lOMoARcPSD| 58702377
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
MÔN: LUẬT SỞ HỮU TRÍ TUỆ
BÀI THẢO LUẬN 2
Nhóm sinh viên thực hiện:
Nhóm 7
Lớp:
QT47.4
ThS. Lê Nhật Hồng
lOMoARcPSD| 58702377
MỤC LỤC
A.1. thuyết:1. Nguyên tắc “sử dụng hợp lý” (“fair use”) gì? Tìm hiểu quy định của
pháp luật .................................................................................................................................3
nước ngoài về vấn đề này và so sánh với các quy định hiện hành của pháp luật sở hữu trí
tuệ Việt Nam .......................................................................................................................3
2. Phân tích mối liên hệ giữa quyền tác giả và quyền liên quan đến quyền tác giả. Cho ví
dụ minh hoạ ........................................................................................................................6
3. Tìm tóm tắt một tranh chấp trong lĩnh vực quyền tác giả, nêu quan điểm nhân
liên quan hướng giải quyết tranh chấp của Tòa án/Trọng tài .............................................7
A.2. Nhận định .......................................................................................................................8
1. Chủ sở hữu quyền tác giả đối với tác phẩm khuyết danh là Nhà nước ..........................8
2. Quyền nhân thân của quyền tác giả là quyền không thể được chuyển giao ...................8
3. Doanh nghiệp cung cấp dịch vụ trung gian phải chịu trách nhiệm đối với hành vi xâm
phạm quyền tác giả trên nền tảng họ cung cấp trong mọi trường hợp ...............................9
4. Tác phẩm điện ảnh có thể được sao chép một bản mà không cần xin phép và trả tiền. .9
5. Quyền liên quan đến quyền tác giả có thể phát sinh không dựa vào tác phẩm gốc .....10
A.3. Bài tập:...............................................................................................................121.
Nghiên cứu tranh chấp quyền tác giả trong vụ việc Truyện tranh Thần Đồng Đất Việt
đánh giá các vấn đề pháp lý sau ....................................................................................... 11
2/ Nghiên cứu Bản án số 213/2014/DS-ST của Tòa án nhân dân quận Tân Bình ngày
14/8/2014 trả lời các câu hỏi
sau:..............................................................................13 ..................................................12
B. Phần Câu hỏi sinh viên tự làm (có nộp bài) KHÔNG thảo luận trên lớp.................16
1/ Phân tích quy định của Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ năm
2022 về Giả định quyền tác giả, quyền liên quan đến quyền tác giả ...............................14
2/ Phân ch trách nhiệm của doanh nghiệp cung cấp dịch vụ trung gian đối với hành vi
xâm phạm quyền tác giả, quyền liên quan trên môi trường Internet ................................16
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO..........................................................................20
lOMoARcPSD| 58702377
A.1. thuyết: 1. Nguyên tắc “sử dụng hợp lý” (“fair use”) ? Tìm hiểu quy định
của pháp luật
nước ngoài về vấn đề này và so sánh với các quy định hiện hành của pháp luật sở hữu
trí tuệ Việt Nam.
Nguyên tắc sử dụng hợp (tên tiếng anh “fair use”) một nguyên tắc được gọi tên
theo một học thuyết của Hoa Kỳ về những giới hạn và ngoại lệ được phép sử dụng bản sao
tác phẩm mà không bị coi là xâm phạm quyền tác giả
1
. Nguyên tắc "Sử dụng hợp lý" (Fair
Use) cho phép nhân hoặc tổ chức sử dụng tác phẩm có bản quyền mà không cần xin phép
chủ sở hữu và không phải trả phí, miễn là việc sử dụng đó phù hợp với một số tiêu chí nhất
định. Đây được xem như ngoại lệ của quyền tác giả. Nguyên tắc y giúp cân bằng giữa
quyền lợi của chủ sở hữu tác phẩm lợi ích chung của hội, đảm bảo rằng bản quyền
không ngăn cản sự sáng tạo, giáo dục, nghiên cứu, hoặc truyền tải thông tin.
Những công ước, hiệp định quốc tế cũng đã đề cập đến những trường hợp giới hạn
ngoại lệ này, tiêu biểu công ước Berne với “phép thử ba ớc” Việt Nam là thành
viên. Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam sửa đổi năm 2022 đã tiếp thu và áp dụng những quy
định của pháp luật quốc tế và lần đầu tiên quy định những trường hợp ngoại lệ và giới hạn
quyền tác giả.
*Pháp luật quốc tế
Theo Điều 9.2 Công ước Berne bảo hộ các tác phẩm văn học và nghệ thuật có quy định:
“Luật pháp quốc gia thành viên Liên hiệp, trong một vài trường hợp đặc biệt, có quyền cho
phép sao in những tác phẩm nói trên, miễn là sự sao in đó không phương hại đến việc khai
thác bình thường tác phẩm hoặc không gây nh hưởng bất hợp lý đến những quyền lợi hợp
pháp của tác giả”. Quy định này được hiểu rằng việc sao chép tác phẩm được bảo hộ quyền
tác giả sẽ không bị coi là hành vi xâm phạm quyền độc quyền sao chép của tác giả nếu hành
vi đó:
- Thuộc các trường hợp ngoại lệ đặc biệt mà được quy định bởi pháp luật quốc gia;
- Không phương hại việc khai thác bình thường tác phẩm;
- Không gây tổn hại một cách bất hợp lý đến lợi ích hợp pháp của tác giả.
Bên cạnh đó, Điều 13 Hiệp định TRIPS 1994 cũng quy định: “Nước thành viên phải xác
định các giới hạn hoặc ngoại lệ đối với độc quyền đối với một số trường hợp đặc biệt
các trường hợp đó không được xung đột với việc khai thác bình thường tác phẩm cũng
không gây tổn hại một cách bất hợp lý đến lợi ích hợp pháp của tác giả”. Hiệp ước
WIPO 1996 cũng quy định nội dung tương tự trong Điều 10
Điều 107 Luật Bản quyền Hoa Kỳ có tên gọi “Hạn chế về độc quyền: Sử dụng hợp lý”
(Limitations on exclusive rights: Fair use). Theo đó, việc sử dụng hợp pháp tác phẩm có
https://vietnamcopyright.com.vn/nguyen-tac-su-dung-hop-ly-fair-use-trong-phap-luat-so-huu-tri-tue-viet-
nam/, truy cập ngày 01/03/2025.
1
Biên Tập Viên, “Nguyên tắc sử dụng hợp lý – “fair use” trong pháp luật sở hữu trí tuệ Việt Nam”,
lOMoARcPSD| 58702377
bản quyền, bao gồm cả việc sử dụng bằng cách sao chép dưới dạng bản sao hoặc bản ghi
âm hoặc bằng bất kỳ phương tiện nào khác được chỉ định bởi phần đó, cho các mục đích
như phê bình, bình luận, đưa tin, giảng dạy (bao gồm nhiều bản sao để sử dụng trong lớp
học), học bổng hoặc nghiên cứu, không phải là hành vi vi phạm bản quyền, tuy nhiên phải
đáp ứng 04 điều kiện:
- Mục đích tính chất của hành vi sử dụng, xem xét đến việc sử dụng tính
chất thương mại hay cho việc mục đích giáo dục phi lợi nhuận
- Bản chất của phần tác phẩm được sử dụng;
- Số lượng và bản chất của phần tác phẩm được trích dẫn trên tổng thể;
- Tác động của việc sử dụng tác phẩm đến thị trường tiềm năng giá trị của
tác phẩm được bảo hộ quyền tác giả.
2
Điều 107 của Luật Bản quyền Hoa Kỳ về sử dụng hợp (Fair Use) nhiều ưu điểm
quan trọng, đặc biệt tính linh hoạt cao. Thay giới hạn trong một danh sách cđịnh,
luật cho phép tòa án đánh giá từng trường hợp cụ thể dựa trên bốn yếu tố, giúp thích ứng
với sự thay đổi của công nghệ thực tiễn. Đồng thời, nguyên tắc này khuyến khích sáng
tạo đổi mới, bảo vệ các tác phẩm có tính chất biến đổi như phê bình, nhại lại (parody)
hay chỉnh sửa sáng tạo, góp phần phát triển các ngành công nghiệp nội dung.
Trong Đạo luật Bản quyền, Kiểu dáng Sáng chế năm 1988 (CDPA 1988) của Vương
quốc Anh, thuật ngữ "Fair Dealing" không được định nghĩa ràng nhưng được giới hạn
trong một số trường hợp cụ thể, bao gồm:
- Nghiên cứu và học tập cá nhân (Research or Private Study).
- Phê bình, đánh giá, trích dẫn đưa tin (Criticism, Reviews, Quotes and News
Reporting).
- Biếm họa, nhại lại và chế nhạo (Caricature, Parody or Pastiche).
- Minh họa để hướng dẫn trong giáo dục (Illustration for Instruction).
Danh sách này mang tính đóng, nghĩa chỉ những mục đích trên mới được coi
"Fair Dealing". Nếu một hành vi sử dụng hợp nhưng không thuộc danh sách này,
không được bảo vệ theo CDPA 1988. Điều y khác với nguyên tắc “Fair Use” của Hoa
Kỳ, vốn áp dụng linh hoạt dựa trên bốn yếu tố đánh giá.
Khi xác định một hành vi phải "Fair Dealing" hay không, tòa án sẽ xem xét tính
hợp lý (fairness). Điều này mang tính định tính và phụ thuộc vào nhiều yếu tố như:
- Mức độ và phạm vi sử dụng tác phẩm.
- Hành vi sử dụng và động cơ của người sử dụng.
- Hậu quả của việc sử dụng đối với tác phẩm gốc.
- Khả năng đạt được mục đích sử dụng bằng cách khác.
2
Biên Tập Viên, “Nguyên tắc sử dụng hợp “fair use” trong pháp luật sở hữu ttuệ Việt Nam”,
https://vietnamcopyright.com.vn/nguyen-tac-su-dung-hop-ly-fair-use-trong-phap-luat-so-huu-tri-tue-viet-
nam/, truy cập ngày 01/03/2025.
lOMoARcPSD| 58702377
Tòa án có thể dựa trên tiêu chí của một người có tưởng hợp lý và trung thực” để đánh
giá liệu hành vi sử dụng công bằng hay không. Theo vụ Ashdown v Telegraph Group
Ltd [2002], lợi ích công chúng là yếu tố quan trọng trong việc cân nhắc tính hợp lý.
Như vậy, "Fair Dealing" tại Anh mang tính hạn chế và yêu cầu đánh giá từng trường hợp
cụ thể, khác với nguyên tắc linh hoạt của "Fair Use" tại Hoa Kỳ.
*So sánh với pháp luật Việt Nam.
Pháp luật Việt Nam với pháp luật nước Anh:
Tại Việt Nam, quy định về sử dụng hợp lý được áp dụng trong ba trường hợp chính: (i)
nghiên cứu khoa học, học tập nhân không nhằm mục đích thương mại; (ii) minh họa
trong bài giảng, ấn phẩm, cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng
phục vụ giảng dạy; (iii) trích dẫn tác phẩm để bình luận, giới thiệu, minh họa, viết báo trong
ấn phẩm định kỳ, chương trình phát sóng, phim tài liệu. So sánh với CDPA 1988 của Anh,
có hai điểm tương đồng: cả hai đều yêu cầu ghi nhận tên tác giả, nguồn gốc tác phẩm và có
quy định rõ ràng về nghiên cứu khoa học, học tập cá nhân. Điều này cho thấy cả Việt Nam
Anh đều tạo điều kiện cho hoạt động học thuật phát triển.
Tuy nhiên, nhiều điểm khác biệt quan trọng. Thứ nhất, Việt Nam không công nhận
biếm họa, nhại lại, chế nhạo là hành vi sử dụng hợp lý, trong khi Anh có quy định này. Thứ
hai, CDPA 1988 cho phép miễn yêu cầu ghi nhận tác giả trong một strường hợp thực tế,
còn Việt Nam không có ngoại lệ tương tự. Thứ ba, quy định về minh họa trong giáo dục
của Việt Nam bị giới hạn trong giảng dạy một số loại hình tác phẩm cụ thể, trong khi
Anh phạm vi rộng hơn, bao gồm cthi cử ngăn chặn hợp đồng hạn chế quyền này.
Việt Nam nên mở rộng phạm vi áp dụng để tạo điều kiện thuận lợi cho giáo dục, kể cả hoạt
động ngoại khóa, đồng thời cho phép sử dụng đa dạng loại hình tác phẩm nhằm hỗ trợ giảng
dạy hiệu quả hơn.
Bên cạnh đó, Việt Nam chưa có quy định riêng về sử dụng hợp trong đưa tin, chỉ
cho phép trích dẫn trong báo chí. Ngược lại, Anh có quy định cthể nhưng không cho phép
sử dụng hình ảnh nhằm bảo vệ quyền lợi của nhiếp ảnh gia, vì họ thường kiếm thu nhập từ
việc bán toàn bộ bức ảnh. Trong khi trích dẫn một đoạn văn vẫn giữ nguyên nội dung, thì
với hình ảnh, việc sử dụng một phần nhỏ không thể, dẫn đến nguy mất nguồn thu
nhập.
Ngoài ra, Việt Nam yêu cầu trích dẫn không m sai ý tác giả, còn Anh tập trung vào việc
sử dụng tác phẩm một cách hợp không t đến nội dung chỉ trích hợp hay không.
Điều này đảm bảo quyền tự do ngôn luận, đồng thời cân bằng lợi ích giữa người sáng tạo
và công chúng. Trong trường hợp có nội dung xúc phạm danh dự, tác giả vẫn có thể bảo vệ
quyền lợi thông qua các quy định về xử phạt hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự.
Quan trọng n, CDPA 1988 chỉ áp dụng ngoại lệ khi tác phẩm đã được phổ biến công
khai, trong khi Việt Nam chưa quy định rõ ràng về điều kiện này. Việc làm m
rộng phạm vi sử dụng hợp tại Việt Nam sẽ giúp cân bằng giữa bảo vệ quyền tác giả
lợi ích công chúng trong tiếp cận tri thức.
Pháp luật Việt Nam với Hoa Kỳ
lOMoARcPSD| 58702377
Sự khác biệt giữa nguyên tắc "Fair Use" theo quy định của Luật Bản quyền Hoa Kỳ
Luật Sở hữu trí tuệ của Việt Nam thể được làm rõ hơn qua các sở pháp tại mỗi quốc
gia. Tại Hoa Kỳ, Mục 107 của Đạo luật Bản quyền Hoa Kỳ (Copyright Act of 1976) quy
định về nguyên tắc Fair Use, trong đó liệt bốn yếu tố quan trọng để đánh giá việc sử
dụng tác phẩm bản quyền, bao gồm: mục đích tính chất của việc sử dụng, bản chất
của tác phẩm gốc, lượng và bản chất của phần tác phẩm được sử dụng, và tác động của việc
sử dụng lên thị trường tiềm năng của tác phẩm. Đặc biệt, hệ thống pháp lý của Hoa Kỳ cho
phép các tòa án sự linh hoạt trong việc áp dụng Fair Use, điều này giúp thể đáp
ứng được những tình huống sáng tạo mới, đặc biệt trong bối cảnh của công nghệ số
mạng xã hội.
