















Preview text:
lOMoAR cPSD| 59960339
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC TỰ NHIÊN, ĐHQG-HCM KHOA HÓA HỌC
BÀI THU HOẠCH TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN
HỌ VÀ TÊN: PHẠM THỊ BIÊN MSSV: 23140006 LỚP: 23HOH_TN
GVHD: T.S MẠCH THỊ KHÁNH TRINH lOMoAR cPSD| 59960339
TP. Hồ Chí Minh, tháng 5 năm 2024
Chủ đề thu hoạch: Hãy trình bày cơ sở lí luận và sự vận dụng của bản thân
trong cuộc sống và trong học tập đối với nguyên tắc liên quan, nguyên tắc toàn
diện, nguyên tắc phát triển, nguyên tắc lịch sử - cụ thể. Bài làm I. Cơ sở lí luận
1. Nguyên tắc khách quan 1.1. Xuất phát
Từ mối quan hệ giữa vật chất và ý thức, triết học Mác – Lenin đã rút ra nguyên tắc phương
pháp luận là phải xuất phát từ thực tế khách quan. Xuất phát từ thực tế khách quan tức là
xuất phát từ tính khách quan của vật chất, chúng ta phải xuất phát từ bản thânsự vật, không
thể tùy tiện gán cho sự vật cái mà nó không có hoặc là nó chưa có. Trong hoạt động thì
chúng ta phải luôn luôn xuất phát từ thực tế khách quan, mọi chủ trương, đường lối, chính
sách, pháp luật, mục tiêu, phương hướng thì đều phải xuất phát từ thực tế khách quan. Tôn
trọng vai trò quyết định của đời sống vật chất đối với đời sống tinh thần của con người.
Như vậy, xuất phát từ thực tế khách quan, tôn trọng khách quan có ý nghĩa rất lớn cho hoạt
động nhận thức và hoạt động thực tiễn. Có thể khái quát được rằng bản chất của nguyên
tắc khách quan đó là khi đánh giá, phân tích sự vật hiện tượng nào đó thì chúng ta phải
đánh giá đúng như sự vật thể hiện như vậy. Chúng ta không được gán cho sự vật cái mà nó
không có. Khi chúng ta bôi hồng hoặc to đen sự vật là chúng ta vi phạm nguyên tắc khách quan trong đánh giá. 1.2. Nội dung
a. Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức
- Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức là “Vấn đề cơ bản của triết học, đặc biệt là triết học
hiện đại”. Tùy theo lập trường thế giới quan khác nhau, khi giải quyết mối quan hệ giữa
vật chất và ý thức mà hình thành hai đường lối cơ bản trong triết học là chủ nghĩa duy vật lOMoAR cPSD| 59960339
và chủ nghĩa duy tâm. Dưới đây ta cùng tìm hiểu quan điểm của chủ nghĩa duy vật biên
chứng về mối quan hệ giữa vật chất và ý thức.
- Trong tác phẩm Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán, Lênin đã đưa ra
định nghĩa về vật chất như sau: “Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại
khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép
lại, chụp lại, phản ánh và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác.”
- Như vậy định nghĩa về vật chất của Lênin bao hàm các nội dung cơ bản sau:
• Thứ nhất vật chất là thực tại khách quan tồn tại hiện thực bên ngoài ý thức và không lệ thuộc vào ý thức.
• Thứ hai vật chất là cái mà khi tác động vào các giác quan của con người thì đem lại cho con người cảm giác.
• Thứ ba vật chất là cái mà ý thức chẳng qua chỉ là sự phản ánh của nó.
- Bản chất ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan, là quá trình phản ánh tích
cực sáng tạo hiện thực khách quan của óc người.
• Ý thức là “hình ảnh” của sự vật trong óc người, là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan.
• Ý thức có đặc tính tích cực, sáng tạo gắn bó chặt chẽ với thực tiễn xã hội.
• Ý thức là một hiện tượng xã hội và mang bản chất xã hội.
Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức: chúng có mối quan hệ hai chiều tác động biện chứng
chặt chẽ, trong đó vật chất quyết định ý thức và ý thức tác động tích cực trở lại vật chất.
Thứ nhất vật chất có vai trò quyết định đối với ý thức:
Vật chất quyết định nguồn gốc của ý thức
Vật chất là cội nguồn sản sinh ra ý thức vì ý thức xuất hiện gắn liền với sự xuất hiện của
con người, mà con người là kết quả của một quá trình tiến hóa lâu dài, phức tạp của giới
tự nhiên, của thế giới vật chất. Con người do giới tự nhiên, vật chất sinh ra cho nên ý thức
- một thuộc tính của bộ phận con người - cũng do giới tự nhiên, vật chất sinh ra. Các thành
tựu của khoa học tự nhiên hiện đại đã chứng minh được rằng giới tự nhiên có trước, con lOMoAR cPSD| 59960339
người, vật chất là cái có trước còn ý thức là cái có sau. Vật chất tồn tại khách quan độc lập
với ý thức là nguồn gốc sinh ra ý thức. Bộ óc con người là một dạng vật chất có tổ chức
cao nhất, là cơ quan phản ánh ảnh để hình thành ý thức. Sự tác động của thế giới khách
quan vào não người tạo thành nguồn gốc tự nhiên của ý thức. Lao động trong hoạt động
thực tiễn, hoạt động sản xuất của cải vật chất và ngôn ngữ cùng nguồn gốc tự nhiên quyết
định sự hình thành, tồn tại và phát triển của ý thức.
