Câu 1: Trình bày sứ mệnh lịch sử của giai cấp ng nhân Việt Nam. Hiện nay các thế
lực thù địch cho rằng, sứ mệnh lịch sử của công nhân không còn nữa do công nhân đã có tư
liệu sản xuất nên không còn bị bóc lột. Theo anh (chị) nhận định trên đúng hay không?
Vì sao?
1. Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam:
Nội dung Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân
- Giống như mọi tầng lớp, giai cấp khác trong xã hội, giai cấp công nhân là nhân tố của
hoàn cảnh lịch sử cụ thể cùng với sự phát triển lịch sử với những biểu hiện và đặc trưng mới
trong từng giai đoạn lịch sử nhất định.
- Sự phát triển của đại công nghiệp hiện nay không những làm tăng thêm số vô sản mà còn
tập hợp họ lại thành một đoàn xã rộng lớn và hình thành niên giai cấp vô sản thời hiện đại.
Chính vì vậy, giai cấp công nhân hiện đại ra đời gắn liền với sự phát triển của đại công nghiệp,
là sản phẩm của nền công nghiệp hiện đại và phát triển theo nền đại công nghiệp đó.
- ới chủ nghĩa tư bản, C. Mác và Ph. Ăngghen đã định nghĩa rằng, “Giai cấp vô sản là
giai cấp những công nhân làm thuê hiện đại, vì mất hết tư liệu sản xuất của bản thân, nên buộc
bán sức lao động của mình đế sống”. Dù giai cấp công nhân có bao gồm những công nhân làm
những công việc khác nhau như thế nào đi nữa, thì theo C. Mác và Ph. Ăngghen, họ vẫn chỉ có
hai tiêu chí cơ bản để xác định, phân biệt với các giai cấp, tầng lớp xã hội khác.
- Dựa vào quan điểm của C. Mác và Ph. Ăngghen, chúng ta có thể định nghĩa giai cấp
công nhân như sau: Giai cấp công nhân là một tập đoàn xã hội ổn định, hình thành và phát triển
cùng với quá trình phát triển của nền đại công nghiệp hiện đại, với nhịp độ phát triển của lực
lượng sản xuất có tính chất xã hội hóa ngày càng cao, là lực lượng lao động cơ bản trực tiếp
hoặc tham gia vào quá trình sản xuất, tái sản xuất ra của cải vật chất và cải tạo các quan hệ xã
hội; đại biểu cho lực lượng sản xuất và phương thức sản xuất tiên tiến trong thời đại ngày nay.
- Khi phân tích về xã hội chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa Mác đã đưa ra hai ý kiến vĩ đại
cholịch sử nhân loại, đó là quan niệm duy vật về lịch sử và học thuyết về giá trị thặng dư. Nó đã
chứng minh rằng sự ra đời, phát triển và diệt vong của chủ nghĩa tư bản là tất yếu và cũng khẳng
định rằng giai cấp công nhân là giai cấp tiên tiến nhất và mang tính chất cách mạng nhất. Giai
cấp này là lực lượng duy nhất trong xã hội mang tính lịch sử, xóa bỏ chủ nghĩa tư bản, xóa bỏ
chế độ người bóc lột người, giải phóng giai cấp công nhân, nhân dân lao động và giải phóng
toàn thể nhân loại khỏi mọi sự áp bức, bóc lột, nghèo nàn lạc hậu, xây dựng xã hộimới – xã hội
xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa.
- Về kinh tế: xóa bỏ chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất và xấy dựng chế độ công hữu về tư
liệu sản xuất.
- Về chính trị - xã hội: sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân chính là mục tiêu giải
phóng con người, trong đó kết hợp chặt chẽ giữ ba yếu tố là giải phóng giai cấp, giải phóng dân
tộc và giải phóng nhân loại.
- Về văn hóa: sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân nhằm tạo nên sự đổi mới trong nhận
thức văn hóa tinh thần theo tư tưởng tiến bộ.
Trong xã hội bản chủ nghĩa, giai cấp công nhân một trong những giai cấp bản, chủ
yếu, đối lập với giai cấp sản, giai cấp bị giai cấp sản tước đoạt hết liệu sản xuất, buộc
phải bán sức lao động cho nhà tư bản để sống, bị bóc lột giá trị thặng dư. Họ những người được
tự do về thân thể quyền bán sức lao động tùy theo cung cầu hàng hóa sức lao động. Đây
giai cấp bị bóc lột nặng nề, bị bần cùng hóa về vật chất lẫn tinh thần. Sự tồn tại của họ phụ
thuộc quy luật cung cầu hàng hóa sức lao động, phụ thuộc vào kết quả lao động của chính
họ. Họ phải tạo ra giá trị thặng dư, nhưng giá trị thặng dư lại bị giai cấp tư sản chiếm đoạt.
Biểu hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam
Mặc sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân được quy định một cách khách quan, song
để thực hiện được sứ mệnh lịch sử đó, phải kết hợp được với các nhân tố chủ quan thông qua hoạt
động chủ quan của con người biến cái khả năng trở thành hiện thực. Nhân tố chủ có ý nghĩa quyết
định trong việc thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân đó là việc thành lập Đảng cộng
sản của giai cấp công nhân lấy hệ tưởng của chủ nghĩa Mác-Lênin làm nền tảng, làm kim chỉ
nam cho hành động cách mạng của giai cấp công nhân.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản, giai cấp công nhân sứ mệnh lịch sử đấu tranh
giành chính quyền về tay mình nhân dân lao động; sau khi giành được chính quyền, giai cấp
công nhân có sứ mệnh lịch sử là tổ chức bảo vệ chính quyền chống lại sự chống phá của các thế
lực thù địch và tiến hành tổ chức xây dựng xã hội mới – xã hội chủ nghĩa; giai cấp công nhân trực
tiếp sản xuất ra sản phẩm công nghiệp ngày càng hiện đại để xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật
cần thiết cho chủ nghĩa hội. Đây nội dung thường xuyên được thực hiện trong suốt các
giai đoạn cách mạng của giai cấp công nhân ở mỗi nước.
Trong suốt những m qua, giai cấp công nhân Việt Nam đã khẳng định được vai trò của
mình, xứng đáng bộ phận của giai cấp công nhân thế giới, tiếp tục lấy chủ nghĩa Mác Lênin
và tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng. Ngày nay, công nhân Việt Nam chủ động tham gia
giải quyết các vấn đề là thu hút sự quan tâm hàng đầu của Việt Nam nói riêng thế giới nói
chung. Các vấn đề đó tính thời sự cao như dân số, môi trường, văn hóa, năng lượng, lương
thực,...
Giai cấp công nhân lực lượng kiên định bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ hội chủ nghĩa,
không chấp nhận chế độ đa đảng, đa nguyên chính trị.
Giai cấp công nhân tham gia đông đảo vào các thành phần kinh tế, lấy mục tiêu n giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh để phấn đấu.
Giai cấp công nhân là lực lượng tiên phong trong đấu tranh phòng chống tiêu cực, tham
nhũng, tệ nạn xã hội, là lực lượng chính trị – xã hội quan trọng trong việc bảo vệ tổ quốc, giữ gìn
an ninh chính trị, trật tự xã hội, xây dựng nền quốc phòng toàn dân.
Những giải pháp như nào để xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam
Nâng cao trình độ của giải cấp công nhân tăng cường công tác giáo dục đào tạo, bồi dưỡng
nâng cao trình độ học vấn, trình độ nghề nghiệp, từng bước trí thức hóa công nhân; giáo dục
tưởng, chính trị, đạo đức, xây dựng nếp văn hóa mới cho đội ngũ công nhân.
Cần phát triển sản xuất theo hướng hiện đại, áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ,
tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, tạo môi trường thuận lợi cho sự phát triển của đội ngũ công
nhân.
2. Hiện nay các thế lực thù địch cho rằng, sứ mệnh lịch sử của công nhân không còn
nữa do công nhân đã có tư liệu sản xuất nên không còn bị bóc lột. Theo anh (chị) nhận định
trên có đúng hay không? Vì sao?
Theo tôi, đây là một quan điểm chưa thực sự chính xác. Vì ở hiện tại giai cấp công nhân đã
có tư liệu sản xuất nhưng họ vẫn đang phải đối mặt với nhiều khó khăn và thách thức trong cuộc
sống, bao gồm việc bị bóc lột, thiếu nhân quyền, và nghèo đói .
1. Phương pháp luận trong xem xét vai trò lịch sử của một giai cấp là phải dựa trên
sở địa vị kinh tế - hội của giai cấp đó trong hội, chứ không phải xuất phát từ ý muốn chủ
quan của bất kỳ một nhân hoặc một lực lượng hội nào. Trong lịch sử, chế độ bản chủ
nghĩa đã từng chiến thắng chế độ phong kiến bởi vì giai cấp tư sản đại diện cho lực lượng sản xuất
hiện đại, đại diện cho phương thức sản xuất mới, dựa trên nền đại công nghiệp, tiến bộ hơn hẳn
phương thức sản xuất lạc hậu của chế độ phong kiến.
Đối với giai cấp công nhân, “Vấn đề là ở chỗ tìm hiểu xem giai cấp vô sản thực ra là gì, và
phù hợp với tồn tại ấy của bản thân nó, giai cấp vô sản buộc phải làm gì về mặt lịch sử”. Tn cơ
sở luận giải địa vị kinh tế - xã hội của giai cấp công nhân trong xã hội tư bản, C.Mác và Ph.Ăng
ghen đã đưa ra kết luận khoa học: sự sụp đổ của giai cấp tư sản và sự thắng lợi của giai cấp vô
sản đều là tất yếu như nhau.
Lấy sự nghèo khổ làm cơ sở để luận giải sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là một lập
luận phản khoa học và là mưu đồ hòng xuyên tạc chủ nghĩa Mác Lênin.
2. Lại quan điểm cho rằng, hiện nay các nước bản phát triển, giai cấp công
nhân không còn bị bóc lột như trước nữa; đã trở nên “trung lưu hoá” thậm chí trở thành “nhà
tư bản” khi đã có cổ phiếu trong các xí nghiệp, công ty. Đúng là hiện nay, việc thực hiện cổ phần
hoá ở các nước tư bản phát triển đang diễn ra với quy mô ngày càng rộng khắp. Người dân hễ có
tiền tích luỹ là có thể mua cổ phiếu ở xí nghiệp, công ty cổ phần nào đó (ở Mỹ 10%, ở Anh 12%
người lao động có cổ phần) với hy vọng thu lợi tức cổ phần và lãi vốn.
Tuy nhiên, cần khẳng định rằng, việc bán cổ phiếu cho công nhân không những không động
chạm đến quyền lợi của giới chủ, trái lại càng làm tăng thêm quyền lực kinh tế cho bọn bản.
Một chủ bản không cần một số lượng bản lớn cũng thể chi phối ccông ty, hoặc nhiều
công ty trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh hết sức lớn. Bán cổ phiếu cho người lao động chỉ diễn
ra trong chừng mực không tổn hại đến quan hệ sản xuất bản chủ nghĩa, đến lợi ích của giới chủ.
