Bài thuyết trình nhóm 7 | Trường Đại học Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội
Trước hết, cần phải hiểu “thống nhất” là đưa non sông thu về một mối, có cùng chung một thể chế chính trị, một đảng lãnh đạo và một chính phủ duy nhất đại diện cho nhân dân Việt Nam. Sau đại thắng mùa xuân năm 1975, đất nước ta bước vào một kỷ nguyênmới:Tổquốchoàntoànđộclập, thốngnhất,quáđộđilênchủnghĩaxãhội.Đểthựchiệnbướcquáđộnày,rấtnhiềunhiệmvụđượcĐảng đặt ra những nhiệm vụ đầu tiên, bức thiết nhất là lãnh đạo thống nhất nước nhà về mặt nhà nước. Cụ thể là thống nhất hai chính quyền khácnhau ở haimiềnlà Chínhphủ ViệtNam Dânchủ Cộnghòaở miền Bắcvà Chínhphủ cách mạnglâm thời Cộnghòa miềnNam Việt Nam ở Việt Nam. Tài liệu giúp bạn tham khảo và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!
Môn: Luật Dân Sự (LDS2)
Trường: Trường Đại học Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
Contents
Chủ đề 1: Quá trình thống nhất đất nước về mặt Nhà nước của Việt Nam sau tháng 4-1975.................................................................... 1
(Hoàn cảnh? Lý do Đảng chủ trương thống nhất nước nhà về mặt Nhà nước? Chỉ đạo của Đảng để thống nhất nước nhà về mặt Nhà
nước? Kết quả, ý nghĩa?) ............................................................................................................................................................................... 1
I. Hoàn cảnh Đảng chủ trương thống nhất về mặt nhà nước ................................................................................................................. 1
II. Chỉ đạo của Đảng để thống nhất nước nhà về mặt Nhà nước ............................................................................................................ 1
III. Kết quả, ý nghĩa của việc hoàn thành thống nhất đất nước về mặt nhà nước ................................................................................. 2
Chủ đề 2: Con đường đi lên CNXH ở Việt Nam được xác định ở thời kỳ trước Đổi mới (được xác định tại Đại hội IV, V) – Làm rõ các
bước đổi mới bộ phận/cục bộ/ từng phần ở Việt Nam (1979-1986)? Tác động của chúng? ( TBK) ............................................................ 3
I. Bối cảnh chung ...................................................................................................................................................................................... 3
II. Hội nghị đã có những đổi mới tư duy quan trọng, thể hiện trên những nội dung cơ bản sau .......................................................... 3
II. Những tác động chính .......................................................................................................................................................................... 4
Chủ đề 3: Khái quát về cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới phía Tây Nam Tổ quốc. Tìm hiểu về cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới phía
Bắc Tổ quốc năm 1979 ................................................................................................................................................................................... 6
I. Kiến thức chung .................................................................................................................................................................................... 6
II. Khái quát .............................................................................................................................................................................................. 6
III. Kết quả .............................................................................................................................................................................................. 11
IV. Tìm hiểu về cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới phía Bắc Tổ quốc năm 1979 ................................................................................... 11
V. Bài học kinh nghiệm........................................................................................................................................................................... 16
Chủ đề 4: Đại hội VI (12-1986) (Tại sao Việt Nam phải tiến hành đổi mới? Nội dung cơ bản của Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI
của Đảng) ..................................................................................................................................................................................................... 17
Lập bảng so sánh giữa 2 thời kỳ: trước đổi mới và Đổi mới trên các nội dung cơ bản sau: về cơ chế quản lý kinh tế; về cải tạo XHCN;
về giá cả; về sản xuất hàng hoá; quan niệm về nền kinh tế thị trường; về công nghiệp hoá (sau này là công nghiệp hoá - hiện đại hoá,
hội nhập quốc tế........................................................................................................................................................................................... 17
