lOMoARcPSD| 48599919
1
BÀI THẢO LUẬN NHÓM CHƯƠNG 1
DANH SÁCH NHÓM:
1. Trịnh Khắc An
2. Đào Thị Ngọc Anh
3. Sơn Ngọc Tuyết Liễu
4. Nguyễn Thị Ngọc Linh
5. Lê Nguyễn Hoàng My
6. Ngô Thị Nguyên Thu
7. Nguyễn Thị Ngọc Tiến
8. Vương Cẩm Tiên
CÂU HỎI:
Câu 1. Phân tích những điều kiện dẫn đến việc thành lập Đảng.
Câu 2. Vai trò của Nguyễn Ái Quốc trong việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.
Câu 3. Trình bày nội dung và ý nghĩa của Cương lĩnh chính trị đầu tiên.
CÂU TRẢ LỜI CỦA NHÓM:
Câu 1. Những điều kiện dẫn đến việc thành lập Đảng bao gồm:
* Tình hình thế giới
- Mâu thuẫn xã hội:
Chủ nghĩa bản phương y chuyển từ giai đoạn tự do cạnh tranh sang giai đoạn
độc quyền. Nhân dân các dân tộc bị áp bức đã đứng lên đấu tranh tự giải phóng khỏi ách
thực dân, đế quốc, tạo thành phong trào giải phóng dân tộc mạnh mẽ, rộng khắp. Cùng với
các phong trào như giai cấp vô sản chống lại giai cấp tư sản các nước bản chủ nghĩa,…
phong trào giải phóng dân tộc ở các nước châu Á đã tác động mạnh mẽ.
- Tác động của phong trào cách mạng giành thắng lợi:
lOMoARcPSD| 48599919
2
Thắng lợi của Cách mạng tháng Mười Nga năm 1917 làm biến đổi sâu sắc tình hình
thế giới.Thắng lợi đã biến học thuyết Mác thành hiện thực, không chỉ có ý nghĩa to lớn đối
với cuộc đấu tranh giai cấp sản của các ớc bản còn mở ra thời đại mới “Thời
đại Cách mạng chống Đế quốc, thời đại giải phóng dân tộc.”
- Sự xuất hiện của hệ tư tưởng mới:
Tháng 3/1919, V.I.Leenin đã thành lập Quốc tế Cộng sản đồng thời vạch đường
hướng chiến lược cho cách mạng vô sản và đề cập các vấn đề dân tộc và thuộc địa. Qua đó
đã thúc đẩy mạnh mẽ phong trào giải phóng dân tộc tạo tiền đề quan trọng cho quá trình
thành lập Đảng cách mạng của Việt Nam.
*Tình hình Việt Nam
- Mâu thuẫn dân tộc và giai cấp gay gắt:
Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, Việt Nam là thuộc địa của thực dân Pháp, người
dân chịu ách bóc lột tàn khốc. Mâu thuẫn cơ bản là mâu thuẫn giữa nhân dân Việt Nam với
thực dân Pháp, đồng thời giữa nông dân với địa chủ phong kiến. Các phong trào yêu nước
theo khuynh hướng phong kiến (Phan Đình Phùng), dân chủ tư sản (Phan Bội Châu, Phan
Châu Trinh). Các phong trào này tuy mạnh mẽ, quyết liệt nhưng qua khảo nghiệm đều thất
bại do thiếu đường lối chính trị đúng đắn để giải quyết triệt để những mâu thuẫn bản,
chủ yếu của xã hội từ đây cho thấy cách mạng Việt Nam khủng hoảng sâu sắc về đường lối
cứu nước giai cấp lãnh đạo, chưa một tổ chức vững mạnh để tập hợp, giác ngộ
lãnh đạo toàn bộ dân tộc, chưa xác định được phương pháp đấu tranh thích hợp để đánh đổ
kẻ thù. vậy, điều kiện cần phải một tchức cách mạng tiên phong, đường lối
cứu nước đúng đắn để giải phóng dân tộc.
- Sự kết hợp giữa chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào yêu nước và phong trào
công nhân Việt Nam trong những năm 20 của thế kỷ này ngày càng phát triển.
Chủ nghĩa Mác Lênin du nhập vào Việt Nam thông qua Nguyễn Ái Quốc khi người
đọc được thảo về thứ nhật những luận cương về vấn đề dân tộc thuộc địa của Lenin
cùng với sự thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga (1917) minh chứng cho con
đường cách mạng vô sản, tạo tiền đề lý luận và niềm tin cho các nhà cách mạng Việt Nam.
Từ năm 1925, tưởng cách mạng vô sản được truyền về Việt Nam qua các tổ chức như
hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên. Được giai cấp tri thức và vô sản yêu nước đón nhận
và thành lập các nhóm, tổ chức hoạt động theo khuynh hướng tư sản.
Trong cùng năm 1929, Việt Nam sự thành lập hoạt động của 3 tổ chức cộng
sản lớn là: Đông Dương Cộng sản Đảng, An Nam Cộng sản Đảng, Đông Dương Cộng sản
Liên đoàn. Đây là tiền đề cho việc ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam.
lOMoARcPSD| 48599919
3
Từ các điều kiện trên thì ngày 03/2/1930, ới sự chủ trì của Nguyễn Ái Quốc tại
Cửu Long (Hồng Kông), đại diện các tổ chức cộng sản đã họp thống nhất thành lập Đảng
Cộng sản Việt Nam. Đây bước ngoặt lớn, chấm dứt tình trạng chia rẽ, đưa phong trào
cách mạng vào quỹ đạo thống nhất về tư tưởng, tổ chức và hành động.
Câu 2. Thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam một điều tất yếu khách quan của
những điều kiện khách quan chủ quan lúc bấy giờ. Trong đó, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc
đóng vai trò quan trọng. Ngay dòng đầu tiên trong Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam 2011
đã khẳng định: “Đảng Cộng sản Việt Nam do đồng chí Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện”.
Từ đó có thể thấy, công lao của Người đối với việc thành lập Đảng và lãnh đạo cuộc chiến
của nhân dân ta để đi đến thắng lợi cùng to lớn, không câu từ nào thể kể hết.
thể kể đến vai trò của Người trong việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam như:
- Tìm kiếm và lựa chọn con đường cứu nước đúng đắn cho cả dân tộc ta.
Cuối thế kXIX, do sự bất lực của Triều đình nhà Nguyễn, Việt Nam đã bị xâm lược
và biến thành một thuộc địa của thực dân Pháp. Dưới ách thống trị của thực dân Pháp, nhân
dân ta rơi vào cảnh lầm than, nước mất nhà tan, thuế xiềng xích lệ giam cầm đời
sống của nhân dân ta trong màn đêm tối. Lúc bấy giờ, nhiều cuộc khởi nghĩa đã nổi dậy
như Khởi nghĩa Ba Đình, Phong trào Đông Du, Phong trào chống thuế ở Trung Kỳ,… Tuy
nhiên, các cuộc khởi nghĩa đều thất bại. Sự thất bại của các phong trào yêu nước đã thể hiện
sự khủng hoảng của phương cách cứu nước theo truyền thống cũ, đặt ra câu hỏi về một con
đường cứu nước đúng đắn cho cả dân tộc ta.
