Bài tập về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và hợp đồng ủy quyền

Theo Hội đồng thẩm phán, cho đến khi bà Lan được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, hợp đồng chuyển nhượng có tranh chấp đã tồn tại chưa? Hợp đồng đó có bị vô hiệu không? Vì sao? Tài liệu giúp bạn tham khảo và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!

lOMoARcPSD| 46342576
Bài tập tháng - Vấn đề 2 Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và hợp
đồng ủy quyền
Câu 4: Ngoài Quyết định số 09, còn có bản án/quyết định nào khác đề cập đến vấn
đề này không? Nêu một bản án/quyết định mà anh/chị biết.
Ngoài Quyết định số 09, còn có Bản án 09/2022/DS-ST ngày 10-06-2022 về tranh
chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất.
Nội dung bản án: Ngày 12/6/2020 ông B chuyển nhượng cho anh D chị T quyền sử
dụng Thửa đất số 10; Thửa đất đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông
B. Giá chuyển nhượng thỏa Tận là 575.000.000 đồng đã thanh toán đầy đủ. Khi anh D chị
T nộp hồ sơ để làm thủ tục đăng ký quyền sử dụng đất thì chị M (vợ cũ của anh B) có đơn
yêu cầu Ủy ban giải quyết tranh chấp cho rằng đây tài sản chung trong thời kỳ hôn
nhân của chị M anh B nên anh B không được quyền chuyển nhượng. Anh D chị T đề
nghị Tòa án công nhận Hợp đồng chuyển nhượng Thửa đất số 10, buộc các bên tiếp tục
thực hiện hợp đồng đã kết. Trường hợp Toà án tuyên giao dịch trên là vô hiệu thì buộc
anh B chị D trả lại 575.000.000 đồng bồi thường thiệt hại số tiền chênh lệch giá trị
tài sản là 900.000.000 đồng.
Bản án đã đề cập đến vấn đề tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
tương tự như Quyết định số 09/2022/DS-GDT ngày 30-03-2022 giao dịch về việc giữa
các bên cam kết chuyển nhượng quyền sử dụng đất nhưng tranh chấp xảy ra trách
nhiệm bồi thường thiệt hại nếu bên chuyển nhượng không thực hiện được nghĩa vụ đã thỏa
thuận trong cam kết.
Câu 5: Theo Hội đồng thẩm phán, cho đến khi bà Lan được cấp Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất, hợp đồng chuyển nhượng có tranh chấp đã tồn tại chưa? Hợp
đồng đó có bị vô hiệu không? Vì sao?
Cho đến khi Lan được Cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, hợp đồngchuyển
nhượng có tranh chấp đã tồn tạikhông bị vô hiệu.
Bởi vì “văn bản thỏa thuận chuyển nhượng lô nền” giữa vợ chồng ông Nhân bà
Lan với Yến không bị vô hiệu nhưng chưa phát sinh hiệu lực do tại thời điểm ông Nhân,
Lan khởi kiện vào ngày 20/07/2018 thì điều kiện làm phát sinh hiệu lực của giao dịch
chưa xảy ra vì đến ngày 04/9/2018 bà Lan mới được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất.Trong trường hợp này, vợ chồng ông Nhân, Lan quyền đơn phương chấm dứt
việc cam kết hợp đồng chuyển nhượng lô nền ngày 21/11/2013 và phải bồi thường gấp ba
lần số tiền đã nhận theo thỏa thuận
Câu 6: Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết nêu trên của Hội đồng thẩm phán;
Theo quan điểm của nhóm, hướng giải quyết nêu trên của Hội đồng thẩm phán
thuyết phục:
lOMoARcPSD| 46342576
Hội đồng Thẩm phán xác định rằng: “Cho đến khi bà Lan được cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất, hợp đồng chuyển nhượng có tranh chấp đã tồn tại không bị vô hiệu
nhưng chưa phát sinh hiệu lực”.
Xem xét tại thời điểm ông Nhân bà Lan khởi kiện vào ngày 20/07/2018 thì điều kiện
làm phát sinh hiệu lực của giao dịch chưa xảy ra vì đến ngày 04/09/2018 bà Lan mới được
cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Căn cứ vào khoản 2 Điều 120 BLDS 2015: “Trường hợp điều kiện làm phát sinh
hoặc hủy bỏ giao dịch dân sự không thể xảy ra được do hành vi cố ý cản trở trực tiếp hoặc
gián tiếp của một bên thì coi như điều kiện đó đã xảy ra; trường hợp sự tác động trực
tiếp hoặc gián tiếp của một bên cố ý thúc đẩy cho điều kiện xảy ra thì coi như điều kiện đó
không xảy ra”.
Xét thấy nội dung thỏa thuận của hai bên “Văn bản thỏa thuận về việc chuyển
nhượng đất nền” thì khi vợ chồng ông Nhân, Lan được cấp giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất đối với đất nền thì phải hợp đồng nếu không thực hiện hoặc đổi ý không
bán, bên A phải bồi thường gấp ba lần số tiền đã nhận của bên B và tất cả các chi phí, các
khoản tiền khác mà bên B đã nộp cho Nhà nước.
Giao dịch dân sự giữa ông Nhân Lan với Yến giao dịch dân sự có điều kiện.
Đây là giao dịch về việc giữa các bên cam kết chuyển nhượng quyền sử dụng đất và trách
nhiệm bồi thường thiệt hại nếu bên chuyển nhượng không thực hiện được nghĩa vụ đã thỏa
thuận trong cam kết.
| 1/2