I. Việt Nam tiến hành công cuộc đổi mới .............................................................................................................................................. 17
1. Nội dung của Đại hội ........................................................................................................................................................................... 17
1. Bảng so sánh ....................................................................................................................................................................................... 18
Chủ đề 5: Khái quát công cuộc Đổi mới toàn diện ở Việt Nam từ Đại hội VI (12-1986) đến Đại hội XIII (1-2021) về chủ trương (qua
Cương lĩnh 1991; Cương lĩnh bổ sung 2011) .............................................................................................................................................. 20
Đánh giá thành tựu trên các mặt: kinh tế - chính trị; văn hoá – xã hội; giáo dục – đào tạo; quốc phòng – an ninh; quan hệ đối ngoại –
hội nhập quốc tế........................................................................................................................................................................................... 20
I. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI ................................................................................................................................................. 20
II. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII ............................................................................................................................................... 20
III. Thực hiện Nghị quyết Đại hội VII ...................................................................................................................................................... 21
IV. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII (1996) ................................................................................................................................. 21
IV. Đại hội đại biểu lần thứ IX (2001) ..................................................................................................................................................... 21
V. Đại hội đại biểu lần thứ X (2006) ....................................................................................................................................................... 22
VI. Đại hội đại biểu lần thứ XI ................................................................................................................................................................ 22
VII. Đại hội đại biểu lần thứ XII .............................................................................................................................................................. 23
VIII. Đại hội đại biểu lần thứ XIII ............................................................................................................................................................ 23
IX. Tổng kết và nhận xét chung .............................................................................................................................................................. 24
X. Hạn chế............................................................................................................................................................................................... 25
Chủ đề 1: Quá trình thống nhất đất nước về mặt Nhà nước của Việt Nam sau tháng 4-1975.
(Hoàn cảnh? Lý do Đảng chủ trương thống nhất nước nhà về mặt Nhà nước? Chỉ đạo của Đảng để
thống nhất nước nhà về mặt Nhà nước? Kết quả, ý nghĩa?)
Bài làm
I. Hoàn cảnh Đảng chủ trương thống nhất về mặt nhà nước
Sau năm 1975, đất nước đã hoà bình, độc lập, thống nhất, cả nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đất nước có nhiều thuận lợi với
sức mạnh tổng hợp, đồng thời cũng phải khắc phục những hậu quả nặng nề của chiến tranh. Điểm xuất phát của Việt Nam về kinh tế - xã
hội còn ở trình độ thấp. Điều kiện quốc tế có thuận lợi, đồng thời có xuất hiện những khó khăn, thách thức mới. Các nước xã hội chủ
nghĩa bộc lộ những khó khăn về kinh tế - xã hội và sự phát triển; các thế lực thù địch bao vây cấm vận và phá hoại sự phát triển của Việt Nam.
Trước hết, cần phải hiểu “thống nhất” là đưa non sông thu về một mối, có cùng chung một thể chế chính trị, một đảng lãnh đạo
và một chính phủ duy nhất đại diện cho nhân dân Việt Nam. Sau đại thắng mùa xuân năm 1975, đất nước ta bước vào một kỷ nguyên
mới: Tổ quốc hoàn toàn độc lập, thống nhất, quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội. Để thực hiện bước quá độ này, rất nhiều nhiệm vụ được Đảng
đặt ra những nhiệm vụ đầu tiên, bức thiết nhất là lãnh đạo thống nhất nước nhà về mặt nhà nước. Cụ thể là thống nhất hai chính quyền
khác nhau ở hai miền là Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ở miền Bắc và Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam ở Việt Nam.