Trong bối cảnh đó, Nguyễn Ái Quốc đã nhận thấy những bất cập và bế tắc trong con
đường cứu nước của thế hệ cha anh. Mang trong mình con tim cháy bỏng, sự nhiệt huyết
của tuổi trẻ với khát vọng giải phóng đất nước khỏi ách nô lệ, đem lại độc lập tự do cho dân
tộc, Nguời đã quyết định ra đi tìm đường cứu nước tại Bến Cảng Nhà Rồng vào ngày
05/6/1911 trên con tàu Amiral Latouche Tréville (tàu Đô đốc Latútsơ Tơrêvin) với tên gọi
Văn Ba, bắt đầu cuộc hành trình đầy gian khổ suốt hơn 30 năm tìm đường cứu nước. Trong
hành trình muôn dặm vất vả, gian lao, vượt qua rất nhiều hiểm nguy, Người đã xác định
được một cách rạch ròi: “dù màu da khác nhau trên đời này chỉ hai giống người: giống
người bóc lột và giống người bị bóc lột”. Từ đó, Người đã xác định rõ kẻ thù và lực lượng
đồng minh của nhân dân các dân tộc bị áp bực. Năm 1917, Cách mạng tháng Mười Nga
thành công rực rỡ đã tác động mạnh mẽ đến nhận thức của Nguyễn Ái Quốc, Người cho
rằng đây “cuộc cách mạng đến nơi” nhằm xóa bỏ bóc lột. Người hội tìm hiểu về
Cách mạng tháng Mười Nga, về Chủ nghĩa Mác Lênin. Năm 1919, Nguyễn Ái Quốc đổi
gửi tới Hội nghị Véc xây bản “Yêu sách của nhân dân An Nam” nhằm đòi quyền tự do
cho nhân dân Việt Nam. m 1920, Người đã hội đọc “Sơ thảo lần thứ nhất những
luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa của V.I.Lenin đăng trên báo Nhân đạo. Theo các
lOMoARcPSD| 48599919
4
tài liệu, lúc ấy Người đã “vui mừng đến phát khóc lên khi tìm được con đường cứu nước
đúng đắn cho dân tộc ta:“Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc, không có còn đường nào
khác con đường cách mạng vô sản”. Từ đó, Nguyễn Ái Quốc hòan toàn tin theo Chủ nghĩa
Mác nin. Tại Đại hội đại biểu Đảng hội Pháp lần thứ XVIII (tháng 12/1920),
Nguyễn Ái Quốc bỏ phiếu tán thành Quốc tế Cộng sản do V.I.Lênin sáng lập tham gia
thành lập Đảng Cộng sản Pháp, trở thành một trong những người sáng lập Đảng Cộng sản
Pháp, và cũng là người cộng sản đầu tiên của Việt Nam.
Sau khi xác định được con đường cách mạng đúng đắn, Người đã tiếp tục khảo sát,
tìm hiểu hoàn thiện nhận thức về đường lối cách mạnh sản, tích cực truyền Chủ
nghĩa Mác nin về Việt Nam. Chỉ có kết hợp chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào
công nhân phong trào yêu ớc mới thể xây dựng được một Đảng cách mạng chân
chính, đảm bảo cho cách mạng phát triển đúng hướng và đi đến thắng lợi.
- Tích cực chuẩn bị về tư tưởng, chính trị, các điều kiện cần thiết cho sự ra
đời của Đảng Cộng sản Việt Nam
Ngay sau khi tìm thấy con đường cứu nước đúng đắn cho dân tộc Việt Nam, Nguyễn
Ái Quốc gấp rút chuẩn bị các tiền đề cần thiết về ởng, chính trị tổ chức cho sự ra
đời của Đảng Cộng sản Việt Nam.
- Về tư tưởng: Từ giữa năm 1921, Nguyễn Ái Quốc tham gia thành lập Hội
Liên hiệp thuộc địa, sáng lập tờ báo Người Cùng khổ, viết nhiều bài báo đăng trên các tờ
báo: Nhân đạo, Đời sống công nhân,… 1922, Người được cử làm Trưởng tiểu ban Nghiên
cứu về Đông Dương. Người đã tích cực tố cáo, lên án bản chất xấu xa của chủ nghĩa thực
dân. Đồng thời, kêu gọi, thức tỉnh nhân dân bị áp bức đấu tranh giải phóng. Từ đó thức
tỉnh mạnh mẽ tinh thần yêu nước, lòng tự hào dân tộc, làm chuyển từ lập trường yêu nước
xích dần đến lập trường của giai cấp công nhân. Bên cạnh đó, Người đã vạch trần bản
chất xấu xa, tội ác của thực dân Pháp đối với nhân dân Việt Nam và đấu tranh với các
quan điểm sai trái, nhằm bảo vệ Chủ nghĩa Mác - Lênin.
- Về chính trị: Người đưa ra những luận điểm quan trọng về cách mạng giải
phóng dân tộc, Người khẳng định: “Con đường cách mạng của các dân tộc bị áp bức là
giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc; cả hai cuộc giải phóng này chỉ có thể là sự
nghiệp của chủ nghĩa cộng sản”. Đường lối chính trị của Đảng phải hướng tới giành độc
lập, tự do cho dân tộc. Về vấn đề Đảng Cộng sản, Nguyễn Ái Quốc khẳng định: “Trứớc
hết phải có Đảng cách mệnh để trong thì vận động và tổ chức dân chúng, người thì liên
lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi."
- Về tổ chức: Nguyễn Ái Quốc khẳng định phải “đi vào quần chúng, thức
tỉnh họ, tổ chức họ, đoàn kết họ, huấn luyện họ, đưa họ ra đấu tranh giành tự do, độc
lOMoARcPSD| 48599919
5
lập". Tháng 6/1925, Người thành lập Hội Việt Nam Cách mạng thanh niên tại Quảng
Châu (Trung Quốc)., nồng cốt là cộng sản đoàn. Người đã xuất bản tờ báo Thanh niên
nhằm tuyên truyền tôn chỉ, mục đích, chủ nghĩa Mác – Leenin và vận động giải phóng
dân tộc Việt Nam. Sau khi thành lập, Hội đã huấn luyện, đào tạo cán bộ, từ các lớp huấn
luyện do Người tiến hành ở Quảng Châu (Trung Quốc) để vừa chuẩn bị cán bộ, vừa
truyền bá Chủ nghĩa Mác – Lênin. Từ năm 1925 đến năm 1927, Người đã mở 3 lớp đào
tạo cán bộ cách mạng cho 75 đồng chí là những thanh niên ưu tú của dân tộc. Các học
viên trong lớp này sau này là những cán bộ chủ chốt và kiên trung của Đảng, có đóng góp
to lớn vào thắng lợi của sự nghiệp cách mạng. Các bài giảng của Nguyễn Ái Quốc biên
soạn làm tài liệu huấn luyện chính trị ở Quảng Châu (1925-1927) được Bộ Tuyên truyền
của Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức ở Á Đông do Người sáng lập, được xuất bản
thành sách với nhan đề Đường Kách mệnh. Đây là cuốn sách chính trị đầu tiên của cách
mạng Việt Nam. Tác phẩm Đường Kách mệnh được bí mật đưa về trong nước và sớm trở
thành tài liệu căn bản để tuyên truyền giác ngộ chính trị theo chủ nghĩa Mác - Lênin và
hướng dẫn các mặt hoạt động của Hội Thanh niên. Trên thực tế, Đường Kách mệnh đã có
ý nghĩa lịch sử rất to lớn đối với phong trào cách mạng trong cả nước, đặc biệt tại Thành
phố Sài Gòn và ở Nam Kỳ, đã chuẩn bị các nhân tố đảm bảo cho sự ra đời của một Đảng
Cộng sản để gánh vác nhiệm vụ lịch sử trọng đại là lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Tác
phẩm chỉ ra vấn đề then chốt có tác dụng lớn không chỉ đối với Việt Nam, mà còn đối với
cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân các nước thuộc địa Phương Đông, đó là:
cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, chủ yếu là công nông, vì vậy phải tổ chức quần
chúng lại; cách mạng muốn thành công phải có một Đảng Cộng sản lãnh đạo; phải có
đường lối và phương pháp cách mạng đúng; cách mạng giải phóng dân tộc phải liên hệ
chặt chẽ với cách mạng vô sản thế giới.