Vật chất quyết định nội dung của ý thức
Ý thức dù dưới bất kỳ hình thức nào suy cho cùng đều là phản ánh hiện thực khách quan.
Thế giới hiện thực vận động, phát triển theo những quy luật khách quan của nó được phản
ánh vào ý thức mới có nội dung của ý thức. Thế giới khách quan mà trước hết chủ yếu là
hoạt động thực tiễn có tính xã hội - lịch sử của loài người là yếu tố quyết định nội dung mà
ý thức phản ánh. Sự phát triển của hoạt động thực tiễn là động lực quyết định tính phong
phú của nội dung ý thức.
Vật chất quyết định bản chất của ý thức
Thực tiễn là hoạt động vật chất có tính cải biến thế giới của con người, là cơ sở để hình
thành phát triển ý thức. Trong đó ý thức của con người vừa phản ánh vừa sáng tạo, phản
ánh để sáng tạo và sáng tạo trong phản ánh.
Vật chất quyết định sự vận động, phát triển của ý thức
Mọi sự tồn tại phát triển của ý thức đều gắn liền với quá trình hình thành, phát triển của
giới tự nhiên, của vật chất. Vật chất thay đổi thì ý thức cũng phải thay đổi theo. Con người
- một sinh vật có tính xã hội ngày càng phát triển cả về thể chất lẫn tinh thần thì dĩ nhiên ý
thức - một hình thức phản ánh của óc người cũng phát triển cả về nội dung và hình thức
phản ánh của nó. Đời sống xã hội ngày càng văn minh và khoa học ngày càng phát triển
đã chứng minh điều đó. Trong đời sống xã hội, sự phát triển của kinh tế sẽ đến cùng quy
định sự phát triển của văn hóa, đời sống vật chất thay đổi thì đời sống tinh thần cũng thay đổi theo.
Thứ hai, ý thức độc lập tương đối và tác động trở lại vật chất lOMoAR cPSD| 59960339
Ý thức có tính độc lập tương đối
Ý thức là sự phản ánh thế giới vật chất vào trong đầu óc con người, là do vật chất sinh ra,
nhưng khi đã ra đời thì ý thức có “đời sống” riêng, có quy luật vận động phát triển riêng,
không lệ thuộc một cách máy móc vào vật chất. Ý thức một khi ra đời thì có tính độc lập
tương đối tác động trở lại thế giới vật chất. Ý thức có thể thay đổi nhanh hơn, chậm hơn
hay song hành so với hiện thực nhưng nhìn chung thường thay đổi chậm so với sự biến đổi
của thế giới vật chất.
Ý thức tác động vật chất phải thông qua hoạt động thực tiễn của con người
Nhờ có hoạt động thực tiễn ý thức có thể làm biến đổi những điều kiện hoàn cảnh vật chất,
thậm chí còn tạo ra “thiên nhiên thứ hai” phục vụ cho cuộc sống của con người. Còn tự
bản thân ý thức thì không thể nào biến đổi được hiện thực con người. Dựa trên những tri
thức về thế giới khách quan, hiểu biết những quy luật khách quan, từ đó con người đề ra
mục tiêu, phương hướng, biện pháp và ý chí quyết tâm để thực hiện thắng lợi mục tiêu đã
xác định. Đặc biệt là ý thức tiến bộ cách mạng một khi thâm nhập vào quần chúng nhân
dân - lực lượng vật chất, xã hội thì có vai trò rất to lớn.
Ý thức chỉ đạo hoạt động, hành động của con người
Nó quyết định ảnh làm cho hoạt động con người đúng hay sai, thành công hay thất bại. Ý
thức có mối quan hệ cùng chiều với sự phát triển, khi phản ánh đúng hiện thực, ý thức có
thể dự báo, tiên đoán một cách chính xác cho hiện thực, có thể hình thành nên những lý
luận, định hướng đúng đắn và những lý luận này được đưa vào quần chúng sẽ góp phần
động viên, cổ vũ, khai thác tiềm năng sáng tạo, từ đó sức mạnh vật chất được nhân lên gấp
bội. Ngược lại ý thức có thể tác động tiêu cực khi nó phản ánh sai, là xuyên tạc hiện thực
khách quan, ý thức lạc hậu, phản khoa học...