Khi đã có cổ phiếu, dù người công nhân có được những quyền lợi nhất định gắn với tình hình sản
xuất của Công ty lợi tức do kết quả hoạt động sản xuất, kinh doanh đem lại, nhưng thực chất
nguồn lợi nhuận ấy chẳng qua là một phần giá trị thặng dư do chính công nhân làm ra, chứ không
phải bớt đi giá trị thặng dư giới chủ bản đã bỏ túi. Vậy là, người công nhân không phải đã
trở thành nhà “nbản” theo cái cách người ta nói, “thành nhà bản đối với chính mình”.
Như vậy, công nhân hiện nay dù có cổ phiếu với giá trị cao hơn trước cũng chẳng vì thế mà
thay đổi địa vị làm thuê và bị bóc lột trong xã hội tư bản. Chế độ cổ phiếu thật sự là phương pháp
hữu hiệu cột chặt người lao động là bắt họ lệ thuộc hơn nữa vào giới chủ. Hy vọng thay đổi địa vị
người lao động trở thành người chủ thật sự các nước bản chủ nghĩa, do đó chỉ ảo tưởng,
hoặc đó là hành động tự lừa dối mà thôi.
3. Trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, C.Mác và Ph.Ăngghen nhận định: chủ nghĩa
tư bản đã tạo ra lực lượng sản xuất hùng hậu hơn các thế kỷ trước cộng lại. Trong điều kiện cách
mạng khoa học - công nghệ hiện đại, lực lượng sản xuất đó càng được tăng lên nhanh chóng với
những bước tiến nhảy vọt. Chính những yếu tố đó là cơ sở vật chất giúp cho chủ nghĩa tư bản
thể tận dụng một cách hữu hiệu những thành tựu khoa học - ng nghệ mới để o dài tuổi thọ
của mình. Trên thực tế, chủ nghĩa bản đã đang tìm mọi cách điều chỉnh để thích nghi với
điều kiện mới.
Mâu thuẫn hội bản giữa giai cấp những người vô sản giai cấp những người hữu sản;
giữa những người nghèo những người giàu không chỉ còn trong phạm vi một quốc gia, đã
phát triển ở tầm quốc tế. Sự phát triển của các tập đoàn tư bản, các công ty tư bản xuyên quốc gia
tăng sự bòn rút tài nguyên và bóc lột nhân dân nhiều nước thuộc “thế giới thứ ba”; các cuộc chiến
tranh đẫm máu chống các quốc gia độc lập có chủ quyền do chủ nghĩa đế quốc phát động...
nguyên nhân chủ yếu khiến cho hơn 500 triệu người bị đe đoạ chết đói, 1,6 tỷ người sống trong
cảnh khốn cùng, 600 triệu người thất nghiệp, hơn 800 triệu người mù chữ... Tất cả điều đó đã nói
lên tính chất ăn bám, bóc lột, phản động tất yếu diệt vong của chủ nghĩa bản, chủ nghĩa đế
quốc.
ràng, chủ nghĩa bản niện đại biến đổi, thích nghi thì về bản chất vẫn chủ nghĩa
tư bản, là chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước ở trình độ cao, chủ nghĩa tư bản độc quyền xuyên
quốc gia, chứ không hề sự thay đổi bản chất; vẫn chế độ bóc lột, bất công đầy mâu
thuẫn.
4. Theo V.I.Lênin, chủ nghĩa đế quốc “phòng chờ” đi vào chủ nghiã hội. Như thế,
phải chăng trong điều kiện mới, cùng với sự phát triển và tác động của cuộc cách mạng khoa học
- công nghệ hiện đại thì “phòng chờ” đó càng được mở rộng hơn. Đúng như vậy, với sự mở rộng
“phòng chờ” đó, tất yếu sẽ diễn ra sự vùng dậy của lực lượng sản xuất làm nổ tung toàn bcái
quan hệ sản xuất đang trói buộc nó. Những thành tựu của cách mạng khoa học công nghệ hiện
đại, chủ nghĩa bản đang lợi dụng để kéo dài tuổi thọ của nó, đang dần vượt ra khỏi “sự kiểm
soát của chính nó”. Do thực hiện chế độ cổ phiếu, nên giới chủ không phải muốn làm cũng
được không tính đến lực lượng cổ đông đông đảo giai cấp ng nhân, tuy giá trị cổ phiếu
của họ là nhỏ bé.
Sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội Liên Đông Âu đối với những người cộng sản, giai
cấp công nhân nhân loại tiến bộ trên thế giới, quả một thực tế nghiệt ngã đau xót. Thế
nhưng, điều đó không có nghĩa là chủ nghĩa xã hội bị “tiêu vong”, giai cấp công nhân đã “mất vai
trò lịch sử”: cũng không làm mất đi ý chí phấn đấu niềm tin vào tương lai xã hội chủ nghĩa của
giai cấp công nhân và nhân dân lao động trên thế giới. Trái lại, giai cấp công nhân có thêm những
bài học quý giá về những vấn đề cơ bản của cách mạng, bài học sâu sắc về “cách mạng phải biết
tự bảo vệ”; càng nhận thức hơn tính chất quyết liệt, gay go của cuộc đấu tranh giai cấp, đấu
tranh dân tộc trong thời đại ngày nay; càng hiểu hơn những ớc thăng trầm, những khúc quanh
trên con đường thực hiện sứ mệnh lịch sử của mình.
Tóm lại, sự vận động tất yếu của lịch sử thế giới một phần tư thế kỷ qua chính bằng chứng
chân thực để phủ nhận những tuyên bố đó. Chủ nghĩa xã hội hiện thực vẫn luôn tồn tại, phát triển
trong cải cách, đổi mới; giai cấp công nhân vẫn không ngừng phát triển cả về số ợng, chất lượng
và khẳng định vai trò sứ mệnh lịch sử của họ.
CÂU 2: Trình bày chính sách dân tộc của Đảng Nhà nước Việt Nam. Mặcnhận
được sự quan tâm rất lớn của Đảng Nhà nước nhưng sao đời sống của đồng bào dân
tộc thiểu số đặc biệt là những vùng miền núi phía Bắc ở nước ta vẫn còn nhiều khó khăn?
Điều đó có phải là do các chính sách của nước ta chưa phù hợp hay không?
Chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước Việt Nam.
- Về chính trị: Thực hiện bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng, giúp nhau cùng phát triển giữa các
dân tộc. Chính sách dân tộc góp phần nâng cao tính tích cực chính trị của công dân; nâng cao nhận
thức của đồng bào các dân tộc thiểu số về tầm quan trọng của vấn đề dân tộc, đoàn kết các dân
tộc, thống nhất mục tiêu chung là độc lập dân tộc. và chủ nghĩa xã hội, dân giàu, nước mạnh, dân
chủ, công bằng, văn minh.
- Về kinh tế: Nội dung, nhiệm vụ kinh tế trong chính sách dân tộc các chủ trương, chính
sách phát triển kinh tế - xã hội miền núi, vùng đồng bào các dân tộc thiểu số nhằm phát huy tiềm
năng phát triển, từng bước khắc phục khoảng cách chênh lệch giữa các vùng, giữa các dân tộc.
Thực hiện các nội dung kinh tế thông qua các chương trình, dự án phát triển kinh tế các vùng
dân tộc thiểu số thúc đẩy quá trình phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Thực
hiện tốt chiến lược phát triển kinh tế - xã hội ở miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới, vùng
căn cứ địa cách mạng.
- Về văn hóa: Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Giữ gìn và
phát huy giá trị văn hóa truyền thống của các tộc người, phát triển ngôn ngữ, xây dựng đời sống
văn hóa sở, nâng cao trình độ văn hóa cho nhân dân các dân tộc. Đào tạo cán bộ văn hóa, xây
dựng môi trường, thiết chế văn hóa phù hợp với điều kiện của các tộc người trong quốc gia đa dân
tộc. Đồng thời, mở rộng giao lưu văn hóa với các quốc gia, các khu vực và trên thế giới.
Đấu tranh chống tệ nạn hội, chống “diễn biến hòa bình” trên mặt trận ởng - n hóa ở ớc
ta hiện nay.
- Về hội: Thực hiện chính sách xã hội, đảm bảo an sinh hội trong vùng đồng bào dân
tộc thiểu số. Từng bước thực hiện bình đẳng hội, công bằng thông qua việc thực hiện chính
sách phát triển kinh tế - hội, xóa đói giảm nghèo, dân số, y tế, giáo dục trên sở chú ý đến
tính đặc thù mỗi vùng, mỗi dân tộc. Phát huy vai trò của hệ thống chính trị sở các tổ chức
chính trị - xã hội ở miền núi, vùng dân tộc thiểu số.
- Về an ninh - quốc phòng: Tăng ờng sức mạnh bảo vệ Tổ quốc trên sở đảm bảo ổn
định chính trị, thực hiện tốt an ninh chính trị, trật tự - an toàn hội. Phối hợp chặt chẽ các lực
lượng trên từng địa n. Tăng cường quan hệ quân dân, tạo thế trận quốc phòng toàn dân trong
vùng đồng bào dân tộc sinh sống.
Thực hiện đúng chính sách dân tộc hiện nay Việt Nam phải phát triển toàn diện về chính
trị kinh tế, văn hóa, hội, an ninh - quốc phòng các địa bàn vùng dân tộc thiểu số, vùng biên
giới, rừng núi, hải đảo của Tổ quốc. Như vậy, chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta mang
tính chất toàn diện, tổng hợp, bao trùm tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, liên quan đến mỗi
dân tộc và quan hệ giữa các dân tộc trong cộng đồng quốc gia. Phát triển kinh tế - xã hội của các
dân tộc nền tảng để tăng cường đoàn kết thực hiện quyền bình đẳng dân tộc, sở để từng
bước khắc phục sự chênh lệch về trình độ phát triển giữa các dân tộc. Do vậy, chính sách dân tộc
của Đảng và Nhà nước ta mang tính cách mạng và tiến bộ, đồng thời còn mang tính nhân văn sâu
sắc, không bỏ sốt bất kỳ dân tộc nào, không cho phép bất cứ tư tưởng kỳ thị, chia rẽ dân tộc nào;
đồng thời phát huy nội lực của mỗi dân tộc kết hợp với sự giúp đỡ hiệu quả của các dân tộc
anh em trong cả nước.
Đời sống của đồng bào dân tộc thiểu số đặc biệt là những vùng miền núi phía
Bắc ở nước ta vẫn còn nhiều khó khăn. Điều đó không phải do các chính sách của nước ta
chưa phù hợp mà là trong quá trình cải tiến để nâng cao đời sống cho đồng bào dân tộc
thiểu số và miền núi, còn nhiều thách thức và khó khăn.