Đảng Cộng sản Việt Nam đã chủ trương thống nhất nước nhà về mặt nhà nước bởi:
Một là, sau năm 1975, miền Nam được giải phóng sau hơn 20 năm kháng chiến chống Mỹ, nước Việt Nam được hoàn toàn độc
lập, thống nhất về mặt lãnh thổ song hai miền lại tồn tại hai chế độ khác nhau. Điều này là trái với nguyện vọng của nhân dân. Xuyên suốt
lịch sử từ các triều đại phong kiến cho tới hiện đại, đất nước ta nhiều lần bị chia cắt. Điển hình, vào thế kỷ X (945-967), đất nước ở trong
tình trạng phân chia bởi cuộc chiến tương tàn giữa các phe phái phong kiến. Đinh Tiên Hoàng nổi lên dẹp loạn mười hai sứ quân, đem lại
thống nhất cho dân tộc vào năm 967 hay thời kỳ Trịnh - Nguyễn phân tranh, Việt Nam lại một lần nữa bị chia cắt. Sau này, hiệp định Giơ-
ne-vơ chia tách Việt Nam thành hai miền Nam - Bắc tại vĩ tuyến 17, Mỹ dựng lên chính quyền Ngụy nhằm ngăn cản nước ta thống
nhất.Tuy nhiên, khát vọng được thống nhất, được độc lập, hai miền Nam - Bắc về chung một nhà là ước nguyện lớn lao của nhân dân, vừa
là bước tiến khách quan trong lịch sử giống như câu nói của chủ tịch Hồ Chí Minh: “Nước Việt Nam là một,dân tộc Việt Nam là một;
sông có thể cạn, núi có thể mòn, song chân lý ấy không bao giờ thay đổi”
Hai là, quyết định của Đảng là phải nhanh chóng thống nhất sau giải phóng (1976) đã phá tan âm mưu tiếp tục chi phối Việt
Nam của Mỹ. Sau hiệp định Paris (1973), Mỹ đã hi vọng tạo dựng một chính phủ liên hiệp 3 thành phần ở miền Nam Việt Nam: Chính
phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền nam Việt Nam, Chính phủ Nguyễn Văn Thiệu và các lực lượng trung lập. Nhưng sau thất bại tại
Buôn Ma Thuột, Mỹ nhận ra kế hoạch 3 thành phần sẽ không thực hiện được nữa. Tuy nhiên, quân Mỹ vẫn tiếp tục đưa ra giải pháp “2
thành phần” bao gồm Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam và một thành phần trung lập do Mỹ chi phối. Ngoài
ra, chính phủ Pháp cũng muốn nhân cơ hội này, tiếp tục kiểm soát về quân sự tại Việt Nam.
Chính vì thế, một đòi hỏi cấp thiết ở thời điểm đó là đất nước ta phải nhanh chóng thống nhất về mặt nhà nước, tiến đến khẳng
định vị thế là một quốc gia độc lập, có một đảng cầm quyền duy nhất, một chính phủ duy nhất, đập tan âm mưu tiếp tục thâu tóm quyền lực của đế quốc.
Có thể nói, một quốc gia chỉ có thể phát triển toàn diện khi quốc gia đó thực sự thống nhất hoàn toàn về mặt nhà nước, đồng
thời mở rộng quan hệ quốc tế, phá tan âm mưu chia rẽ của các thế lực thù địch.
II. Chỉ đạo của Đảng để thống nhất nước nhà về mặt Nhà nước
Quá trình chỉ đạo của Đảng để thống nhất về mặt Nhà nước được thể hiện qua nhiều bước:
Một là, nắm bắt được yêu cầu khách quan của lịch sử, Hội nghị Trung ương Đảng(8/1975) đề ra chủ trương hoàn thành thống
nhất đất nước về mặt Nhà nước.
Hai là, thực hiện chủ trương trên đây của Đảng, một hội nghị đại biểu của nhân dân hai miền Nam – Bắc đã được triệu tập tại
thành phố Sài Gòn (12/1975) để bàn về việc hiệp thương tổng tuyển cử thống nhất đất nước. Hội nghị đã tán thành chủ trương hoàn thành
thống nhất đất nước về mặt Nhà nước của Trung ương Đảng.
Ba là, thực hiện Nghị quyết của hội nghị đại biểu của nhân dân hai miền Nam – Bắc, chúng ta đã tổ chức một cuộc Tổng tuyển
cử tự do trong cả nước vào ngày 26/4/1976 để bầu Quốc hội chung trong cả nước.
Bốn là, tiếp đó vào khoảng cuối tháng 6 đầu tháng 7/1976 Quốc hội khoá VI đã họp kỳ họp thứ nhất tại Hà Nội. Quốc hội quyết
định những vấn đề trọng đại của đất nước như:
Năm là, đổi tên nước thành nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam (kể từ ngày 2/7/1976).
Sáu là, vẫn lấy Hà Nội làm thủ đô chung của cả nước, lá cờ đỏ sao vàng 5 cánh làm Quốc kỳ, bài Tiến quân ca làm Quốc ca và
đổi tên thành phố Sài Gòn – Gia Định thành thành phố Hồ Chí Minh.