Xã hội ngày càng phát triển thì vai trò của ý thức ngày càng to lớn
Nhất là trong thời đại ngày nay - thời đại thông tin, kinh tế tri thức, thời đại của cách mạng
khoa học và công nghệ hiện đại, khi mà tri thức khoa học đã trở thành lực lượng sản xuất
trực tiếp. Trong bối cảnh toàn cầu hóa và vai trò của tri thức khoa học, của tư tưởng chính
trị, tư tưởng nhân văn là hết sức quan trọng. lOMoAR cPSD| 59960339
Kết luận: Sự tác động của ý thức trở lại vật chất cũng chỉ với mức độ nhất định, nó không
thể sinh ra hay phá vỡ các quy luật vận động của vật chất. Ý thức không thể vượt quá những
tiền đề vật chất đã xác định, phải dựa trên những điều kiện khách quan, năng lực chủ quan
của chủ thể để hoạt động. Nếu bỏ qua điều này thì con người sẽ rơi vào chủ nghĩa chủ quan,
duy tâm và không tránh khỏi thất bại trong hoạt động thực tiễn.
b. Ý nghĩa phương pháp luận
Từ mối quan hệ giữa vật chất và ý thức theo quan điểm biện chứng duy vật, ta rút ra nguyên
tắc phương pháp luận là “Tôn trọng tính khách quan, kết hợp phát huy tính năng động chủ
quan trong lĩnh vực nhận thức cũng như hoạt động thực tiễn”. Mọi chủ trương, đường lối
kế hoạch, mục tiêu đều phải xem xét, xuất phát từ thực tế khách quan, đi từ những điều
kiện, tiền đề, vật chất hiện có, tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan. Bởi không
làm như vậy chúng ta sẽ phải gánh chịu những hậu quả tai hại khôn lường. Khi nhận thức
sự vật, hiện tượng phải chân thực, đúng đắn, không ca ngợi cũng như phê phán một cách
thái quá đối tượng, không bịa đặt đặt gán cho đối tượng cái mà nó không có. Nhận thức cải
tạo sự vật hiện tượng. Nhìn chung phải xuất phát từ chính bản thân sự vật hiện tượng đó
với những thuộc tính, mối liên hệ vốn có của nó; cần phải tránh chủ nghĩa chủ quan, chủ nghĩa thực dụng…
Tuy nhiên cũng không được xem nhẹ tính năng động và sáng tạo của ý thức. Cần cổ vũ,
phát huy vai trò nhân tố con người, chống tư tưởng, thái độ thụ động, ỷ lại, bảo thủ, trì trệ,
thiếu tính sáng tạo. Bởi quá trình đạt tới khách quan đòi hỏi chủ thể phải không ngừng sử
dụng ý thức tìm ra những biện pháp để thâm nhập vào bản chất của sự vật, biến từ cái “vật
tự nó” (tức thực tại khách quan) thành cái phục vụ cho nhu cầu của con người. Cần coi
trọng vai trò của ý thức, coi trọng công tác tư tưởng và giáo dục tư tưởng, coi trọng giáo
dục lý luận chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh; đồng thời với giáo dục và nâng
cao trình độ tri thức khoa học, củng cố, bồi dưỡng nhiệt tình ý chí cách mạng cho cán bộ,
đảng viên và nhân dân nói chung, nhất là trong điều kiện nền văn minh trí tuệ, kinh tế, tri
thức và toàn cầu hóa hiện nay; coi trọng việc giữ gìn rèn luyện nhân phẩm, đạo đức cho
cán bộ Đảng viên, bảo đảm sự thống nhất, nhiệt tình, cách mạng và ý chí khoa học. lOMoAR cPSD| 59960339
Để thực hiện nguyên tắc tôn trọng tính khách quan kết hợp với phát huy tính năng động và
chủ quan, chúng ta phải nhận thức và giải quyết đúng đắn quan hệ lợi ích, phải biết kết hợp
hài hòa lợi ích cá nhân, lợi ích tập thể xã hội và có động cơ trong sáng, thái độ thật sự
khách quan, khoa học, không vụ lợi trong nhận thức và hành động của mình.
c. Phát huy tính năng động chủ quan
Ý thức có thể tác động trở lại vật chất thông qua hoạt động thực tiễn. Bởi vậy con người
cần phải phát huy tính năng động chủ quan của mình. Phát huy tính năng động chủ quan
tức là phát huy vai trò tích cực năng động, sáng tạo của ý thức. Phát huy vai trò tích cực
của nhân tố con người trong việc vật chất hóa tính tích cực năng động sáng tạo ấy. Muốn
ý thức có thể tác động lại trở lại đời sống vật chất cần những hành động thực tiễn nhất định.
Kết luận: Mỗi sinh viên cần có phương pháp học tập, nghiên cứu cho riêng bản thân mình.
