



Preview text:
Họ và tên sinh viên : Nguyễn Thanh Thảo
Mã số sinh viên: 2114810049 Lớp tín chỉ: TRI115.6
BÀI THU HOẠCH CÁ NHÂN
LỊCH SỬ RA ĐỜI, NGUỒN GỐC, BẢN CHẤT VÀ LIÊN HỆ THỰC TIẾN
CÁC CHỨC NĂNG CỦA TIỀN TỆ
Đề bài: Tìm hiểu về lịch sử ra đời của tiền tệ, từ đó phân tích bản chất và các
chức năng của tiền tệ. Liên hệ thực tiễn. Bài làm
1. Lịch sử ra đời của tiền tệ
-Tiền tệ là kết quả của quá trình phát triển sản xuất và trao đổi hàng hóa, là sản
phẩm của sự phát triển các hình thái giá trị từ thấp đến cao, từ hình thái giản đơn
đến hình thái phát triển cao nhất là hình thái tiền tệ.
-Trong lịch sử, khi sản xuất chưa phát triển, việc trao đổi hàng hóa lúc đầu chỉ
mang tính đơn lẻ, ngẫu nhiên, trao đổi trực tiếp hàng lấy hàng (H - H). Ví dụ, 1
hàng hóa A đổi lấy 5 hàng hóa B. Đây là hình thái sơ khai, được gọi là hình thái
giản đơn hay ngẫu nhiên của giá trị. Ở hình thái này, hàng hóa B được dùng để
đo giá trị của hàng hóa A nên mặc dù là hình thái sơ khai, song đây được coi là
mầm mống cho sự xuất hiện của tiền tệ.
-Khi sản xuất phát triển, trao đổi được mở rộng và trở nên thường xuyên hơn.
Lúc này một hàng hóa có thể được đem trao đổi với nhiều hàng hóa khác nhau và
làm xuất hiện hình thái mở rộng của giá trị. Ví dụ: 5 hàng hóa B
1 hàng hóa A đối lấy 3 hàng hóa C 10 hàng hóa D
-Trao đổi được mở rộng song không phải khi nào cũng dễ dàng thực hiện. Chẳng
hạn A muốn đổi lấy hàng hóa B, nhưng B lại muốn đổi lấy hàng hóa C… Vì vậy,
trong quá trình trao đổi, có những người phải trao đổi nhiều lần, thông qua nhiều
hàng hóa trung gian khác nhau mới có được hàng hóa mà mình cần. Để giải
quyết mâu thuẫn đó, những người tham gia trao đổi đã tìm cách đổi hàng hóa của
mình lấy một thứ hàng hóa mà mọi người đều thích, đều cần đến và dễ dàng chấp
nhận; sau đó dùng hàng hóa này đổi lấy thứ mình cần. Từ đó hình thái chung của giá trị xuất hiện.
-Ở hình thái này, có một hàng hóa được dùng để đo giá trị của các hàng hóa khác
nhau, đóng vai trò làm vật ngang giá chung, làm môi giới cho việc trao đổi hàng
hóa. Trong lịch sử, đã có rất nhiều hàng hóa “thử nghiệm” đóng vai trò vật ngang
giá chung, song chúng đều không thuận tiện và phù hợp với vai trò đó. Dần dần,
với những ưu thế tự nhiên của mình như một hàm lượng nhỏ nhưng có giá trị
cao, đồng nhất, dễ dát mỏng, dễ chia nhỏ, dễ bảo quản, dễ cất trữ hoặc vận
chuyển… vàng và bạc từng bước độc chiếm vai trò là vật ngang giá chung cho tất
cả các hàng hóa. Khi vàng độc chiếm vai trò là vật ngang giá chung, hình thái
tiền tệ chính thức ra đời.
-Như vậy, tiền là một loại hàng hóa đặc biệt, đóng vai trò vật ngang giá chung
cho các hàng hóa; tiền thể hiện lao động xã hội và quan hệ giữa những người sản
xuất hàng hóa. Khi tiền xuất hiện, thế giới hàng hóa được chia thành hai cực.
Một bên là tất cả các hàng hóa thông thường và một bên là hàng hóa tiền tệ được
dùng để đo lường giá trị của các hàng hóa còn lại.
2. Bản chất của tiền tệ
-Theo quan điểm của K.Marx, “Tiền chính là loại hàng hóa đặc biệt” vì: tiền có
giá trị sử dụng đặc biệt( là giá trị công dụng có ích của hàng hóa). Tiền tệ thỏa
mãn hầu hết các nhu cầu của người sử dụng và sở hữu.
-Với quan điểm của P.Smuelson: “Tiền chính là thứ dầu bôi trơn” trong các
guồng máy luân chuyển hàng hóa từ nơi sản xuất để đi đến nơi tiêu dùng.
-Quan điểm của M. Freidman và các nhà kinh tế học hiện đại: “Tiền là các
phương tiện thanh toán” và có thể thực hiện được các chức năng làm trung gian
trao đổi, các đơn vị tính toán và có thể tích lũy của cải. Tiền tệ ra đời là kết quả
tất yếu của sự phát triển nền kinh tế thị trường hiện đại.