Bảy là, bầu ra cơ quan lãnh đạo cao nhất của Nhà nước, bầu những người lãnh đạo cao nhất của Nhà nước.
Tám là, cử ra một ban dự thảo hiến pháp mới và công bố vào năm 1980. Đến đây việc thống nhất đất nước về mặt nhà nước đã hoàn thành.
III. Kết quả, ý nghĩa của việc hoàn thành thống nhất đất nước về mặt nhà nước. 1.
Về kết quả.
Đây là thắng lợi to lớn của ta vì từ nay đã thể chế hoá được sự thống nhất đất nước về mặt lãnh thổ trước đó. Hoàn thành thống
nhất đất nước về mặt nhà nước là yêu cầu tất yếu khách quan của sự phát triển cách mạng Việt Nam.
Với thắng lợi đạt được đã thể hiện tinh thần yêu nước, đoàn kết toàn dân tộc, ý chí thống nhất Tổ quốc, quyết tâm xây dựng
một nước Việt Nam độc lập và thống nhất của toàn thể nhân dân ta. 2.
Về ý nghĩa.
Tạo điều kiện cho việc tiếp tục hoàn thành thống nhất các lĩnh vực chính trị, tư tưởng, kinh tế, văn hóa, xã hội gắn với việc thực
hiện các nhiệm vụ của cách mạng xã hội chủ nghĩa trên phạm vi cả nước.
Tạo nên những điều kiện chính trị cơ bản để phát huy sức mạnh toàn diện đất nước, tạo điều kiện thuận lợi để cả nước đi lên
xây dựng chủ nghĩa xã hội, tạo ra khả năng to lớn để bảo vệ Tổ quốc và mở rộng quan hệ đối ngoại, ngoại thương, giao lưu quốc tế, đồng
thời nâng cao hơn nữa uy thế của nước ta trên trường quốc tế, góp thêm phần tích cực vào việc làm củng cố tự do, bảo mật an ninh ở khu
vực Khu vực Đông Nam Á nói riêng và trên quốc tế nói Thể chế hoá sự thống nhất đất nước về mặt lãnh thổ: Kết quả này đánh dấu một
bước ngoặt quan trọng trong quá trình xây dựng và bảo vệ đất nước. Việc thể chế hoá sự thống nhất đất nước giúp đảm bảo sự toàn vẹn
lãnh thổ và quyền chủ quyền của Việt Nam trên đất liền và biển cả. Điều này tạo điều kiện cho sự phát triển và bảo vệ quốc gia trong bối
cảnh biến đổi toàn cầu.
Tinh thần yêu nước và đoàn kết toàn dân tộc: Kết quả này thể hiện tinh thần yêu nước và đoàn kết toàn dân tộc. Việc thống nhất
đất nước là một mục tiêu lớn lao, và để đạt được kết quả này, sự đoàn kết và đồng lòng của toàn bộ nhân dân Việt Nam là vô cùng quan
trọng. Thắng lợi trong việc thống nhất đất nước đã thể hiện ý chí thống nhất Tổ quốc và quyết tâm xây dựng một Việt Nam độc lập và thống nhất.
Tạo điều kiện cho việc hoàn thành thống nhất các lĩnh vực chính trị, tư tưởng, kinh tế, văn hóa, xã hội: Kết quả của việc thống
nhất nhà nước tạo ra một cơ sở vững chắc để tiếp tục hoàn thành quá trình thống nhất các lĩnh vực chính trị, tư tưởng, kinh tế, văn hóa và
xã hội trên phạm vi toàn quốc. Điều này đảm bảo sự nhất quán và phát triển toàn diện của quốc gia trong việc thực hiện các nhiệm vụ của
cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Tạo điều kiện chính trị cơ bản cho phát triển đất nước: Việc thống nhất nhà nước cung cấp các điều kiện chính trị cơ bản để
phát huy sức mạnh toàn diện của đất nước. Sự thống nhất giúp tạo ra một môi trường ổn định và đồng nhất, từ đó tạo điều kiện thuận lợi
cho quốc gia đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội. Ngoài ra, việc thống nhất còn tạo khả năng lớn để bảo vệ Tổ quốc, mở rộng quan hệ đối
ngoại, ngoại thương và giao lưu quốc tế, nâng cao uy thế của Việt Nam trên trường quốc tế. Điều này góp phần củng cố tự do, bảo mật an
ninh trong khu vực Đông Nam Á và trên quy mô quốc tế chung.