- Theo báo cáo của Chính phủ, vùng miền núi phía Bắc là vùng có tỷ lệ đạt chuẩn Nông
thôn mới thấp nhất. Nguyên nhân dẫn đến tỷ lệ nghèo cao của người dân tộc thiểu số ở Việt Nam
là do bị cách biệt về địa lý hạn chế trong tiếp cận thị trường, bị lập về mặt xã hội, yếu tố văn
hóa và ngôn ngữ, hạn chế trong tiếp cận đất đai có chất lượng, tỷ lệ di cư khỏi nơi sinh sống thấp,
và có trình độ học vấn thấp
- Chương trình đã góp phần bảo đảm an sinh xã hội, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế - xã hội
phát triển bền vững, giảm nghèo trong giai đoạn 2016-2019. Tỷ lệ hộ nghèo cả nước giảm đều
qua các năm từ 9,88% cuối năm 2015 xuống còn 3,75% vào cuối năm 2019; bình quân trong 4
năm giảm 1,53%/năm. Tại các huyện nghèo, tỷ lệ này cũng giảm đều qua các năm, từ 50,43%
cuối năm 2015 còn 27,85% cuối năm 2019; bình quân trong 4 năm giảm 5,65%/năm.
- Tuy nhiên, Báo cáo của Chính phủ Báo cáo thẩm tra của Ủy ban Tài chính, Ngân sách
của Quốc hội nêu: Kết quả giảm nghèo một số nơi chưa bền vững, chưa đồng đều. Chênh lệch về
giàu nghèo, về tiếp cận các dịch vụ cơ bản, tiếp cận thị trường việc làm giữa các vùng, nhóm dân
cư chưa được thu hẹp, nhất là khu vực miền núi phía Bắc ; hiện tỷ lệ nghèo tại một số huyện vẫn
trên 50%. Nguyên nhân, theo đại biểu, do điều kiện kinh tế - xã hội của các khu vực miền núi
có xuất phát điểm thấp, mặt bằng dân trí còn hạn chế, hệ thống cơ sở hạ tầng thiết yếu chưa đảm
bảo... Điều này ảnh ởng không nhỏ đến kết quả thực hiện các hoạt động sản xuất, đào tạo, hỗ
trợ việc làm, đưa khoa học kỹ thuật vào sản xuất ở vùng có điều kiện khó khăn.
- Nhìn chung chất lượng học tập của học sinh vùng miền trên địa bàn phía Bắc còn thấp, còn
có sự chênh lệch lớn về chất lượng giáo dục giữa học sinh người dân tộc thiểu số (DTTS) và học
sinh người Kinh. Ở nhiều vùng sâu, vùng xa, khoảng cách từ nhà đến trường học còn lớn, nhiều
hộ đồng bào dân tộc nghèo còn thói quen đưa con đi rẫy, chưa quan tâm, chăm lo đến việc học tập
của con cái.
- sở vật chất, trang thiết bị dạy học đối với giáo dục mầm non n thiếu chưa đồng
bộ. Tỷ lệ phòng bán kiên cố còn chiếm quá nửa tổng số phòng học, còn nhiều điểm trường nhỏ lẻ,
phân tán. Tỷ lệ nhập học ở bậc mẫu giáo thấp, chỉ đạt 33%, bằng 2/3 mức trung bình của cả nước
(khoảng 46,4%). Tỷ lệ đi học mẫu giáo của các em DTTS thấp dẫn đến việc các cháu chưa được
chuẩn bị tốt về kỹ năng nói tiếng Việt trước khi vào lớp 1, khiến các cháu gặp rất nhiều khó khăn
khi đi học, làm hạn chế khả năng tiếp thu kiến thức học tập hòa nhập, một trong những
nguyên nhân dẫn đến tỷ lệ bỏ học cao ảnh hưởng tiêu cực đến chất lượng học tập của những
năm học tiếp theo.
- Nguồn lực đầu cho giáo dục dân tộc nội trú chưa đáp ứng yêu cầu. Đa số các trường phổ
thông DTNT cấp huyện được đầu tư xây dựng từ những năm 80, 90 của thế kỷ trước, nên hầu hết
các hạng mục công trình đã xuống cấp trầm trọng; nhiều hạng mục phục vụ cho hoạt động giáo
dục và nuôi dưỡng học sinh chưa được đầu tư như: phòng học bộ môn, thư viện, nhà tập đa năng,
phòng y tế, công trình vệ sinh, nước sạch…vậy, nhu cầu xây mới, bổ sung, nâng cấp, cải tạo
sở vật chất trường phổ thông DTNT của các tỉnh miền núi phía Bức rất lớn, trong khi nguồn
vốn chủ yếu bố trí từ Chương trình mục tiêu quốc gia giáo dục đào tạo hàng năm rất hạn hẹp. Điều
này ảnh hưởng đến chất lượng dạy học và các hoạt động giáo dục của nhà trường.
- Xây dựng, phát triển nông thôn vấn đề luôn được Đảng và Nhà nước quan tâm, nhất
từ khi Nghị quyết về nông nghiệp, nông dân, nông thôn (2008) của Đảng ra đời được triển khai
với chương trình Xây dựng nông thôn mới của Chính phủ, trong đó, cơ sở vật chất văn hóa một
tiêu chí nền tảng. Tiêu chí này đã và đang được các tỉnh miền núi phía Bắc tích cực thực hiện và
đạt nhiều kết quả quan trọng
- Việc triển khai một số chính sách lúc, nơi còn chậm trễ, thiếu đồng bộ, thực hiện
chưa tốt; một số chính sách đối với giáo viên, nhân viên, học sinh vùng DTTS khó khăn vẫn còn
hạn chế, bất cập về đối tượng được hưởng, định mức, thời gian hưởng, phương thức hỗ trợ… hầu
hết các địa phương vùng DTTS tỷ lệ hộ nghèo cao, điều kiện kinh tế - hội đặc biệt khó khăn,
nên mặc đã được ưu tiên, nhưng do nguồn lực ngân sách hạn nên chưa đáp ứng được nhu
cầu kinh phí đầu tư thực hiện các mục tiêu giáo dục và đào tạo; vẫn còn thiếu cơ chế, chính sách
đặc thù để phát triển giáo dục những vùng miền núi phía Bắc.
- Cùng với việc xây dựng các chính sách phát triển, Đảng, Nhà nước ta tiếp tục chủ trương
đổi mới mạnh mẽ công tác dân tộc, hướng tới mục tiêu vùng DTTS và miền núi tiếp tục khởi sắc,
những bước phát triển mới, đột phá hơn nữa. Nghị định số 05/2011/NĐ-CP ngày 14/1/2011
của Chính phủ về công tác dân tộc đã đi trọn hành trình hơn một thập kỷ. Trong quãng thời gian
không quá dài ấy, nghị định này mở ra rất nhiều cơ hội phát triển quan trọng cho đồng bào DTTS
và miền núi.
- Theo báo cáo giám sát của Hội đồng Dân tộc của Quốc hội cho thấy, còn 23 chính sách
dân tộc chưa được ghi nhận; hoặc chưa được quy định cụ thể trong Nghị định các văn bản pháp
luật liên quan vùng đồng bào DTTS và miền núi. Cụ thể: Cơ chế, chính sách ưu đãi thúc đẩy phát
triển kinh tế tập thể, hợp tác xã vùng đồng bào DTTS và miền núi; Chính sách hỗ trợ ăn trưa đối
với trẻ em nhà trẻ người DTTS, con hộ nghèo tại các cơ sở giáo dục mầm non tại vùng kinh tế xã
hội đặc biệt khó khăn. Chính sách thu hút, trọng dụng nhân tài là người DTTS; Chính sách hỗ trợ
đối với nghệ nhân trong việc tổ chức duy trì, bảo tồn, truyền dạy văn hoá truyền thống trong cộng
đồng.
- Thực tế đó đã khiến việc đổi mới công tác dân tộc, trong đó có việc sửa đổi Nghị định 05
trở thành vấn đề cấp bách. Đổi mới để tăng cường nguồn lực cho vùng đồng bào DTTS miền
núi bứt phá, “bảo đảm các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng, giúp nhau cùng phát triển. Huy
động, phân bổ, sử dụng, quản lý hiệu quả các nguồn lực để đầu tư phát triển, tạo chuyển biến căn
bản về kinh tế, văn hóa, hội vùng đông đồng bào DTTS” như Đại hội lần thứ XIII của
Đảng đã chỉ rõ.
CÂU 3: Phân tích làm chức năng nuôi dưỡng, giáo dục của gia đình. Xu hướng
kết hôn đồng tính hiện nay đang ngày càng phổ biến (mặc dù pháp luật Việt Nam chưa thừa
nhận hôn nhân đồng tính), theo anh/chị, xu hướng ảnh hưởng đến việc thực hiện các
chức năng của gia đình hay không?
Phân tích và làm rõ chức năng nuôi dưỡng, giáo dục của gia đình.
- Bên cạnh chức năng tái sản xuất ra con người, gia đình còn trách nhiệm nuôi dưỡng,
dạy dỗ con cái trở thành người có ích cho gia đình, cộng đồng và xã hội. Chức năng này thể hiện
tình cảm thiêng liêng, trách nhiệm của cha me với con cái, đồng thời thể hiện trách nhiệm của gia
. đình với hội. Thực hiện chức năng này, gia đình ý nghĩa rất quan trọng đối với sự hình
thành nhân cách, đạo đức, lối sống của mỗi người. Bởi vì, ngay khi sinh ra, trước tiên mỗi người
đều chịu sự giáo dục trực tiếp của cha mẹ và người thân trong gia đình. Những hiểu biết đầu tiên
mà gia đình đem lại thường để lại dấu ấn sâu đậm và bền vững trong cuộc đời mỗi người. Vì vậy,
gia đình là một môi trường văn hóa, giáo dục, trong môi trường này, mỗi thành viên đều là những
chủ thể sáng tạo những giá trị văn hóa, chủ thể giáo dục đồng thời cũng những người thụ hưởng
giá trị văn hóa, và là khách thể chịu sự giáo dục của các thành viên khác trong gia đình.
- Chức năng nuôi dưỡng, giáo dục ảnh hưởng lâu dài và toàn diện đến cuộc đời của mỗi
thành viên, từ lúc lọt lòng cho đến khi trưởng thành tuổi già. Mỗi thành viên trong gia đình đều
vị trí, vai trò nhất định, vừa chủ thể vừa khách thể trong việc nuôi dưỡng, giáo dục của
gia đình. Đây chức năng hết sức quan trọng, mặc trong xã hội có nhiều cộng đồng khác (nhà
trường, các đoàn thể, chính quyền, v.v.) cũng thực hiện chức năng này, nhưng không thể thay thế
chức năng giáo dục của gia đình. Với chức năng này, gia đình góp phần to lớn vào việc đào tạo
thế hệ trẻ, thế hệ tương lai của xã hội, cung cấp và nâng cao chất lượng nguồn lao động để duy trì
sự trường tồn của xã hội, đồng thời mỗi cá nhân từng bước được xã hội hóa. Vì vậy, giáo dục của
gia đình gắn liền với giáo dục của xã hội. Nếu giáo dục của gia đình không gắn với giáo dục của
hội, mỗi nhân sẽ khó khăn khi hòa nhập với hội, ngược lại, giáo dục của hội sẽ
không đạt được hiệu quả cao khi không kết hợp với giáo dục của gia đình, không lấy giáo dục của
gia đình nền tảng. Do vậy, cần tránh khuynh hướng coi trọng giáo dục gia đình mà hạ thấp giáo
dục của hội hoặc ngược lại. Bởi cả hai khuynh hướng ấy, mỗi nhân đều không phát triển
toàn diện.