Để quá trình học tập được kết quả cao thì điều tất yếu là những phương pháp này phải khoa
học và phù hợp với hoàn cảnh của mỗi người. Cách thức để đúc kết ra được những phương
pháp ấy ngoài việc áp dụng hiểu biết khoa học thì còn phải áp dụng những kiến thức về
triết học. Đó chính là nguyên tắc tôn trọng tính khách quan và phát huy tính năng động chủ
quan của C.Mác và Ăngghen. Nguyên tắc trên có thể áp dụng trong nhiều lĩnh vực khác
nhau đối với từng cá nhân, cộng đồng lịch sử, trong đó có cả lĩnh vực học tập. Nếu chẳng
may phá vỡ những nguyên tắc mang tính chất nền tảng ấy, sinh viên sẽ lạc khỏi những định
hướng ban đầu trong quá trình đi tìm phương pháp khoa học cho chính mình, quá trình học
tập cũng vì thế mà không đạt kết quả cao, khả năng làm ảnh hưởng đến những thế hệ sinh viên mai sau. 1.3.
Nội dung nguyên tắc khách quan
Vật chất là nguồn gốc khách quan sản sinh ra ý thức, ý thức chỉ là sản phẩm, là phản ánh
thế giới khách quan, vì vậy trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn phải luôn
xuất phát từ thực tế khách quan, tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan, biết tạo
điều kiện và phương tiện vật chất, tổ chức lực lượng thực hiện biến khả năng thành hiện thực, cụ thể:
a. Trong hoạt động nhận thức lOMoAR cPSD| 59960339
- Chống thái độ duy ý chí, nóng vội, bất chấp quy luật khách quan, không đếm xỉa đến
điều kiện vật chất khách quan, tùy tiện, phiến diện; lấy ý muốn nguyện vọng cảm tính làm
xuất phát điểm cho chủ trương. chính sách, hậu quả là đường lối không hiện thực và hoang
tưởng và tất yếu sẽ đi đến thất bại trong hoạt động thực tiễn. - Cần khái quát, tổng kết hoạt
động thực tiễn để thường xuyên nâng cao năng lực nhận thức, năng lực chỉ đạo thực tiễn,
chống tư tưởng thụ động, ngồi chờ, ỷ lại vào hoàn cảnh và điều kiện vật chất. Phát huy tính
năng động sáng tạo của ý thức, của nhân tố con người để cải tạo thế giới khách quan và tạo
ra động lực hoạt động cho con người bằng cách quan tâm tới đời sống kinh tế, lợi ích thiết
thực của quần chúng, phát huy dân chủ rộng rãi.
b. Trong hoạt động thực tiễn
- Phải xuất phát từ điều kiện vật chất khách quan đã và đang có làm cơ sở cho mọi hoạt
động của mình. Không được lấy ý kiến chủ quan làm quan điểm xuất phát. - Khi đề ra
mục tiêu, nhiệm vụ và các biện pháp thực hiện người lãnh đạo phải nắm chắc tình hình
thực tế khách quan, có như vậy thì mới nêu ra mục đích chủ trương và sẽ đi đến thắng lợi
trong hoạt động thực tiễn. - Phát phát huy vai trò năng động sáng tạo của nhân tố chủ quan.
2. Nguyên tắc toàn diện 2.1. Xuất phát
Nguyên tắc toàn diện là một nguyên tắc phương pháp luận khoa học trong nhận thức thế
giới, có nguồn gốc từ triết học duy vật biện chứng, được V.I.Lenin phát triển và hoàn chỉnh.
Khi nghiên cứu và xem xét sự vật phải quan tâm đến tất cả các yếu tố, các mặt, bao gồm
cả măt gián tiếp, trung gian có liên quan đến sự vật. Xuất phát từ mối liên hệ phổ biến của
các sự vật, hiện tượng và các hình thái tri thức. 2.2. Nội dung
Mối liên hệ dùng để chỉ sự quyết định sự tác động, chuyển hóa lẫn nhau giữa các sự vật
hiện tượng hay giữa các mặt, các yếu tố của mỗi sinh vật, hiện tượng trong thế giới. lOMoAR cPSD| 59960339
Mối liên hệ phổ biến dùng để chỉ tính phổ biến của các sự vật, hiện tượng là khách quan,
là cái vốn có của sự vật hiện tượng, con người chỉ nhận thức và vận dụng các mối liên hệ
đó trong hoạt động thực tiễn của mình.