Hội tổ chức trực tiếp truyền bá chnghĩa Mác Lenin vào Việt Nam cũng
sự chuẩn bị quan trọng về tổ chức tiến tới thành lập chính đảng của giai cấp công nhân Việt
Nam, chính là Đảng Cộng sản Việt Nam.
- Chủ trì hợp nhất các tổ chức cộng sản thành một Đảng duy nhất Đảng
Cộng sản Việt Nam, đặt nền móng toàn diện cho việc xây dựng Đảng sau này.
Sự tồn tại của ba tổ chức cộng sản trên cả nước nửa cuối năm 1929 bao gồm: An
Nam Cộng sản Đảng, Đông Dương Cộng sản Đảng, Đông Dương Cộng sản Liên đoàn làm
cho lực lượng bị phân tán thiếu thống nhất về tổ chức. Yêu cầu cấp thiết đặt ra chấm
dứt hiện tượng biệt phái, chia rẽ giữa các nhóm cộng sản, phải thống nhất các tổ chức cộng
sản thành một chính đảng duy nhất ở Việt Nam. Nhiệm vụ đó đặt lên vai Nguyễn Ái Quốc,
người duy nhất có đủ năng lực và uy tín đáp ứng yêu cầu đó của lịch sử: thống nhất các tổ
chức cộng sản thành Đảng Cộng sản duy nhất Việt Nam. Trước yêu cầu cấp bách đó,
lOMoARcPSD| 48599919
6
Nguyễn Ái Quốc đã đến họp và chủ trì cuộc họp tại Cửu Long để tiến hành hợp nhất các tổ
chức cộng sản thành một đảng duy nhất của Việt Nam. Tại Hội nghị, dưới sự điều hành
khéo léo và tài tình của Nguyễn Ái Quốc, các đại biểu đã nhất trí “Bỏ mọi thành kiến xung
đột cũ, thành thật hợp tác để thống nhất các nhóm cộng sản Đông Dương”4 thành lập
một chính đảng cộng sản duy nhất Đông ơng, lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam
(03/2/1930). Hội nghị thảo luận, tán thành ý kiến chỉ đạo của Nguyễn Ái Quốc, thông qua
Chánh cương vắn tắt của Đảng, Sách lược vắn tắt của Đảng, Điều lệ vắn tắt của Đảng,
Chương trình m tắt của Đảng do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc soạn thảo. Các văn kiện trên đã
trở thành Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng.
Sự kiện Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời thông qua được Cương lĩnh đúng đắn,
với vai trò to lớn của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc, đã chấm dứt thời kỳ khủng hoảng về đường
lối cứu nước và giai cấp lãnh đạo cách mạng ở Việt Nam. Từ đây, cách mạng Việt Nam có
một chính đảng cộng sản duy nhất của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân
tộc Việt Nam lãnh đạo, đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời cách đây gần 95 m, tuy nhiên, tầm vóc của sự
kiện đó vẫn còn giá trị trường tốn đối với sự phát triển của dân tộc Việt Nam. Thời gian
càng lùi xa, chúng ta càng cảm nhận và đánh giá được công lao to lớn của lãnh tụ Nguyễn
Ái Quốc - Hồ Chí Minh đối với sự ra đời, phát triển trưởng thành của Đảng Cộng sản
Việt Nam. Nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự dẫn dắt của Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã đoàn kết, đồng lòng đánh thắng các thế lực thù địch, những chiến công đã đi vào lịch sử
như Cách mạng Tháng m năm 1945, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (19451954),
cuộc kháng chiến chống đế quốc M(1954-1975). Đặc biệt, những thành tựu của công cuộc
đổi mới gần 37 năm qua, càng chứng minh cho sự lựa chọn đúng đắn con đường đi lên chủ
nghĩa hội nước ta khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, của
Chủ tịch Hồ Chí Minh vị cha già vĩ đại của dân tộc ta.
Câu 3. Trong các văn kiện được thông qua tại Hội nghị thành lập Đảng, có hai văn
kiện là Chánh cương vắt tắt của Đảng và Sách lược vắn tắt của Đảng đã phản ánh về đường
hướng phát triển những vấn đề bản về chiến lược sách lược của cách mạng Việt
Nam. Hai văn kiện trên là Cương lĩnh chĩnh trị đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam.
* Nội dung của Cương lĩnh chính trị đầu tiên bao gồm:
- Cương lĩnh chính trị đầu tiên xác định mục tiêu chiến lược của
cách mạng Việt Nam: Trên cơ sở phân tích thực trạng xã hội Việt Nam lúc bấy giờ
- một hội thuộc địa nửa phong kiến với những mâu thuẫn gay gắt, đặc biệt là mâu
thuẫn giữa nhân dân Việt Nam (trong đó nông dân, công dân) với đế quốc cương
lĩnh đã chỉ cần phải giải quyết triệt để mâu thuẫn y. Từ đó, đi đến xác định
đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam là “Chủ trương làm tư sản dân quyền
lOMoARcPSD| 48599919
7
cách mạng thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”. Do vậy, mục tiêu chiến
lược được nêu ra trong cương lĩnh đầu tiên của Đảng đã làm nội dung của cách
mạng thuộc địa nằm trong phạm trù của cách mạng vô sản.
- Nhiệm vụ trọng tâm trước mắt của cách mạng Việt Nam: được xác
định đánh đổ đế quốc thực dân Pháp chế độ phong kiến, nhằm giành lại nền
độc lập hoàn toàn cho dân tộc. Theo đó, Cương lĩnh cách mạng đã nêu rõ nhiệm vụ
cơ bản của cách mạng Việt Nam là chống đế quốc và chống phong kiến để đạt được
mục tiêu giành độc lập dân tộc và ruộng đất cho nông dân, trong đó, nhiệm vụ chống
đế quốc, giành độc lập dân tộc được đặt lên hàng đầu đây mâu thuẫn bản
nhất giữa toàn thể nhân dân Việt Nam và Pháp.
- Về phương diện kinh tế: Cương lĩnh đề ra các chủ trương lớn như
xóa bỏ hoàn toàn các khoản nợ công; quốc hữu hóa các ngành sản xuất dịch vụ
quan trọng do bản Pháp nắm giữ như công nghiệp, giao thông vận tải, ngân hàng…
để giao cho chính quyền công - nông - binh quản lý; tịch thu chia lại ruộng đất
của thực dân cho nông dân nghèo; miễn sưu thuế cho người lao động nghèo; phát
triển cả công nghiệp lẫn nông nghiệp; áp dụng luật làm việc 8 giờ mỗi ngày…
- Về phương diện hội: Cương lĩnh đã xác định ràng một số quyền
cơ bản của người dân, bao gồm:
a) quyền tự do tổ chức hội họp;
b) thực hiện bình đẳng giới giữa nam và nữ;
c) phổ cập giáo dục cho mọi tầng lớp nhân dân, đặc biệt là công nhân và nông dân.
Bên cạnh đó, những nhiệm vụ cách mạng nêu trên về mặt kinh tế hội không
chỉ phản ánh đúng nhu cầu cấp thiết của đất nước lúc bấy giờ còn thể hiện tính cách
mạng sâu sắc, toàn diện và triệt để. Mục tiêu của các nhiệm vụ này là nhằm xóa bỏ tận gốc
chế độ thống trị và bóc lột tàn bạo của thực dân, tiến tới giải phóng dân tộc, giải phóng giai
cấp, giải phóng hội đặc biệt giải phóng hai lực ợng chủ chốt: công nhân
nông dân.