Việt Nam, Điều 25 của Luật Sở hữu trí tunăm 2005 (sửa đổi bổ sung năm 2009,
2019) quy định về quyền sử dụng hợp lý các tác phẩm bản quyền. Theo đó, việc sử dụng
tác phẩm được cho phép trong các trường hợp như nghiên cứu khoa học, học tập nhân,
giảng dạy, hoặc trích dẫn cho mục đích bình luận phê bình. Tuy nhiên, quy định này
không có sự linh hoạt như Hoa Kỳ, bởi việc sử dụng hợp tại Việt Nam phải dựa trên
các mục đích cụ thể đã được quy định sẵn, không yếu tố đánh giá như tác động của
việc sử dụng đối với thị trường hay mục đích thương mại.
Một điểm tương đồng quan trọng giữa hai hệ thống pháp cả Hoa Kỳ Việt Nam
đều yêu cầu ghi nhận tên tác giả nguồn gốc tác phẩm khi sử dụng hợp lý, đồng thời
không được làm sai ý tác giả. Điều này phù hợp với Điều 10.3 của Công ước Berne, mà cả
hai quốc gia đều là thành viên. Tuy nhiên, sự khác biệt lớn nằmviệc Hoa Kỳ cho phép sự
đánh giá linh hoạt hơn, có thể áp dụng các yếu tố như mục đích thương mại và tác động đối
với thị trường tiềm năng, điều này giúp tạo ra một khung pháp linh động và dễ dàng thích
ứng với những tình huống sáng tạo mới, chẳng hạn như trong việc sử dụng tác phẩm trên
Internet hoặc các nền tảng số. Ngược lại, Việt Nam áp dụng một hệ thống quy định chặt chẽ
và rõ ràng hơn, nhưng lại thiếu sự linh hoạt trong việc áp dụng nguyên tắc sử dụng hợp
đối với các tình huống chưa được quy định cụ thể.
sở pháp quốc tế cũng ảnh hưởng đến cả hai quốc gia. Công ước Berne về bảo
vệ tác phẩm văn học nghệ thuật yêu cầu các quốc gia thành viên, bao gồm Hoa Kỳ
Việt Nam, phải bảo vệ quyền tác giả cho phép các ngoại lệ hợp đối với quyền này.
Tuy nhiên, sự khác biệt trong cách mỗi quốc gia áp dụng các ngoại lệ này cho thấy sự linh
hoạt của hệ thống pháp lý Hoa Kỳ và sự chặt chẽ hơn trong hệ thống pháp lý của Việt Nam.
2. Phân tích mối liên hgiữa quyền tác giả quyền liên quan đến quyền tác giả. Cho
ví dụ minh hoạ.
Quyền tác giả và quyền liên quan đến quyền tác giả có mối liên hệ mật thiết, bổ sung cho
nhau tồn tại song song với nhau. Theo khoản 2 điều 4 Luật Shữu trí tuệ: Quyền c
giả là quyền của tổ chức, cá nhân đối với tác phẩm do nh sáng tạo ra hoặc sở hữu.” Còn
quyền liên quan đến quyền tác giả Quyền liên quan đến quyền tác giả (sau đây gọi
quyền liên quan) quyền của tổ chức, cá nhân đối với cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi
hình, chương trình phát sóng, tín hiệu vệ tinh mang chương trình được mã hóa” được quy
định tại khoản 3 Điều 4 Luật Sở hữu trí tuệ. Quyền liên quan đến quyền tác giả được xây
lOMoARcPSD| 58702377
dựng dựa trên nền tảng quyền tác giả. Một tác phẩm khi được công bố dưới một hình
thức nhất định vẫn chưa chắc được đón nhận tiếp thu hết giá trị, thông tin tác phẩm
đó mang lại. Quyền liên quan chính là quyền của những người trung gian tạo điều kiện để
cho các tác phẩm của các tác giả được giới thiệu, công bố và quảng bá rộng rãi, được đánh
giá cao hơn bởi khả năng truyền đạt hấp dẫn, kxảo của người biểu diễn, tổ chức phát sóng,
ghi âm, ghi hình. Việc công nhận bảo hộ quyền liên quan đến quyn tác giả rất quan
trọng. Bản thân phải tính nguyên gốc, tính sáng tạo công sức lao động riêng.
Đây được xem cầu nối giữa tác giả và công chúng, giúp tác giả trình bày các tác phẩm
của mình nhưng vẫn không làm ảnh hưởng đến quyền của tác giả đối với tác phẩm. Như
vậy, giữa hai quyền này có sự tương trợ bổ sung lẫn nhau. Trong mối quan hệ với quyền tác
giả, quyền liên quan chỉ được bảo hộ với điều kiện không gây phương hại đến quyền tác
giả. Mối liên hệ giữa quyền tác giả và quyền liên quan là sự tương trợ hai chiều. Quyền tác
giả không bắt buộc có quyền liên quan, nhưng quyền liên quan bắt buộc có quyền tác giả.
Ví dụ:
Một nhạc sĩ sáng tác một ca khúc và được cấp quyền tác giả cho tác phẩm của mình. Khi
ca khúc này được thu âm bởi một ca phát hành ới dạng đĩa nhạc, nhà sản xuất âm
nhạc sẽ quyền liên quan đến quyền tác giả đối với bản ghi âm đó, mặc nhạc vẫn
giữ quyền tác giả đối với phần lời và giai điệu của ca khúc.
Một nhà văn sáng tác một cuốn tiểu thuyết. Nhà văn này sở hữu quyền tác giả đối với
tiểu thuyết. Tuy nhiên, nếu tiểu thuyết này được chuyển thể thành phim, đạo diễn các
diễn viên quyền liên quan đến quyền tác giả. Đạo diễn có quyền đối với bản quyền của
bộ phim, trong khi diễn viên quyền đối với các bản ghi nh của mình trong bộ phim
(quyền của nghệ sĩ biểu diễn).
3. Tìm m tắt một tranh chấp trong nh vực quyền tác giả, nêu quan điểm
nhân liên quan hướng giải quyết tranh chấp của Tòa án/Trọng tài.
Tóm tắt bản án: Bản án số 244/2024/HSST ngày 19/04/2024 của TAND Nội về xâm
phạm quyền tác giả, quyền liên quan. Gồm Nguyên đơn: T3 (Ban tổ chức Giải bóng đá
Ngoại hạng Anh) và Hiệp hội điện ảnh H2 (Motion P,I.(“MPA”); Bị cáo: Lê Hải N;
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan dến vụ án: Chị Phạm Thị L (vợ của Bị o Hải
N) và
lOMoARcPSD| 58702377
Anh Nguyễn Hữu T1 (bạn của bị cáo Hải N). Công ty L5 được uỷ quyền của T3 (Ban
tổ chức Giải bóng đá Ngoại hạng Anh) gửi đơn tố giác Hải N1 Nguyễn Hữu T1
hành vi xâm phạm quyền tác giả, quyền liên quan về hành vi sử dụng dịch vụ truyền phát
trực tuyến trái phép bestbuyiptv để phát các trận bóng đá giải Ngoại hạng Anh. Qua quá
trình điều tra liên quan đến vấn đề quyền tác giả, quyền liên quan thì Tán kết luận: Trong
khoảng thời gian từ cuối năm 2017 đến tháng 02/2023, Hải N1 không được phép
không kết hợp đồng với Ban tổ chức Giải bóng đá Ngoại hạng Anh Hiệp hội điện ảnh
H2 quyền được phát sóng, tiếp sóng trực tiếp, quyền phát lại các trận bóng đá Ngoại hạng
Anh phim truyền hình điện ảnh nước ngoài. N1đã lợi dụng kiến thức lập trình viên sử
dụng dịch vụ bestbuyiptv, đưa lên nền tảng không gian mạng Internet, cung cấp đường dẫn
(link) cho người dùng để xem trực tiếp các trận bóng giải bóng đá Ngoại hạng Anh, phim
truyền hình điện ảnh nước ngoài đã thu lợi bất chính số tiền 615.188.237 đồng. Còn
đối với Nguyễn Hữu T1 và Phạm Thị Lngười có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan thông
qua điều tra Toà án kết luận họ không biết, không được hưởng lợi từ hành vi trái pháp luật
của Lê hải N1 nên quan điều tra không xử hình sự đối với Nguyễn Hữu T1 Phạm
Thị L căn cứ đúng vối qui định của pháp luật. Tán quyến định tuyên bố bị cáo
Hải N1 phạm tội xâm phạm quyền tác giả, quyền liên quan bị xử theo qui định
pháp luật.
Quan điểm nhân liên quan đến hướng giải quyết tranh chấp của Tán: T thẩm
giải quyết như vậy là phù hợp do bị cáo đã đủnăng lực, nhận thức để biết hành vi cung
cấp đường dẫn (link) cho người dùng để xem trực tiếp các trận bóng giải bóng đá Ngoại
hạng Anh, phim truyền hình điện ảnh nước ngoài không được phép của chủ thể quyền
không được y quyền hành vi vi phạm. Tuy nhiên, bị cáo vẫn thực hiện hành vi vi
phạm pháp luật thu lợi bất chính số tiền 615.188.237 đồng, nên cần xử phạt nghiêm minh
để giáo dục, cải tạo đối với các bị cáo răn đe, phòng ngừa chung. vậy hướng giải
quyết của Toà án trong bản án trên là phù hợp.
A.2. Nhận định
1. Chủ sở hữu quyền tác giả đối với tác phẩm khuyết danh là Nhà nước.
Nhận định sai.
CSPL: điểm b khoản 2 Điều 42 Luật Sở hữu trí tuệ.
Căn cứ theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 42 Luật sở hữu trí tuệ, thì Nhà nước không
phải chsở hữu quyền tác giả chỉ đại diện quản quyền tác giả đối với tác phẩm
khuyết danh đến khi chủ sở hữu quyền tác giả được xác định.
2. Quyền nhân thân của quyền tác giả là quyền không thể được chuyển giao.
Nhận định sai.
CSPL: khoản 1 Điều 41, khoản 3 Điều 19 Luật Sở hữu trí tuệ.
Pháp luật quy định chủ sở hữu quyền tác giả thể được chuyển giao một số quyền theo
khoản 1 Điều 41, cụ thể các quyền tại khoản 3 Điều 19. các quyền quy định tại khoản
3 Điều 19 chính là quyền nhân thân của quyền tác giả. Do đó quyền nhân tân của quyền tác
giả vẫn có thể được chuyển giao trong một số quyền mà pháp luật cho phép.
lOMoARcPSD| 58702377
3. Doanh nghiệp cung cấp dịch vụ trung gian phải chịu trách nhiệm đối với hành vi
xâm phạm quyền tác giả trên nền tảng họ cung cấp trong mọi trường hợp.
Nhận định sai.
Điều 198b, nếu không nằm trong 198b thì liên đới btth theo điều 110-115 ND17
Doanh nghiệp cung cấp dịch vụ trung gian không phải luôn chịu trách nhiệm đối với nh
vi xâm phạm quyền tác giả trên nền tảng mà họ cung cấp. Cụ thể, theo Điều 198b Luật Sở
hữu trí tuệ sửa đổi, bổ sung năm 2022 Điều 112, 113, 114 Nghị định 17/2023/NĐ-CP
hướng dẫn thi hành Luật Sở hữu trí tuvề Quyền tác giả, Quyền liên quan, doanh nghiệp
cung cấp dịch vụ trung gian không phải luôn chịu trách nhiệm đối với hành vi xâm phạm
quyền tác giả.
Thứ nhất, nếu doanh nghiệp cung cấp dịch vụ trung gian không thực hiện hoặc thực hiện
không đầy đủ các quy định để được miễn trừ trách nhiệm theo pháp luật, họ sẽ phải chịu
trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hành vi xâm phạm quyền tác giả của người sử dụng
dịch vụ gây ra. Cụ thể, doanh nghiệp phải thực hiện nghĩa vụ thông báo, gỡ bỏ hoặc ngừng
cung cấp dịch vụ đối với nội dung vi phạm khi yêu cầu hợp pháp từ chủ sở hữu quyền
tác giả.
Thứ hai, nếu doanh nghiệp cung cấp dịch vụ trung gian tuân thủ đầy đủ các quy định tại
Điều 198b Luật SHTT và các Điều 112, 113, 114 Nghị định 17/2023, doanh nghiệp sẽ được
miễn trừ trách nhiệm pháp lý đối với hành vi xâm phạm quyền tác giả, quyền liên quan của
người sử dụng dịch vụ. vậy, doanh nghiệp chỉ phải chịu trách nhiệm khi không thực hiện
các nghĩa vụ theo quy định, chứ không phải trong mọi trường hợp.
4. Tác phẩm điện ảnh có thể được sao chép một bản mà không cần xin phép và trả tiền.
Nhận định ĐÚNG.
sở pháp lý: khoản 1 Điều 25 Luật Sở hữu trí tuệ 2005 (sửa đổi, bổ sung năm 2009,
2019, 2022).
lOMoARcPSD| 58702377
Hành vi tự sao chép một bản của tác phẩm điện ảnh nhằm mục đích nghiên cứu khoa học,
học tập của nhân hoặc sao chép một phần của tác phẩm điện ảnh bằng thiết bị sao chép
để nghiên cứu khoa học, học tập của nhân không nhằm mục đích thương mại thuộc
trường hợp quy định tại Điều 25 Luật Sở hữu trí tuệ, thể sử dụng tác phẩm điện ảnh đã
công bố không phải xin phép, không phải trả tiền nhưng phải thông tin về tên tác giả
nguồn gốc, xuất xứ của tác phẩm. Đối với hành vi tự ý sao chép một bản tác phẩm điện ảnh
mà nhằm mục đích thu lợi nhuận thì được xem là hành vi xâm phạm quyền tác giả.
5. Quyền liên quan đến quyền tác giả có thể phát sinh không dựa vào tác phẩm gốc.
Nhận định SAI
PHẢI CÓ MLH PHTHUỘC
lOMoARcPSD| 58702377
A.3. Bài tập:
1. Nghiên cứu tranh chấp quyền tác giả trong vụ việc Truyện tranh Thần Đồng Đất
Vit và đánh giá các vấn đề pháp lý sau:
a) Theo Luật SHTT, truyện tranh Thần Đồng Đất Việt có được bảo hộ quyền tác
giả không?
Theo Luật SHTT thì truyện tranh Thần Đồng Đất Việt có được bảo hộ quyền tác giả.
CSPL: Khoản 2 Điều 4, khoản 1 Điều 6, khoản 1 Điều 8, Điều 14, Điều 15 Luật SHTT.