Thực hiện tốt chức năng nuôi dưỡng, giáo dục đòi hỏi mỗi người m cha, làm mẹ phải
kiến thức cơ bản, tương đối toàn diện về mọi mặt, văn hóa, học vấn, đặc biệt là phương pháp giáo
dục.
- Đây là chức năng hết sức quan trọng của gia đình, quyết định đến nhân cách của con người,
dạy dỗ nên những người con hiếu thảo, trở thành người công dân ích cho hội bởi gia đình
trường học đầu tiên đó cha mẹ những người thầy đầu tiên trong cuộc đời mỗi con người:”
Cha mẹ nghĩa vquyền thương yêu, trông nom, nuôi ỡng, chăm sóc, bảo vệ quyền, lợi
ích hợp pháp của con; tôn trọng ý kiến của con; chăm lo việc học tập giáo dục để con phát triển
lành mạnh về thể chất, trí tuệ và đạo đức, trở thành người con hiếu thảo của gia đình, công dân
ích cho xã hội.. ”
- Vì gia đình, nhà trường là nơi có ảnh hưởng trực tiếp tới sự định hình, phát triển nhân cách
của con người hội nơi thử thách, đánh giá sự trưởng thành của nhân cách đó, cho nên,
mỗi con trẻ/con người nếu được sự quan tâm đúng mức từ ba môi trường này, nhất từ gia
đình thì tất yếu sẽ có điều kiện phát triển lành mạnh, hình thành, phát triển nhân cách tốt.
- Đặc biệt quan tâm vấn đề gia đình, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Nhiều gia đình
cộng lại mới thành xã hội, xã hội tốt thì gia đình càng tốt, gia đình tốt thì xã hội mới tốt. Hạt nhân
của xã hội là gia đình”, bởi gia đình là tổ ấm của mỗi người, là tế bào của xã hội; đồng thời, cũng
nơi bảo tồn phát huy những giá trị văn hóa truyền thống, môi trường quan trọng để hình
thành, nuôi dưỡnggiáo dục nhân cách con người. Gia đình Việt Nam truyền thống được hình
thành phát triển, gắn kết một cách bền chặt do tình nghĩa và trách nhiệm giữa các thành viên;
với những chuẩn mực giá trị tốt đẹp như: nh trên nhường dưới, a thuận, thủy chung, nghĩa
tình, hy sinh cho con, tôn trọng, hiếu đễ với ông bà, cha mẹ, anh em, yêu thương đùm bọc lẫn
nhau, hiếu học, cần cù, sáng tạo trong lao động, v.v.. trở thành cái nôi, thành nền tảng hình thành
và nuôi dưỡng nhân cách con người Việt Nam.
Việc kết hôn đồng tính không ảnh hưởng đến khả năng thực hiện những chức năng
nuôi dưỡng, giáo dục của gia đình.
Xu hướng kết hôn đồng tính hiện nay đang ngày càng phổ biến nhận được sự ủng hộ rộng
rãi trên thế giới. Tuy pháp luật Việt Nam chưa thừa nhận hôn nhân đồng tính, nhưng sự cởi mở
chấp nhận tình yêu hôn nhân giữa những người đồng giới đã được thể hiện. Việc này thể tạo
ra những thay đổi trong tư duy về hôn nhân của người Việt. Đồng thời, nó cũng không ảnh hưởng
đến việc thực hiện các chức năng của gia đình. Gia đình có nhiều chức năng quan trọng như thỏa
mãn tình cảm đôi lứa, nuôi dạy con cái xây dựng một môi trường gia đình ổn định hạnh
phúc.
Ngày 01/01/2015, Luật Hôn nhân Gia đình Việt Nam chính thức chuyển từ “cấm” sang
“không thừa nhận” đối với hôn nhân đồng giới. Việc những người đồng tính kết hôn, chưa
được thừa nhận, đã không còn là một hành vi phạm pháp.
Bất chấp rất nhiều nỗ lực thay đổi nhận thức các chính sách bảo vệ sự đa dạng tính dục,
các cặp đôi đồng tính vẫn đang phải chịu đựng vàn định kiến và sự kỳ thị từ họ hàng, người
thân hay nhiều hội nhóm trong xã hội.
Các gia đình đồng tính đang bị phân biệt đối xử “đi ngược với tự nhiên,” “thiếu hụt các
chức năng cơ bản" hay thậm chí “gây ảnh hưởng tiêu cực đến con cái.” Tuy nhiên, tất cả các định
kiến này đều không hề có bất kỳ cơ sở vững chắc nào.
1. “Các gia đình đồng tính thiếu đi những chức năng cơ bản”
Định kiến này xuất phát từ quan niệm rằng những đứa trẻ cần được nuôi dưỡng trong gia
đình có đầy đủ bố mẹ thuộc hai giới. Quan niệm cho rằng người bố và người mẹ sẽ có những
chức năng riêng trong việc nuôi dạy con cái.
vậy, những gia đình đồng tính chỉ bố hoặc msẽ bcoi thiếu hụt chức năng
bản, từ đó ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát triển của con cái.
Trên thực tế, hàng loạt nghiên cứu đã kết luận rằng không hề sự khác biệt giữa con cái
của các cặp đôi đồng tính dị nh. Cả hai nhóm trẻ y đều nhận được những giá trị tương
đương nhau, liên quan đến nhiều lĩnh vực quan trọng như khả năng phát triển nhận thức, tình cảm,
sức khỏe và kết quả học tập.
Tìm kiếm nh gia đình phù hợp để nuôi dưỡng giáo dục những đứa trẻ chủ đề quan
trọng. Tuy nhiên, cho đến thời điểm hiện tại, những kết luận vội như “gia đình đồng tính gây
ảnh hưởng tiêu cực đến con cái” đều không dựa trên bất kỳ cơ sở rõ ràng nào.
2. “Con cái của các gia đình đồng tính sẽ thành người đồng tính”
Các cặp bố (mẹ) đồng tính thường bị “kết án” nguyên nhân khiến con cái của họ ng
trở thành người đồng nh, hoặc cảm thấy bối rối về xu hướng tính dục của mình. Định kiến này
đang hiểu sai bản chất vấn đề, đồng thời mang nặng tính kỳ thị đối với đồng tính luyến ái.
Trên thực tế, đúng là con cái của các cặp đồng tính có xu hướng come out nhiều hơn. Một
nghiên cứu quy lớn chỉ ra rằng nhóm đối tượng này thường cởi mở hơn khi chia sẻ c trải
nghiệm yêu đương và quan hệ với người đồng giới.
Tuy nhiên, việc bố (mẹ) đồng tính không phải nguyên nhân trực tiếp duy nhất
khiến con họ người đồng tính. Đồng tính luyến ái hiện tượng do cả yếu tố sinh học môi
trường cộng hưởng, và gia đình chỉ là một trong những yếu tố đó
Trong trường hợp này, việc sống chung với những người đồng tính đã giúp những đứa trẻ
nhận thức về sự đa dạng tính dục. Gia đình đồng tính trở thành một môi trường khiến những đứa
con cảm thấy an toàn và tự do để bộc lộ bản sắc, biểu hiện và xu hướng tính dục của bản thân.
3. “Có bố (mẹ) là người đồng tính sẽ khiến con cái bị phân biệt đối xử”
Sống chung với bố (mẹ) người đồng tính sẽ khiến cho đứa trẻ nguy bị trêu đùa,
xúc phạm, hay thậm chí là đánh đập bởi những nhóm kỳ thị. Định kiến này mang phản ánh lỗi tư
duy đổ lỗi nạn nhân (victim blaming) rất nguy hiểm.
Niềm tin sai lệch này trực tiếp đổ dồn trách nhiệm lên các cặp cha (mẹ) đồng nh. Họ bị
biến thành thủ phạm của nạn phân biệt đối xử.
Hành vi này không chỉ hợp lý hóa sự kỳ thị dành cho các gia đình đồng tính, mà còn khiến
chúng ta hiểu sai vấn đề rằng cách để con cái không bị bắt nạt là bố (mẹ) đừng đồng tính.thể
thấy rõ sự vô lý và kỳ thị trong tư duy này.
Sự thật tình trạng phân biệt đối xử với những đứa con không đến từ xu hướng tính dục
của bố mẹ. Nó đến từ những định kiến vô lý nhiều người đang gán cho họ. Các gia đình đồng tính
cần được bảo vệ, thay vì bị coi như nguồn cơn của vấn đề.
Qua đó, chúng ta nên hướng tới một xã hội tôn trọng sự đa dạng, vì những định kiến không
có cơ sở là mối nguy hại trói buộc các gia đình đồng tính với sự kỳ thị và phân biệt đối xử. Việc
ngăn cản các cặp đôi đồng tính kết hôn và có con sẽ chỉ khiến cho tình trạng bất bình đẳng
hội trở nên trầm trọng hơn. Một môi trường an toàn, ổn định và phù hợp để nuôi dạy những đứa
con không hề liên quan đến việc bố (mẹ) là người dị tính hay đồng tính. Hạnh phúc của những
đứa trẻ phần lớn đến từ hoàn cảnh kinh tế xã hội, sự ổn định và tình yêu thương của gia đình.
Bước đầu tiên để những gia đình đồng tính có được hạnh phúc, chính là gỡ bỏ những định kiến
và sự phân biệt đối xử vô lý mà họ đang phải chịu đựng.
Cảm ơn Cô đã hướng dẫn giúp em hoàn thành bài thu hoạch dù em đã cố gắng hết mức để
hoàn thành nhưng chắc chắn không thể tránh khỏi những thiếu xót. Rất mong nhận được sự góp
ý của cô Đoàn Duy Trúc Ngọc – Giảng viên hướng dẫn môn Chủ Nghĩa Xã Hội Khoa Học, để
giúp em có thêm kinh nghiệm cho những bài sau.
Xin chân thành cảm ơn!
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trích “Giáo trình Chủ nghĩa hội khoa học” NXB chính trị quốc gia s
thật.
2. “Cơ sở vật chất văn hóa nông thôn mới miền núi phía Bắc hiện nay”. Đọc từ:
<http://www.vanhoanghethuat.vn/co-so-vat-chat-van-hoa-nong-thon-moi-o-mien-nui-
phiabac-hien-nay.htm>. [Ngày đăng: 22/12/2019. Ngày truy cập: 19/11/2023].
3. Đọc từ: <https://luatduonggia.vn/cac-chuc-nang-co-ban-cua-gia-dinh>. [Ngày
đăng: 28/07/2023. Ngày truy cập: 19/11/2023].
4. “Vì sự phát triển bền vững của vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi
Đọc từ: <https://thanhtra.com.vn/xa-hoi/doi-song/vi-su-phat-trien-ben-vung-cuavung-
dong-bao-dan-toc-thieu-so-va-mien-nui-204259.html>. [Ngày đăng: 12/11/2022. Ngày truy
cập: 22/11/2023].