- Trong việc xác định lực lượng cách mạng: Đảng xác định lực lượng
cách mạng phải lấy công nhân nông dân làm lực lượng cơ bản, ng nhân giữ vai
trò lãnh đạo. Đồng thời, cần đoàn kết mọi giai cấp, tầng lớp yêu nước và tiến bộ, kể
cả trí thức, tiểu tư sản, trung nông... để hình thành khối đại đoàn kết dân tộc. Đối với
các giai cấp chưa thái độ cách mạng nphú nông, địa chủ, sản thì tạm thời
tranh thủ, làm cho họ trung lập. Đây shình thành tưởng chiến lược đại
lOMoARcPSD| 48599919
8
đoàn kết toàn dân trong cách mạng Việt Nam. Hơn nữa, về phương pháp tiến hành
cách mạng giải phóng dân tộc, Cương lĩnh cách mạng xác định con đường giải phóng
dân tộc phải bằng con đường bạo lực cách mạng của quần chúng, kiên quyết không
thỏa hiệp. Đồng thời, đề ra sách lược đấu tranh cách mạng thích hợp để lôi kéo các
lực lượng như tiểu tư sản, trí thức, trung nông, nhưng phải kiên quyết đấu tranh với
những lực lượng phản cách mạng.
- Trong việc xác định tinh thần đoàn kết quốc tế: Cương lĩnh của
Đảng đã xác định rõ tinh thần đoàn kết quốc tế, nhấn mạnh rằng trong quá trình thực
hiện nhiệm vụ giải phóng dân tộc, cần đồng thời tranh thủ sự ủng hộ và đoàn kết của
các dân tộc bị áp bức cũng như giai cấp vô sản trên toàn thế giới, đặc biệt giai cấp
vô sản Pháp. Cương lĩnh khẳng định cách mạng Việt Nam có mối quan hệ mật thiết
là một bộ phận không thể tách rời của cách mạng sản thế giới: "trong khi tuyên
truyền cái khẩu hiệu nước An Nam độc lập, phải đồng tuyên truyền thực nh
liên lạc với bị áp bức dân tộc và vô sản giai cấp thế giới". Như vậy, ngay từ khi mới
thành lập, Đảng Cộng sản Việt Nam đã thể hiện tinh thần quốc tế chủ nghĩa
bản chất quốc tế của giai cấp công nhân.
Theo đó, việc xác định vai trò lãnh đạo của Đảng: “Đảng đội tiên phong của
sản giai cấp phải thu phục cho được đại bộ phận giai cấp mình, phải làm cho giai cấp mình
lãnh đạo được dân chúng”. “Đảng là đội tiên phong của đạo quân vô sản gồm một số lớn
của giai cấp công nhân và làn cho họ có đủ năng lực lãnh đạo quần chúng”. Tức là, Đảng
là đội tiên phong của giai cấp vô sản, có nhiệm vụ thu phục đa số giai cấp mình, nâng cao
năng lực lãnh đạo để dẫn dắt quần chúng.
* Ý nghĩa của Cương lĩnh chính trị đầu tiên:
Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam do lãnh tụ Nguyễn Ái
Quốc soạn thảo mang nhiều ý nghĩa to lớn lâu dài đối với sự phát triển của cách mạng
Việt Nam.
Đầu tiên, xác lập con đường cách mạng đúng đắn cho dân tộc Việt Nam. Trước khi
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, phong trào yêu nước còn mang tính tự phát, thiếu tổ chức
và định hướng rõ ràng. Cương lĩnh chính trị đầu tiên đã xác định rõ nhiệm vụ trung tâm là
chống đế quốc và phong kiến, giành độc lập dân tộc và quyền lợi cho người lao động, tiến
tới chủ nghĩa xã hội. Đây là sự kết hợp giữa chủ nghĩa Mác - nin với thực tiễn đấu tranh
của nhân dân Việt Nam, phản ánh đầy đủ quy luật vận động cách mạng trong một nước
thuộc địa nửa phong kiến.
lOMoARcPSD| 48599919
9
Thứ hai, khẳng định vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân Đảng Cộng sản
Việc Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời ng với Cương lĩnh chính trị đầu tiên đã khẳng định
vai trò tiên phong lãnh đạo của giai cấp công nhân, thông qua đội tiên phong Đảng
Cộng sản. Đây yếu tố quyết định sự thành công của cách mạng Việt Nam. Cương lĩnh
cho thấy rằng giai cấp sản nước ta đã trưởng thành, đủ khả năng lãnh đạo cách mạng,
đồng thời khẳng định Đảng người tổ chức, hướng dẫn dẫn dắt phong trào cách mạng
cả nước.
Thứ ba, tạo nên sự thống nhất tưởng, chính trị hành động trong phong trào
cách mạng Cương lĩnh ra đời trong bối cảnh ba tổ chức cộng sản tồn tại song song
nguy y chia rẽ. Việc thông qua Cương lĩnh gắn với quá trình hợp nhất các tổ chức
cộng sản đã giúp thống nhất về tưởng, chính trị tổ chức, hình thành một Đảng duy
nhất lãnh đạo cách mạng. Từ đây, phong trào cách mạng Việt Nam chung mục tiêu,
tưởng và phương hướng hành động, tạo ra sức mạnh đoàn kết to lớn.
Thứ tư, phù hợp với nguyện vọng của quần chúng nhân n Cương lĩnh đề ra các
mục tiêu cụ thể như người cày có ruộng, bình đẳng nam nữ, tự do ngôn luận, giáo dục phổ
cập,... phù hợp với khát vọng cháy bỏng của đông đảo quần chúng nhân dân, đặc biệt giai
cấp nông dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đánh giá cao nội dung Cương lĩnh khi cho rằng nó
phản ánh “nguyện vọng thiết tha của đại đa số nhân dân ta”. Chính vậy, Đảng đã thu
hút và đoàn kết được các lực lượng cách mạng to lớn trong xã hội.
Thứ năm, Đặt nền móng cho sự phát triển của đường lối cách mạng Việt Nam. Dù
còn một số điểm cần điều chỉnh để phù hợp hơn với thực tiễn Việt Nam, song Cương lĩnh
đầu tiên nền tảng luận ban đầu vững chắc cho các văn kiện sau này, như Luận cương
chính trị m 1930 các ơng lĩnh được bsung, phát triển qua các thời k. Nhờ vậy,
đường lối cách mạng của Đảng ngày càng hoàn thiện, phù hợp hơn với từng giai đoạn lịch
sử.
Như vậy, Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam một mốc
son chói lọi trong lịch sử dân tộc. Với nội dung tiến bộ, phù hợp thực tiễn duy cách
mạng đúng đắn, ơng lĩnh đã xác lập vai trò lãnh đạo của Đảng, định ớng rõ con đường
giải phóng dân tộc và y dựng hội mới. Đây là sở chính trị, tưởng, tổ chức quan
trọng, tạo đà cho thắng lợi của cách mạng Việt Nam trong suốt thế kỷ XX và tiếp tục là nền
tảng định hướng phát triển đất nước trong thời đại mới.