Theo khoản 2 Điều 4 thì “quyền tác giả là quyền của tổ chức, cá nhân đối với tác phẩm do
mình sáng tạo ra hoặc sở hữu” và khoản 1 Điều 6 cũng quy định “Quyền tác giả phát sinh
kể từ khi tác phẩm được sáng tạo và được thể hiện d-ưới một hình thức vật chất nhất định,
không phân biệt nội dung, chất lượng, hình thức, phương tiện, ngôn ngữ, đã công bố hay
ch-ưa công bố, đã đăng ký hay ch-ưa đăng ký”. Do đó, trong tranh chấp trên thì truyện
tranh Thần Đồng Đất Việt được tác giả Lê Linh sáng tạo, đảm bảo tính nguyên gốc và
định hình dưới một hình thức vật chất nhất định, cụ thể là truyện tranh, đồng thời theo
Điều 14 thì truyện tranh Thần Đồng Đất Việt cũng thuộc loại hình tác phẩm được bảo hộ
quyền tác giả, truyện không thuộc phạm vi khoản 1 Điều 8 cũng như là Điều 15. Vì vậy
truyện tranh Thần Đồng Đất Việt thuộc đối tượng được bảo hộ quyền tác giả theo quy
định của Luật SHTT.
b) Ai là chủ sở hữu hình tượng nhân vật Tí, Sửu, Dần, Mẹo liên quan đến bộ
truyện tranh Thần đồng đất Việt?
Chủ sở hữu của hình tượng 4 nhân vật trên là Công ty Phan Thị.
CSPL: Điều 39 Luật SHTT.
ông Linh bắt đầu làm việc tại Phan Thị vào năm 2001 và được giao thực hiện bộ truyện
tranh Thần Đồng Đất Việt từ năm 2002-2005 nên đây là tổ chức giao nhiệm vụ sáng tạo tác
phẩm cho tác giả người thuộc tổ chức mình theo quy định tại khoản 1 Điều 39. Do đó
theo quy định của pháp luật thì chủ sở hữu hình hình tượng nhân vật Tí, Sửu, Dần, Mẹo
Liên quan đến bộ truyện tranh Thần đồng đất Việt là Công ty Phan Thị.
c) Ai là tác giả hình tượng nhân vật Tí, Sửu, Dần, Mẹo?
CSPL: khoản 1, 2 Điều 12a Luật SHTT.
Căn cứ theo khoản 1 Điều 12a Luật SHTT thì tác giả phải người trực tiếp sáng tạo ra
tác phẩm, trong tường hợp trên thì ông Linh người trực tiếp sáng tạo ra hình ợng 4 nhân
vật Tí, Sửu, Dần, Mẹo và thể hiện ra bằng hình thức truyện tranh.
Bên cạnh đó theo khoản 2 Điều 12a thì “Người hỗ trợ, góp ý kiến hoặc cung cấp liệu
cho người khác sáng tạo tác phẩm không phải tác giả, đồng tác giả”, việc Hạnh nói
mình là đồng tác giả thông qua việc góp ý cho ông Linh vẽ các nhân vật là không phù hợp
với quy định của pháp luật.
Như vậy thì Hoạ sĩ Lê Linh là tác giả của hình tượng nhân vật Tí, Sửu, Dần, Mẹo.
d) Công ty Phan Thị có quyền gì đối với hình tượng nhân vật Tý, Sửu, Dần, Mẹo?
Do Công ty Phan Thị là chủ sở hữu quyền tác giả của bộ truyện tranh Thần Đồng Đất Việt
nên có các quyền quy định tại tại khoản 1 Điều 20 và khoản 3 Điều 19 Luật SHTT.
lOMoARcPSD| 58702377
Ông Linh có quyền k1,2,4 Điều 19
e) Việc công ty Phan Thị cho xuất bản bộ truyện từ tập 79 trở đi có phù hợp với
quy định pháp luật không?
Việc công ty Phan Thị cho xuất bản bộ truyện tranh từ tập 79 trở đi là không phù hợp với
quy định của pháp luật.
CSPL: Khoản 1 Điều 6, khoản 1 Điều 13, Điều 19, 20, 39 Luật SHTT.
Căn cứ theo Khoản 1 Điều 6, khoản 1 Điều 13, Luật SHTT thì Hoạ sĩ Linh là tác giả
duy nhất của bộ truyện tranh “Thần Đồng Đất Việt” đã sáng tạo ra 4 hình tượng nhân
vật trong truyện. Ông người sáng tạo ra các nhân vật trong quá trình sáng tạo không
bất kỳ ai tham gia để tạo ra tác phẩm “Thần Đồng Đất Việt”. Việc Hạnh cho rằng
mình là đồng tác giả của tác phẩm là không đúng. Bởi những ý tưởng này không được định
hình nên không được bảo hộ quyền tác giả. vậy bà Hạnh không được coi là đồng tác giả
theo khoản 2 Điều 12a Luật SHTT.
Như vậy thì ông Linh tác giả của 4 hình tượng nhân vật còn Công ty Phan Thị chủ
sở hữu quyền tác giả của tác phẩm, được quyền làm tác phẩm phái sinh. Theo Khoản 4 Điều
19 LSHTT, công ty không được lợi dụng tác phẩm của ông để phát triển. Người vẽ tiếp
những tập sau phải xin phép, phải có sự đồng ý của họa Linh. Công ty Phan Thị chỉ
có quyền sở hữu đối với 78 tập đầu tiên.
Với những tập này, ng ty Phan Thị toàn quyền khai thác không cần sự đồng ý
của họa Linh, nhưng không được sửa chữa, cắt xén, làm sai lệch hình tượng gốc gây
phương hại đến danh dự, uy tín của tác giả Linh. Từ tập 79 trở đi, Phan Thị muốn khai
thác tiếp thì phải có sự đồng ý của họa sĩ Lê Linh.
Tuy nhiên Công ty Phan Thị đã sử dụng những biến thể khác nhau của những hình tượng
do họa sĩ Linh sáng tạo từ các tập Thần Đồng Đất Việt tiếp theo nhưng không xin phép
ông. Hành vi tiếp tục sáng tạo tập 79 là hành vi cắt xén, tự sửa chữa tác phẩm, gây phương
hại đến danh dự uy tín của tác giả cũng như ảnh hưởng đến tính nguyên gốc của tác
phẩm nên hành vi này là không phù hợp với quy định của pháp luật.
2/ Nghiên cứu Bản án số 213/2014/DS-ST của Tòa án nhân dân quận Tân Bình ngày
14/8/2014 và trả lời các câu hỏi sau:
Tóm tắt tình tiết bản án:
Nguyên đơn: Ông Lộc; Bị đơn: Cty Mặt Trời Mọc; Người quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan: Cty Đăng Viễn.
Vấn đề pháp lý: Cty Mặt Trời Mọc có xâm phạm quyền tác giả của ông Lộc hay không?
Hướng giải quyết của Toà án: Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Lộc do HĐXX
xét thấy không có vi phạm SHTT. Lý do, không có hành vi vi phạm quyền tác giả đối với
tác phẩm của ông Lộc.
a) Ai là tác giả tác phẩm “Hình thức thể hiện tranh tết dân gian”? Tác phẩm nàycó
được bảo hộ quyền tác giả không? Vì sao?
lOMoARcPSD| 58702377
Tác giả tác phẩm “Hình thức thể hiện tranh tết dân gian" là Ông Lộc.
Tác phẩm này được bảo hộ quyền tác giả, vì việc ông Lộc đăng SHTT tại Cục bản
quyền cấp giấy chứng nhận đăng ký bản quyền số 169/2013/QTG ngày 07/01/2013, có kèm
theo hình ảnh đăng bản quyền, nội dung c phẩm tập hợp những hình ảnh của các
nhân vật có nguồn gốc từ dân gian được sắp xếp lại để thể hiện không khí ngày tết của Việt
Nam đã được HĐXX công nhận . Ngoài việc HĐXX xác định có bảo hộ quyền tác giả của
ông Lộc, thì căn cứ theo Luật SHTT thì quyền tác giả của ông Lộc phát sinh tại thời điểm
ông đã sáng tạo ra tranh không xét nội dung, đăng hay không đăng ký. Cho nên, c
phẩm của ông Lộc được bảo hộ quyền tác giả.
b) Từng “cụm hình ảnh” trong tác phẩm “Hình thức thể hiện tranh tết dân gian”
có được bảo hộ quyền tác giả không? Vì Sao?
Theo bản án, Tòa nhận định rằng quyền tác giả trong tác phẩm của ông Lộc chính bố
cục sắp xếp, hình thức thể hiện trong một tổng thể thống nhất không thể tách rời ra theo
từng bộ phận để xác định quyền tác giả.
Trên thực tế, ông Lộc trình bày, do muôn tiết kiệm thời gian nên ông đã gộp chung 05 cụm
hình ảnh lại vào trong một tác phẩm để đăng quyền tác giả thay phải nộp 05 hồ
tương ứng với 05 cụm hình ảnh. Từ đó có thể nhận thấy quyền tác giả của ông Nguyễn n
Lộc đối với từng cụm hình riêng rẽ chưa được xác lập.
Như vậy, từng “cụm hình ảnh” trong tác phẩm “Hình thức thể hiện tranh tết dân gian”
không được bảo hộ về quyền tác giả mà chỉ được bảo hộ đối với phần nghiên cứu sưu tầm,
hình thức, thể hiện của mình dưới dạng bố cục tổng thể đã được cấp Giấy chứng nhận đăng
ký quyền tác giả.
c) Hành vi của bị đơn xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ của nguyên đơn không?
Nêu cơ sở pháp lý.
Theo nhóm em cho rằng hành vi của bị đơn không xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ của
nguyên đơn. CSPL: Điều 23 Luật SHTT, Điều 18 Nghị định 22/2018, khoản 3 Điều 49 Luật
SHTT.
Căn cứ vào tính nguyên gốc xuất xứ của tác phẩm, xét thấy cụm ảnh ông Lộc lấy
cảm hứng để tạo ra “Hình thức thể hiện tranh dân gian” xuất phát từ những tác phẩm nghệ
thuật dân gian lâu đời và được thể hiện qua nhiều dị bản phổ biến khác nhau (hình ảnh múa
lân, ông địa, liễn chúc tết, ông đồ viết chữ …) mà tác giả chỉ thay đổi một số đường nét
sắp xếp theo một bố cục và hình thức thể hiện để tạo nên c phẩm riêng của mình. Qua đó,
ông Lộc cũng đề cập do quy trình đăng cho mỗi cụm hình ảnh khá tốn kém nhiều thời
gian chi phí nên theo hồ đăng bản quyền số 169/2013/QTG đối với tác phẩm “Hình
thức thể hiện tranh dân gian”, ông chỉ tiến hành đăng ký một tác phẩm gồm tập hợp những
hình ảnh cụ thể 05 cụm hình nhân vật lấy ý tưởng từ dân gian dưới hình thức mỹ thuật
ứng dụng. Trong khi đó, nếu tách nhỏ hình thức bố cục của những cụm ảnh trong tác
phẩm “Hình thức thể hiện tranh dân gian” lại không thể hiện được tính thống nhất, chỉnh
thể về bố cục để hình thành nên nội dung “Tranh dân gian ngày Tết” của tác phẩm mà chỉ
lOMoARcPSD| 58702377
được xem là những cụm ảnh riêng có tính tương đồng về chủ đề. Chính vì thế, việc bảo hộ
quyền tác giả đối với tác phẩm của ông Lộc việc bảo hộ đối với việc thay đổi một số
đường nét, bố cục hình thức sắp xếp của toàn bộ những cụm tranh ông sắp xếp lại với
nhau chứ không bảo hộ riêng rẽ từng cụm tranh một.
Từ vấn đề trên, do quyền tác giả của ông Lộc chỉ thể được bảo htrên một tác phẩm
thống nhất nên việc công ty Đăng Viễn đã u tầm, mua lại các hình ảnh riêng rẽ tại các
websites phổ biến trên mạng xã hội để thiết kế, sắp xếp, bố cục để hình thành hình thức thể
hiện không khí Tết dân gian cho tác phẩm trang trí của mình hoàn toàn bình thường
xét thấy tính tương đồng thể tương đồng về chủ đề một số hình ảnh riêng rẽ nhưng
nhìn chung về toàn diện bố cục và hình thức thì công ty Đăng Viễn xét thấy không vi phạm
quyền tác giả đối với tác phẩm của ông.
Cuối cùng, xét thấy tác phẩm của ông Lộc chỉ lấy cảm hứng, có sắp xếp hình thức, bố cục
sửa đổi vài chi tiết nhỏ từ tranh dân gian nhưng lại không thể hiện tính đặc trưng riêng
đặc thù đối với c phẩm của tác giả, nên nhìn chung việc bảo vệ tính nguyên gốc trên thực
tế là khó thực hiện được. Chính vì thế, việc ông cho rằng tác phẩm mỹ thuật ứng dụng của
ông được cấp Giấy chứng nhận và bảo hộ tổng thể, ông không cần phải chứng minh quyền
tác giả thuộc về mình khi có tranh chấp là chưa chính xác.
Căn cứ vào khoản 3 Điều 49 LSHTT hiện hành quy định “Tổ chức, nhân đã được
cấp Giấy chứng nhận quyền tác giả, Giấy chứng nhận đăng quyền liên quan không có
nghĩa vụ chứng minh quyền tác giả, quyền liên quan thuộc về mình khi tranh chấp, trừ
trường hợp có chứng từ ngược lại”. Do đó, đối với dữ kiện của bản án, hợp đồng của Công
ty Đăng Viễn và Công ty mặt trời mọc đã được hoàn thành và thanh lý vào ngày
05/12/2012 trước khi ông Lộc được cấp Giấy chứng nhận đăng bản quyền ngày
07/07/2013, đối với tác phẩm này cũng không thuộc c phẩm được bảo hộ quyền tác giả
tự động đơn thuần ông Lộc không phải tác giả “gốc” đối với những tác phẩm tranh
dân gian này. Nên trong tình huống trên, ông Lộc cần phải tiến hành chứng minh để bảo vệ
quyền lợi của mình.
B. Phần Câu hỏi sinh viên tự làm (có nộp bài) và KHÔNG thảo luận trên lớp: 1/ Phân
tích quy định của Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sở hữu trí
tuệ năm 2022 về Giả định quyền tác giả, quyền liên quan đến quyền tác giả.
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ năm 2022, có hiệu lực từ ngày
01/01/2023, đã bổ sung quy định về giả định quyền tác giả, quyền liên quan tại Điều 198a.
Đây là một điểm mới quan trọng, giúp đơn giản hóa việc xác định chủ thể quyền tác giả và
quyền liên quan, tạo thuận lợi trong quá trình bảo vệ quyền lợi của tác giả chủ sở hữu
quyền. Theo quy định này, cá nhân hoặc tổ chức tên trên tác phẩm, bản ghi âm, ghi hình,
chương trình phát sóng hoặc có định danh trên bản sao của các đối tượng này được giả định
chủ thể quyền tác giả, quyền liên quan. Khi tranh chấp, bên yêu cầu bảo vệ quyền
không cần cung cấp chứng cứ chứng minh quyền sở hữu, trừ khi có bằng chứng ngược lại.
Như vậy, pháp luật mặc định rằng cá nhân hoặc tổ chức có tên trên tác phẩm là chủ sở hữu
quyền, trừ khi có ai đó đưa ra bằng chứng chứng minh điều ngược lại.
lOMoARcPSD| 58702377
Quy định này có ý nghĩa quan trọng trong việc bảo vệ quyền lợi của tác giả, đặc biệt trong
bối cảnh trước đây, người yêu cầu bảo vệ quyền phải cung cấp chứng cứ đầy đủ, gây khó
khăn nếu không có đăng ký quyền tác giả hoặc tài liệu chứng minh rõ ràng. Đồng thời, quy
định này giúp giảm nh nặng chứng minh khi tranh chấp xảy ra, bởi thay tác giả hoặc
chủ sở hữu quyền phải chứng minh quyền của mình, bên phản đối mới phải đưa ra bằng
chứng phủ nhận. Điều này cũng góp phần hỗ trợ giải quyết tranh chấp nhanh chóng, giảm
thiểu thời gian xử lý và tránh tình trạng lợi dụng thủ tục pháp lý để trì hoãn thực thi quyền.