Preview text:


Câu 1: Trình bày sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam. Hiện nay các thế
lực thù địch cho rằng, sứ mệnh lịch sử của công nhân không còn nữa do công nhân đã có tư
liệu sản xuất nên không còn bị bóc lột. Theo anh (chị) nhận định trên có đúng hay không? Vì sao?

1. Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam:
Nội dung Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân
- Giống như mọi tầng lớp, giai cấp khác trong xã hội, giai cấp công nhân là nhân tố của
hoàn cảnh lịch sử cụ thể cùng với sự phát triển lịch sử với những biểu hiện và đặc trưng mới
trong từng giai đoạn lịch sử nhất định.
- Sự phát triển của đại công nghiệp hiện nay không những làm tăng thêm số vô sản mà còn
tập hợp họ lại thành một đoàn xã rộng lớn và hình thành niên giai cấp vô sản thời hiện đại.
Chính vì vậy, giai cấp công nhân hiện đại ra đời gắn liền với sự phát triển của đại công nghiệp,
là sản phẩm của nền công nghiệp hiện đại và phát triển theo nền đại công nghiệp đó.
- Dưới chủ nghĩa tư bản, C. Mác và Ph. Ăngghen đã định nghĩa rằng, “Giai cấp vô sản là
giai cấp những công nhân làm thuê hiện đại, vì mất hết tư liệu sản xuất của bản thân, nên buộc
bán sức lao động của mình đế sống”. Dù giai cấp công nhân có bao gồm những công nhân làm
những công việc khác nhau như thế nào đi nữa, thì theo C. Mác và Ph. Ăngghen, họ vẫn chỉ có
hai tiêu chí cơ bản để xác định, phân biệt với các giai cấp, tầng lớp xã hội khác.
- Dựa vào quan điểm của C. Mác và Ph. Ăngghen, chúng ta có thể định nghĩa giai cấp
công nhân như sau: Giai cấp công nhân là một tập đoàn xã hội ổn định, hình thành và phát triển
cùng với quá trình phát triển của nền đại công nghiệp hiện đại, với nhịp độ phát triển của lực
lượng sản xuất có tính chất xã hội hóa ngày càng cao, là lực lượng lao động cơ bản trực tiếp
hoặc tham gia vào quá trình sản xuất, tái sản xuất ra của cải vật chất và cải tạo các quan hệ xã
hội; đại biểu cho lực lượng sản xuất và phương thức sản xuất tiên tiến trong thời đại ngày nay.
- Khi phân tích về xã hội chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa Mác đã đưa ra hai ý kiến vĩ đại
cholịch sử nhân loại, đó là quan niệm duy vật về lịch sử và học thuyết về giá trị thặng dư. Nó đã
chứng minh rằng sự ra đời, phát triển và diệt vong của chủ nghĩa tư bản là tất yếu và cũng khẳng
định rằng giai cấp công nhân là giai cấp tiên tiến nhất và mang tính chất cách mạng nhất. Giai
cấp này là lực lượng duy nhất trong xã hội mang tính lịch sử, xóa bỏ chủ nghĩa tư bản, xóa bỏ
chế độ người bóc lột người, giải phóng giai cấp công nhân, nhân dân lao động và giải phóng
toàn thể nhân loại khỏi mọi sự áp bức, bóc lột, nghèo nàn lạc hậu, xây dựng xã hộimới – xã hội
xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa.
- Về kinh tế: xóa bỏ chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất và xấy dựng chế độ công hữu về tư liệu sản xuất.
- Về chính trị - xã hội: sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân chính là mục tiêu giải
phóng con người, trong đó kết hợp chặt chẽ giữ ba yếu tố là giải phóng giai cấp, giải phóng dân
tộc và giải phóng nhân loại.
- Về văn hóa: sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân nhằm tạo nên sự đổi mới trong nhận
thức văn hóa tinh thần theo tư tưởng tiến bộ.
Trong xã hội tư bản chủ nghĩa, giai cấp công nhân là một trong những giai cấp cơ bản, chủ
yếu, đối lập với giai cấp tư sản, là giai cấp bị giai cấp tư sản tước đoạt hết tư liệu sản xuất, buộc
phải bán sức lao động cho nhà tư bản để sống, bị bóc lột giá trị thặng dư. Họ là những người được
tự do về thân thể và có quyền bán sức lao động tùy theo cung – cầu hàng hóa sức lao động. Đây
là giai cấp bị bóc lột nặng nề, bị bần cùng hóa về vật chất lẫn tinh thần. Sự tồn tại của họ phụ
thuộc và quy luật cung – cầu hàng hóa sức lao động, phụ thuộc vào kết quả lao động của chính
họ. Họ phải tạo ra giá trị thặng dư, nhưng giá trị thặng dư lại bị giai cấp tư sản chiếm đoạt.
Biểu hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam
Mặc dù sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân được quy định một cách khách quan, song
để thực hiện được sứ mệnh lịch sử đó, phải kết hợp được với các nhân tố chủ quan thông qua hoạt
động chủ quan của con người biến cái khả năng trở thành hiện thực. Nhân tố chủ có ý nghĩa quyết
định trong việc thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân đó là việc thành lập Đảng cộng
sản của giai cấp công nhân lấy hệ tư tưởng của chủ nghĩa Mác-Lênin làm nền tảng, làm kim chỉ
nam cho hành động cách mạng của giai cấp công nhân.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản, giai cấp công nhân có sứ mệnh lịch sử là đấu tranh
giành chính quyền về tay mình và nhân dân lao động; sau khi giành được chính quyền, giai cấp
công nhân có sứ mệnh lịch sử là tổ chức bảo vệ chính quyền chống lại sự chống phá của các thế
lực thù địch và tiến hành tổ chức xây dựng xã hội mới – xã hội chủ nghĩa; giai cấp công nhân trực
tiếp sản xuất ra sản phẩm công nghiệp ngày càng hiện đại để xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật
cần thiết cho chủ nghĩa xã hội. Đây là nội dung thường xuyên và được thực hiện trong suốt các
giai đoạn cách mạng của giai cấp công nhân ở mỗi nước.
Trong suốt những năm qua, giai cấp công nhân Việt Nam đã khẳng định được vai trò của
mình, xứng đáng là bộ phận của giai cấp công nhân thế giới, tiếp tục lấy chủ nghĩa Mác – Lênin
và tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng. Ngày nay, công nhân Việt Nam chủ động tham gia
giải quyết các vấn đề là thu hút sự quan tâm hàng đầu của Việt Nam nói riêng và thế giới nói
chung. Các vấn đề đó có tính thời sự cao như dân số, môi trường, văn hóa, năng lượng, lương thực,...
Giai cấp công nhân là lực lượng kiên định bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa,
không chấp nhận chế độ đa đảng, đa nguyên chính trị.
Giai cấp công nhân tham gia đông đảo vào các thành phần kinh tế, lấy mục tiêu dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh để phấn đấu.
Giai cấp công nhân là lực lượng tiên phong trong đấu tranh phòng chống tiêu cực, tham
nhũng, tệ nạn xã hội, là lực lượng chính trị – xã hội quan trọng trong việc bảo vệ tổ quốc, giữ gìn
an ninh chính trị, trật tự xã hội, xây dựng nền quốc phòng toàn dân.
• Những giải pháp như nào để xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam
Nâng cao trình độ của giải cấp công nhân tăng cường công tác giáo dục đào tạo, bồi dưỡng
nâng cao trình độ học vấn, trình độ nghề nghiệp, từng bước trí thức hóa công nhân; giáo dục tư
tưởng, chính trị, đạo đức, xây dựng nếp văn hóa mới cho đội ngũ công nhân.
Cần phát triển sản xuất theo hướng hiện đại, áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ,
tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, tạo môi trường thuận lợi cho sự phát triển của đội ngũ công nhân.
2. Hiện nay các thế lực thù địch cho rằng, sứ mệnh lịch sử của công nhân không còn
nữa do công nhân đã có tư liệu sản xuất nên không còn bị bóc lột. Theo anh (chị) nhận định
trên có đúng hay không? Vì sao?

Theo tôi, đây là một quan điểm chưa thực sự chính xác. Vì ở hiện tại giai cấp công nhân đã
có tư liệu sản xuất nhưng họ vẫn đang phải đối mặt với nhiều khó khăn và thách thức trong cuộc
sống, bao gồm việc bị bóc lột, thiếu nhân quyền, và nghèo đói . 1.
Phương pháp luận trong xem xét vai trò lịch sử của một giai cấp là phải dựa trên cơ
sở địa vị kinh tế - xã hội của giai cấp đó trong xã hội, chứ không phải xuất phát từ ý muốn chủ
quan của bất kỳ một cá nhân hoặc một lực lượng xã hội nào. Trong lịch sử, chế độ tư bản chủ
nghĩa đã từng chiến thắng chế độ phong kiến bởi vì giai cấp tư sản đại diện cho lực lượng sản xuất
hiện đại, đại diện cho phương thức sản xuất mới, dựa trên nền đại công nghiệp, tiến bộ hơn hẳn
phương thức sản xuất lạc hậu của chế độ phong kiến.
Đối với giai cấp công nhân, “Vấn đề là ở chỗ tìm hiểu xem giai cấp vô sản thực ra là gì, và
phù hợp với tồn tại ấy của bản thân nó, giai cấp vô sản buộc phải làm gì về mặt lịch sử”. Trên cơ
sở luận giải địa vị kinh tế - xã hội của giai cấp công nhân trong xã hội tư bản, C.Mác và Ph.Ăng
ghen đã đưa ra kết luận khoa học: sự sụp đổ của giai cấp tư sản và sự thắng lợi của giai cấp vô
sản đều là tất yếu như nhau.
Lấy sự nghèo khổ làm cơ sở để luận giải sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là một lập
luận phản khoa học và là mưu đồ hòng xuyên tạc chủ nghĩa Mác – Lênin. 2.
Lại có quan điểm cho rằng, hiện nay ở các nước tư bản phát triển, giai cấp công
nhân không còn bị bóc lột như trước nữa; nó đã trở nên “trung lưu hoá” thậm chí trở thành “nhà
tư bản” khi đã có cổ phiếu trong các xí nghiệp, công ty. Đúng là hiện nay, việc thực hiện cổ phần
hoá ở các nước tư bản phát triển đang diễn ra với quy mô ngày càng rộng khắp. Người dân hễ có
tiền tích luỹ là có thể mua cổ phiếu ở xí nghiệp, công ty cổ phần nào đó (ở Mỹ 10%, ở Anh 12%
người lao động có cổ phần) với hy vọng thu lợi tức cổ phần và lãi vốn.
Tuy nhiên, cần khẳng định rằng, việc bán cổ phiếu cho công nhân không những không động
chạm đến quyền lợi của giới chủ, mà trái lại càng làm tăng thêm quyền lực kinh tế cho bọn tư bản.
Một chủ tư bản không cần một số lượng tư bản lớn cũng có thể chi phối cả công ty, hoặc nhiều
công ty trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh hết sức lớn. Bán cổ phiếu cho người lao động chỉ diễn
ra trong chừng mực không tổn hại đến quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa, đến lợi ích của giới chủ.
