam hội nhập quốc tế, công
nghiệp hóa - hiện đại hóa.
Tiếp đến, giai cấp công nhân Việt Nam có nhiều cơ hội việc làm, đời sống vật chất
và tinh thần ngày càng được cải thiện. Hội nhập quốc tế tạo ra cơ hội đầu tư, tăng
trưởng kinh tế, từ đó tạo ra việc làm và nâng cao thu nhập cho công nhân lao động.
Trong thời gian qua, nhờ những cải cách và điều chỉnh cơ chế để hội nhập vào “sân
chơi chung” - nền kinh tế thế giới và khu vực nên khu vực doanh nghiệp ngoài nhà
nước, doanh nghiệp có vốn đầu tư có sự chuyển biến mạnh mẽ, tạo nhiều cơ hội
việc làm cho người lao động.
Không chỉ tạo việc làm, hội nhập còn hình thành thị trường lao động theo cơ chế
thị trường, cho phép người lao động được chủ động trong việc lựa chọn nghề
nghiệp, môi trường làm việc phù hợp với từng điều kiện của người lao động. Trong
hội nhập, sự cạnh tranh về việc làm và thu nhập cũng hết sức gay gắt, để giữ chân
người lao động, các doanh nghiệp cũng phải từng bước điều chỉnh mức lương cho
phù hợp, giúp nâng cao thu nhập và đời sống của công nhân được cải thiện.
Giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay cũng đã kế thừa và phát huy truyền thống
tốt đẹp của giai cấp công nhân Việt Nam trong các giai đoạn cách mạng trước đây,
đa số công nhân tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng, đi đầu, năng động,
sáng tạo trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Đó là truyền
thống tiên phong cách mạng, kiên trì khắc phục và vượt qua khó khăn, gian khổ,
quyết liệt, năng động, sáng tạo trong sản xuất... Đa số công nhân tin tưởng tuyệt đối
vào sự lãnh đạo của Đảng, thắng lợi của mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước, xây dựng chủ nghĩa xã hội.
3. Khó khăn của giai cấp công nhân Việt Nam
Trong quá trình thực hiện cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 và hội nhập quốc tế,
giai cấp công nhân Việt Nam có những cơ hội, điều kiện thuận lợi để phát triển,
song bên cạnh đó vẫn tồn tại nhiều khó khăn, thách thức chưa thể khắc phục. Trước
hết, phải kể đến việc lợi ích và vai trò của một bộ phận công nhân chưa được đảm
bảo và phát huy đầy đủ. Dù nhà nước đã có bổ sung, chỉnh sửa Luật Doanh nghiệp
và một số bộ luật khác, cơ sở sản xuất kinh doanh thuộc loại hình doanh nghiệp
ngoài nhà nước, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tăng nhanh góp phần giải
quyết việc làm cho hàng trăm lao động mỗi năm song vẫn còn nhiều bất cập trong
việc phân phối, giải quyết chính sách xã hội cho công nhân, vai trò làm chủ của 1
bộ phận công nhân chưa được phát huy.
Lợi ích của 1 bộ phận công nhân được hưởng chưa tương xứng với những thành
tựu của công cuộc đổi mới và những đóng góp của chính mình; việc làm, đời sống
vật chất và tinh thần của công nhân có nhiều khó khăn, bức xúc, đặc biệt bộ phận
công nhân lao động tại các doanh nghiệp tư nhân, có vốn đầu tư nước ngoài.
Về bản chất, giai cấp công nhân Việt Nam là người làm chủ đất nước, thông qua
Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo xã hội, tuy nhiên trong quan hệ kinh tế, 1 bộ
phận công nhân đang làm thuê với những mức độ khác nhau, đặc biệt là dội ngũ
công nhân trong thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Tiền lương của 1 bộ
phận công nhân nhận được chưa đáp ứng được nhu cầu sống tối thiểu, bị “o ép” đủ
thứ, thời gian và cường độ lao động cao hơn nhiều so với mức quy định. Mỗi năm
công nhân trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài phải làm thêm 500 -
600 giờ trong khi pháp luật quy định rõ người lao động không được phép làm thêm quá 200 giờ/năm.
Bên cạnh đó, thêm một khó khăn đối với giai cấp công nhân hiện nay là sự phân
hóa giàu nghèo trong nội bộ ngày càng sâu sắc, ảnh hưởng đến tính thống nhất,
đoàn kết của giai cấp công nhân. Giai cấp công nhân Việt Nam được tổ chức bởi
đội tiền phong là Đảng Cộng sản Việt Nam với hệ tư tưởng chủ nghĩa Mác - Lê nin,
tư tưởng Hồ Chí Minh có tính thống nhất, đoàn kết cao. Tuy nhiên, trong điều kiện
hiện nay, dưới tác động của nền kinh tế thị trường, tạo nên sự chênh lệch cao và
phân hóa về thu nhập giữa các bộ phận công nhân, số công nhân lao động chân tay
đơn giản có vị thế yếu trên thị trường lao động, có thu nhập thấp và nhiều khó khăn trong đời sống.