Tuy nhiên, để quy định này có hiệu lực, cần đáp ứng một số điều kiện, chẳng hạn như tên
hoặc định danh của tác giả, chủ sở hữu quyền phải xuất hiện trên tác phẩm hoặc bản sao
của tác phẩm, nguyên tắc giả định quyền chỉ được áp dụng khi chưa bằng chứng
ngược lại. mang lại nhiều lợi ích, quy định này cũng tồn tại một số rủi ro, trong đó
nguy cơ bị lạm dụng khi một nhân hoặc tổ chức cố tình gắn tên mình lên tác phẩm nhằm
tạo sở giả định quyền không hợp pháp. Hơn nữa, không thể áp dụng nếu bằng
chứng rõ ràng về việc chuyển nhượng quyền hoặc xác lập quyền theo hợp đồng, chẳng hạn
như trường hợp tác phẩm được sáng tạo trong quá trình làm việc và thuộc sở hữu của công
ty. Ngoài ra, quy định này chưa giải quyết triệt để các tranh chấp phức tạp giữa nhiều bên
đồng sở hữu quyền. Tớc đây, Luật Sở hữu trí tuệ chưa có quy định về giả định quyền tác
giả và quyền liên quan, dẫn đến việc bên yêu cầu bảo vệ quyền phải tự chứng minh quyền
sở hữu, gây khó khăn và kéo dài thời gian xử lý vụ việc.
Với quy định mới, quy trình bảo vệ quyền được đơn giản hóa, giúp tăng cường khả năng
thực thi quyền sở hữu trí tuệ. Tuy nhiên, cũng đặt ra yêu cầu đối với quan thực thi
trong việc áp dụng một cách chặt chẽ để tránh tình trạng lạm dụng hoặc xác định sai chủ
thể quyền. Nhìn chung, quy định về giả định quyền tác giả, quyền liên quan một bước
tiến quan trọng trong bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, giúp giảm gánh nặng chứng minh và hỗ
trợ giải quyết tranh chấp nhanh chóng. Tuy nhiên, để đảm bảo tính chính xác và công bằng,
lOMoARcPSD| 58702377
cần có sự kết hợp giữa nguyên tắc giả định quyền và các bằng chứng thực tế nhằm xác định
đúng chủ thể quyền trong từng trường hợp cụ thể.
2/ Phân tích trách nhiệm của doanh nghiệp cung cấp dịch vụ trung gian đối với hành
vi xâm phạm quyền tác giả, quyền liên quan trên môi trường Internet.
Dịch vụ trung gian những dịch vụ mang tính chất cầu nối, đưa thông tin tác phẩm
đến với công chúng bằng các phương tiện công nghệ như dịch vụ viễn thông, dịch vụ
Internet, dịch vụ mạng hội trực tuyến,… Từ đó phát triển các doanh nghiệp cung cấp
dịch vụ này cho người dùng. Theo khoản 1 Điều 198b Luật Sở hữu trí tuệ quy định: Doanh
nghiệp cung cấp dịch vụ trung gian doanh nghiệp cung cấp phương tiện kỹ thuật để tổ
chức, cá nhân sử dụng dịch vụ đưa nội dung thông tin số lên môi trường mạng viễn thông
mạng Internet; cung cấp kết nối trực tuyến cho công chúng tiếp cận, sử dụng nội dung
thông tin số trên môi trường mạng viễn thông và mạng Internet”. Hoạt động của những chủ
thể này đóng vai trò không nhỏ trong việc truyền đạt, phân phối các tác phẩm đến với công
chúng, bao gồm cả việc làm tăng hoặc giảm giá trị của tác phẩm. Trong trường hợp xảy ra
hành vi xâm phạm quyền tác giả, doanh nghiệp cung cấp dịch vụ trung gian chính chủ
thể đầu tiên khả năng ngăn chặn hành vi m phạm hoặc tạo điều kiện để hành vi xâm
phạm diễn ra. Do vậy, có thể nói đây là chủ thể có vai trò quan trọng trong hoạt động truyền
đạt tác phẩm và bảo vệ quyền tác giả.
Hành vi xâm phạm quyền tác giả cần được chấm dứt ngay khi bị phát hiện, nhất đối
với hoạt động phát trực tuyến. Trên Internet, mọi thứ lan truyền với tốc độ chóng mặt,
trong khoảnh khắc chậm trễ, tác hại thể trở nên nghiêm trọng hơn rất nhiều. Do đó,
những doanh nghiệp cung cấp dịch vụ trung gian không chỉ đơn thuần là người dẫn đường
trong thế giới số mà còn phải có trách nhiệm nắm bắt và phản ứng kịp thời với các vi phạm
pháp luật. Khi phát hiện hành vi xâm phạm quyền tác giả trên nền tảng kỹ thuật số, nếu chủ
thể quyền tác giả khởi kiện mà lại phải chờ đợi qua quy trình pháp lý thì hành vi xâm phạm
thời gian để lan rộng, gây ra những thiệt hại đáng kể. Nhưng nếu pháp luật cho phép
ngăn chặn hành vi xâm phạm như một biện pháp khẩn cấp tạm thời, nếu doanh nghiệp
cung cấp dịch vụ trung gian có thể dựa vào yêu cầu từ chủ thể quyền để hành động thì thiệt
hại sẽ được hạn chế tối đa. Nếu trong quá trình yêu cầu có sai sót xảy ra, chính bên yêu cầu
sẽ phải gánh chịu trách nhiệm bồi thường hoặc áp dụng các biện pháp chế tài khác. Nếu có
trường hợp xảy ra thì hành vi m phạm được ngăn chặn kịp thời thiệt hại thế cũng
được giảm bớt. Mặt khác, việc bỏ hay cắt đường truyền khi yêu cầu của quan nhà
nước điều đương nhiên. Trong bức tranh lớn của Internet, doanh nghiệp cung cấp dịch
vụ trung gian đóng một vai trò cùng quan trọng. Các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ
trung gian những đơn vị kiểm soát, ngăn chặn và xửcác vi phạm bằng các biện pháp
kỹ thuật. Đồng thời, phải biện pháp kết hợp kỹ thuật pháp để giảm bớt các thông tin
vi phạm, đóng các website vi phạm, xác định kịp thời chủ thể vi phạm, xử nghiêm về
hành chính và hình sự. Với các biện pháp kỹ thuật khôn ngoan, họ sẽ kiểm soát, ngăn chặn,
và xử lý các vi phạm để bảo vệ quyền lợi chính đáng của các tác giả. Theo khoản 2 Điều
lOMoARcPSD| 58702377
198b Luật sở hữu trí tuệ quy định: Doanh nghiệp cung cấp dịch vtrung gian có trách
nhiệm triển khai các biện pháp kỹ thuật, phối hợp với các quan nhà nước thẩm quyền,
các chủ thể quyền thực thi các biện pháp bảo vệ quyền tác giả, quyền liên quan trên môi
trường mạng viễn thông và mạng Internet”.
Mặc không trực tiếp tác động vào sản phẩm vi phạm, nhưng doanh nghiệp cung cấp
dịch vụ trung gian đã cung cấp điều kiện để người dùng thực hiện hành vi xâm phạm thu
lợi nhuận. Chủ thể này khả năng kiểm soát hoạt động của người dùng thông qua việc
kiểm duyệt cho phép hoặc không cho phép phát trực tuyến nội dung vi phạm. Trách nhiệm
bồi thường của doanh nghiệp cung cấp dịch vụ trung gian là không thể tránh khỏi. Về việc
chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại do xâm phạm quyền tác giả, các Điều 112, 113 114
của Nghị định 17/2023 sẽ phải chịu trách nhiệm liên đới bồi thường thiệt hại do hành vi
xâm phạm quyền tác giả, quyền liên quan của người sử dụng dịch vụ gây ra. Nghị định
17/2023/NĐ-CP cũng đã nêu hơn về trách nhiệm của doanh nghiệp cung cấp dịch vụ
trung gian trong việc bảo vệ quyền tác giả và trách nhiệm đối với hành vi xâm phạm quyền
tác giả, trong đó, nêu quy trình thực hiện, sự phối hợp của doanh nghiệp cung cấp
dịch vụ trung gian, thời hạn doanh nghiệp cung cấp dịch vụ trung gian cần phản hồi các
bên. Đồng thời Dự thảo Nghị định Quy định xử phạt vi phạm hành chính về quyền tác giả,
quyền liên quan đã có điều khoản đề xuất mức xử lý đối hành vi vi phạm quy định về trách
nhiệm của Doanh nghiệp cung cấp dịch vụ trung gian để ràng buộc trách nhiệm của các
Doanh nghiệp cung cấp dịch vụ trung gian trong bảo vệ quyền tác giả.
3
Bên thực hiện hành vi xâm phạm quyền tác giả trực tiếp cũng phải chịu trách nhiệm bồi
thường. Hiện nay vẫn chưa quy định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong trường
hợp này. Nhưng thể sử dụng vận dụng quy định tại Điều 587 BLDS năm 2015 về bồi
thường thiệt hại do nhiều người cùng gây ra thì những người đó phải liên đới bồi thường
cho người bị thiệt hại. Điều 288 BLDS năm 2015 cũng quy định nghĩa vụ liên đới là nghĩa
vụ do nhiều người cùng phải thực hiện bên quyền thể yêu cầu bất cứ ai trong số
những người nghĩa vụ phải thực hiện toàn bộ nghĩa vụ. Do vậy, tác giả, chủ sở hữu quyền
tác giả bị xâm phạm quyền quyền khởi kiện yêu cầu một hoặc hai bên bồi thường thiệt
hại cho mình. nh vi không thực hiện đúng trách nhiệm của tổ chức cung cấp dịch vụ
trung gian cũng được xem là hành vi xâm phạm quyền tác giả theo khoản 8
Điều 28 Luật Sở hữu trí tuệ: “Không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ quy định để
được miễn trừ trách nhiệm pháp lý của doanh nghiệp cung cấp dịch vụ trung gian quy định
tại khoản 3 Điều 198b của Luật này.
Quyền trách nhiệm của các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ trung gian trong Luật Sở
hữu trí tuệ chính là một chủ đề hết sức mới mẻ cực kỳ cần thiết. Trong bối cảnh công
nghệ phát triển với tốc độ chóng mặt như hiện nay, những doanh nghiệp cung cấp dịch vụ
trung gian không chỉ đóng vai trò cầu nối trong giao tiếp mà còn là yếu tố quyết định trong
3
Luật sư Nguyễn Trần Tuyên, “Trách nhiệm của doanh nghiệp cung cấp dịch vụ trung gian (ISP) trong việc
bảo vệ quyền tác giả trên mạng internet”, https://tienphong.vn/trach-nhiem-cua-doanh-nghiep-cungcap-
dich-vu-trung-gian-isp-trong-viec-bao-ve-quyen-tac-gia-tren-mang-internet-post1586890.tpo , truy cập
ngày 01/03/2025.
lOMoARcPSD| 58702377
việc phân phối công việc, góp phần tăng hoặc giảm giá trị của các tác phẩm nghệ thuật. Nếu
những doanh nghiệp này thực thi trách nhiệm một cách nghiêm túc hiệu quả, thì những
hành vi xâm phạm quyền tác giả sẽ thể được kiểm soát chặt chẽ. Điều y không chỉ
giúp cho những người sáng tạo thể an tâm cống hiến tài năng còn cho công chúng
được tiếp cận với những tác phẩm chất lượng, giá trị cao hơn. Tuy nhiên, vấn đề
chúng ta cần quan tâm giới hạn trách nhiệm những trường hợp được miễn trtrách
nhiệm của các doanh nghiệp này khi họ thực hiện việc truyền tải tác phẩm. Điều này không
chỉ nhằm tạo ra một môi trường bảo vệ quyền tác giả tại Việt Nam trở nên tốt đẹp hơn, mà
còn góp phần hạn chế những hành vi xâm phạm không đáng có.
lOMoARcPSD| 58702377
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
A. Văn bản quy phạm pháp luật
1. Bộ Luật Dân sự 2015.
2. Văn bản hợp nhất số 11/VBHN-VPQH Luật Sở hữu trí tuệ ngày 08/7/2022.
3. Nghị định 17/2023/NĐ-CP.
4. Công ước Berne.
5. Hiệp định TRIPS 1994.
6. Đạo luật Bản quyền, Thiết kế và Bằng sáng chế năm 1988.
7. Luật Bản quyền Hoa Kỳ 2022.
B. Tài liệu tham khảo
1. Trường Đại học Luật TP.HCM, Giáo trình “Luật Sở hữu trí tuệ” NXB. Hồng
Đứchttps://vjst.vn/vn/tin-tuc/6815/quy-dinh-ve-su-dung-hop-ly-tac-pham--goc-nhin-so-
sanh- tu-phap-luat-vuong-quoc-anh-va-viet-nam.aspx?utm_source=chatgpt.com .
2. Biên Tập Viên, “Nguyên tắc sử dụng hợp “fair use” trong pháp luật sở
hữu trítuệ Việt Nam”, https://vietnamcopyright.com.vn/nguyen-tac-su-dung-hop-ly-fair-
usetrong- phap-luat-so-huu-tri-tue-viet-nam/, truy cập ngày 01/03/2025.
3. Luật Nguyễn Trần Tuyên, “Trách nhiệm của doanh nghiệp cung cấp dịch
vụ trunggian (ISP) trong việc bảo vệ quyền tác giả trên mạng internet”,
https://tienphong.vn/trachnhiem-cua-doanh-nghiep-cung-cap-dich-vu-trung-gian-isp-
trong-viec-bao-ve-quyen-tac- gia-tren-mang-internet-post1586890.tpo , truy cập ngày
01/03/2025.
4. TS Vũ Vân Anh,”Quy định về “sử dụng hợp lý” tác phẩm: Góc nhìn so sánh
từ pháp luật Vương quốc Anh Việt Nam, https://vjst.vn/vn/tin-tuc/6815/quy-dinh-ve-
sudung- hop-ly-tac-pham--goc-nhin-so-sanh-tu-phap-luat-vuong-quoc-anh-va-viet-
nam.aspx?utm_source=chatgpt.com, truy cập ngày 01/03/2025.
5. Copyright Act of 1976, Mục 107, https://www.copyright.gov/title17/, truy cập
ngày 01/03/2025.