-Tiền tệ là một hình thái giá trị của hàng hoá, là sản phẩm của quá trình phát
triển sản xuất và trao đổi hàng hoá. Các nhà kinh tế trước C. Mác giải thích tiền
tệ từ hình thái phát triển cao nhất của nó, bởi vậy đã không làm rõ được bản chất
của tiền tệ. Trái lại, C. Mác nghiên ứu tiền tệ từ lịch sử phát triển của sản xuất và
trao dổi hàng hoá, từ sự phát triển của các hình thái giá trị hàng hoá, do đó đã tìm
thấy nguồn gốc và bản chất của tiền tệ. Vậy, tiền tệ là hàng hoá đặc biệt được
tách ra từ trong thế giới hàng hoá làm vật ngang giá chung thống nhất cho các
hàng hoá khác, nó thể hiện lao động xã hội và biểu hiện quan hệ giữa những
người sản xuất hàng hoá.
-Tiền tệ là một hàng hóa đặc biệt vì:
• Tiền tệ cũng có hai thuộc tính: giá trị và giá trị sử dụng. Giá trị của tiền tệ
cũng do thời gian lao động xã hội cần thiết sản xuất ra vàng (bạc) quyết
định. Giá trị sử dụng của tiền tệ làm môi giới trong mua bán và làm chức năng tư bản.
• Là hàng hóa, tiền tệ cũng có người mua, người bán, cũng có giá cả (lợi
tức). Giá cả của hàng hóa tiên tệ cũng lên xuống xoay quanh quan hệ cung cầu.
• Đóng vai trò làm vật ngang giá chung.
3. Các chức năng của tiền tệ
Tiền ra đời và thực hiện 5 chức năng cơ bản sau: a) Thước đo giá trị
-Làm chức năng thước đo giá trị, tiền dùng để biểu hiện và đo lường giá trị
của tất cả các hàng hóa khác nhau. Lúc này, giá trị của hàng hóa được biểu
hiện bằng một số lượng tiền nhất định gọi là giá cả hàng hóa.
VD: Giá của 1 bát mì vằn thắn là 35.000 đồng
Giá của 1 chiếc xe máy Honda Wave là 15 triệu đồng
b) Phương tiện lưu thông
-Làm chức năng phương tiện lưu thông, tiền được dùng làm môi giới cho quá
trình trao đổi hàng hóa. Khi tiền xuất hiện, việc trao đổi hàng hóa không phải
tiến hành trực tiếp hàng lấy hàng (H – H) mà thông qua tiền làm môi giới (H – T – H).
-Để thực hiện chức năng phương tiện lưu thông, tiền không nhất thiết phải có
đầy đủ giá trị, mà chỉ cần tiền ký hiệu giá trị, tức tiền giấy. Điều này ít gây
tốn kém và giúp cho trao đổi được tiến hành dễ dàng, thuận lợi hơn, góp phần
thúc đẩy sản xuất phát triển hơn nữa.
VD: Người bán quần áo bán được 1 bộ quần áo với giá lầ 100.000 đồng, và
sau đó dùng 50.000 mua thịt lợn. Như vậy, người bán quần áo đã thực hiện
chức năng là phương tiện lưu thông của tiền tệ.
a) Phương tiện cất trữ
-Tiền là đại diện cho giá trị, đại diện cho của cải nên khi tiền xuất hiện, thay
vì cất trữ hàng hóa, người dân có thể cất trữ bằng tiền. Lúc này tiền được rút
ra khỏi lưu thông, đi vào cất trữ dưới hình thái vàng, bạc và sẵn sàng tham gia lưu thông khi cần thiết.
VD: Trong tình trạng khủng hoảng tài chính các công ty lớn , doanh nghiệp
có xu hướng đi tìm “những nơi trú ẩn an toàn”, và một trong số đó là Vàng.
Như vậy các doanh nghiệp đã thực hiện chức năng là phương tiện cất trữ của
tiền tệ dưới trạng thái Vàng.
b) Phương tiện thanh toán
-Làm chức năng thanh toán, tiền được dùng để chi trả sau khi việc giao dịch,
mua bán đã hoàn thành, tức thanh toán việc mua bán chịu. Chức năng phương
tiện thanh toán của tiền gắn liền với chế độ tín dụng thương mại, tức mua bán
thông qua chế độ tín dụng, thanh toán không dùng tiền mặt mà chỉ dùng tiền
trên sổ sách kế toán, hoặc tiền trong tài khoản, tiền ngân hàng, tiền điện tử…
c) Tiền tệ thế giới
-Khi trao đổi hàng hóa mở rộng ra ngoài biên giới, giữa các nước thì tiền làm
chức năng tiền tệ thế giới. Lúc này tiền được dùng làm công cụ mua bán,
thanh toán quốc tế giữa các nước với nhau. Để thực hiện chức năng này, tiền
phải có đủ giá trị, phải là tiền vàng hoặc những đồng tiền được công nhận là
phương tiện thanh toán quốc tế.
VD: Tiền tệ được lưu hành chính thức trên thế giới như đồng Đô la Mỹ USD.
1 USD tương đương 23.159 VNĐ
⇨ Kết luận: Với 5 chức năng của tiền tệ giúp chúng ta hiểu hơn về tiền
tệ.Tiền tệ rất quan trọng trong xã hội ngày nay nhưng cũng mang một mối
đe dọa đến nền kinh tế của nước nhà. Nếu quá trình quản lý tiền tệ không
đúng cách sẽ gây ra cuộc khủng hoảng tinh tế và lạm phát theo diện rộng.
Document Outline
- Họ và tên sinh viên : Nguyễn Thanh Thảo Mã số sinh
- LỊCH SỬ RA ĐỜI, NGUỒN GỐC, BẢN CHẤT VÀ LIÊN HỆ THỰ
- 1.Lịch sử ra đời của tiền tệ
- 2.Bản chất của tiền tệ
- 3.Các chức năng của tiền tệ