Preview text:

lOMoAR cPSD| 46342576
Bài tập tháng - Vấn đề 2 – Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và hợp đồng ủy quyền
Câu 4: Ngoài Quyết định số 09, còn có bản án/quyết định nào khác đề cập đến vấn
đề này không? Nêu một bản án/quyết định mà anh/chị biết.
Ngoài Quyết định số 09, còn có Bản án 09/2022/DS-ST ngày 10-06-2022 về tranh
chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất.
Nội dung bản án: Ngày 12/6/2020 ông B chuyển nhượng cho anh D chị T quyền sử
dụng Thửa đất số 10; Thửa đất đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông
B. Giá chuyển nhượng thỏa Tận là 575.000.000 đồng đã thanh toán đầy đủ. Khi anh D chị
T nộp hồ sơ để làm thủ tục đăng ký quyền sử dụng đất thì chị M (vợ cũ của anh B) có đơn
yêu cầu Ủy ban giải quyết tranh chấp vì cho rằng đây là tài sản chung trong thời kỳ hôn
nhân của chị M và anh B nên anh B không được quyền chuyển nhượng. Anh D chị T đề
nghị Tòa án công nhận Hợp đồng chuyển nhượng Thửa đất số 10, buộc các bên tiếp tục
thực hiện hợp đồng đã ký kết. Trường hợp Toà án tuyên giao dịch trên là vô hiệu thì buộc
anh B và chị D trả lại 575.000.000 đồng và bồi thường thiệt hại số tiền chênh lệch giá trị
tài sản là 900.000.000 đồng.
Bản án đã đề cập đến vấn đề tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
tương tự như Quyết định số 09/2022/DS-GDT ngày 30-03-2022 là giao dịch về việc giữa
các bên cam kết chuyển nhượng quyền sử dụng đất nhưng có tranh chấp xảy ra và trách
nhiệm bồi thường thiệt hại nếu bên chuyển nhượng không thực hiện được nghĩa vụ đã thỏa thuận trong cam kết.
Câu 5: Theo Hội đồng thẩm phán, cho đến khi bà Lan được cấp Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất, hợp đồng chuyển nhượng có tranh chấp đã tồn tại chưa? Hợp
đồng đó có bị vô hiệu không? Vì sao?

Cho đến khi bà Lan được Cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, hợp đồngchuyển
nhượng có tranh chấp đã tồn tạikhông bị vô hiệu.
Bởi vì “văn bản thỏa thuận chuyển nhượng lô nền” giữa vợ chồng ông Nhân bà
Lan với bà Yến không bị vô hiệu nhưng chưa phát sinh hiệu lực do tại thời điểm ông Nhân,
bà Lan khởi kiện vào ngày 20/07/2018 thì điều kiện làm phát sinh hiệu lực của giao dịch
chưa xảy ra vì đến ngày 04/9/2018 bà Lan mới được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất.Trong trường hợp này, vợ chồng ông Nhân, bà Lan có quyền đơn phương chấm dứt
việc cam kết hợp đồng chuyển nhượng lô nền ngày 21/11/2013 và phải bồi thường gấp ba
lần số tiền đã nhận theo thỏa thuận
Câu 6: Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết nêu trên của Hội đồng thẩm phán;
Theo quan điểm của nhóm, hướng giải quyết nêu trên của Hội đồng thẩm phán là thuyết phục: lOMoAR cPSD| 46342576
Hội đồng Thẩm phán xác định rằng: “Cho đến khi bà Lan được cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất, hợp đồng chuyển nhượng có tranh chấp đã tồn tại và không bị vô hiệu
nhưng chưa phát sinh hiệu lực”.
Xem xét tại thời điểm ông Nhân bà Lan khởi kiện vào ngày 20/07/2018 thì điều kiện
làm phát sinh hiệu lực của giao dịch chưa xảy ra vì đến ngày 04/09/2018 bà Lan mới được
cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Căn cứ vào khoản 2 Điều 120 BLDS 2015: “Trường hợp điều kiện làm phát sinh
hoặc hủy bỏ giao dịch dân sự không thể xảy ra được do hành vi cố ý cản trở trực tiếp hoặc
gián tiếp của một bên thì coi như điều kiện đó đã xảy ra; trường hợp có sự tác động trực
tiếp hoặc gián tiếp của một bên cố ý thúc đẩy cho điều kiện xảy ra thì coi như điều kiện đó không xảy ra”.
Xét thấy nội dung thỏa thuận của hai bên ở “Văn bản thỏa thuận về việc chuyển
nhượng lô đất nền” thì khi vợ chồng ông Nhân, bà Lan được cấp giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất đối với đất nền thì phải ký hợp đồng nếu không thực hiện hoặc đổi ý không
bán, bên A phải bồi thường gấp ba lần số tiền đã nhận của bên B và tất cả các chi phí, các
khoản tiền khác mà bên B đã nộp cho Nhà nước.
Giao dịch dân sự giữa ông Nhân bà Lan với bà Yến là giao dịch dân sự có điều kiện.
Đây là giao dịch về việc giữa các bên cam kết chuyển nhượng quyền sử dụng đất và trách
nhiệm bồi thường thiệt hại nếu bên chuyển nhượng không thực hiện được nghĩa vụ đã thỏa thuận trong cam kết.