Preview text:

lOMoAR cPSD| 58702377
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
MÔN: LUẬT SỞ HỮU TRÍ TUỆ BÀI THẢO LUẬN 2
Nhóm sinh viên thực hiện: Nhóm 7 Lớp: QT47.4
Giảng viên hướng dẫn: ThS. Lê Nhật Hồng lOMoAR cPSD| 58702377 MỤC LỤC
A.1. Lý thuyết:1. Nguyên tắc “sử dụng hợp lý” (“fair use”) là gì? Tìm hiểu quy định của
pháp luật .................................................................................................................................3
nước ngoài về vấn đề này và so sánh với các quy định hiện hành của pháp luật sở hữu trí
tuệ Việt Nam .......................................................................................................................3
2. Phân tích mối liên hệ giữa quyền tác giả và quyền liên quan đến quyền tác giả. Cho ví
dụ minh hoạ ........................................................................................................................6
3. Tìm và tóm tắt một tranh chấp trong lĩnh vực quyền tác giả, nêu quan điểm cá nhân
liên quan hướng giải quyết tranh chấp của Tòa án/Trọng tài .............................................7
A.2. Nhận định .......................................................................................................................8
1. Chủ sở hữu quyền tác giả đối với tác phẩm khuyết danh là Nhà nước ..........................8
2. Quyền nhân thân của quyền tác giả là quyền không thể được chuyển giao ...................8
3. Doanh nghiệp cung cấp dịch vụ trung gian phải chịu trách nhiệm đối với hành vi xâm
phạm quyền tác giả trên nền tảng họ cung cấp trong mọi trường hợp ...............................9
4. Tác phẩm điện ảnh có thể được sao chép một bản mà không cần xin phép và trả tiền. .9
5. Quyền liên quan đến quyền tác giả có thể phát sinh không dựa vào tác phẩm gốc .....10
A.3. Bài tập:...............................................................................................................121.
Nghiên cứu tranh chấp quyền tác giả trong vụ việc Truyện tranh Thần Đồng Đất Việt
đánh giá các vấn đề pháp lý sau ....................................................................................... 11
2/ Nghiên cứu Bản án số 213/2014/DS-ST của Tòa án nhân dân quận Tân Bình ngày 14/8/2014 và trả lời các câu hỏi
sau:..............................................................................13 ..................................................12
B. Phần Câu hỏi sinh viên tự làm (có nộp bài) và KHÔNG thảo luận trên lớp.................16
1/ Phân tích quy định của Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ năm
2022 về Giả định quyền tác giả, quyền liên quan đến quyền tác giả ...............................14
2/ Phân tích trách nhiệm của doanh nghiệp cung cấp dịch vụ trung gian đối với hành vi
xâm phạm quyền tác giả, quyền liên quan trên môi trường Internet ................................16
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO..........................................................................20 lOMoAR cPSD| 58702377
A.1. Lý thuyết: 1. Nguyên tắc “sử dụng hợp lý” (“fair use”) là gì? Tìm hiểu quy định
của pháp luật
nước ngoài về vấn đề này và so sánh với các quy định hiện hành của pháp luật sở hữu trí tuệ Việt Nam.
Nguyên tắc sử dụng hợp lý (tên tiếng anh là “fair use”) là một nguyên tắc được gọi tên
theo một học thuyết của Hoa Kỳ về những giới hạn và ngoại lệ được phép sử dụng bản sao
tác phẩm mà không bị coi là xâm phạm quyền tác giả1. Nguyên tắc "Sử dụng hợp lý" (Fair
Use) cho phép cá nhân hoặc tổ chức sử dụng tác phẩm có bản quyền mà không cần xin phép
chủ sở hữu và không phải trả phí, miễn là việc sử dụng đó phù hợp với một số tiêu chí nhất
định. Đây được xem như ngoại lệ của quyền tác giả. Nguyên tắc này giúp cân bằng giữa
quyền lợi của chủ sở hữu tác phẩm và lợi ích chung của xã hội, đảm bảo rằng bản quyền
không ngăn cản sự sáng tạo, giáo dục, nghiên cứu, hoặc truyền tải thông tin.
Những công ước, hiệp định quốc tế cũng đã đề cập đến những trường hợp giới hạn và
ngoại lệ này, tiêu biểu là công ước Berne với “phép thử ba bước” mà Việt Nam là thành
viên. Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam sửa đổi năm 2022 đã tiếp thu và áp dụng những quy
định của pháp luật quốc tế và lần đầu tiên quy định những trường hợp ngoại lệ và giới hạn quyền tác giả.
*Pháp luật quốc tế
Theo Điều 9.2 Công ước Berne bảo hộ các tác phẩm văn học và nghệ thuật có quy định:
“Luật pháp quốc gia thành viên Liên hiệp, trong một vài trường hợp đặc biệt, có quyền cho
phép sao in những tác phẩm nói trên, miễn là sự sao in đó không phương hại đến việc khai
thác bình thường tác phẩm hoặc không gây ảnh hưởng bất hợp lý đến những quyền lợi hợp
pháp của tác giả”. Quy định này được hiểu rằng việc sao chép tác phẩm được bảo hộ quyền
tác giả sẽ không bị coi là hành vi xâm phạm quyền độc quyền sao chép của tác giả nếu hành vi đó:
- Thuộc các trường hợp ngoại lệ đặc biệt mà được quy định bởi pháp luật quốc gia;
- Không phương hại việc khai thác bình thường tác phẩm;
- Không gây tổn hại một cách bất hợp lý đến lợi ích hợp pháp của tác giả.
Bên cạnh đó, Điều 13 Hiệp định TRIPS 1994 cũng quy định: “Nước thành viên phải xác
định các giới hạn hoặc ngoại lệ đối với độc quyền đối với một số trường hợp đặc biệt mà
các trường hợp đó không được xung đột với việc khai thác bình thường tác phẩm và cũng
không gây tổn hại một cách bất hợp lý đến lợi ích hợp pháp của tác giả”. Hiệp ước
WIPO 1996 cũng quy định nội dung tương tự trong Điều 10
Điều 107 Luật Bản quyền Hoa Kỳ có tên gọi là “Hạn chế về độc quyền: Sử dụng hợp lý”
(Limitations on exclusive rights: Fair use). Theo đó, việc sử dụng hợp pháp tác phẩm có
https://vietnamcopyright.com.vn/nguyen-tac-su-dung-hop-ly-fair-use-trong-phap-luat-so-huu-tri-tue-viet-
nam/, truy cập ngày 01/03/2025.
1 Biên Tập Viên, “Nguyên tắc sử dụng hợp lý – “fair use” trong pháp luật sở hữu trí tuệ Việt Nam”, lOMoAR cPSD| 58702377
bản quyền, bao gồm cả việc sử dụng bằng cách sao chép dưới dạng bản sao hoặc bản ghi
âm hoặc bằng bất kỳ phương tiện nào khác được chỉ định bởi phần đó, cho các mục đích
như phê bình, bình luận, đưa tin, giảng dạy (bao gồm nhiều bản sao để sử dụng trong lớp
học), học bổng hoặc nghiên cứu, không phải là hành vi vi phạm bản quyền, tuy nhiên phải
đáp ứng 04 điều kiện: -
Mục đích và tính chất của hành vi sử dụng, xem xét đến việc sử dụng có tính
chất thương mại hay cho việc mục đích giáo dục phi lợi nhuận -
Bản chất của phần tác phẩm được sử dụng; -
Số lượng và bản chất của phần tác phẩm được trích dẫn trên tổng thể; -
Tác động của việc sử dụng tác phẩm đến thị trường tiềm năng và giá trị của
tác phẩm được bảo hộ quyền tác giả.2
Điều 107 của Luật Bản quyền Hoa Kỳ về sử dụng hợp lý (Fair Use) có nhiều ưu điểm
quan trọng, đặc biệt là tính linh hoạt cao. Thay vì giới hạn trong một danh sách cố định,
luật cho phép tòa án đánh giá từng trường hợp cụ thể dựa trên bốn yếu tố, giúp thích ứng
với sự thay đổi của công nghệ và thực tiễn. Đồng thời, nguyên tắc này khuyến khích sáng
tạo và đổi mới, bảo vệ các tác phẩm có tính chất biến đổi như phê bình, nhại lại (parody)
hay chỉnh sửa sáng tạo, góp phần phát triển các ngành công nghiệp nội dung.
Trong Đạo luật Bản quyền, Kiểu dáng và Sáng chế năm 1988 (CDPA 1988) của Vương
quốc Anh, thuật ngữ "Fair Dealing" không được định nghĩa rõ ràng nhưng được giới hạn
trong một số trường hợp cụ thể, bao gồm: -
Nghiên cứu và học tập cá nhân (Research or Private Study). -
Phê bình, đánh giá, trích dẫn và đưa tin (Criticism, Reviews, Quotes and News Reporting). -
Biếm họa, nhại lại và chế nhạo (Caricature, Parody or Pastiche). -
Minh họa để hướng dẫn trong giáo dục (Illustration for Instruction).
Danh sách này mang tính đóng, có nghĩa là chỉ những mục đích trên mới được coi là
"Fair Dealing". Nếu một hành vi sử dụng hợp lý nhưng không thuộc danh sách này, nó
không được bảo vệ theo CDPA 1988. Điều này khác với nguyên tắc “Fair Use” của Hoa
Kỳ, vốn áp dụng linh hoạt dựa trên bốn yếu tố đánh giá.
Khi xác định một hành vi có phải là "Fair Dealing" hay không, tòa án sẽ xem xét tính
hợp lý (fairness). Điều này mang tính định tính và phụ thuộc vào nhiều yếu tố như: -
Mức độ và phạm vi sử dụng tác phẩm. -
Hành vi sử dụng và động cơ của người sử dụng. -
Hậu quả của việc sử dụng đối với tác phẩm gốc. -
Khả năng đạt được mục đích sử dụng bằng cách khác.
2 Biên Tập Viên, “Nguyên tắc sử dụng hợp lý – “fair use” trong pháp luật sở hữu trí tuệ Việt Nam”,
https://vietnamcopyright.com.vn/nguyen-tac-su-dung-hop-ly-fair-use-trong-phap-luat-so-huu-tri-tue-viet-
nam/, truy cập ngày 01/03/2025. lOMoAR cPSD| 58702377
Tòa án có thể dựa trên tiêu chí của một “người có tư tưởng hợp lý và trung thực” để đánh
giá liệu hành vi sử dụng có công bằng hay không. Theo vụ Ashdown v Telegraph Group
Ltd [2002], lợi ích công chúng là yếu tố quan trọng trong việc cân nhắc tính hợp lý.
Như vậy, "Fair Dealing" tại Anh mang tính hạn chế và yêu cầu đánh giá từng trường hợp
cụ thể, khác với nguyên tắc linh hoạt của "Fair Use" tại Hoa Kỳ.
*So sánh với pháp luật Việt Nam.
❖ Pháp luật Việt Nam với pháp luật nước Anh:
Tại Việt Nam, quy định về sử dụng hợp lý được áp dụng trong ba trường hợp chính: (i)
nghiên cứu khoa học, học tập cá nhân không nhằm mục đích thương mại; (ii) minh họa
trong bài giảng, ấn phẩm, cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng
phục vụ giảng dạy; (iii) trích dẫn tác phẩm để bình luận, giới thiệu, minh họa, viết báo trong
ấn phẩm định kỳ, chương trình phát sóng, phim tài liệu. So sánh với CDPA 1988 của Anh,
có hai điểm tương đồng: cả hai đều yêu cầu ghi nhận tên tác giả, nguồn gốc tác phẩm và có
quy định rõ ràng về nghiên cứu khoa học, học tập cá nhân. Điều này cho thấy cả Việt Nam
và Anh đều tạo điều kiện cho hoạt động học thuật phát triển.
Tuy nhiên, có nhiều điểm khác biệt quan trọng. Thứ nhất, Việt Nam không công nhận
biếm họa, nhại lại, chế nhạo là hành vi sử dụng hợp lý, trong khi Anh có quy định này. Thứ
hai, CDPA 1988 cho phép miễn yêu cầu ghi nhận tác giả trong một số trường hợp thực tế,
còn Việt Nam không có ngoại lệ tương tự. Thứ ba, quy định về minh họa trong giáo dục
của Việt Nam bị giới hạn trong giảng dạy và một số loại hình tác phẩm cụ thể, trong khi
Anh có phạm vi rộng hơn, bao gồm cả thi cử và ngăn chặn hợp đồng hạn chế quyền này.
Việt Nam nên mở rộng phạm vi áp dụng để tạo điều kiện thuận lợi cho giáo dục, kể cả hoạt
động ngoại khóa, đồng thời cho phép sử dụng đa dạng loại hình tác phẩm nhằm hỗ trợ giảng dạy hiệu quả hơn.
Bên cạnh đó, Việt Nam chưa có quy định riêng về sử dụng hợp lý trong đưa tin, mà chỉ
cho phép trích dẫn trong báo chí. Ngược lại, Anh có quy định cụ thể nhưng không cho phép
sử dụng hình ảnh nhằm bảo vệ quyền lợi của nhiếp ảnh gia, vì họ thường kiếm thu nhập từ
việc bán toàn bộ bức ảnh. Trong khi trích dẫn một đoạn văn vẫn giữ nguyên nội dung, thì
với hình ảnh, việc sử dụng một phần nhỏ là không thể, dẫn đến nguy cơ mất nguồn thu nhập.
Ngoài ra, Việt Nam yêu cầu trích dẫn không làm sai ý tác giả, còn Anh tập trung vào việc
sử dụng tác phẩm một cách hợp lý mà không xét đến nội dung chỉ trích có hợp lý hay không.
Điều này đảm bảo quyền tự do ngôn luận, đồng thời cân bằng lợi ích giữa người sáng tạo
và công chúng. Trong trường hợp có nội dung xúc phạm danh dự, tác giả vẫn có thể bảo vệ
quyền lợi thông qua các quy định về xử phạt hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự.
Quan trọng hơn, CDPA 1988 chỉ áp dụng ngoại lệ khi tác phẩm đã được phổ biến công
khai, trong khi Việt Nam chưa có quy định rõ ràng về điều kiện này. Việc làm rõ và mở
rộng phạm vi sử dụng hợp lý tại Việt Nam sẽ giúp cân bằng giữa bảo vệ quyền tác giả và
lợi ích công chúng trong tiếp cận tri thức.
❖ Pháp luật Việt Nam với Hoa Kỳ lOMoAR cPSD| 58702377
Sự khác biệt giữa nguyên tắc "Fair Use" theo quy định của Luật Bản quyền Hoa Kỳ và
Luật Sở hữu trí tuệ của Việt Nam có thể được làm rõ hơn qua các cơ sở pháp lý tại mỗi quốc
gia. Tại Hoa Kỳ, Mục 107 của Đạo luật Bản quyền Hoa Kỳ (Copyright Act of 1976) quy
định về nguyên tắc Fair Use, trong đó liệt kê bốn yếu tố quan trọng để đánh giá việc sử
dụng tác phẩm có bản quyền, bao gồm: mục đích và tính chất của việc sử dụng, bản chất
của tác phẩm gốc, lượng và bản chất của phần tác phẩm được sử dụng, và tác động của việc
sử dụng lên thị trường tiềm năng của tác phẩm. Đặc biệt, hệ thống pháp lý của Hoa Kỳ cho
phép các tòa án có sự linh hoạt trong việc áp dụng Fair Use, điều này giúp nó có thể đáp
ứng được những tình huống sáng tạo mới, đặc biệt là trong bối cảnh của công nghệ số và mạng xã hội.