Trong hoạt động nhận thức và thực tiễn phải tôn trọng nguyên tắc toàn diện
Phát hiện nhiều mối liên hệ, quan hệ (hay những đặc điểm, tính chất, yếu tố, mặt,…) đang
chi phối sự tồn tại của bản thân sự vật. Sẽ xem xét được sự vật từ nhiều góc độ, từ nhiều
phương diện. Xác định được những mối liên hệ, quan hệ (hay những đặc điểm, tính chất,
yếu tố, mặt,…) nào là bên trong, cơ bản, tất nhiên, ổn định…; còn những mối liên hệ, quan
hệ (hay những đặc điểm, tính chất, yếu tố, mặt,…) nào là bên ngoài, không cơ bản, ngẫu
nhiên, không ổn định…; Từ những mối liên hệ, quan hệ (hay những đặc điểm, tính chất,
yếu tố, mặt…) bên trong, cơ bản, tất nhiên, ổn định…sẽ lý giải được những mối liên hệ,
quan hệ (hay những đặc điểm, tính chất, yếu tố, mặt…) còn lại. Qua đó, xây dựng một hình
ảnh về sự vật như sự thống nhất các mối quan hệ, liên hệ (hay những đặc điểm, tính chất,
yếu tố, mặt…), phát hiện ra quy luật (bản chất) của nó. Đánh giá đúng vai trò của từng mối
liên hệ, quan hệ (hay những đặc điểm, tính chất, yếu tố, mặt, …) chi phối sự vật. Thông
qua hoạt động thực tiễn, sử dụng đồng bộ nhiều công cụ, phương tiện, biện pháp thích hợp
(mà trước hết là những công cụ, phương tiện, biện pháp vật chất) để biến đổi những mối
liên hệ, quan hệ (hay những đặc điểm, tính chất, yếu tố, mặt…) của bản thân sự vật, đặc
biệt là những mối liên hệ, quan hệ bên trong, cơ bản, tất nhiên, quan trọng… của nó. Nắm
vững sự chuyển hóa các mối liên hệ, quan hệ (hay những đặc điểm, tính chất, yếu tố, mặt…)
của bản thân sự vật, kịp thời sự dụng các công cụ, phương tiện, biện pháp bổ sung để phát
huy hay hạn chế sự tác động của chúng, nhằm lèo lái sự vật vận động, phát triển theo đúng
quy luật và hợp lợi ích chúng ta. Quán triệt và vận dụng sáng tạo nguyên tắc toàn diện sẽ
giúp chủ thể khắc phục được chủ nghĩa phiến diện, chủ nghĩa chiết trung, chủ nghĩa ngụy
biện… trong hoạt động thực tiễn và nhận thức của chính mình.
Nếu không tôn trong nguyên tắc toàn diện
Mắc phải ba sai lầm là chủ nghĩa phiến diện, chủ nghĩa chiết trung, chủ nghĩa ngụy biện: lOMoAR cPSD| 59960339
• Chủ nghĩa phiến diện là cách xem xét chỉ thấy một mặt, một mối quan hệ, tính chất
nào đó mà không thấy được nhiều mặt, nhiều mối quan hệ, nhiều tính chất của sự
vật; chỉ xem xét sự vật ở một góc độ hay từ một phương diện nào đó.
• Chủ nghĩa chiết trung là cách xem xét chỉ chú ý đến nhiều mặt, nhiều mối liên hệ
của sự vật nhưng không rút ra được mặt bản chất, không thấy được mối liên hệ cơ
bản của sự vật; mà coi chúng như nhau, kết hợp chúng một cách vô nguyên tắc, tùy tiện.
• Chủ nghĩa ngụy biện là cách xem xét qua đó đánh tráo cái cơ bản với cái không cơ
bản, cái chủ yếu với cái thứ yếu,… hay ngược lại nhằm đạt được mục đích hay lợi
ích của mình một cách tinh vi.
Ngoài ra nếu không tôn trọng nguyên tắc toàn diện ta sẽ dễ sa vào chủ nghĩa bình quân,
quan điểm dàn đều, tức không thấy được trọng tâm, trọng điểm, điều cốt lõi trong cuộc
sống vô cũng phức tạp.
3. Nguyên tắc phát triển 3.1. Xuất phát 3.2. Nội dung
Cơ sở lý luận của nguyên tắc phát triển là nội dung nguyên lý về sự phát triển. Vận động
là thuộc tính cố hữu, là phương thức tồn tại của vật chất; vận động được hiểu như sự thay
đổi nói chung. “Vận động hiểu theo nghĩa chung nhất, tức được hiểu là một phương thức
tồn tại của vật chất, là một thuộc tính cố hữu của vật chất, thì bao gồm tất cả mọi sự thay
đổi và mọi quá trình diễn ra trong vũ trụ, kể từ sự thay đổi vị trí đơn giản cho đến tư duy”.