Hiện nay, những công nhân làm việc trong các thành phần kinh tế khác nhau, lợi
ích mang lại cũng khác nhau, sự khác biệt dễ nhận thấy nhất là thu nhập. Tuy
nhiên, càng về sau, khi công nhân có cổ phần trong các doanh nghiệp có điều kiện
sinh hoạt tốt hơn, được đưa ra quyết định,... còn công nhân không có cổ phần
không có những quyền lợi đó, tất yếu sẽ dẫn đến những mâu thuẫn lợi ích trong nội bộ giai cấp công nhân.
Trong giai đoạn hiện nay, lập trường giai cấp, bản lĩnh chính trị và lý tưởng cách
mạng của một bộ phận công nhân đang bị phai nhạt. Ra đời, phát triển trong một
nước nông nghiệp lạc hậu, tâm lý, thói quen và tác phong lao động còn gắn với nền
sản xuất nhỏ; trong quá trình phát triển, giai cấp công nhân thường xuyên tiếp nhận
vào đội ngũ của mình những thành phần mới, vậy nên công nhân nước ta không
đồng đều về nhận thức xã hội, giác ngộ giai cấp, bản lĩnh chính trị, ý thức tổ chức và kỷ luật lao động.
Mặt trái của kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế đã khiến một bộ phận công nhân
chỉ quan tâm đến lợi ích vật chất, hưởng lạc, coi nhẹ các giá trị truyền thống, lối
sống đạo đức, giá trị tinh thần nói chung; không ít công nhân còn chưa nhận thức
đầy đủ về bản chất, vị trí của mình. Một số công nhân trẻ còn bị ảnh hưởng bởi các
tệ nạn xã hội, buông lỏng rèn luyện, sống buông thả, phai nhạt lý tưởng, suy thoái
về đạo đức, lối sống, xa rời bản chất tốt đẹp của giai cấp công nhân. Một bộ phận
công nhân hoài nghi, không tin tưởng vào đường lối, chủ trương của Đảng và chính
sách, pháp luật của nhà nước, mơ hồ về lập trường giai cấp, nhìn thấy một vài biểu
hiện về mức sống của một số nhà tư bản đã vội ca ngợi, không tin tưởng vào chủ nghĩa xã hội.
Mặt bằng chung trình độ văn hóa và tay nghề của công nhân nước ta dù được cải
thiện, song vẫn còn thấp, đã ảnh hưởng không thuận đến việc tiếp thu khoa học - kỹ
thuật, đến năng suất lao động, chất lượng sản phẩm. Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư,
với tốc độ tăng năng suất lao động như hiện nay, thì phải đến năm 2038, năng suất
lao động của công nhân Việt Nam mới bắt kịp Philippines, năm 2069 chúng ta mới
bắt kịp được Thái Lan. Do đó, nếu không tập trung đầu tư nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực, có kế hoạch đào tạo đón đầu, thì chúng ta sẽ bị thiếu hụt nghiêm
trọng về lao động khi các dự án lớn đầu tư vào Việt Nam. Một thực trạng đáng
quan tâm khác là tỷ lệ thất nghiệp của những người đã qua đào tạo đang ngày càng
cao… Trong thời gian tới, quá trình toàn cầu hóa sản xuất với sự phân công và hợp
tác lao động diễn ra ngày càng sâu rộng giữa các nước trong khu vực và trên thế
giới. Khi chúng ta thực hiện các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới, những rào
cản về không gian kinh tế, hàng hóa, dịch vụ, vốn, khoa học - công nghệ, thị trường
lao động được gỡ bỏ, thì sự cạnh tranh giữa các nước càng trở nên gay gắt. Hiện
ASEAN đã có hiệp định về di chuyển tự nhiên nhân lực, có thỏa thuận công nhận
lẫn nhau về chứng chỉ hành nghề chính thức đối với 8 ngành nghề được tự do
chuyển dịch: kiểm toán, kiến trúc, kỹ sư, nha sĩ, bác sĩ, y tá, điều tra viên và du
lịch. Việc công nhận trình độ
lẫn nhau về kỹ năng nghề sẽ là một trong những điều kiện rất quan trọng trong việc
thực hiện dịch chuyển lao động giữa Việt Nam với các nước trong khu vực. Nhưng
đây cũng sẽ là thách thức cho Việt Nam, vì số lượng công nhân lành nghề ở nước ta
còn khiêm tốn, buộc phải chấp nhận nguồn lao động di cư đến từ các nước khác có
trình độ cao hơn. Thời gian tới, nếu trình độ của công nhân nước ta không được cải
thiện để đáp ứng yêu cầu, thì chúng ta sẽ bị thua ngay trên “sân nhà”.