Ở Việt Nam, Điều 25 của Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 (sửa đổi bổ sung năm 2009,
2019) quy định về quyền sử dụng hợp lý các tác phẩm có bản quyền. Theo đó, việc sử dụng
tác phẩm được cho phép trong các trường hợp như nghiên cứu khoa học, học tập cá nhân,
giảng dạy, hoặc trích dẫn cho mục đích bình luận và phê bình. Tuy nhiên, quy định này
không có sự linh hoạt như ở Hoa Kỳ, bởi việc sử dụng hợp lý tại Việt Nam phải dựa trên
các mục đích cụ thể đã được quy định sẵn, và không có yếu tố đánh giá như tác động của
việc sử dụng đối với thị trường hay mục đích thương mại.
Một điểm tương đồng quan trọng giữa hai hệ thống pháp lý là cả Hoa Kỳ và Việt Nam
đều yêu cầu ghi nhận tên tác giả và nguồn gốc tác phẩm khi sử dụng hợp lý, đồng thời
không được làm sai ý tác giả. Điều này phù hợp với Điều 10.3 của Công ước Berne, mà cả
hai quốc gia đều là thành viên. Tuy nhiên, sự khác biệt lớn nằm ở việc Hoa Kỳ cho phép sự
đánh giá linh hoạt hơn, có thể áp dụng các yếu tố như mục đích thương mại và tác động đối
với thị trường tiềm năng, điều này giúp tạo ra một khung pháp lý linh động và dễ dàng thích
ứng với những tình huống sáng tạo mới, chẳng hạn như trong việc sử dụng tác phẩm trên
Internet hoặc các nền tảng số. Ngược lại, Việt Nam áp dụng một hệ thống quy định chặt chẽ
và rõ ràng hơn, nhưng lại thiếu sự linh hoạt trong việc áp dụng nguyên tắc sử dụng hợp lý
đối với các tình huống chưa được quy định cụ thể.
Cơ sở pháp lý quốc tế cũng có ảnh hưởng đến cả hai quốc gia. Công ước Berne về bảo
vệ tác phẩm văn học và nghệ thuật yêu cầu các quốc gia thành viên, bao gồm Hoa Kỳ và
Việt Nam, phải bảo vệ quyền tác giả và cho phép các ngoại lệ hợp lý đối với quyền này.
Tuy nhiên, sự khác biệt trong cách mỗi quốc gia áp dụng các ngoại lệ này cho thấy sự linh
hoạt của hệ thống pháp lý Hoa Kỳ và sự chặt chẽ hơn trong hệ thống pháp lý của Việt Nam.
2. Phân tích mối liên hệ giữa quyền tác giả và quyền liên quan đến quyền tác giả. Cho ví dụ minh hoạ.
Quyền tác giả và quyền liên quan đến quyền tác giả có mối liên hệ mật thiết, bổ sung cho
nhau và tồn tại song song với nhau. Theo khoản 2 điều 4 Luật Sở hữu trí tuệ: “Quyền tác
giả là quyền của tổ chức, cá nhân đối với tác phẩm do mình sáng tạo ra hoặc sở hữu
.” Còn
quyền liên quan đến quyền tác giả là “Quyền liên quan đến quyền tác giả (sau đây gọi là
quyền liên quan) là quyền của tổ chức, cá nhân đối với cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi
hình, chương trình phát sóng, tín hiệu vệ tinh mang chương trình được mã hóa
” được quy
định tại khoản 3 Điều 4 Luật Sở hữu trí tuệ. Quyền liên quan đến quyền tác giả được xây lOMoAR cPSD| 58702377
dựng dựa trên nền tảng là quyền tác giả. Một tác phẩm khi được công bố dưới một hình
thức nhất định vẫn chưa chắc được đón nhận và tiếp thu hết giá trị, thông tin mà tác phẩm
đó mang lại. Quyền liên quan chính là quyền của những người trung gian tạo điều kiện để
cho các tác phẩm của các tác giả được giới thiệu, công bố và quảng bá rộng rãi, được đánh
giá cao hơn bởi khả năng truyền đạt hấp dẫn, kỹ xảo của người biểu diễn, tổ chức phát sóng,
ghi âm, ghi hình. Việc công nhận và bảo hộ quyền liên quan đến quyền tác giả là rất quan
trọng. Bản thân nó phải có tính nguyên gốc, có tính sáng tạo và công sức lao động riêng.
Đây được xem là cầu nối giữa tác giả và công chúng, giúp tác giả trình bày các tác phẩm
của mình nhưng vẫn không làm ảnh hưởng đến quyền của tác giả đối với tác phẩm. Như
vậy, giữa hai quyền này có sự tương trợ bổ sung lẫn nhau. Trong mối quan hệ với quyền tác
giả, quyền liên quan chỉ được bảo hộ với điều kiện không gây phương hại đến quyền tác
giả. Mối liên hệ giữa quyền tác giả và quyền liên quan là sự tương trợ hai chiều. Quyền tác
giả không bắt buộc có quyền liên quan, nhưng quyền liên quan bắt buộc có quyền tác giả. Ví dụ:
Một nhạc sĩ sáng tác một ca khúc và được cấp quyền tác giả cho tác phẩm của mình. Khi
ca khúc này được thu âm bởi một ca sĩ và phát hành dưới dạng đĩa nhạc, nhà sản xuất âm
nhạc sẽ có quyền liên quan đến quyền tác giả đối với bản ghi âm đó, mặc dù nhạc sĩ vẫn
giữ quyền tác giả đối với phần lời và giai điệu của ca khúc.
Một nhà văn sáng tác một cuốn tiểu thuyết. Nhà văn này sở hữu quyền tác giả đối với
tiểu thuyết. Tuy nhiên, nếu tiểu thuyết này được chuyển thể thành phim, đạo diễn và các
diễn viên có quyền liên quan đến quyền tác giả. Đạo diễn có quyền đối với bản quyền của
bộ phim, trong khi diễn viên có quyền đối với các bản ghi hình của mình trong bộ phim
(quyền của nghệ sĩ biểu diễn).
3. Tìm và tóm tắt một tranh chấp trong lĩnh vực quyền tác giả, nêu quan điểm cá
nhân liên quan hướng giải quyết tranh chấp của Tòa án/Trọng tài.
Tóm tắt bản án: Bản án số 244/2024/HSST ngày 19/04/2024 của TAND Hà Nội về xâm
phạm quyền tác giả, quyền liên quan. Gồm Nguyên đơn: T3 (Ban tổ chức Giải bóng đá
Ngoại hạng Anh) và Hiệp hội điện ảnh H2 (Motion P,I.(“MPA”); Bị cáo: Lê Hải N;
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan dến vụ án: Chị Phạm Thị L (vợ của Bị cáo Lê Hải N) và lOMoAR cPSD| 58702377
Anh Nguyễn Hữu T1 (bạn của bị cáo Lê Hải N). Công ty L5 được uỷ quyền của T3 (Ban
tổ chức Giải bóng đá Ngoại hạng Anh) gửi đơn tố giác Lê Hải N1 và Nguyễn Hữu T1 có
hành vi xâm phạm quyền tác giả, quyền liên quan về hành vi sử dụng dịch vụ truyền phát
trực tuyến trái phép bestbuyiptv để phát các trận bóng đá giải Ngoại hạng Anh. Qua quá
trình điều tra liên quan đến vấn đề quyền tác giả, quyền liên quan thì Toà án kết luận: Trong
khoảng thời gian từ cuối năm 2017 đến tháng 02/2023, Lê Hải N1 không được phép và
không ký kết hợp đồng với Ban tổ chức Giải bóng đá Ngoại hạng Anh và Hiệp hội điện ảnh
H2 quyền được phát sóng, tiếp sóng trực tiếp, quyền phát lại các trận bóng đá Ngoại hạng
Anh và phim truyền hình điện ảnh nước ngoài. N1đã lợi dụng kiến thức lập trình viên sử
dụng dịch vụ bestbuyiptv, đưa lên nền tảng không gian mạng Internet, cung cấp đường dẫn
(link) cho người dùng để xem trực tiếp các trận bóng giải bóng đá Ngoại hạng Anh, phim
truyền hình điện ảnh nước ngoài và đã thu lợi bất chính số tiền là 615.188.237 đồng. Còn
đối với Nguyễn Hữu T1 và Phạm Thị L là người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan thông
qua điều tra Toà án kết luận họ không biết, không được hưởng lợi từ hành vi trái pháp luật
của Lê hải N1 nên cơ quan điều tra không xử lý hình sự đối với Nguyễn Hữu T1 và Phạm
Thị L là có căn cứ và đúng vối qui định của pháp luật. Toà án quyến định tuyên bố bị cáo
Lê Hải N1 phạm tội xâm phạm quyền tác giả, quyền liên quan và bị xử lý theo qui định pháp luật.
Quan điểm cá nhân liên quan đến hướng giải quyết tranh chấp của Toà án: Toà sơ thẩm
giải quyết như vậy là phù hợp do bị cáo đã có đủnăng lực, nhận thức để biết hành vi cung
cấp đường dẫn (link) cho người dùng để xem trực tiếp các trận bóng giải bóng đá Ngoại
hạng Anh, phim truyền hình điện ảnh nước ngoài mà không được phép của chủ thể quyền
và không được ủy quyền là hành vi vi phạm. Tuy nhiên, bị cáo vẫn thực hiện hành vi vi
phạm pháp luật và thu lợi bất chính số tiền 615.188.237 đồng, nên cần xử phạt nghiêm minh
để giáo dục, cải tạo đối với các bị cáo và răn đe, phòng ngừa chung. Vì vậy hướng giải
quyết của Toà án trong bản án trên là phù hợp. A.2. Nhận định
1. Chủ sở hữu quyền tác giả đối với tác phẩm khuyết danh là Nhà nước.
Nhận định sai.
CSPL: điểm b khoản 2 Điều 42 Luật Sở hữu trí tuệ.
Căn cứ theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 42 Luật sở hữu trí tuệ, thì Nhà nước không
phải là chủ sở hữu quyền tác giả mà chỉ đại diện quản lý quyền tác giả đối với tác phẩm
khuyết danh đến khi chủ sở hữu quyền tác giả được xác định.
2. Quyền nhân thân của quyền tác giả là quyền không thể được chuyển giao. Nhận định sai.
CSPL: khoản 1 Điều 41, khoản 3 Điều 19 Luật Sở hữu trí tuệ.
Pháp luật quy định chủ sở hữu quyền tác giả có thể được chuyển giao một số quyền theo
khoản 1 Điều 41, cụ thể là các quyền tại khoản 3 Điều 19. Mà các quyền quy định tại khoản
3 Điều 19 chính là quyền nhân thân của quyền tác giả. Do đó quyền nhân tân của quyền tác
giả vẫn có thể được chuyển giao trong một số quyền mà pháp luật cho phép. lOMoAR cPSD| 58702377
3. Doanh nghiệp cung cấp dịch vụ trung gian phải chịu trách nhiệm đối với hành vi
xâm phạm quyền tác giả trên nền tảng họ cung cấp trong mọi trường hợp. Nhận định sai.
Điều 198b, nếu không nằm trong 198b thì liên đới btth theo điều 110-115 ND17
Doanh nghiệp cung cấp dịch vụ trung gian không phải luôn chịu trách nhiệm đối với hành
vi xâm phạm quyền tác giả trên nền tảng mà họ cung cấp. Cụ thể, theo Điều 198b Luật Sở
hữu trí tuệ sửa đổi, bổ sung năm 2022 và Điều 112, 113, 114 Nghị định 17/2023/NĐ-CP
hướng dẫn thi hành Luật Sở hữu trí tuệ về Quyền tác giả, Quyền liên quan, doanh nghiệp
cung cấp dịch vụ trung gian không phải luôn chịu trách nhiệm đối với hành vi xâm phạm quyền tác giả.
Thứ nhất, nếu doanh nghiệp cung cấp dịch vụ trung gian không thực hiện hoặc thực hiện
không đầy đủ các quy định để được miễn trừ trách nhiệm theo pháp luật, họ sẽ phải chịu
trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hành vi xâm phạm quyền tác giả của người sử dụng
dịch vụ gây ra. Cụ thể, doanh nghiệp phải thực hiện nghĩa vụ thông báo, gỡ bỏ hoặc ngừng
cung cấp dịch vụ đối với nội dung vi phạm khi có yêu cầu hợp pháp từ chủ sở hữu quyền tác giả.
Thứ hai, nếu doanh nghiệp cung cấp dịch vụ trung gian tuân thủ đầy đủ các quy định tại
Điều 198b Luật SHTT và các Điều 112, 113, 114 Nghị định 17/2023, doanh nghiệp sẽ được
miễn trừ trách nhiệm pháp lý đối với hành vi xâm phạm quyền tác giả, quyền liên quan của
người sử dụng dịch vụ. Vì vậy, doanh nghiệp chỉ phải chịu trách nhiệm khi không thực hiện
các nghĩa vụ theo quy định, chứ không phải trong mọi trường hợp.
4. Tác phẩm điện ảnh có thể được sao chép một bản mà không cần xin phép và trả tiền. Nhận định ĐÚNG.
Cơ sở pháp lý: khoản 1 Điều 25 Luật Sở hữu trí tuệ 2005 (sửa đổi, bổ sung năm 2009, 2019, 2022). lOMoAR cPSD| 58702377
Hành vi tự sao chép một bản của tác phẩm điện ảnh nhằm mục đích nghiên cứu khoa học,
học tập của cá nhân hoặc sao chép một phần của tác phẩm điện ảnh bằng thiết bị sao chép
để nghiên cứu khoa học, học tập của cá nhân và không nhằm mục đích thương mại thuộc
trường hợp quy định tại Điều 25 Luật Sở hữu trí tuệ, có thể sử dụng tác phẩm điện ảnh đã
công bố không phải xin phép, không phải trả tiền nhưng phải thông tin về tên tác giả và
nguồn gốc, xuất xứ của tác phẩm. Đối với hành vi tự ý sao chép một bản tác phẩm điện ảnh
mà nhằm mục đích thu lợi nhuận thì được xem là hành vi xâm phạm quyền tác giả.
5. Quyền liên quan đến quyền tác giả có thể phát sinh không dựa vào tác phẩm gốc. Nhận định SAI PHẢI CÓ MLH PHỤ THUỘC lOMoAR cPSD| 58702377 A.3. Bài tập:
1. Nghiên cứu tranh chấp quyền tác giả trong vụ việc Truyện tranh Thần Đồng Đất

Việt và đánh giá các vấn đề pháp lý sau:
a) Theo Luật SHTT, truyện tranh Thần Đồng Đất Việt có được bảo hộ quyền tác giả không?
Theo Luật SHTT thì truyện tranh Thần Đồng Đất Việt có được bảo hộ quyền tác giả.
CSPL: Khoản 2 Điều 4, khoản 1 Điều 6, khoản 1 Điều 8, Điều 14, Điều 15 Luật SHTT.