Phát triển là khuynh hướng vận động tiến lên từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ
kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn, do mâu thuẫn trong bản thân sự vật gây ra. Phát triển
là một khuynh hướng vận động tổng hợp của hệ thống sự vật, trong đó, sự vận động có
thay đổi những quy định về chất (thay đổi kết cấu – tổ chức) của hệ thống sự vật theo
khuynh hướng tiến bộ giữ vai trò chủ đạo; còn sự vận động có thay đổi những quy định về
chất của sự vật theo xu hướng thoái bộ và sự vận động chỉ có thay đổi những quy định về lOMoAR cPSD| 59960339
lượng của sự vật theo xu hướng ổn định giữ vai trò phụ đạo, cần thiết cho xu hướng chủ
đạo trên. “Hai quan điểm cơ bản về sự phát triển (sự tiến hóa): sự phát triển coi như là giảm
đi và tăng lên, như lập lại; và sự phát triển coi như sự thống nhất của các mặt đối lập. Quan
điểm thứ nhất thì chết cứng, nghèo nàn, khô khan. Quan điểm thứ hai là sinh động. Chỉ có
quan điểm thứ 2 mới cho ta chìa khóa của “sự vận động”, của tất thảy mọi cái “đang tồn
tại”; chỉ có nó mới cho ta chìa khóa của những “bước nhảy vọt”, của “sự gián đoạn của
tính tiệm tiến”, của “sự chuyển hóa thành mặt đối lập”, của sự tiêu diệt cái cũ và sự nảy sinh ra cái mới”.
Phát triển như sự chuyển hóa: giữa các mặt đối lập; giữa chất và lượng; giữa cái cũ và cái
mới; giữa cái riêng và cái chung; giữa nguyên nhân và kết quả; giữa nội dung và hình thức;
giữa bản chất và hiện tượng; giữa tất nhiên và ngẫu nhiên; giữa khả năng và hiện thực. Phát
triển là quá trình tự thân của thế giới vật chất, mang tính khách quan, phổ biến và đa dạng:
phát triển trong giới tự nhiên vô sinh; phát triển trong giới tự nhiên hữu sinh; phát triển
trong xã hội; phát triển trong tư duy, tinh thần. 3.3.
Nội dung nguyên tắc phát triển trong nhận thức và thực tiễn
Nguyên tắc phát triển (quan điểm phát triển) yêu cầu, khi xem xét sự vật, hiện tượng, phải
đặt nó trong trạng thái vận động, biến đổi, chuyển hoá để không chỉ nhận thức sự vật, hiện
tượng trong trạng thái hiện tại, mà còn phải thấy được khuynh hướng phát triển của nó
trong tương lai. Cần chỉ ra nguồn gốc của sự phát triển là mâu thuẫn, còn động lực của sự
phát triển là đấu tranh giữa các mặt đối lập trong sự vật, hiện tượng đó. Nguyên tắc phát
triển yêu cầu, phải nhận thức sự phát triển là quá trình trải qua nhiều giai đoạn, từ thấp đến
cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn. Mỗi giai đoạn phát
triển lại có những đặc điểm, tính chất, hình thức khác nhau; bởi vậy, phải phân tích cụ thể
để tìm ra những hình thức hoạt động, phương pháp tác động phù hợp để hoặc, thúc đẩy,
hoặc kìm hãm sự phát triển đó. Nguyên tắc phát triển đòi hỏi trong hoạt động nhận thức và
hoạt động thực tiễn phải nhạy cảm với cái mới, sớm phát hiện ra cái mới, ủng hộ cái mới
hợp quy luật, tạo điều kiện cho cái mới phát triển; phải chống lại quan điểm bảo thủ, trì trệ,
định kiến v.v. Sự thay thế cái cũ bằng cái mới diễn ra rất phức tạp, nhiều khi cái mới hợp
quy luật chịu thất bại tạm thời, tạo nên con đường phát triển không thẳng mà quanh co,
phức tạp; tránh lạc quan và bi quan thái quá trong quá trình phát triển của sự vật, hiện lOMoAR cPSD| 59960339
tượng. Trong quá trình thay thế cái cũ bằng cái mới phải biết kế thừa những yếu tố tích cực
đã đạt được từ cái cũ mà phát triển sáng tạo chúng trong điều kiện mới.
4. Nguyên tắc lịch sử - cụ thể 4.1. Xuất phát 4.2. Nội dung
Cơ sở lý luận của nguyên tắc lịch sử - cụ thể là nguyên lý về mối liên hệ phổ biến, nguyên
lý về sự phát triển và quan điểm tính cụ thể của chân lý của phép biện chứng và nhận thức
luận duy vật. Mỗi sự vật, hiện tượng trong thế giới khách quan đều có quá trình ra đời, phát
sinh và phát triển, hay nói cách khác đều có lịch sử của mình. Đồng thời, mỗi sự vật, hiện
tượng bao giờ cũng tồn tại trong những điều kiện, hoàn cảnh cụ thể nhất định. Như vậy,
mỗi sự vật, hiện tượng của thế giới khách quan đều có quá trình lịch sử - cụ thể nhất định
của nó, đều tồn tại trong mối liên hệ phổ biến với những cái khác. Liên hệ - theo quan điểm
biện chứng – là khái niệm dùng để chỉ sự phụ thuộc, ràng buộc, quy định lẫn nhau và đồng
thời là sự tác động qua lại lẫn nhau giữa các mặt, các yếu tố, thuộc tính, … trong một sự
vật, hiện tượng hoặc giữa các sự vật, hiện tượng trong thế giới khách quan. Nói đến liên hệ
ở đây không những là nói đến liên hệ giữa các sự vật, hiện tượng, quá trình, mà còn nói
đến liên hệ giữa các yếu tố cấu thành sự vật, hiện tượng, quá trình. Cái được gọi là liên hệ
theo nghĩa triết học phải bao hàm cả hai đặc trưng. Đó là vừa có sự phụ thuộc, ràng buộc,
quy định lẫn nhau, vừa có sự tác động qua lại lẫn nhau.