Chủ đề 2: Con đường đi lên CNXH ở Việt Nam được xác định ở thời kỳ trước Đổi mới (được xác định
tại Đại hội IV, V) – Làm rõ các bước đổi mới bộ phận/cục bộ/ từng phần ở Việt Nam (1979-1986)?
Tác động của chúng? ( TBK)
Bài làm
I. Bối cảnh chung.
Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam được xác định ở thời kỳ trước Đổi mới là một con đường độc lập, tự chủ, sáng
tạo, vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh vào điều kiện cụ thể của Việt Nam. Đại hội IV (1976) và Đại hội
V (1982) của Đảng đã đề ra những mục tiêu và chủ trương để xây dựng nền kinh tế xã hội theo hướng chủ nghĩa xã hội, nhưng gặp nhiều
khó khăn và thách thức do tình hình quốc tế và trong nước thay đổi phức tạp, cũng như do những sai lầm và hạn chế trong lãnh đạo và
quản lý của Đảng và Nhà nước.
Để khắc phục những khó khăn và khủng hoảng kinh tế xã hội, Đảng và Nhà nước ta đã tiến hành những bước đổi mới bộ phận,
cục bộ, từng phần ở Việt Nam từ năm 1979 đến 1986, trước khi tiến tới Đổi mới toàn diện và sâu sắc tại Đại hội VI (1986). Mở đầu của
quá trình đổi mới từng phần là Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương khóa IV (8-1979), họp bàn về những vấn đề cấp bách về
kinh tế – xã hội và sản xuất hàng tiêu dùng.
II. Hội nghị đã có những đổi mới tư duy quan trọng, thể hiện trên những nội dung cơ bản sau: 1.
Nội dung
Một là, hội nghị đã nhìn thẳng vào sự thật, vạch rõ những khuyết điểm, sai lầm trong lãnh đạo kinh tế: xây dựng kế hoạch tập
trung quan liêu, cha kết hợp chặt chẽ kế hoạch hóa với sử dụng thị trường, chưa sử dụng đúng đắn các thành phần kinh tế, chưa khắc phục
sự bảo thủ, trì trệ trong việc xây dựng các chính sách kinh tế cụ thể
Hai là, hội nghị chủ trương phải ban hành các chính sách phát triển sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, hàng tiêu
dùng và xuất khẩu. Trước hết là sản xuất nông nghiệp, với các chính sách nhằm ổn định mức nghĩa vụ lương thực trong 5 năm, phần còn
lại bán cho nhà nước với giá thỏa thuận và được tự do lưu thông.
Ba là, hội nghị xác định rõ: Phải tận dụng các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh, tập thể kể cả tư bản tư nhân để tận dụng
mọi khả năng lao động, cơ sở vật chất, kỹ thuật, trình độ quản lý, nhằm phát triển sản xuất.
Bốn là, về cải tạo đối với nông nghiệp ở miền Nam phải nắm vững phương châm tích cực và vững chắc, hiện nay phải nhấn
mạnh tính vững chắc, chống tư tưởng nóng vội, chủ quan, cưỡng ép theo mệnh lệnh, làm ồ ạt gây thiệt hại cho sản xuất và đời sống của nhân dân. 2.
Ý nghĩa.
Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa IV), đánh dấu bước mở đầu của quá trình tìm tòi đổi mới của
Đảng về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Tuy chưa toàn diện, đầy đủ nhưng đó là bước mở đầu có ý nghĩa quan trọng.
Tư tưởng cơ bản của Nghị quyết là "làm cho sản xuất bung ra", khắc phục những khuyết điểm, sai lầm trong lãnh đạo, quản lý
kinh tế, sử dụng các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh và tập thể để phát triển sản xuất, ổn định cải thiện đời sống nhân dân.