Preview text:

lOMoAR cPSD| 48599919
BÀI THẢO LUẬN NHÓM CHƯƠNG 1 DANH SÁCH NHÓM: 1. Trịnh Khắc An 2. Đào Thị Ngọc Anh 3. Sơn Ngọc Tuyết Liễu 4. Nguyễn Thị Ngọc Linh 5. Lê Nguyễn Hoàng My 6. Ngô Thị Nguyên Thuỳ
7. Nguyễn Thị Ngọc Tiến 8. Vương Cẩm Tiên CÂU HỎI:
Câu 1. Phân tích những điều kiện dẫn đến việc thành lập Đảng.
Câu 2. Vai trò của Nguyễn Ái Quốc trong việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.
Câu 3. Trình bày nội dung và ý nghĩa của Cương lĩnh chính trị đầu tiên.
CÂU TRẢ LỜI CỦA NHÓM:
Câu 1. Những điều kiện dẫn đến việc thành lập Đảng bao gồm:
* Tình hình thế giới
- Mâu thuẫn xã hội:
Chủ nghĩa tư bản phương Tây chuyển từ giai đoạn tự do cạnh tranh sang giai đoạn
độc quyền. Nhân dân các dân tộc bị áp bức đã đứng lên đấu tranh tự giải phóng khỏi ách
thực dân, đế quốc, tạo thành phong trào giải phóng dân tộc mạnh mẽ, rộng khắp. Cùng với
các phong trào như giai cấp vô sản chống lại giai cấp tư sản ở các nước tư bản chủ nghĩa,…
phong trào giải phóng dân tộc ở các nước châu Á đã tác động mạnh mẽ.
- Tác động của phong trào cách mạng giành thắng lợi: 1 lOMoAR cPSD| 48599919
Thắng lợi của Cách mạng tháng Mười Nga năm 1917 làm biến đổi sâu sắc tình hình
thế giới.Thắng lợi đã biến học thuyết Mác thành hiện thực, không chỉ có ý nghĩa to lớn đối
với cuộc đấu tranh giai cấp vô sản của các nước tư bản mà còn mở ra thời đại mới “Thời
đại Cách mạng chống Đế quốc, thời đại giải phóng dân tộc
.”
- Sự xuất hiện của hệ tư tưởng mới:
Tháng 3/1919, V.I.Leenin đã thành lập Quốc tế Cộng sản đồng thời vạch đường
hướng chiến lược cho cách mạng vô sản và đề cập các vấn đề dân tộc và thuộc địa. Qua đó
đã thúc đẩy mạnh mẽ phong trào giải phóng dân tộc tạo tiền đề quan trọng cho quá trình
thành lập Đảng cách mạng của Việt Nam.
*Tình hình Việt Nam
- Mâu thuẫn dân tộc và giai cấp gay gắt:
Cuối thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX, Việt Nam là thuộc địa của thực dân Pháp, người
dân chịu ách bóc lột tàn khốc. Mâu thuẫn cơ bản là mâu thuẫn giữa nhân dân Việt Nam với
thực dân Pháp, đồng thời giữa nông dân với địa chủ phong kiến. Các phong trào yêu nước
theo khuynh hướng phong kiến (Phan Đình Phùng), dân chủ tư sản (Phan Bội Châu, Phan
Châu Trinh). Các phong trào này tuy mạnh mẽ, quyết liệt nhưng qua khảo nghiệm đều thất
bại do thiếu đường lối chính trị đúng đắn để giải quyết triệt để những mâu thuẫn cơ bản,
chủ yếu của xã hội từ đây cho thấy cách mạng Việt Nam khủng hoảng sâu sắc về đường lối
cứu nước và giai cấp lãnh đạo, chưa có một tổ chức vững mạnh để tập hợp, giác ngộ và
lãnh đạo toàn bộ dân tộc, chưa xác định được phương pháp đấu tranh thích hợp để đánh đổ
kẻ thù. Vì vậy, điều kiện là cần phải có một tổ chức cách mạng tiên phong, có đường lối
cứu nước đúng đắn để giải phóng dân tộc.
- Sự kết hợp giữa chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào yêu nước và phong trào
công nhân Việt Nam trong những năm 20 của thế kỷ này ngày càng phát triển.
Chủ nghĩa Mác – Lênin du nhập vào Việt Nam thông qua Nguyễn Ái Quốc khi người
đọc được sơ thảo về thứ nhật những luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa của Lenin
cùng với sự thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga (1917) là minh chứng cho con
đường cách mạng vô sản, tạo tiền đề lý luận và niềm tin cho các nhà cách mạng Việt Nam.
Từ năm 1925, tư tưởng cách mạng vô sản được truyền bá về Việt Nam qua các tổ chức như
hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên. Được giai cấp tri thức và vô sản yêu nước đón nhận
và thành lập các nhóm, tổ chức hoạt động theo khuynh hướng tư sản.
Trong cùng năm 1929, Việt Nam có sự thành lập và hoạt động của 3 tổ chức cộng
sản lớn là: Đông Dương Cộng sản Đảng, An Nam Cộng sản Đảng, Đông Dương Cộng sản
Liên đoàn. Đây là tiền đề cho việc ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam. 2 lOMoAR cPSD| 48599919
Từ các điều kiện trên thì ngày 03/2/1930, dưới sự chủ trì của Nguyễn Ái Quốc tại
Cửu Long (Hồng Kông), đại diện các tổ chức cộng sản đã họp và thống nhất thành lập Đảng
Cộng sản Việt Nam. Đây là bước ngoặt lớn, chấm dứt tình trạng chia rẽ, đưa phong trào
cách mạng vào quỹ đạo thống nhất về tư tưởng, tổ chức và hành động.
Câu 2. Thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam là một điều tất yếu khách quan của
những điều kiện khách quan và chủ quan lúc bấy giờ. Trong đó, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc
đóng vai trò quan trọng. Ngay dòng đầu tiên trong Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam 2011
đã khẳng định: “Đảng Cộng sản Việt Nam do đồng chí Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện”.
Từ đó có thể thấy, công lao của Người đối với việc thành lập Đảng và lãnh đạo cuộc chiến
của nhân dân ta để đi đến thắng lợi là vô cùng to lớn, không câu từ nào có thể kể hết. Có
thể kể đến vai trò của Người trong việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam như: -
Tìm kiếm và lựa chọn con đường cứu nước đúng đắn cho cả dân tộc ta.
Cuối thế kỷ XIX, do sự bất lực của Triều đình nhà Nguyễn, Việt Nam đã bị xâm lược
và biến thành một thuộc địa của thực dân Pháp. Dưới ách thống trị của thực dân Pháp, nhân
dân ta rơi vào cảnh lầm than, nước mất nhà tan, thuế má xiềng xích nô lệ giam cầm đời
sống của nhân dân ta trong màn đêm tối. Lúc bấy giờ, nhiều cuộc khởi nghĩa đã nổi dậy
như Khởi nghĩa Ba Đình, Phong trào Đông Du, Phong trào chống thuế ở Trung Kỳ,… Tuy
nhiên, các cuộc khởi nghĩa đều thất bại. Sự thất bại của các phong trào yêu nước đã thể hiện
sự khủng hoảng của phương cách cứu nước theo truyền thống cũ, đặt ra câu hỏi về một con
đường cứu nước đúng đắn cho cả dân tộc ta.