Khi đã có cổ phiếu, dù người công nhân có được những quyền lợi nhất định gắn với tình hình sản
xuất của Công ty và lợi tức do kết quả hoạt động sản xuất, kinh doanh đem lại, nhưng thực chất
nguồn lợi nhuận ấy chẳng qua là một phần giá trị thặng dư do chính công nhân làm ra, chứ không
phải bớt đi giá trị thặng dư mà giới chủ tư bản đã bỏ túi. Vậy là, người công nhân không phải đã
trở thành nhà “nhà tư bản” theo cái cách người ta nói, mà là “thành nhà tư bản đối với chính mình”.
Như vậy, công nhân hiện nay dù có cổ phiếu với giá trị cao hơn trước cũng chẳng vì thế mà
thay đổi địa vị làm thuê và bị bóc lột trong xã hội tư bản. Chế độ cổ phiếu thật sự là phương pháp
hữu hiệu cột chặt người lao động là bắt họ lệ thuộc hơn nữa vào giới chủ. Hy vọng thay đổi địa vị
người lao động trở thành người chủ thật sự ở các nước tư bản chủ nghĩa, do đó chỉ là ảo tưởng,
hoặc đó là hành động tự lừa dối mà thôi. 3.
Trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, C.Mác và Ph.Ăngghen nhận định: chủ nghĩa
tư bản đã tạo ra lực lượng sản xuất hùng hậu hơn các thế kỷ trước cộng lại. Trong điều kiện cách
mạng khoa học - công nghệ hiện đại, lực lượng sản xuất đó càng được tăng lên nhanh chóng với
những bước tiến nhảy vọt. Chính những yếu tố đó là cơ sở vật chất giúp cho chủ nghĩa tư bản có
thể tận dụng một cách hữu hiệu những thành tựu khoa học - công nghệ mới để kéo dài tuổi thọ
của mình. Trên thực tế, chủ nghĩa tư bản đã và đang tìm mọi cách điều chỉnh để thích nghi với điều kiện mới.
Mâu thuẫn xã hội cơ bản giữa giai cấp những người vô sản và giai cấp những người hữu sản;
giữa những người nghèo và những người giàu không chỉ còn trong phạm vi một quốc gia, nó đã
phát triển ở tầm quốc tế. Sự phát triển của các tập đoàn tư bản, các công ty tư bản xuyên quốc gia
tăng sự bòn rút tài nguyên và bóc lột nhân dân nhiều nước thuộc “thế giới thứ ba”; các cuộc chiến
tranh đẫm máu chống các quốc gia độc lập có chủ quyền do chủ nghĩa đế quốc phát động... là
nguyên nhân chủ yếu khiến cho hơn 500 triệu người bị đe đoạ chết đói, 1,6 tỷ người sống trong
cảnh khốn cùng, 600 triệu người thất nghiệp, hơn 800 triệu người mù chữ... Tất cả điều đó đã nói
lên tính chất ăn bám, bóc lột, phản động và tất yếu diệt vong của chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa đế quốc.
Rõ ràng, chủ nghĩa tư bản niện đại dù có biến đổi, thích nghi thì về bản chất vẫn là chủ nghĩa
tư bản, là chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước ở trình độ cao, chủ nghĩa tư bản độc quyền xuyên
quốc gia, chứ không hề có sự thay đổi bản chất; nó vẫn là chế độ bóc lột, bất công và đầy mâu thuẫn. 4.
Theo V.I.Lênin, chủ nghĩa đế quốc là “phòng chờ” đi vào chủ nghiã xã hội. Như thế,
phải chăng trong điều kiện mới, cùng với sự phát triển và tác động của cuộc cách mạng khoa học
- công nghệ hiện đại thì “phòng chờ” đó càng được mở rộng hơn. Đúng như vậy, với sự mở rộng
“phòng chờ” đó, tất yếu sẽ diễn ra sự vùng dậy của lực lượng sản xuất làm nổ tung toàn bộ cái
quan hệ sản xuất đang trói buộc nó. Những thành tựu của cách mạng khoa học công nghệ hiện
đại, mà chủ nghĩa tư bản đang lợi dụng để kéo dài tuổi thọ của nó, đang dần vượt ra khỏi “sự kiểm
soát của chính nó”. Do thực hiện chế độ cổ phiếu, nên giới chủ không phải muốn làm gì cũng
được mà không tính đến lực lượng cổ đông đông đảo là giai cấp công nhân, tuy giá trị cổ phiếu của họ là nhỏ bé.
Sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu đối với những người cộng sản, giai
cấp công nhân và nhân loại tiến bộ trên thế giới, quả là một thực tế nghiệt ngã và đau xót. Thế
nhưng, điều đó không có nghĩa là chủ nghĩa xã hội bị “tiêu vong”, giai cấp công nhân đã “mất vai
trò lịch sử”: cũng không làm mất đi ý chí phấn đấu và niềm tin vào tương lai xã hội chủ nghĩa của
giai cấp công nhân và nhân dân lao động trên thế giới. Trái lại, giai cấp công nhân có thêm những
bài học quý giá về những vấn đề cơ bản của cách mạng, bài học sâu sắc về “cách mạng phải biết
tự bảo vệ”; càng nhận thức rõ hơn tính chất quyết liệt, gay go của cuộc đấu tranh giai cấp, đấu
tranh dân tộc trong thời đại ngày nay; càng hiểu rõ hơn những bước thăng trầm, những khúc quanh
trên con đường thực hiện sứ mệnh lịch sử của mình.
Tóm lại, sự vận động tất yếu của lịch sử thế giới một phần tư thế kỷ qua chính là bằng chứng
chân thực để phủ nhận những tuyên bố đó. Chủ nghĩa xã hội hiện thực vẫn luôn tồn tại, phát triển
trong cải cách, đổi mới; giai cấp công nhân vẫn không ngừng phát triển cả về số lượng, chất lượng
và khẳng định vai trò sứ mệnh lịch sử của họ.
CÂU 2: Trình bày chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước Việt Nam. Mặc dù nhận
được sự quan tâm rất lớn của Đảng và Nhà nước nhưng vì sao đời sống của đồng bào dân
tộc thiểu số đặc biệt là những vùng miền núi phía Bắc ở nước ta vẫn còn nhiều khó khăn?

Điều đó có phải là do các chính sách của nước ta chưa phù hợp hay không?
Chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước Việt Nam.
- Về chính trị: Thực hiện bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng, giúp nhau cùng phát triển giữa các
dân tộc. Chính sách dân tộc góp phần nâng cao tính tích cực chính trị của công dân; nâng cao nhận
thức của đồng bào các dân tộc thiểu số về tầm quan trọng của vấn đề dân tộc, đoàn kết các dân
tộc, thống nhất mục tiêu chung là độc lập dân tộc. và chủ nghĩa xã hội, dân giàu, nước mạnh, dân
chủ, công bằng, văn minh.
- Về kinh tế: Nội dung, nhiệm vụ kinh tế trong chính sách dân tộc là các chủ trương, chính
sách phát triển kinh tế - xã hội miền núi, vùng đồng bào các dân tộc thiểu số nhằm phát huy tiềm
năng phát triển, từng bước khắc phục khoảng cách chênh lệch giữa các vùng, giữa các dân tộc.
Thực hiện các nội dung kinh tế thông qua các chương trình, dự án phát triển kinh tế ở các vùng
dân tộc thiểu số thúc đẩy quá trình phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Thực
hiện tốt chiến lược phát triển kinh tế - xã hội ở miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới, vùng
căn cứ địa cách mạng.
- Về văn hóa: Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Giữ gìn và
phát huy giá trị văn hóa truyền thống của các tộc người, phát triển ngôn ngữ, xây dựng đời sống
văn hóa ở cơ sở, nâng cao trình độ văn hóa cho nhân dân các dân tộc. Đào tạo cán bộ văn hóa, xây
dựng môi trường, thiết chế văn hóa phù hợp với điều kiện của các tộc người trong quốc gia đa dân
tộc. Đồng thời, mở rộng giao lưu văn hóa với các quốc gia, các khu vực và trên thế giới.
Đấu tranh chống tệ nạn xã hội, chống “diễn biến hòa bình” trên mặt trận tư tưởng - văn hóa ở nước ta hiện nay.
- Về xã hội: Thực hiện chính sách xã hội, đảm bảo an sinh xã hội trong vùng đồng bào dân
tộc thiểu số. Từng bước thực hiện bình đẳng xã hội, công bằng thông qua việc thực hiện chính
sách phát triển kinh tế - xã hội, xóa đói giảm nghèo, dân số, y tế, giáo dục trên cơ sở chú ý đến
tính đặc thù mỗi vùng, mỗi dân tộc. Phát huy vai trò của hệ thống chính trị cơ sở và các tổ chức
chính trị - xã hội ở miền núi, vùng dân tộc thiểu số.
- Về an ninh - quốc phòng: Tăng cường sức mạnh bảo vệ Tổ quốc trên cơ sở đảm bảo ổn
định chính trị, thực hiện tốt an ninh chính trị, trật tự - an toàn xã hội. Phối hợp chặt chẽ các lực
lượng trên từng địa bàn. Tăng cường quan hệ quân dân, tạo thế trận quốc phòng toàn dân trong
vùng đồng bào dân tộc sinh sống.
Thực hiện đúng chính sách dân tộc hiện nay ở Việt Nam là phải phát triển toàn diện về chính
trị kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh - quốc phòng các địa bàn vùng dân tộc thiểu số, vùng biên
giới, rừng núi, hải đảo của Tổ quốc. Như vậy, chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta mang
tính chất toàn diện, tổng hợp, bao trùm tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, liên quan đến mỗi
dân tộc và quan hệ giữa các dân tộc trong cộng đồng quốc gia. Phát triển kinh tế - xã hội của các
dân tộc là nền tảng để tăng cường đoàn kết và thực hiện quyền bình đẳng dân tộc, là cơ sở để từng
bước khắc phục sự chênh lệch về trình độ phát triển giữa các dân tộc. Do vậy, chính sách dân tộc
của Đảng và Nhà nước ta mang tính cách mạng và tiến bộ, đồng thời còn mang tính nhân văn sâu
sắc, không bỏ sốt bất kỳ dân tộc nào, không cho phép bất cứ tư tưởng kỳ thị, chia rẽ dân tộc nào;
đồng thời phát huy nội lực của mỗi dân tộc kết hợp với sự giúp đỡ có hiệu quả của các dân tộc anh em trong cả nước. 
Đời sống của đồng bào dân tộc thiểu số đặc biệt là những vùng miền núi phía
Bắc ở nước ta vẫn còn nhiều khó khăn. Điều đó không phải do các chính sách của nước ta
chưa phù hợp mà là trong quá trình cải tiến để nâng cao đời sống cho đồng bào dân tộc
thiểu số và miền núi, còn nhiều thách thức và khó khăn.