Theo khoản 2 Điều 4 thì “quyền tác giả là quyền của tổ chức, cá nhân đối với tác phẩm do
mình sáng tạo ra hoặc sở hữu” và khoản 1 Điều 6 cũng quy định “Quyền tác giả phát sinh
kể từ khi tác phẩm được sáng tạo và được thể hiện d-ưới một hình thức vật chất nhất định,
không phân biệt nội dung, chất lượng, hình thức, phương tiện, ngôn ngữ, đã công bố hay
ch-ưa công bố, đã đăng ký hay ch-ưa đăng ký”. Do đó, trong tranh chấp trên thì truyện
tranh Thần Đồng Đất Việt được tác giả Lê Linh sáng tạo, đảm bảo tính nguyên gốc và
định hình dưới một hình thức vật chất nhất định, cụ thể là truyện tranh, đồng thời theo
Điều 14 thì truyện tranh Thần Đồng Đất Việt cũng thuộc loại hình tác phẩm được bảo hộ
quyền tác giả, truyện không thuộc phạm vi khoản 1 Điều 8 cũng như là Điều 15. Vì vậy
truyện tranh Thần Đồng Đất Việt thuộc đối tượng được bảo hộ quyền tác giả theo quy định của Luật SHTT.
b) Ai là chủ sở hữu hình tượng nhân vật Tí, Sửu, Dần, Mẹo liên quan đến bộ
truyện tranh Thần đồng đất Việt?
Chủ sở hữu của hình tượng 4 nhân vật trên là Công ty Phan Thị. CSPL: Điều 39 Luật SHTT.
Vì ông Linh bắt đầu làm việc tại Phan Thị vào năm 2001 và được giao thực hiện bộ truyện
tranh Thần Đồng Đất Việt từ năm 2002-2005 nên đây là tổ chức giao nhiệm vụ sáng tạo tác
phẩm cho tác giả là người thuộc tổ chức mình theo quy định tại khoản 1 Điều 39. Do đó
theo quy định của pháp luật thì chủ sở hữu hình hình tượng nhân vật Tí, Sửu, Dần, Mẹo
Liên quan đến bộ truyện tranh Thần đồng đất Việt là Công ty Phan Thị.
c) Ai là tác giả hình tượng nhân vật Tí, Sửu, Dần, Mẹo?
CSPL: khoản 1, 2 Điều 12a Luật SHTT.
Căn cứ theo khoản 1 Điều 12a Luật SHTT thì tác giả phải là người trực tiếp sáng tạo ra
tác phẩm, trong tường hợp trên thì ông Linh là người trực tiếp sáng tạo ra hình tượng 4 nhân
vật Tí, Sửu, Dần, Mẹo và thể hiện ra bằng hình thức truyện tranh.
Bên cạnh đó theo khoản 2 Điều 12a thì “Người hỗ trợ, góp ý kiến hoặc cung cấp tư liệu
cho người khác sáng tạo tác phẩm không phải là tác giả, đồng tác giả”, việc bà Hạnh nói
mình là đồng tác giả thông qua việc góp ý cho ông Linh vẽ các nhân vật là không phù hợp
với quy định của pháp luật.
Như vậy thì Hoạ sĩ Lê Linh là tác giả của hình tượng nhân vật Tí, Sửu, Dần, Mẹo.
d) Công ty Phan Thị có quyền gì đối với hình tượng nhân vật Tý, Sửu, Dần, Mẹo?
Do Công ty Phan Thị là chủ sở hữu quyền tác giả của bộ truyện tranh Thần Đồng Đất Việt
nên có các quyền quy định tại tại khoản 1 Điều 20 và khoản 3 Điều 19 Luật SHTT. lOMoAR cPSD| 58702377
Ông Linh có quyền k1,2,4 Điều 19
e) Việc công ty Phan Thị cho xuất bản bộ truyện từ tập 79 trở đi có phù hợp với
quy định pháp luật không?
Việc công ty Phan Thị cho xuất bản bộ truyện tranh từ tập 79 trở đi là không phù hợp với
quy định của pháp luật.
CSPL: Khoản 1 Điều 6, khoản 1 Điều 13, Điều 19, 20, 39 Luật SHTT.
Căn cứ theo Khoản 1 Điều 6, khoản 1 Điều 13, Luật SHTT thì Hoạ sĩ Lê Linh là tác giả
duy nhất của bộ truyện tranh “Thần Đồng Đất Việt” và đã sáng tạo ra 4 hình tượng nhân
vật trong truyện. Ông là người sáng tạo ra các nhân vật và trong quá trình sáng tạo không
có bất kỳ ai tham gia để tạo ra tác phẩm “Thần Đồng Đất Việt”. Việc bà Hạnh cho rằng
mình là đồng tác giả của tác phẩm là không đúng. Bởi những ý tưởng này không được định
hình nên không được bảo hộ quyền tác giả. Vì vậy bà Hạnh không được coi là đồng tác giả
theo khoản 2 Điều 12a Luật SHTT.
Như vậy thì ông Linh là tác giả của 4 hình tượng nhân vật còn Công ty Phan Thị là chủ
sở hữu quyền tác giả của tác phẩm, được quyền làm tác phẩm phái sinh. Theo Khoản 4 Điều
19 LSHTT, công ty không được lợi dụng tác phẩm của ông để phát triển. Người vẽ tiếp
những tập sau phải xin phép, phải có sự đồng ý của họa sĩ Lê Linh. Công ty Phan Thị chỉ
có quyền sở hữu đối với 78 tập đầu tiên.
Với những tập này, công ty Phan Thị có toàn quyền khai thác mà không cần sự đồng ý
của họa sĩ Lê Linh, nhưng không được sửa chữa, cắt xén, làm sai lệch hình tượng gốc gây
phương hại đến danh dự, uy tín của tác giả Lê Linh. Từ tập 79 trở đi, Phan Thị muốn khai
thác tiếp thì phải có sự đồng ý của họa sĩ Lê Linh.
Tuy nhiên Công ty Phan Thị đã sử dụng những biến thể khác nhau của những hình tượng
do họa sĩ Lê Linh sáng tạo từ các tập Thần Đồng Đất Việt tiếp theo nhưng không xin phép
ông. Hành vi tiếp tục sáng tạo tập 79 là hành vi cắt xén, tự sửa chữa tác phẩm, gây phương
hại đến danh dự và uy tín của tác giả cũng như ảnh hưởng đến tính nguyên gốc của tác
phẩm nên hành vi này là không phù hợp với quy định của pháp luật.
2/ Nghiên cứu Bản án số 213/2014/DS-ST của Tòa án nhân dân quận Tân Bình ngày
14/8/2014
và trả lời các câu hỏi sau:
Tóm tắt tình tiết bản án:
Nguyên đơn: Ông Lộc; Bị đơn: Cty Mặt Trời Mọc; Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Cty Đăng Viễn.
Vấn đề pháp lý: Cty Mặt Trời Mọc có xâm phạm quyền tác giả của ông Lộc hay không?
Hướng giải quyết của Toà án: Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Lộc do HĐXX
xét thấy không có vi phạm SHTT. Lý do, không có hành vi vi phạm quyền tác giả đối với tác phẩm của ông Lộc.
a) Ai là tác giả tác phẩm “Hình thức thể hiện tranh tết dân gian”? Tác phẩm nàycó
được bảo hộ quyền tác giả không? Vì sao? lOMoAR cPSD| 58702377
Tác giả tác phẩm “Hình thức thể hiện tranh tết dân gian" là Ông Lộc.
Tác phẩm này được bảo hộ quyền tác giả, vì việc ông Lộc đăng ký SHTT tại Cục bản
quyền cấp giấy chứng nhận đăng ký bản quyền số 169/2013/QTG ngày 07/01/2013, có kèm
theo hình ảnh đăng ký bản quyền, nội dung tác phẩm là tập hợp những hình ảnh của các
nhân vật có nguồn gốc từ dân gian được sắp xếp lại để thể hiện không khí ngày tết của Việt
Nam đã được HĐXX công nhận . Ngoài việc HĐXX xác định có bảo hộ quyền tác giả của
ông Lộc, thì căn cứ theo Luật SHTT thì quyền tác giả của ông Lộc phát sinh tại thời điểm
ông đã sáng tạo ra tranh không xét nội dung, đăng ký hay không đăng ký. Cho nên, tác
phẩm của ông Lộc được bảo hộ quyền tác giả.
b) Từng “cụm hình ảnh” trong tác phẩm “Hình thức thể hiện tranh tết dân gian”
có được bảo hộ quyền tác giả không? Vì Sao?
Theo bản án, Tòa nhận định rằng quyền tác giả trong tác phẩm của ông Lộc chính là bố
cục sắp xếp, hình thức thể hiện trong một tổng thể thống nhất không thể tách rời ra theo
từng bộ phận để xác định quyền tác giả.
Trên thực tế, ông Lộc trình bày, do muôn tiết kiệm thời gian nên ông đã gộp chung 05 cụm
hình ảnh lại vào trong một tác phẩm để đăng ký quyền tác giả thay vì phải nộp 05 hồ sơ
tương ứng với 05 cụm hình ảnh. Từ đó có thể nhận thấy quyền tác giả của ông Nguyễn Văn
Lộc đối với từng cụm hình riêng rẽ chưa được xác lập.
Như vậy, từng “cụm hình ảnh” trong tác phẩm “Hình thức thể hiện tranh tết dân gian”
không được bảo hộ về quyền tác giả mà chỉ được bảo hộ đối với phần nghiên cứu sưu tầm,
hình thức, thể hiện của mình dưới dạng bố cục tổng thể đã được cấp Giấy chứng nhận đăng ký quyền tác giả.
c) Hành vi của bị đơn có xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ của nguyên đơn không?
Nêu cơ sở pháp lý.
Theo nhóm em cho rằng hành vi của bị đơn không xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ của
nguyên đơn. CSPL: Điều 23 Luật SHTT, Điều 18 Nghị định 22/2018, khoản 3 Điều 49 Luật SHTT.
Căn cứ vào tính nguyên gốc và xuất xứ của tác phẩm, xét thấy cụm ảnh mà ông Lộc lấy
cảm hứng để tạo ra “Hình thức thể hiện tranh dân gian” xuất phát từ những tác phẩm nghệ
thuật dân gian lâu đời và được thể hiện qua nhiều dị bản phổ biến khác nhau (hình ảnh múa
lân, ông địa, liễn chúc tết, ông đồ viết chữ …) mà tác giả chỉ thay đổi một số đường nét và
sắp xếp theo một bố cục và hình thức thể hiện để tạo nên tác phẩm riêng của mình. Qua đó,
ông Lộc cũng có đề cập do quy trình đăng ký cho mỗi cụm hình ảnh khá tốn kém nhiều thời
gian và chi phí nên theo hồ sơ đăng ký bản quyền số 169/2013/QTG đối với tác phẩm “Hình
thức thể hiện tranh dân gian”, ông chỉ tiến hành đăng ký một tác phẩm gồm tập hợp những
hình ảnh cụ thể là 05 cụm hình nhân vật lấy ý tưởng từ dân gian dưới hình thức mỹ thuật
ứng dụng. Trong khi đó, nếu tách nhỏ hình thức và bố cục của những cụm ảnh trong tác
phẩm “Hình thức thể hiện tranh dân gian” lại không thể hiện được tính thống nhất, chỉnh
thể về bố cục để hình thành nên nội dung “Tranh dân gian ngày Tết” của tác phẩm mà chỉ lOMoAR cPSD| 58702377
được xem là những cụm ảnh riêng có tính tương đồng về chủ đề. Chính vì thế, việc bảo hộ
quyền tác giả đối với tác phẩm của ông Lộc là việc bảo hộ đối với việc thay đổi một số
đường nét, bố cục và hình thức sắp xếp của toàn bộ những cụm tranh ông sắp xếp lại với
nhau chứ không bảo hộ riêng rẽ từng cụm tranh một.
Từ vấn đề trên, do quyền tác giả của ông Lộc chỉ có thể được bảo hộ trên một tác phẩm
thống nhất nên việc công ty Đăng Viễn đã sưu tầm, mua lại các hình ảnh riêng rẽ tại các
websites phổ biến trên mạng xã hội để thiết kế, sắp xếp, bố cục để hình thành hình thức thể
hiện không khí Tết dân gian cho tác phẩm trang trí của mình là hoàn toàn bình thường vì
xét thấy tính tương đồng có thể là tương đồng về chủ đề một số hình ảnh riêng rẽ nhưng
nhìn chung về toàn diện bố cục và hình thức thì công ty Đăng Viễn xét thấy không vi phạm
quyền tác giả đối với tác phẩm của ông.
Cuối cùng, xét thấy tác phẩm của ông Lộc chỉ lấy cảm hứng, có sắp xếp hình thức, bố cục
và sửa đổi vài chi tiết nhỏ từ tranh dân gian nhưng lại không thể hiện tính đặc trưng riêng
đặc thù đối với tác phẩm của tác giả, nên nhìn chung việc bảo vệ tính nguyên gốc trên thực
tế là khó thực hiện được. Chính vì thế, việc ông cho rằng tác phẩm mỹ thuật ứng dụng của
ông được cấp Giấy chứng nhận và bảo hộ tổng thể, ông không cần phải chứng minh quyền
tác giả thuộc về mình khi có tranh chấp là chưa chính xác.
Căn cứ vào khoản 3 Điều 49 LSHTT hiện hành có quy định “Tổ chức, cá nhân đã được
cấp Giấy chứng nhận quyền tác giả, Giấy chứng nhận đăng ký quyền liên quan không có
nghĩa vụ chứng minh quyền tác giả, quyền liên quan thuộc về mình khi có tranh chấp, trừ
trường hợp có chứng từ ngược lại”. Do đó, đối với dữ kiện của bản án, hợp đồng của Công
ty Đăng Viễn và Công ty mặt trời mọc đã được hoàn thành và thanh lý vào ngày
05/12/2012 trước khi ông Lộc được cấp Giấy chứng nhận đăng ký bản quyền ngày
07/07/2013, đối với tác phẩm này cũng không thuộc tác phẩm được bảo hộ quyền tác giả
tự động vì đơn thuần ông Lộc không phải là tác giả “gốc” đối với những tác phẩm tranh
dân gian này. Nên trong tình huống trên, ông Lộc cần phải tiến hành chứng minh để bảo vệ quyền lợi của mình.
B. Phần Câu hỏi sinh viên tự làm (có nộp bài) và KHÔNG thảo luận trên lớp: 1/ Phân
tích quy định của Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sở hữu trí
tuệ năm 2022 về Giả định quyền tác giả, quyền liên quan đến quyền tác giả.
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ năm 2022, có hiệu lực từ ngày
01/01/2023, đã bổ sung quy định về giả định quyền tác giả, quyền liên quan tại Điều 198a.
Đây là một điểm mới quan trọng, giúp đơn giản hóa việc xác định chủ thể quyền tác giả và
quyền liên quan, tạo thuận lợi trong quá trình bảo vệ quyền lợi của tác giả và chủ sở hữu
quyền. Theo quy định này, cá nhân hoặc tổ chức có tên trên tác phẩm, bản ghi âm, ghi hình,
chương trình phát sóng hoặc có định danh trên bản sao của các đối tượng này được giả định
là chủ thể quyền tác giả, quyền liên quan. Khi có tranh chấp, bên yêu cầu bảo vệ quyền
không cần cung cấp chứng cứ chứng minh quyền sở hữu, trừ khi có bằng chứng ngược lại.