Trong bối cảnh đó, Nguyễn Ái Quốc đã nhận thấy những bất cập và bế tắc trong con
đường cứu nước của thế hệ cha anh. Mang trong mình con tim cháy bỏng, sự nhiệt huyết
của tuổi trẻ với khát vọng giải phóng đất nước khỏi ách nô lệ, đem lại độc lập tự do cho dân
tộc, Nguời đã quyết định ra đi tìm đường cứu nước tại Bến Cảng Nhà Rồng vào ngày
05/6/1911 trên con tàu Amiral Latouche Tréville (tàu Đô đốc Latútsơ Tơrêvin) với tên gọi
Văn Ba, bắt đầu cuộc hành trình đầy gian khổ suốt hơn 30 năm tìm đường cứu nước. Trong
hành trình muôn dặm vất vả, gian lao, vượt qua rất nhiều hiểm nguy, Người đã xác định
được một cách rạch ròi: “dù màu da có khác nhau trên đời này chỉ có hai giống người: giống
người bóc lột và giống người bị bóc lột”. Từ đó, Người đã xác định rõ kẻ thù và lực lượng
đồng minh của nhân dân các dân tộc bị áp bực. Năm 1917, Cách mạng tháng Mười Nga
thành công rực rỡ đã tác động mạnh mẽ đến nhận thức của Nguyễn Ái Quốc, Người cho
rằng đây là “cuộc cách mạng đến nơi” nhằm xóa bỏ bóc lột. Người có cơ hội tìm hiểu về
Cách mạng tháng Mười Nga, về Chủ nghĩa Mác – Lênin. Năm 1919, Nguyễn Ái Quốc đổi
gửi tới Hội nghị Véc – xây bản “Yêu sách của nhân dân An Nam” nhằm đòi quyền tự do
cho nhân dân Việt Nam. Năm 1920, Người đã có cơ hội đọc “Sơ thảo lần thứ nhất những
luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa của V.I.Lenin đăng trên báo Nhân đạo. Theo các 3 lOMoAR cPSD| 48599919
tài liệu, lúc ấy Người đã “vui mừng đến phát khóc lên” khi tìm được con đường cứu nước
đúng đắn cho dân tộc ta:“Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc, không có còn đường nào
khác con đường cách mạng vô sản”.
Từ đó, Nguyễn Ái Quốc hòan toàn tin theo Chủ nghĩa
Mác – Lê nin. Tại Đại hội đại biểu Đảng Xã hội Pháp lần thứ XVIII (tháng 12/1920),
Nguyễn Ái Quốc bỏ phiếu tán thành Quốc tế Cộng sản do V.I.Lênin sáng lập và tham gia
thành lập Đảng Cộng sản Pháp, trở thành một trong những người sáng lập Đảng Cộng sản
Pháp, và cũng là người cộng sản đầu tiên của Việt Nam.
Sau khi xác định được con đường cách mạng đúng đắn, Người đã tiếp tục khảo sát,
tìm hiểu và hoàn thiện nhận thức về đường lối cách mạnh vô sản, tích cực truyền bá Chủ
nghĩa Mác – Lê nin về Việt Nam. Chỉ có kết hợp chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào
công nhân và phong trào yêu nước mới có thể xây dựng được một Đảng cách mạng chân
chính, đảm bảo cho cách mạng phát triển đúng hướng và đi đến thắng lợi. -
Tích cực chuẩn bị về tư tưởng, chính trị, các điều kiện cần thiết cho sự ra
đời của Đảng Cộng sản Việt Nam
Ngay sau khi tìm thấy con đường cứu nước đúng đắn cho dân tộc Việt Nam, Nguyễn
Ái Quốc gấp rút chuẩn bị các tiền đề cần thiết về tư tưởng, chính trị và tổ chức cho sự ra
đời của Đảng Cộng sản Việt Nam. -
Về tư tưởng: Từ giữa năm 1921, Nguyễn Ái Quốc tham gia thành lập Hội
Liên hiệp thuộc địa, sáng lập tờ báo Người Cùng khổ, viết nhiều bài báo đăng trên các tờ
báo: Nhân đạo, Đời sống công nhân,… 1922, Người được cử làm Trưởng tiểu ban Nghiên
cứu về Đông Dương. Người đã tích cực tố cáo, lên án bản chất xấu xa của chủ nghĩa thực
dân. Đồng thời, kêu gọi, thức tỉnh nhân dân bị áp bức đấu tranh giải phóng. Từ đó thức
tỉnh mạnh mẽ tinh thần yêu nước, lòng tự hào dân tộc, làm chuyển từ lập trường yêu nước
xích dần đến lập trường của giai cấp công nhân. Bên cạnh đó, Người đã vạch trần bản
chất xấu xa, tội ác của thực dân Pháp đối với nhân dân Việt Nam và đấu tranh với các
quan điểm sai trái, nhằm bảo vệ Chủ nghĩa Mác - Lênin. -
Về chính trị: Người đưa ra những luận điểm quan trọng về cách mạng giải
phóng dân tộc, Người khẳng định: “Con đường cách mạng của các dân tộc bị áp bức là
giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc; cả hai cuộc giải phóng này chỉ có thể là sự
nghiệp của chủ nghĩa cộng sản”.
Đường lối chính trị của Đảng phải hướng tới giành độc
lập, tự do cho dân tộc. Về vấn đề Đảng Cộng sản, Nguyễn Ái Quốc khẳng định: “Trứớc
hết phải có Đảng cách mệnh để trong thì vận động và tổ chức dân chúng, người thì liên
lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi."
-
Về tổ chức: Nguyễn Ái Quốc khẳng định phải “đi vào quần chúng, thức
tỉnh họ, tổ chức họ, đoàn kết họ, huấn luyện họ, đưa họ ra đấu tranh giành tự do, độc 4 lOMoAR cPSD| 48599919
lập". Tháng 6/1925, Người thành lập Hội Việt Nam Cách mạng thanh niên tại Quảng
Châu (Trung Quốc)., nồng cốt là cộng sản đoàn. Người đã xuất bản tờ báo Thanh niên
nhằm tuyên truyền tôn chỉ, mục đích, chủ nghĩa Mác – Leenin và vận động giải phóng
dân tộc Việt Nam. Sau khi thành lập, Hội đã huấn luyện, đào tạo cán bộ, từ các lớp huấn
luyện do Người tiến hành ở Quảng Châu (Trung Quốc) để vừa chuẩn bị cán bộ, vừa
truyền bá Chủ nghĩa Mác – Lênin. Từ năm 1925 đến năm 1927, Người đã mở 3 lớp đào
tạo cán bộ cách mạng cho 75 đồng chí là những thanh niên ưu tú của dân tộc. Các học
viên trong lớp này sau này là những cán bộ chủ chốt và kiên trung của Đảng, có đóng góp
to lớn vào thắng lợi của sự nghiệp cách mạng. Các bài giảng của Nguyễn Ái Quốc biên
soạn làm tài liệu huấn luyện chính trị ở Quảng Châu (1925-1927) được Bộ Tuyên truyền
của Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức ở Á Đông do Người sáng lập, được xuất bản
thành sách với nhan đề Đường Kách mệnh. Đây là cuốn sách chính trị đầu tiên của cách
mạng Việt Nam. Tác phẩm Đường Kách mệnh được bí mật đưa về trong nước và sớm trở
thành tài liệu căn bản để tuyên truyền giác ngộ chính trị theo chủ nghĩa Mác - Lênin và
hướng dẫn các mặt hoạt động của Hội Thanh niên. Trên thực tế, Đường Kách mệnh đã có
ý nghĩa lịch sử rất to lớn đối với phong trào cách mạng trong cả nước, đặc biệt tại Thành
phố Sài Gòn và ở Nam Kỳ, đã chuẩn bị các nhân tố đảm bảo cho sự ra đời của một Đảng
Cộng sản để gánh vác nhiệm vụ lịch sử trọng đại là lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Tác
phẩm chỉ ra vấn đề then chốt có tác dụng lớn không chỉ đối với Việt Nam, mà còn đối với
cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân các nước thuộc địa Phương Đông, đó là:
cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, chủ yếu là công nông, vì vậy phải tổ chức quần
chúng lại; cách mạng muốn thành công phải có một Đảng Cộng sản lãnh đạo; phải có
đường lối và phương pháp cách mạng đúng; cách mạng giải phóng dân tộc phải liên hệ
chặt chẽ với cách mạng vô sản thế giới.