- Theo báo cáo của Chính phủ, vùng miền núi phía Bắc là vùng có tỷ lệ xã đạt chuẩn Nông
thôn mới thấp nhất. Nguyên nhân dẫn đến tỷ lệ nghèo cao của người dân tộc thiểu số ở Việt Nam
là do bị cách biệt về địa lý và hạn chế trong tiếp cận thị trường, bị cô lập về mặt xã hội, yếu tố văn
hóa và ngôn ngữ, hạn chế trong tiếp cận đất đai có chất lượng, tỷ lệ di cư khỏi nơi sinh sống thấp,
và có trình độ học vấn thấp
- Chương trình đã góp phần bảo đảm an sinh xã hội, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế - xã hội và
phát triển bền vững, giảm nghèo trong giai đoạn 2016-2019. Tỷ lệ hộ nghèo cả nước giảm đều
qua các năm từ 9,88% cuối năm 2015 xuống còn 3,75% vào cuối năm 2019; bình quân trong 4
năm giảm 1,53%/năm. Tại các huyện nghèo, tỷ lệ này cũng giảm đều qua các năm, từ 50,43%
cuối năm 2015 còn 27,85% cuối năm 2019; bình quân trong 4 năm giảm 5,65%/năm.
- Tuy nhiên, Báo cáo của Chính phủ và Báo cáo thẩm tra của Ủy ban Tài chính, Ngân sách
của Quốc hội nêu: Kết quả giảm nghèo một số nơi chưa bền vững, chưa đồng đều. Chênh lệch về
giàu nghèo, về tiếp cận các dịch vụ cơ bản, tiếp cận thị trường việc làm giữa các vùng, nhóm dân
cư chưa được thu hẹp, nhất là khu vực miền núi phía Bắc ; hiện tỷ lệ nghèo tại một số huyện vẫn
trên 50%. Nguyên nhân, theo đại biểu, là do điều kiện kinh tế - xã hội của các khu vực miền núi
có xuất phát điểm thấp, mặt bằng dân trí còn hạn chế, hệ thống cơ sở hạ tầng thiết yếu chưa đảm
bảo... Điều này ảnh hưởng không nhỏ đến kết quả thực hiện các hoạt động sản xuất, đào tạo, hỗ
trợ việc làm, đưa khoa học kỹ thuật vào sản xuất ở vùng có điều kiện khó khăn.
- Nhìn chung chất lượng học tập của học sinh vùng miền trên địa bàn phía Bắc còn thấp, còn
có sự chênh lệch lớn về chất lượng giáo dục giữa học sinh người dân tộc thiểu số (DTTS) và học
sinh người Kinh. Ở nhiều vùng sâu, vùng xa, khoảng cách từ nhà ở đến trường học còn lớn, nhiều
hộ đồng bào dân tộc nghèo còn thói quen đưa con đi rẫy, chưa quan tâm, chăm lo đến việc học tập của con cái.
- Cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học đối với giáo dục mầm non còn thiếu và chưa đồng
bộ. Tỷ lệ phòng bán kiên cố còn chiếm quá nửa tổng số phòng học, còn nhiều điểm trường nhỏ lẻ,
phân tán. Tỷ lệ nhập học ở bậc mẫu giáo thấp, chỉ đạt 33%, bằng 2/3 mức trung bình của cả nước
(khoảng 46,4%). Tỷ lệ đi học mẫu giáo của các em DTTS thấp dẫn đến việc các cháu chưa được
chuẩn bị tốt về kỹ năng nói tiếng Việt trước khi vào lớp 1, khiến các cháu gặp rất nhiều khó khăn
khi đi học, làm hạn chế khả năng tiếp thu kiến thức và học tập hòa nhập, là một trong những
nguyên nhân dẫn đến tỷ lệ bỏ học cao và ảnh hưởng tiêu cực đến chất lượng học tập của những năm học tiếp theo.
- Nguồn lực đầu tư cho giáo dục dân tộc nội trú chưa đáp ứng yêu cầu. Đa số các trường phổ
thông DTNT cấp huyện được đầu tư xây dựng từ những năm 80, 90 của thế kỷ trước, nên hầu hết
các hạng mục công trình đã xuống cấp trầm trọng; nhiều hạng mục phục vụ cho hoạt động giáo
dục và nuôi dưỡng học sinh chưa được đầu tư như: phòng học bộ môn, thư viện, nhà tập đa năng,
phòng y tế, công trình vệ sinh, nước sạch… Vì vậy, nhu cầu xây mới, bổ sung, nâng cấp, cải tạo
cơ sở vật chất trường phổ thông DTNT của các tỉnh miền núi phía Bức rất lớn, trong khi nguồn
vốn chủ yếu bố trí từ Chương trình mục tiêu quốc gia giáo dục đào tạo hàng năm rất hạn hẹp. Điều
này ảnh hưởng đến chất lượng dạy học và các hoạt động giáo dục của nhà trường.
- Xây dựng, phát triển nông thôn là vấn đề luôn được Đảng và Nhà nước quan tâm, nhất là
từ khi Nghị quyết về nông nghiệp, nông dân, nông thôn (2008) của Đảng ra đời và được triển khai
với chương trình Xây dựng nông thôn mới của Chính phủ, trong đó, cơ sở vật chất văn hóa là một
tiêu chí nền tảng. Tiêu chí này đã và đang được các tỉnh miền núi phía Bắc tích cực thực hiện và
đạt nhiều kết quả quan trọng
- Việc triển khai một số chính sách có lúc, có nơi còn chậm trễ, thiếu đồng bộ, thực hiện
chưa tốt; một số chính sách đối với giáo viên, nhân viên, học sinh vùng DTTS khó khăn vẫn còn
hạn chế, bất cập về đối tượng được hưởng, định mức, thời gian hưởng, phương thức hỗ trợ… hầu
hết các địa phương vùng DTTS tỷ lệ hộ nghèo cao, điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn,
nên mặc dù đã được ưu tiên, nhưng do nguồn lực ngân sách có hạn nên chưa đáp ứng được nhu
cầu kinh phí đầu tư thực hiện các mục tiêu giáo dục và đào tạo; vẫn còn thiếu cơ chế, chính sách
đặc thù để phát triển giáo dục những vùng miền núi phía Bắc.
- Cùng với việc xây dựng các chính sách phát triển, Đảng, Nhà nước ta tiếp tục chủ trương
đổi mới mạnh mẽ công tác dân tộc, hướng tới mục tiêu vùng DTTS và miền núi tiếp tục khởi sắc,
có những bước phát triển mới, đột phá hơn nữa. Nghị định số 05/2011/NĐ-CP ngày 14/1/2011
của Chính phủ về công tác dân tộc đã đi trọn hành trình hơn một thập kỷ. Trong quãng thời gian
không quá dài ấy, nghị định này mở ra rất nhiều cơ hội phát triển quan trọng cho đồng bào DTTS và miền núi.
- Theo báo cáo giám sát của Hội đồng Dân tộc của Quốc hội cho thấy, còn 23 chính sách
dân tộc chưa được ghi nhận; hoặc chưa được quy định cụ thể trong Nghị định và các văn bản pháp
luật liên quan vùng đồng bào DTTS và miền núi. Cụ thể: Cơ chế, chính sách ưu đãi thúc đẩy phát
triển kinh tế tập thể, hợp tác xã vùng đồng bào DTTS và miền núi; Chính sách hỗ trợ ăn trưa đối
với trẻ em nhà trẻ người DTTS, con hộ nghèo tại các cơ sở giáo dục mầm non tại vùng kinh tế xã
hội đặc biệt khó khăn. Chính sách thu hút, trọng dụng nhân tài là người DTTS; Chính sách hỗ trợ
đối với nghệ nhân trong việc tổ chức duy trì, bảo tồn, truyền dạy văn hoá truyền thống trong cộng đồng.
- Thực tế đó đã khiến việc đổi mới công tác dân tộc, trong đó có việc sửa đổi Nghị định 05
trở thành vấn đề cấp bách. Đổi mới để tăng cường nguồn lực cho vùng đồng bào DTTS và miền
núi bứt phá, “bảo đảm các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng, giúp nhau cùng phát triển. Huy
động, phân bổ, sử dụng, quản lý hiệu quả các nguồn lực để đầu tư phát triển, tạo chuyển biến căn
bản về kinh tế, văn hóa, xã hội ở vùng có đông đồng bào DTTS” như Đại hội lần thứ XIII của Đảng đã chỉ rõ.
CÂU 3: Phân tích và làm rõ chức năng nuôi dưỡng, giáo dục của gia đình. Xu hướng
kết hôn đồng tính hiện nay đang ngày càng phổ biến (mặc dù pháp luật Việt Nam chưa thừa
nhận hôn nhân đồng tính), theo anh/chị, xu hướng có ảnh hưởng gì đến việc thực hiện các
chức năng của gia đình hay không?

Phân tích và làm rõ chức năng nuôi dưỡng, giáo dục của gia đình.
- Bên cạnh chức năng tái sản xuất ra con người, gia đình còn có trách nhiệm nuôi dưỡng,
dạy dỗ con cái trở thành người có ích cho gia đình, cộng đồng và xã hội. Chức năng này thể hiện
tình cảm thiêng liêng, trách nhiệm của cha me với con cái, đồng thời thể hiện trách nhiệm của gia
. đình với xã hội. Thực hiện chức năng này, gia đình có ý nghĩa rất quan trọng đối với sự hình
thành nhân cách, đạo đức, lối sống của mỗi người. Bởi vì, ngay khi sinh ra, trước tiên mỗi người
đều chịu sự giáo dục trực tiếp của cha mẹ và người thân trong gia đình. Những hiểu biết đầu tiên
mà gia đình đem lại thường để lại dấu ấn sâu đậm và bền vững trong cuộc đời mỗi người. Vì vậy,
gia đình là một môi trường văn hóa, giáo dục, trong môi trường này, mỗi thành viên đều là những
chủ thể sáng tạo những giá trị văn hóa, chủ thể giáo dục đồng thời cũng là những người thụ hưởng
giá trị văn hóa, và là khách thể chịu sự giáo dục của các thành viên khác trong gia đình.
- Chức năng nuôi dưỡng, giáo dục có ảnh hưởng lâu dài và toàn diện đến cuộc đời của mỗi
thành viên, từ lúc lọt lòng cho đến khi trưởng thành và tuổi già. Mỗi thành viên trong gia đình đều
có vị trí, vai trò nhất định, vừa là chủ thể vừa là khách thể trong việc nuôi dưỡng, giáo dục của
gia đình. Đây là chức năng hết sức quan trọng, mặc dù trong xã hội có nhiều cộng đồng khác (nhà
trường, các đoàn thể, chính quyền, v.v.) cũng thực hiện chức năng này, nhưng không thể thay thế
chức năng giáo dục của gia đình. Với chức năng này, gia đình góp phần to lớn vào việc đào tạo
thế hệ trẻ, thế hệ tương lai của xã hội, cung cấp và nâng cao chất lượng nguồn lao động để duy trì
sự trường tồn của xã hội, đồng thời mỗi cá nhân từng bước được xã hội hóa. Vì vậy, giáo dục của
gia đình gắn liền với giáo dục của xã hội. Nếu giáo dục của gia đình không gắn với giáo dục của
xã hội, mỗi cá nhân sẽ khó khăn khi hòa nhập với xã hội, và ngược lại, giáo dục của xã hội sẽ
không đạt được hiệu quả cao khi không kết hợp với giáo dục của gia đình, không lấy giáo dục của
gia đình là nền tảng. Do vậy, cần tránh khuynh hướng coi trọng giáo dục gia đình mà hạ thấp giáo
dục của xã hội hoặc ngược lại. Bởi cả hai khuynh hướng ấy, mỗi cá nhân đều không phát triển toàn diện.