Như vậy, pháp luật mặc định rằng cá nhân hoặc tổ chức có tên trên tác phẩm là chủ sở hữu
quyền, trừ khi có ai đó đưa ra bằng chứng chứng minh điều ngược lại. lOMoAR cPSD| 58702377
Quy định này có ý nghĩa quan trọng trong việc bảo vệ quyền lợi của tác giả, đặc biệt trong
bối cảnh trước đây, người yêu cầu bảo vệ quyền phải cung cấp chứng cứ đầy đủ, gây khó
khăn nếu không có đăng ký quyền tác giả hoặc tài liệu chứng minh rõ ràng. Đồng thời, quy
định này giúp giảm gánh nặng chứng minh khi tranh chấp xảy ra, bởi thay vì tác giả hoặc
chủ sở hữu quyền phải chứng minh quyền của mình, bên phản đối mới phải đưa ra bằng
chứng phủ nhận. Điều này cũng góp phần hỗ trợ giải quyết tranh chấp nhanh chóng, giảm
thiểu thời gian xử lý và tránh tình trạng lợi dụng thủ tục pháp lý để trì hoãn thực thi quyền.
Tuy nhiên, để quy định này có hiệu lực, cần đáp ứng một số điều kiện, chẳng hạn như tên
hoặc định danh của tác giả, chủ sở hữu quyền phải xuất hiện trên tác phẩm hoặc bản sao
của tác phẩm, và nguyên tắc giả định quyền chỉ được áp dụng khi chưa có bằng chứng
ngược lại. Dù mang lại nhiều lợi ích, quy định này cũng tồn tại một số rủi ro, trong đó có
nguy cơ bị lạm dụng khi một cá nhân hoặc tổ chức cố tình gắn tên mình lên tác phẩm nhằm
tạo cơ sở giả định quyền không hợp pháp. Hơn nữa, nó không thể áp dụng nếu có bằng
chứng rõ ràng về việc chuyển nhượng quyền hoặc xác lập quyền theo hợp đồng, chẳng hạn
như trường hợp tác phẩm được sáng tạo trong quá trình làm việc và thuộc sở hữu của công
ty. Ngoài ra, quy định này chưa giải quyết triệt để các tranh chấp phức tạp giữa nhiều bên
đồng sở hữu quyền. Trước đây, Luật Sở hữu trí tuệ chưa có quy định về giả định quyền tác
giả và quyền liên quan, dẫn đến việc bên yêu cầu bảo vệ quyền phải tự chứng minh quyền
sở hữu, gây khó khăn và kéo dài thời gian xử lý vụ việc.
Với quy định mới, quy trình bảo vệ quyền được đơn giản hóa, giúp tăng cường khả năng
thực thi quyền sở hữu trí tuệ. Tuy nhiên, nó cũng đặt ra yêu cầu đối với cơ quan thực thi
trong việc áp dụng một cách chặt chẽ để tránh tình trạng lạm dụng hoặc xác định sai chủ
thể quyền. Nhìn chung, quy định về giả định quyền tác giả, quyền liên quan là một bước
tiến quan trọng trong bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, giúp giảm gánh nặng chứng minh và hỗ
trợ giải quyết tranh chấp nhanh chóng. Tuy nhiên, để đảm bảo tính chính xác và công bằng, lOMoAR cPSD| 58702377
cần có sự kết hợp giữa nguyên tắc giả định quyền và các bằng chứng thực tế nhằm xác định
đúng chủ thể quyền trong từng trường hợp cụ thể.
2/ Phân tích trách nhiệm của doanh nghiệp cung cấp dịch vụ trung gian đối với hành
vi xâm phạm quyền tác giả, quyền liên quan trên môi trường Internet.
Dịch vụ trung gian là những dịch vụ mang tính chất cầu nối, đưa thông tin và tác phẩm
đến với công chúng bằng các phương tiện công nghệ như dịch vụ viễn thông, dịch vụ
Internet, dịch vụ mạng xã hội trực tuyến,… Từ đó phát triển các doanh nghiệp cung cấp
dịch vụ này cho người dùng. Theo khoản 1 Điều 198b Luật Sở hữu trí tuệ quy định: “Doanh
nghiệp cung cấp dịch vụ trung gian là doanh nghiệp cung cấp phương tiện kỹ thuật để tổ
chức, cá nhân sử dụng dịch vụ đưa nội dung thông tin số lên môi trường mạng viễn thông
và mạng Internet; cung cấp kết nối trực tuyến cho công chúng tiếp cận, sử dụng nội dung
thông tin số trên môi trường mạng viễn thông và mạng Internet”.
Hoạt động của những chủ
thể này đóng vai trò không nhỏ trong việc truyền đạt, phân phối các tác phẩm đến với công
chúng, bao gồm cả việc làm tăng hoặc giảm giá trị của tác phẩm. Trong trường hợp xảy ra
hành vi xâm phạm quyền tác giả, doanh nghiệp cung cấp dịch vụ trung gian chính là chủ
thể đầu tiên có khả năng ngăn chặn hành vi xâm phạm hoặc tạo điều kiện để hành vi xâm
phạm diễn ra. Do vậy, có thể nói đây là chủ thể có vai trò quan trọng trong hoạt động truyền
đạt tác phẩm và bảo vệ quyền tác giả.
Hành vi xâm phạm quyền tác giả cần được chấm dứt ngay khi bị phát hiện, nhất là đối
với hoạt động phát trực tuyến. Trên Internet, mọi thứ lan truyền với tốc độ chóng mặt, và
trong khoảnh khắc chậm trễ, tác hại có thể trở nên nghiêm trọng hơn rất nhiều. Do đó,
những doanh nghiệp cung cấp dịch vụ trung gian không chỉ đơn thuần là người dẫn đường
trong thế giới số mà còn phải có trách nhiệm nắm bắt và phản ứng kịp thời với các vi phạm
pháp luật. Khi phát hiện hành vi xâm phạm quyền tác giả trên nền tảng kỹ thuật số, nếu chủ
thể quyền tác giả khởi kiện mà lại phải chờ đợi qua quy trình pháp lý thì hành vi xâm phạm
có thời gian để lan rộng, gây ra những thiệt hại đáng kể. Nhưng nếu pháp luật cho phép
ngăn chặn hành vi xâm phạm như một biện pháp khẩn cấp tạm thời, và nếu doanh nghiệp
cung cấp dịch vụ trung gian có thể dựa vào yêu cầu từ chủ thể quyền để hành động thì thiệt
hại sẽ được hạn chế tối đa. Nếu trong quá trình yêu cầu có sai sót xảy ra, chính bên yêu cầu
sẽ phải gánh chịu trách nhiệm bồi thường hoặc áp dụng các biện pháp chế tài khác. Nếu có
trường hợp xảy ra thì hành vi xâm phạm được ngăn chặn kịp thời và thiệt hại vì thế cũng
được giảm bớt. Mặt khác, việc bỏ hay cắt đường truyền khi có yêu cầu của cơ quan nhà
nước là điều đương nhiên. Trong bức tranh lớn của Internet, doanh nghiệp cung cấp dịch
vụ trung gian đóng một vai trò vô cùng quan trọng. Các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ
trung gian là những đơn vị kiểm soát, ngăn chặn và xử lý các vi phạm bằng các biện pháp
kỹ thuật. Đồng thời, phải có biện pháp kết hợp kỹ thuật pháp lý để giảm bớt các thông tin
vi phạm, đóng các website vi phạm, xác định kịp thời chủ thể vi phạm, xử lý nghiêm về
hành chính và hình sự. Với các biện pháp kỹ thuật khôn ngoan, họ sẽ kiểm soát, ngăn chặn,
và xử lý các vi phạm để bảo vệ quyền lợi chính đáng của các tác giả. Theo khoản 2 Điều lOMoAR cPSD| 58702377
198b Luật sở hữu trí tuệ quy định: “Doanh nghiệp cung cấp dịch vụ trung gian có trách
nhiệm triển khai các biện pháp kỹ thuật, phối hợp với các cơ quan nhà nước có thẩm quyền,
các chủ thể quyền thực thi các biện pháp bảo vệ quyền tác giả, quyền liên quan trên môi
trường mạng viễn thông và mạng Internet
”.
Mặc dù không trực tiếp tác động vào sản phẩm vi phạm, nhưng doanh nghiệp cung cấp
dịch vụ trung gian đã cung cấp điều kiện để người dùng thực hiện hành vi xâm phạm và thu
lợi nhuận. Chủ thể này có khả năng kiểm soát hoạt động của người dùng thông qua việc
kiểm duyệt cho phép hoặc không cho phép phát trực tuyến nội dung vi phạm. Trách nhiệm
bồi thường của doanh nghiệp cung cấp dịch vụ trung gian là không thể tránh khỏi. Về việc
chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại do xâm phạm quyền tác giả, các Điều 112, 113 và 114
của Nghị định 17/2023 sẽ phải chịu trách nhiệm liên đới bồi thường thiệt hại do hành vi
xâm phạm quyền tác giả, quyền liên quan của người sử dụng dịch vụ gây ra. Nghị định
17/2023/NĐ-CP cũng đã nêu rõ hơn về trách nhiệm của doanh nghiệp cung cấp dịch vụ
trung gian trong việc bảo vệ quyền tác giả và trách nhiệm đối với hành vi xâm phạm quyền
tác giả, trong đó, có nêu rõ quy trình thực hiện, sự phối hợp của doanh nghiệp cung cấp
dịch vụ trung gian, thời hạn doanh nghiệp cung cấp dịch vụ trung gian cần phản hồi các
bên. Đồng thời Dự thảo Nghị định Quy định xử phạt vi phạm hành chính về quyền tác giả,
quyền liên quan đã có điều khoản đề xuất mức xử lý đối hành vi vi phạm quy định về trách
nhiệm của Doanh nghiệp cung cấp dịch vụ trung gian để ràng buộc trách nhiệm của các
Doanh nghiệp cung cấp dịch vụ trung gian trong bảo vệ quyền tác giả.3
Bên thực hiện hành vi xâm phạm quyền tác giả trực tiếp cũng phải chịu trách nhiệm bồi
thường. Hiện nay vẫn chưa có quy định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong trường
hợp này. Nhưng có thể sử dụng vận dụng quy định tại Điều 587 BLDS năm 2015 về bồi
thường thiệt hại do nhiều người cùng gây ra thì những người đó phải liên đới bồi thường
cho người bị thiệt hại. Điều 288 BLDS năm 2015 cũng quy định nghĩa vụ liên đới là nghĩa
vụ do nhiều người cùng phải thực hiện và bên có quyền có thể yêu cầu bất cứ ai trong số
những người có nghĩa vụ phải thực hiện toàn bộ nghĩa vụ. Do vậy, tác giả, chủ sở hữu quyền
tác giả bị xâm phạm quyền có quyền khởi kiện yêu cầu một hoặc hai bên bồi thường thiệt
hại cho mình. Hành vi không thực hiện đúng trách nhiệm của tổ chức cung cấp dịch vụ
trung gian cũng được xem là hành vi xâm phạm quyền tác giả theo khoản 8
Điều 28 Luật Sở hữu trí tuệ: “Không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ quy định để
được miễn trừ trách nhiệm pháp lý của doanh nghiệp cung cấp dịch vụ trung gian quy định
tại khoản 3 Điều 198b của Luật này.

Quyền và trách nhiệm của các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ trung gian trong Luật Sở
hữu trí tuệ chính là một chủ đề hết sức mới mẻ và cực kỳ cần thiết. Trong bối cảnh công
nghệ phát triển với tốc độ chóng mặt như hiện nay, những doanh nghiệp cung cấp dịch vụ
trung gian không chỉ đóng vai trò cầu nối trong giao tiếp mà còn là yếu tố quyết định trong
3 Luật sư Nguyễn Trần Tuyên, “Trách nhiệm của doanh nghiệp cung cấp dịch vụ trung gian (ISP) trong việc
bảo vệ quyền tác giả trên mạng internet”, https://tienphong.vn/trach-nhiem-cua-doanh-nghiep-cungcap-
dich-vu-trung-gian-isp-trong-viec-bao-ve-quyen-tac-gia-tren-mang-internet-post1586890.tpo , truy cập ngày 01/03/2025. lOMoAR cPSD| 58702377
việc phân phối công việc, góp phần tăng hoặc giảm giá trị của các tác phẩm nghệ thuật. Nếu
những doanh nghiệp này thực thi trách nhiệm một cách nghiêm túc và hiệu quả, thì những
hành vi xâm phạm quyền tác giả sẽ có thể được kiểm soát chặt chẽ. Điều này không chỉ
giúp cho những người sáng tạo có thể an tâm cống hiến tài năng mà còn cho công chúng
được tiếp cận với những tác phẩm chất lượng, có giá trị cao hơn. Tuy nhiên, vấn đề mà
chúng ta cần quan tâm là giới hạn trách nhiệm và những trường hợp được miễn trừ trách
nhiệm của các doanh nghiệp này khi họ thực hiện việc truyền tải tác phẩm. Điều này không
chỉ nhằm tạo ra một môi trường bảo vệ quyền tác giả tại Việt Nam trở nên tốt đẹp hơn, mà
còn góp phần hạn chế những hành vi xâm phạm không đáng có. lOMoAR cPSD| 58702377
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
A. Văn bản quy phạm pháp luật 1. Bộ Luật Dân sự 2015. 2.
Văn bản hợp nhất số 11/VBHN-VPQH Luật Sở hữu trí tuệ ngày 08/7/2022. 3.
Nghị định 17/2023/NĐ-CP. 4. Công ước Berne. 5. Hiệp định TRIPS 1994. 6.
Đạo luật Bản quyền, Thiết kế và Bằng sáng chế năm 1988. 7.
Luật Bản quyền Hoa Kỳ 2022.
B. Tài liệu tham khảo 1.
Trường Đại học Luật TP.HCM, Giáo trình “Luật Sở hữu trí tuệ” NXB. Hồng
Đứchttps://vjst.vn/vn/tin-tuc/6815/quy-dinh-ve-su-dung-hop-ly-tac-pham--goc-nhin-so-
sanh- tu-phap-luat-vuong-quoc-anh-va-viet-nam.aspx?utm_source=chatgpt.com . 2.
Biên Tập Viên, “Nguyên tắc sử dụng hợp lý – “fair use” trong pháp luật sở
hữu trítuệ Việt Nam”, https://vietnamcopyright.com.vn/nguyen-tac-su-dung-hop-ly-fair-
usetrong- phap-luat-so-huu-tri-tue-viet-nam/, truy cập ngày 01/03/2025. 3.
Luật sư Nguyễn Trần Tuyên, “Trách nhiệm của doanh nghiệp cung cấp dịch
vụ trunggian (ISP) trong việc bảo vệ quyền tác giả trên mạng internet”,
https://tienphong.vn/trachnhiem-cua-doanh-nghiep-cung-cap-dich-vu-trung-gian-isp-
trong-viec-bao-ve-quyen-tac- gia-tren-mang-internet-post1586890.tpo , truy cập ngày 01/03/2025. 4.
TS Lê Vũ Vân Anh,”Quy định về “sử dụng hợp lý” tác phẩm: Góc nhìn so sánh
từ pháp luật Vương quốc Anh và Việt Nam, https://vjst.vn/vn/tin-tuc/6815/quy-dinh-ve- sudung-
hop-ly-tac-pham--goc-nhin-so-sanh-tu-phap-luat-vuong-quoc-anh-va-viet-
nam.aspx?utm_source=chatgpt.com, truy cập ngày 01/03/2025. 5.
Copyright Act of 1976, Mục 107, https://www.copyright.gov/title17/, truy cập ngày 01/03/2025.