Nghị quyết ra đời được nhân dân cả nước hồ hởi đón nhận, bước đầu phát huy tác dụng tích cực. Nhưng sau một thời gian thực
hiện lại xuất hiện những tiêu cực mới: sản xuất bung ra ít hơn so với dịch vụ; sản xuất quốc doanh bung ra ít hơn so với sản xuất tập thể
và cá thể; hàng lậu, hàng giả xuất hiện nhiều giá cả ngày càng tăng cao.
Điều đó chứng tỏ những tìm tòi, đổi mới của Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá IV chưa đủ sức tháo
gỡ khó khăn do thực tiễn đặt ra, đòi hỏi Đảng phải tiếp tục tìm tòi, đổi mới. 3.
Những sự thay đổi về mặt nông nghiệp:
Thực hiện Nghị quyết Trung ương sáu, Hội đồng Chính phủ ra quyết định tận dụng đất đai nông nghiệp hoang hóa để phát triển
sản xuất. Tháng 10 năm 1979, Hội đồng Chính phủ công bố quyết định xóa bỏ các trạm kiểm soát không cần thiết, xoá bỏ ngăn sông, cấm
chợ. Người sản xuất sau khi làm tròn nghĩa vụ với Nhà nước có quyền được đa sản phẩm dư thừa ra trao đổi trên thị trường. Những chính
sách trên được lòng dân, khuyến khích nông dân tận dụng hàng hoá để phát triển sản xuất. Nhà nư ớc và nhân dân ngày càng đầu tư cao
cho sản xuất nông nghiệp. Do đó, năm 1979 sản lượng lương thực tăng 1.718.500 tấn so với năm 1978.
Ngày 13/1/1981, Ban Bí thư ra Chỉ thị 100/CT-TW về khoán sản phẩm đến nhóm và người lao động trong các hợp tác xã nông
nghiệp (thường gọi là khoán 100). Thực hiện chỉ thị này, nông nghiệp có bước phát triển tốt trong thời gian đầu, sau đó dần chững lại,
chứng tỏ Chỉ thị 100 chưa đủ sức tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong sản xuất nông nghiệp. 4.
Sự thay đổi trong lĩnh vực công nghiệp.
Trên cơ sở tổng kết các hiện tượng “xé rào” và làm thí điểm nhằm phát triển công nghiệp ở thành phố Hồ Chí Minh, Long
An.Tháng 1 năm 1981, Chính phủ ra Quyết định 25/QĐ-CP về quyền chủ động sản xuất kinh doanh và quyền tự chủ tài chính của các xí
nghiệp quốc doanh. Quyết định quy định cho các cơ sở thực hiện đúng kế hoạch ba phần (phần nhà nước giao, phần tự làm và phần sản xuất phụ).
Cùng ngày 21/1/1981, Hội đồng Chính phủ ban hành Quyết định 26/QĐ-CP về việc mở rộng hình thức trả l ương khoán, lương
sản phẩm và vận dụng hình thức tiền thưởng trong các đơn vị sản xuất kinh doanh của Nhà nước. Những chủ trương, chính sách đúng đắn
trên, góp phần làm cho sản xuất công nghiệp năm 1981 đạt kế hoạch đề ra, riêng công nghiệp địa phương tăng 7,5%.
Trên mặt trận phân phối lưu thông, ngày 23 tháng 6 năm 1980, Bộ Chính trị ra Nghị quyết 26/NQ-TW về cải tiến công tác phân
phối, lưu thông. Nghị quyết nhấn mạnh nguyên tắc giá cả phù hợp với chi phí sản xuất và lưu thông; tạo tiền đề cần thiết để tiến tới xóa
bỏ từng bước chế độ cung cấp theo tem phiếu.
Cùng với những chủ trương đổi mới từng phần trong lĩnh vực kinh tế xã hội, Đảng còn quan tâm kiện toàn bộ máy Nhà nước,
củng cố quốc phòng, an ninh, tăng cường công tác xây dựng Đảng, bảo đảm cho Đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức, đủ sức
lãnh đạo, để cách mạng tiến lên.