Hội là tổ chức trực tiếp truyền bá chủ nghĩa Mác – Lenin vào Việt Nam và cũng là
sự chuẩn bị quan trọng về tổ chức tiến tới thành lập chính đảng của giai cấp công nhân Việt
Nam, chính là Đảng Cộng sản Việt Nam. -
Chủ trì hợp nhất các tổ chức cộng sản thành một Đảng duy nhất – Đảng
Cộng sản Việt Nam, đặt nền móng toàn diện cho việc xây dựng Đảng sau này.
Sự tồn tại của ba tổ chức cộng sản trên cả nước nửa cuối năm 1929 bao gồm: An
Nam Cộng sản Đảng, Đông Dương Cộng sản Đảng, Đông Dương Cộng sản Liên đoàn làm
cho lực lượng bị phân tán và thiếu thống nhất về tổ chức. Yêu cầu cấp thiết đặt ra là chấm
dứt hiện tượng biệt phái, chia rẽ giữa các nhóm cộng sản, phải thống nhất các tổ chức cộng
sản thành một chính đảng duy nhất ở Việt Nam. Nhiệm vụ đó đặt lên vai Nguyễn Ái Quốc,
người duy nhất có đủ năng lực và uy tín đáp ứng yêu cầu đó của lịch sử: thống nhất các tổ
chức cộng sản thành Đảng Cộng sản duy nhất ở Việt Nam. Trước yêu cầu cấp bách đó, 5 lOMoAR cPSD| 48599919
Nguyễn Ái Quốc đã đến họp và chủ trì cuộc họp tại Cửu Long để tiến hành hợp nhất các tổ
chức cộng sản thành một đảng duy nhất của Việt Nam. Tại Hội nghị, dưới sự điều hành
khéo léo và tài tình của Nguyễn Ái Quốc, các đại biểu đã nhất trí “Bỏ mọi thành kiến xung
đột cũ, thành thật hợp tác để thống nhất các nhóm cộng sản Đông Dương”4 và thành lập
một chính đảng cộng sản duy nhất ở Đông Dương, lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam
(03/2/1930). Hội nghị thảo luận, tán thành ý kiến chỉ đạo của Nguyễn Ái Quốc, thông qua
Chánh cương vắn tắt của Đảng, Sách lược vắn tắt của Đảng, Điều lệ vắn tắt của Đảng,
Chương trình tóm tắt của Đảng do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc soạn thảo. Các văn kiện trên đã
trở thành Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng.
Sự kiện Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời và thông qua được Cương lĩnh đúng đắn,
với vai trò to lớn của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc, đã chấm dứt thời kỳ khủng hoảng về đường
lối cứu nước và giai cấp lãnh đạo cách mạng ở Việt Nam. Từ đây, cách mạng Việt Nam có
một chính đảng cộng sản duy nhất của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân
tộc Việt Nam lãnh đạo, đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời cách đây gần 95 năm, tuy nhiên, tầm vóc của sự
kiện đó vẫn còn giá trị trường tốn đối với sự phát triển của dân tộc Việt Nam. Thời gian
càng lùi xa, chúng ta càng cảm nhận và đánh giá được công lao to lớn của lãnh tụ Nguyễn
Ái Quốc - Hồ Chí Minh đối với sự ra đời, phát triển và trưởng thành của Đảng Cộng sản
Việt Nam. Nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự dẫn dắt của Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã đoàn kết, đồng lòng đánh thắng các thế lực thù địch, những chiến công đã đi vào lịch sử
như Cách mạng Tháng Tám năm 1945, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (19451954),
cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ (1954-1975). Đặc biệt, những thành tựu của công cuộc
đổi mới gần 37 năm qua, càng chứng minh cho sự lựa chọn đúng đắn con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội ở nước ta và khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, của
Chủ tịch Hồ Chí Minh – vị cha già vĩ đại của dân tộc ta.
Câu 3. Trong các văn kiện được thông qua tại Hội nghị thành lập Đảng, có hai văn
kiện là Chánh cương vắt tắt của Đảng và Sách lược vắn tắt của Đảng đã phản ánh về đường
hướng phát triển và những vấn đề cơ bản về chiến lược và sách lược của cách mạng Việt
Nam. Hai văn kiện trên là Cương lĩnh chĩnh trị đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam.
* Nội dung của Cương lĩnh chính trị đầu tiên bao gồm: -
Cương lĩnh chính trị đầu tiên xác định mục tiêu chiến lược của
cách mạng Việt Nam: Trên cơ sở phân tích thực trạng xã hội Việt Nam lúc bấy giờ
- một xã hội thuộc địa nửa phong kiến với những mâu thuẫn gay gắt, đặc biệt là mâu
thuẫn giữa nhân dân Việt Nam (trong đó có nông dân, công dân) với đế quốc – cương
lĩnh đã chỉ rõ cần phải giải quyết triệt để mâu thuẫn này. Từ đó, đi đến xác định
đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam là “Chủ trương làm tư sản dân quyền 6 lOMoAR cPSD| 48599919
cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”. Do vậy, mục tiêu chiến
lược được nêu ra trong cương lĩnh đầu tiên của Đảng đã làm rõ nội dung của cách
mạng thuộc địa nằm trong phạm trù của cách mạng vô sản. -
Nhiệm vụ trọng tâm trước mắt của cách mạng Việt Nam: được xác
định là đánh đổ đế quốc thực dân Pháp và chế độ phong kiến, nhằm giành lại nền
độc lập hoàn toàn cho dân tộc. Theo đó, Cương lĩnh cách mạng đã nêu rõ nhiệm vụ
cơ bản của cách mạng Việt Nam là chống đế quốc và chống phong kiến để đạt được
mục tiêu giành độc lập dân tộc và ruộng đất cho nông dân, trong đó, nhiệm vụ chống
đế quốc, giành độc lập dân tộc được đặt lên hàng đầu vì đây là mâu thuẫn cơ bản
nhất giữa toàn thể nhân dân Việt Nam và Pháp. -
Về phương diện kinh tế: Cương lĩnh đề ra các chủ trương lớn như
xóa bỏ hoàn toàn các khoản nợ công; quốc hữu hóa các ngành sản xuất và dịch vụ
quan trọng do tư bản Pháp nắm giữ như công nghiệp, giao thông vận tải, ngân hàng…
để giao cho chính quyền công - nông - binh quản lý; tịch thu và chia lại ruộng đất
của thực dân cho nông dân nghèo; miễn sưu thuế cho người lao động nghèo; phát
triển cả công nghiệp lẫn nông nghiệp; áp dụng luật làm việc 8 giờ mỗi ngày… -
Về phương diện xã hội: Cương lĩnh đã xác định rõ ràng một số quyền
cơ bản của người dân, bao gồm:
a) quyền tự do tổ chức hội họp;
b) thực hiện bình đẳng giới giữa nam và nữ;
c) phổ cập giáo dục cho mọi tầng lớp nhân dân, đặc biệt là công nhân và nông dân.