Nội dung của nguyên lý về mối liên hệ phổ biến bao gồm: Một là mối liên hệ giữa các sự
vật, hiện tượng là mang tính khách quan, phổ biến. Hai là bản chất của sự vật hình thành,
biến đổi và bộc lộ thông qua mối liên hệ phổ biến. Ba là mối liên hệ giữa các sự vật, hiện
tượng mang tính phong phú, đa dạng và phức tạp. Phát triển – theo quan điểm duy vật biện
chứng – là một khái niệm dùng để chỉ quá trình vận động theo xu hướng tiến lên từ thấp
đến cao, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn. Như vậy, phát triển là một trường hợp đặc
biệt của vận động, vận động có hướng và theo hướng tiến lên. Trong quá trình vận động
theo khuynh hướng đó, không chỉ có sự tăng lên hay giảm đi về lượng mà còn có sự thay lOMoAR cPSD| 59960339
đổi về chất, làm nảy sinh những quy định mới về chất, làm xuất hiện những chất mới, những sự vật mới.
Nội dung của nguyên lý về sự phát triển bao gồm: Một là phát triển là khuynh hướng phổ
biến. Hai là phát triển là một quá trình “tự thân”, “tự thân” phát triển. Sự liên hệ và tác
động qua lại lẫn nhau làm cho sự vật vận động và phát triển. Do đó, nguyên lý về mối liên
hệ phổ biến và nguyên lý về sự phát triển có mối liên hệ hữu cơ với nhau và đều là cơ sở,
nền tảng của phép biện chứng duy vật, trong đó có nguyên tắc lịch sử - cụ thể. II. Vận dụng 1. Trong cuộc sống 1.1.
Nguyên tắc khách quan
- Khi tổ chức các hoạt động chi Hội, để phân công nhiệm vụ của các bạn, em sẽ đánh giá
năng lực thực tế, sự phù hợp của các bạn với mỗi đầu việc, không vì là bạn bè thân thiết
mà sắp xếp công việc cho các bạn. Đơn cử, bạn A chuyên về design thì sẽ được sắp xếp
phụ trách thiết kế poster và các ấn phẩm liên quan, bạn B có thế mạnh tính toán và chi tiêu
hợp lí sẽ có nhiệm vụ của một thu chi và các công việc liên quan.
- Khi chọn việc làm thêm, em sẽ đánh giá bản thân em phù hợp những nhóm việc như thế
nào, thế mạnh là gì, không thể vì em thích hay mong muốn điều gì chủ quan mà chọn việc
làm không phù hợp. Chẳng hạn, em có năng lực về mảng tiếng anh và khoa học tự nhiên,
em sẽ chọn làm thêm gia sư hoặc trợ giảng của những môn đó, em không thể chọn làm gia
sư tiếng Việt hay ngữ văn được vì bản thân em không giỏi về chúng.
- Đặt ra những mục tiêu phù hợp với hoàn cảnh của bản thân: trong một tháng đặt ra nguyên
tắc đọc được 5 cuốn sách thì bản thân em có thể thực hiện được, nhưng nếu là 50 cuốn sách
thì đây không phải là một mục tiêu thật sự phù hợp bản thân mình. 1.2.
Nguyên tắc toàn diện
- Khi em dánh giá một người bạn nào đó, cần phải đánh giá người đó trên nhiều phương diện
và các mối liên hệ của bạn, không thể trên một phương diện để nhận định về người đó
được. Bạn ấy bình thường rất vui vẻ hòa đồng nhưng có hôm lại cáu gắt, khó chịu. Không lOMoAR cPSD| 59960339
thể vì một ngày bạn ấy khó chịu liền mà đưa ra nhận định bạn ấy cọc cằn, không hòa đồng
được. Vì có thể ngày hôm ấy bạn đã gặp một vấn đề nào đấy.
- Khi xem xong một bộ phim em thường sẽ đánh giá toàn diện. Sau khi xem
“OPPENHEIMER”, em có các điểm cộng về mặt hình ảnh, âm thanh, diễn xuất và một câu
chuyện có chiều sâu nhưng phim cũng có các mặt hạn chế vì đây là một bộ phim hàn lâm,
khối lượng kiến thức về vật lý lượng tử hay chính trị chưa được giải thích kĩ càng với đại
chúng và về cuối phim có phần dồn dập, nên những khán giả khi coi lần đầu như em sẽ cảm thấy khá ngợp.