4. Giải pháp để khắc phục khó khăn của giai cấp công nhân Việt Nam
Thứ nhất, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho công nhân lao động, đặc biệt là
người lao động ở các khu công nghiệp, khu chế xuất. Từng bước thực hiện chính
sách tiền lương bảo đảm đời sống cho người lao động và có tích lũy từ tiền lương;
đồng thời, mở rộng cơ hội cho công nhân mua cổ phần trong doanh nghiệp, nhằm
góp phần xây dựng quan hệ lao động hài hòa, ổn định và tiến bộ, giảm thiểu tranh
chấp lao động và đình công trong doanh nghiệp. Các cơ quan chức năng và tổ chức
công đoàn cần tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra để bảo đảm quyền, lợi ích
hợp pháp, chính đáng của người lao động, xử lý nghiêm các doanh nghiệp vi phạm
quyền lợi của người lao động. Xây dựng và thực hiện tốt các chính sách bảo hiểm
xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp, chính sách cụ thể giải quyết nhà ở cho
người lao động. Khi phê duyệt các khu công nghiệp, khu chế xuất, cần yêu cầu
dành quỹ đất tương xứng để xây dựng nhà ở và các công trình dịch vụ thiết yếu cho
công nhân. Chú trọng chăm lo xây dựng đời sống văn hóa - tinh thần, nhất là quan
tâm tới các dịch vụ văn hóa, thể thao, chăm sóc sức khỏe cho người lao động.
Thứ hai, nâng cao chất lượng đào tạo nghề, phát triển đội ngũ công nhân có trình
độ cao, ngày càng làm chủ được khoa học - công nghệ, có kỹ năng lao động, tác
phong công nghiệp, ý thức kỷ luật. Cần kịp thời bổ sung, sửa đổi, xây dựng chính
sách đào tạo và đào tạo lại công nhân; tạo điều kiện cho họ tự học tập nâng cao
trình độ; điều chỉnh, bổ sung quy hoạch mạng lưới các cơ sở dạy nghề gắn với các
ngành, các vùng kinh tế trọng điểm. Khuyến khích các doanh nghiệp thuộc mọi
thành phần kinh tế dành kinh phí và thời gian thích đáng cho đào tạo, đào tạo lại công nhân.
Thứ ba, xây dựng và thực hiện nghiêm hệ thống chính sách, pháp luật liên quan đến
việc bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của công nhân. Xây dựng, hoàn
thiện các chính sách, pháp luật về lao động, việc làm, đời sống, nâng cao thể chất
cho công nhân. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát của Nhà nước, tổ chức
công đoàn và các tổ chức chính trị - xã hội khác trong doanh nghiệp, có chế tài xử
lý nghiêm các tổ chức và cá nhân vi phạm chính sách, pháp luật. Khuyến khích, tạo
điều kiện cho người lao động chủ động học tập nâng cao kiến thức pháp luật, nắm
bắt những quy định cơ bản về quyền và nghĩa vụ của mình trong quan hệ lao động,
giúp họ tự bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng trong trường hợp cần thiết.
Thứ tư, tăng cường vai trò của các cấp uỷ đảng, Công đoàn và các đoàn thể nhân
dân trong việc xây dựng tổ chức đảng và phát triển đảng viên trong các loại hình
doanh nghiệp, nhất là khu vực doanh nghiệp ngoài nhà nước. Tăng tỷ lệ tham gia
của công nhân vào tổ chức chính trị - xã hội ở doanh nghiệp, để có điều kiện được
bảo vệ quyền lợi chính đáng và góp phần rèn luyện về tư tưởng, lập trường chính
trị, tránh bị các thế lực thù địch lôi kéo vào các hoạt động tiêu cực.
Thứ năm, đẩy mạnh tuyên truyền và giáo dục để nhận thức rõ hơn về vai trò, vị trí
và sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân. Xuất phát từ thực trạng đời sống của
người công nhân còn nhiều khó khăn, nên trong quan niệm của xã hội hiện nay,
hình ảnh người công nhân chưa phải là hình ảnh được đề cao. Trong điều kiện như
thế, để giai cấp công nhân có điều kiện khẳng định được vai trò, vị trí của mình
cũng như hoàn thành được sứ mệnh lịch sử cao quý của mình cần có một chiến
dịch tuyên truyền, vận động rộng khắp trong xã hội nhằm đề cao, tôn vinh người
công nhân, sao cho cả xã hội nhận thức được vai trò và vị trí quan trọng của giai
cấp công nhân trong sự nghiệp phát triển kinh tế trong điều kiện toàn cầu hóa và
hội nhập quốc tế; đồng thời, cũng là nhân tố quyết định xây dựng xã hội mới - xã hội xã hội chủ nghĩa.