Bên cạnh đó, những nhiệm vụ cách mạng nêu trên về mặt kinh tế và xã hội không
chỉ phản ánh đúng nhu cầu cấp thiết của đất nước lúc bấy giờ mà còn thể hiện tính cách
mạng sâu sắc, toàn diện và triệt để. Mục tiêu của các nhiệm vụ này là nhằm xóa bỏ tận gốc
chế độ thống trị và bóc lột tàn bạo của thực dân, tiến tới giải phóng dân tộc, giải phóng giai
cấp, và giải phóng xã hội – đặc biệt là giải phóng hai lực lượng chủ chốt: công nhân và nông dân. -
Trong việc xác định lực lượng cách mạng: Đảng xác định lực lượng
cách mạng phải lấy công nhân và nông dân làm lực lượng cơ bản, công nhân giữ vai
trò lãnh đạo. Đồng thời, cần đoàn kết mọi giai cấp, tầng lớp yêu nước và tiến bộ, kể
cả trí thức, tiểu tư sản, trung nông... để hình thành khối đại đoàn kết dân tộc. Đối với
các giai cấp chưa rõ thái độ cách mạng như phú nông, địa chủ, tư sản thì tạm thời
tranh thủ, làm cho họ trung lập. Đây là cơ sở hình thành tư tưởng chiến lược đại 7 lOMoAR cPSD| 48599919
đoàn kết toàn dân trong cách mạng Việt Nam. Hơn nữa, về phương pháp tiến hành
cách mạng giải phóng dân tộc, Cương lĩnh cách mạng xác định con đường giải phóng
dân tộc phải bằng con đường bạo lực cách mạng của quần chúng, kiên quyết không
thỏa hiệp. Đồng thời, đề ra sách lược đấu tranh cách mạng thích hợp để lôi kéo các
lực lượng như tiểu tư sản, trí thức, trung nông, nhưng phải kiên quyết đấu tranh với
những lực lượng phản cách mạng. -
Trong việc xác định tinh thần đoàn kết quốc tế: Cương lĩnh của
Đảng đã xác định rõ tinh thần đoàn kết quốc tế, nhấn mạnh rằng trong quá trình thực
hiện nhiệm vụ giải phóng dân tộc, cần đồng thời tranh thủ sự ủng hộ và đoàn kết của
các dân tộc bị áp bức cũng như giai cấp vô sản trên toàn thế giới, đặc biệt là giai cấp
vô sản Pháp. Cương lĩnh khẳng định cách mạng Việt Nam có mối quan hệ mật thiết
và là một bộ phận không thể tách rời của cách mạng vô sản thế giới: "trong khi tuyên
truyền cái khẩu hiệu nước An Nam độc lập, phải đồng tuyên truyền và thực hành
liên lạc với bị áp bức dân tộc và vô sản giai cấp thế giới". Như vậy, ngay từ khi mới
thành lập, Đảng Cộng sản Việt Nam đã thể hiện rõ tinh thần quốc tế chủ nghĩa và
bản chất quốc tế của giai cấp công nhân.
Theo đó, việc xác định vai trò lãnh đạo của Đảng: “Đảng là đội tiên phong của vô
sản giai cấp phải thu phục cho được đại bộ phận giai cấp mình, phải làm cho giai cấp mình
lãnh đạo được dân chúng”
. “Đảng là đội tiên phong của đạo quân vô sản gồm một số lớn
của giai cấp công nhân và làn cho họ có đủ năng lực lãnh đạo quần chúng”.
Tức là, Đảng
là đội tiên phong của giai cấp vô sản, có nhiệm vụ thu phục đa số giai cấp mình, nâng cao
năng lực lãnh đạo để dẫn dắt quần chúng.
* Ý nghĩa của Cương lĩnh chính trị đầu tiên:
Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam do lãnh tụ Nguyễn Ái
Quốc soạn thảo mang nhiều ý nghĩa to lớn và lâu dài đối với sự phát triển của cách mạng Việt Nam.
Đầu tiên, xác lập con đường cách mạng đúng đắn cho dân tộc Việt Nam. Trước khi
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, phong trào yêu nước còn mang tính tự phát, thiếu tổ chức
và định hướng rõ ràng. Cương lĩnh chính trị đầu tiên đã xác định rõ nhiệm vụ trung tâm là
chống đế quốc và phong kiến, giành độc lập dân tộc và quyền lợi cho người lao động, tiến
tới chủ nghĩa xã hội. Đây là sự kết hợp giữa chủ nghĩa Mác - Lênin với thực tiễn đấu tranh
của nhân dân Việt Nam, phản ánh đầy đủ quy luật vận động cách mạng trong một nước
thuộc địa nửa phong kiến. 8 lOMoAR cPSD| 48599919
Thứ hai, khẳng định vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân và Đảng Cộng sản
Việc Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời cùng với Cương lĩnh chính trị đầu tiên đã khẳng định
vai trò tiên phong và lãnh đạo của giai cấp công nhân, thông qua đội tiên phong là Đảng
Cộng sản. Đây là yếu tố quyết định sự thành công của cách mạng Việt Nam. Cương lĩnh
cho thấy rằng giai cấp vô sản nước ta đã trưởng thành, đủ khả năng lãnh đạo cách mạng,
đồng thời khẳng định Đảng là người tổ chức, hướng dẫn và dẫn dắt phong trào cách mạng cả nước.
Thứ ba, tạo nên sự thống nhất tư tưởng, chính trị và hành động trong phong trào
cách mạng Cương lĩnh ra đời trong bối cảnh ba tổ chức cộng sản tồn tại song song và có
nguy cơ gây chia rẽ. Việc thông qua Cương lĩnh gắn với quá trình hợp nhất các tổ chức
cộng sản đã giúp thống nhất về tư tưởng, chính trị và tổ chức, hình thành một Đảng duy
nhất lãnh đạo cách mạng. Từ đây, phong trào cách mạng Việt Nam có chung mục tiêu, lý
tưởng và phương hướng hành động, tạo ra sức mạnh đoàn kết to lớn.
Thứ tư, phù hợp với nguyện vọng của quần chúng nhân dân Cương lĩnh đề ra các
mục tiêu cụ thể như người cày có ruộng, bình đẳng nam nữ, tự do ngôn luận, giáo dục phổ
cập,... phù hợp với khát vọng cháy bỏng của đông đảo quần chúng nhân dân, đặc biệt là giai
cấp nông dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đánh giá cao nội dung Cương lĩnh khi cho rằng nó
phản ánh “nguyện vọng thiết tha của đại đa số nhân dân ta”. Chính vì vậy, Đảng đã thu
hút và đoàn kết được các lực lượng cách mạng to lớn trong xã hội.
Thứ năm, Đặt nền móng cho sự phát triển của đường lối cách mạng Việt Nam. Dù
còn một số điểm cần điều chỉnh để phù hợp hơn với thực tiễn Việt Nam, song Cương lĩnh
đầu tiên là nền tảng lý luận ban đầu vững chắc cho các văn kiện sau này, như Luận cương
chính trị năm 1930 và các cương lĩnh được bổ sung, phát triển qua các thời kỳ. Nhờ vậy,
đường lối cách mạng của Đảng ngày càng hoàn thiện, phù hợp hơn với từng giai đoạn lịch sử.
Như vậy, Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam là một mốc
son chói lọi trong lịch sử dân tộc. Với nội dung tiến bộ, phù hợp thực tiễn và tư duy cách
mạng đúng đắn, Cương lĩnh đã xác lập vai trò lãnh đạo của Đảng, định hướng rõ con đường
giải phóng dân tộc và xây dựng xã hội mới. Đây là cơ sở chính trị, tư tưởng, tổ chức quan
trọng, tạo đà cho thắng lợi của cách mạng Việt Nam trong suốt thế kỷ XX và tiếp tục là nền
tảng định hướng phát triển đất nước trong thời đại mới. 9