- Khi được những đứa trẻ trong xóm hỏi tại sao thời tiết gần đây nóng nực hơn, em sẽ giải
thích dựa vào nhiều nguyên nhân, mối liên hệ giữa địa hình và thời tiết ở Việt Nam hay có
các ảnh hưởng nào dẫn tới sự tăng nhiệt độ hay không. 1.3.
Nguyên tắc phát triển
- Khi bị bệnh, em sẽ đi khám bệnh, vì em biết rằng bệnh sẽ phát triển nặng hơn nếu không
được thăm khám kịp thời.
- Chăm chỉ tập thể dục thể thao, có chế độ ăn uống trong tuổi dậy thì phù hợp để tăng chiều
cao vì cơ thể sẽ phát triển theo thời gian .
- Khi ra ngoài xã hội làm việc, em được tiếp xúc và va chạm nhiều hơn, bản thân cũng ngày
càng nâng cao năng lực, các kĩ năng mềm và kĩ năng đời sống, giao tiếp của bản thân. 1.4.
Nguyên tắc lịch sử - cụ thể
- Khi tổ chức các hoạt động ở chi Hội, em phải tìm hiểu hoạt động này có từng được tổ chức
hay chưa, có phù hợp và thực hiện được không để lên kế hoạch tổ chức thích hợp.
- Khi đi dạy thêm cho những bé khác nhau, các bé sẽ có các tính cách, suy nghĩ, hoàn cảnh
khác biệt nhau, nên em cần phải có những cách dạy và phương thức truyền tải khác nhau
về những nội dung khác nhau. Không thể mang cách dạy bé lớp 1 cho bé lớp 5 được.
- Dựa vào hoàn cảnh điều kiện của bản thân, em chọn làm khối lượng công việc khác nhau
từng giai đoạn khác nhau. 2. Trong học tập lOMoAR cPSD| 59960339 2.1.
Nguyên tắc khách quan
- Em đánh giá dược năng lực, điểm mạnh của bản thân để chọn được ngành học phù hợp là
Hóa học vì bản thân em tiếp thu nhanh các môn tự nhiên và có các tác phong của một nhà thực nghiệm.
- Khi học lớp 12 em đặt ra mục tiêu cho bản thân là được danh hiệu học sinh giỏi và đã đạt
được vì em đánh giá được điểm mạnh, yếu trong từng môn học và đưa ra các phương pháp phù hợp.
- Khi trường học tổ chức các hội thao em sẽ không đăng kí tham gia nhưng đối với các cuộc
thi học thuật em sẽ tham gia hầu hết, vì thực tế khách quan rằng sức khỏe em không đủ tốt
nhưng đối với các phương diện học thuật thì lại là thế mạnh của bản thân mình. 2.2.
Nguyên tắc toàn diện
- Khi học một môn học nào đó và đạt kết quả không tốt, không thể đổ lỗi cho môn học hay
giảng viên phụ trách, cần phải được đánh giá toàn diện. Như là lúc đi học có thật sự tập
trung học hành hay không, quan tâm và chú trọng môn học, bản thân có phù hợp và tiếp
thu được hay không, mối liên hệ giữa môn học và ngành học, … phải tiến hành đánh giá
kĩ càng để đưa ra kết luận.
- Khi chọn mua một cuốn giáo trình, phải xem xét cuốn giáo trình ấy có phù hợp ngành học,
năm xuất bản, giáo viên có yêu cầu hay không, có được học trong học kì ấy không, giáo
trình tiếng anh hay tiếng việt, … 2.3.
Nguyên tắc phát triển
- Khi không đạt điểm cao trong kì thi, không được nản và bỏ cuộc vì đối với việc học và tiếp
thu tri thức của bản thân luôn luôn phát triển hơn từng ngày, sau này sẽ đạt được điểm cao hơn.
- Học tập tri thức và không ngừng đổi mới bản thân vì thế giới luôn phát triển hơn từng ngày.
- Xây dựng, gắn kết mối quan hệ bạn bè cùng nhau học tập, đi lên. Những mối quan hệ cùng
chung mục tiêu và gắn kết chặt chẽ sẽ phát triển từng ngày. 2.4.
Nguyên tắc lịch sử cụ thể lOMoAR cPSD| 59960339
- Phương pháp học ở Đại học khác với cấp phổ thông vì giáo viên khác nhau, môi
trường khác nhau, phương pháp dạy khác nhau ,…
- Khi làm việc nhóm cùng những bạn khác nhau, sẽ có những cách hợp tác khác nhau
vì mỗi bạn là những cá thể độc lập, riêng biệt, nên em cần điều chỉnh bản thân sao
cho công việc làm chung với nhau diễn ra tốt đẹp.
- Khi được yêu cầu trình bày, giải đáp một vấn đề nào đó, mỗi giảng viên sẽ có những
quy định, cách tính điểm khác nhau, đối tượng nghe cũng sẽ khác nhau, em cần phải
thực hiện, truyền tải sao cho đúng và phù hợp đến giảng viên và người nghe bên dưới.