Thực hiện tốt chức năng nuôi dưỡng, giáo dục đòi hỏi mỗi người làm cha, làm mẹ phải có
kiến thức cơ bản, tương đối toàn diện về mọi mặt, văn hóa, học vấn, đặc biệt là phương pháp giáo dục.
- Đây là chức năng hết sức quan trọng của gia đình, quyết định đến nhân cách của con người,
dạy dỗ nên những người con hiếu thảo, trở thành người công dân có ích cho xã hội bởi gia đình
là trường học đầu tiên và ở đó cha mẹ là những người thầy đầu tiên trong cuộc đời mỗi con người:”
Cha mẹ có nghĩa vụ và quyền thương yêu, trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, bảo vệ quyền, lợi
ích hợp pháp của con; tôn trọng ý kiến của con; chăm lo việc học tập và giáo dục để con phát triển
lành mạnh về thể chất, trí tuệ và đạo đức, trở thành người con hiếu thảo của gia đình, công dân có ích cho xã hội.. ”
- Vì gia đình, nhà trường là nơi có ảnh hưởng trực tiếp tới sự định hình, phát triển nhân cách
của con người và xã hội là nơi thử thách, đánh giá sự trưởng thành của nhân cách đó, cho nên,
mỗi con trẻ/con người nếu có được sự quan tâm đúng mức từ ba môi trường này, nhất là từ gia
đình thì tất yếu sẽ có điều kiện phát triển lành mạnh, hình thành, phát triển nhân cách tốt.
- Đặc biệt quan tâm vấn đề gia đình, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Nhiều gia đình
cộng lại mới thành xã hội, xã hội tốt thì gia đình càng tốt, gia đình tốt thì xã hội mới tốt. Hạt nhân
của xã hội là gia đình”, bởi gia đình là tổ ấm của mỗi người, là tế bào của xã hội; đồng thời, cũng
là nơi bảo tồn và phát huy những giá trị văn hóa truyền thống, môi trường quan trọng để hình
thành, nuôi dưỡng và giáo dục nhân cách con người. Gia đình Việt Nam truyền thống được hình
thành và phát triển, gắn kết một cách bền chặt là do tình nghĩa và trách nhiệm giữa các thành viên;
với những chuẩn mực giá trị tốt đẹp như: Kính trên nhường dưới, hòa thuận, thủy chung, nghĩa
tình, hy sinh cho con, tôn trọng, hiếu đễ với ông bà, cha mẹ, anh em, yêu thương đùm bọc lẫn
nhau, hiếu học, cần cù, sáng tạo trong lao động, v.v.. trở thành cái nôi, thành nền tảng hình thành
và nuôi dưỡng nhân cách con người Việt Nam.
Việc kết hôn đồng tính không ảnh hưởng đến khả năng thực hiện những chức năng
nuôi dưỡng, giáo dục của gia đình.
Xu hướng kết hôn đồng tính hiện nay đang ngày càng phổ biến và nhận được sự ủng hộ rộng
rãi trên thế giới. Tuy pháp luật Việt Nam chưa thừa nhận hôn nhân đồng tính, nhưng sự cởi mở và
chấp nhận tình yêu và hôn nhân giữa những người đồng giới đã được thể hiện. Việc này có thể tạo
ra những thay đổi trong tư duy về hôn nhân của người Việt. Đồng thời, nó cũng không ảnh hưởng
đến việc thực hiện các chức năng của gia đình. Gia đình có nhiều chức năng quan trọng như thỏa
mãn tình cảm đôi lứa, nuôi dạy con cái và xây dựng một môi trường gia đình ổn định và hạnh phúc.
Ngày 01/01/2015, Luật Hôn nhân và Gia đình Việt Nam chính thức chuyển từ “cấm” sang
“không thừa nhận” đối với hôn nhân đồng giới. Việc những người đồng tính kết hôn, dù chưa
được thừa nhận, đã không còn là một hành vi phạm pháp.
Bất chấp rất nhiều nỗ lực thay đổi nhận thức và các chính sách bảo vệ sự đa dạng tính dục,
các cặp đôi đồng tính vẫn đang phải chịu đựng vô vàn định kiến và sự kỳ thị từ họ hàng, người
thân hay nhiều hội nhóm trong xã hội.
Các gia đình đồng tính đang bị phân biệt đối xử vì “đi ngược với tự nhiên,” “thiếu hụt các
chức năng cơ bản" hay thậm chí “gây ảnh hưởng tiêu cực đến con cái.” Tuy nhiên, tất cả các định
kiến này đều không hề có bất kỳ cơ sở vững chắc nào.
1. “Các gia đình đồng tính thiếu đi những chức năng cơ bản”
Định kiến này xuất phát từ quan niệm rằng những đứa trẻ cần được nuôi dưỡng trong gia
đình có đầy đủ bố và mẹ thuộc hai giới. Quan niệm cho rằng người bố và người mẹ sẽ có những
chức năng riêng trong việc nuôi dạy con cái.
Vì vậy, những gia đình đồng tính chỉ có bố hoặc có mẹ sẽ bị coi là thiếu hụt chức năng cơ
bản, từ đó ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát triển của con cái.
Trên thực tế, hàng loạt nghiên cứu đã kết luận rằng không hề có sự khác biệt giữa con cái
của các cặp đôi đồng tính và dị tính. Cả hai nhóm trẻ này đều nhận được những giá trị tương
đương nhau, liên quan đến nhiều lĩnh vực quan trọng như khả năng phát triển nhận thức, tình cảm,
sức khỏe và kết quả học tập.
Tìm kiếm mô hình gia đình phù hợp để nuôi dưỡng và giáo dục những đứa trẻ là chủ đề quan
trọng. Tuy nhiên, cho đến thời điểm hiện tại, những kết luận vội vã như “gia đình đồng tính gây
ảnh hưởng tiêu cực đến con cái” đều không dựa trên bất kỳ cơ sở rõ ràng nào.
2. “Con cái của các gia đình đồng tính sẽ thành người đồng tính”
Các cặp bố (mẹ) đồng tính thường bị “kết án” là nguyên nhân khiến con cái của họ cũng
trở thành người đồng tính, hoặc cảm thấy bối rối về xu hướng tính dục của mình. Định kiến này
đang hiểu sai bản chất vấn đề, đồng thời mang nặng tính kỳ thị đối với đồng tính luyến ái.
Trên thực tế, đúng là con cái của các cặp đồng tính có xu hướng come out nhiều hơn. Một
nghiên cứu quy mô lớn chỉ ra rằng nhóm đối tượng này thường cởi mở hơn khi chia sẻ các trải
nghiệm yêu đương và quan hệ với người đồng giới.
Tuy nhiên, việc có bố (mẹ) đồng tính không phải là nguyên nhân trực tiếp và duy nhất
khiến con họ là người đồng tính. Đồng tính luyến ái là hiện tượng do cả yếu tố sinh học và môi
trường cộng hưởng, và gia đình chỉ là một trong những yếu tố đó
Trong trường hợp này, việc sống chung với những người đồng tính đã giúp những đứa trẻ
nhận thức về sự đa dạng tính dục. Gia đình đồng tính trở thành một môi trường khiến những đứa
con cảm thấy an toàn và tự do để bộc lộ bản sắc, biểu hiện và xu hướng tính dục của bản thân.
3. “Có bố (mẹ) là người đồng tính sẽ khiến con cái bị phân biệt đối xử”
Sống chung với bố (mẹ) là người đồng tính sẽ khiến cho đứa trẻ có nguy cơ bị trêu đùa,
xúc phạm, hay thậm chí là đánh đập bởi những nhóm kỳ thị. Định kiến này mang phản ánh lỗi tư
duy đổ lỗi nạn nhân (victim blaming) rất nguy hiểm.
Niềm tin sai lệch này trực tiếp đổ dồn trách nhiệm lên các cặp cha (mẹ) đồng tính. Họ bị
biến thành thủ phạm của nạn phân biệt đối xử.
Hành vi này không chỉ hợp lý hóa sự kỳ thị dành cho các gia đình đồng tính, mà còn khiến
chúng ta hiểu sai vấn đề rằng cách để con cái không bị bắt nạt là bố (mẹ) đừng đồng tính. Có thể
thấy rõ sự vô lý và kỳ thị trong tư duy này.
Sự thật là tình trạng phân biệt đối xử với những đứa con không đến từ xu hướng tính dục
của bố mẹ. Nó đến từ những định kiến vô lý nhiều người đang gán cho họ. Các gia đình đồng tính
cần được bảo vệ, thay vì bị coi như nguồn cơn của vấn đề.
Qua đó, chúng ta nên hướng tới một xã hội tôn trọng sự đa dạng, vì những định kiến không
có cơ sở là mối nguy hại trói buộc các gia đình đồng tính với sự kỳ thị và phân biệt đối xử. Việc
ngăn cản các cặp đôi đồng tính kết hôn và có con sẽ chỉ khiến cho tình trạng bất bình đẳng xã
hội trở nên trầm trọng hơn. Một môi trường an toàn, ổn định và phù hợp để nuôi dạy những đứa
con không hề liên quan đến việc bố (mẹ) là người dị tính hay đồng tính. Hạnh phúc của những
đứa trẻ phần lớn đến từ hoàn cảnh kinh tế xã hội, sự ổn định và tình yêu thương của gia đình.
Bước đầu tiên để những gia đình đồng tính có được hạnh phúc, chính là gỡ bỏ những định kiến
và sự phân biệt đối xử vô lý mà họ đang phải chịu đựng.
Cảm ơn Cô đã hướng dẫn giúp em hoàn thành bài thu hoạch dù em đã cố gắng hết mức để
hoàn thành nhưng chắc chắn không thể tránh khỏi những thiếu xót. Rất mong nhận được sự góp
ý của cô Đoàn Duy Trúc Ngọc – Giảng viên hướng dẫn môn Chủ Nghĩa Xã Hội Khoa Học, để
giúp em có thêm kinh nghiệm cho những bài sau.
Xin chân thành cảm ơn!
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trích “Giáo trình Chủ nghĩa Xã hội khoa học” – NXB chính trị quốc gia sự thật.
2. “Cơ sở vật chất văn hóa nông thôn mới ở miền núi phía Bắc hiện nay”. Đọc từ:
phiabac-hien-nay.htm>. [Ngày đăng: 22/12/2019. Ngày truy cập: 19/11/2023]. 3. Đọc từ: . [Ngày
đăng: 28/07/2023. Ngày truy cập: 19/11/2023].
4. “Vì sự phát triển bền vững của vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi
Đọc từ: dong-bao-dan-toc-thieu-so-va-mien-nui-204259.html>. [Ngày đăng: 12/11/2022. Ngày truy cập: 22/11/2023].