II. Những tác động chính.
Nhìn tổng quát, thời kỳ 1979 – 1981, Đảng có tìm tòi, đổi mới, nhưng chủ yếu trong lĩnh vực kinh tế. Điều đó phản ánh đúng
thực tiễn nước ta đang lâm vào cuộc khủng hoảng kinh tế – xã hội. Những chủ trương, chính sách đổi mới thời kỳ này là những giải pháp
mang tính thế, nhằm tháo gỡ những khó khăn trước mắt. Qua tổ chức thực tiễn đã đem lại nhiều kết quả, song chưa vững chắc. Điều đó
chứng tỏ những tìm tòi, đổi mới đó chưa mang tính toàn diện, chưa đủ sức giải quyết những vấn đề do thực tiễn đặt ra, đòi hỏi Đảng cần
tiếp tục tìm tòi, đổi mới hơn nữa
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V của Đảng (3-1982), bước phát triển mới tư duy của Đảng về con đường đi lên chủ nghĩa xã
hội ở nước ta. Đại hội đã đánh giá tình hình kinh tế – xã hội sau 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội IV, trên cơ sở đó đề ra một số chủ
trương, chính sách có tính đổi mới quan trọng.
Một là, bên cạnh việc khẳng định những thành tựu đạt được sau những năm triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội IV, Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ V của Đảng cũng đã chỉ ra những khuyết điểm sai lầm như : chưa thấy hết những khó khăn phức tạp của con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội từ một nền kinh tế mà sản xuất nhỏ là phổ biến ; chưa thấy hết tính chất phức tạp của những đảo lộn về
kinh tế sau những năm chiến tranh kéo dài, những khó khăn, phức tạp, những yếu kém trong quản lý kinh tế – xã hội ; chư a lường hết
những diễn biến phức tạp của tình hình thế giới. Do đó, đã chủ quan nóng vội trong việc đề ra một số chỉ tiêu quá lớn cả về quy mô, tốc
độ trong xây dựng cơ bản và phát triển sản xuất. Đại hội còn chỉ ra những tư tưởng bảo thủ, trì trệ duy trì quá lâu cơ chế quản lý hành
chính quan liêu, bao cấp, chậm thay đổi các chính sách và chế độ đã kìm hãm sản xuất. Đại hội cũng chỉ rõ, khuyết điểm, sai lầm về lãnh
đạo và quản lý kinh tế là nguyên nhân chủ yếu gây ra, hoặc làm trầm trọng thêm khó khăn về kinh tế – xã hội trong những năm qua. Vạch
ra khuyết điểm, sai lầm và nguyên nhân của những khuyết điểm sau lầm nói trên cũng thể hiện sự đổi mới trong tư duy của Đảng.
Hai là, Đại hội xác định thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là lâu dài, trải qua nhiều bước quá độ ngắn, đồng thời chỉ
rõ chúng ta đang ở chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ. Chặng đường đầu tiên bao gồm thời kỳ 5 năm 1981 – 1985 và kéo dài đến
năm 1990, có tầm quan trọng đặc biệt. Đại hội đã nêu ra các nhiệm vụ về chính trị, kinh tế, văn hoá xã hội, quốc phòng – an ninh trong
chặng đường đầu tiên.
Ba là, Đại hội xác định hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng nước ta trong giai đoạn mới là : xây dựng thành công chủ nghĩa
xã hội và sẵn sàng chiến đấu bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa ; nêu rõ vị trí, mối quan hệ của hai nhiệm vụ chiến l - ược đó.
Bốn là, Đại hội điều chỉnh nội dung công nghiệp hoá trong chặng đường đầu tiên : tập trung sức phát triển nông nghiệp, coi
nông nghiệp là mặt trận hàng đầu, đưa nông nghiệp một bước lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa ; ra sức đẩy mạnh sản xuất hàng tiêu dùng
và tiếp tục xây dựng một số ngành công nghiệp hàng tiêu dùng và công nghiệp nặng trong một cơ cấu công – nông nghiệp hợp lý.
Sau Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã tiến hành 11 hội nghị, trong đó có 8 hội nghị
chuyên bàn về phát triển kinh tế – xã hội.
Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương khoá V (7-1984), bàn về phân phối, lưu thông. Hội nghị nhận định chính sách
giá, lương, tiền không còn phù hợp với thực tế, hội nghị chủ trương đẩy mạnh thu mua nắm nguồn hàng, quản lý chặt chẽ thị trường tự do
và thực hiện điều chỉnh giá cả, tiền lương, tài chính cho phù hợp với thực tế.
Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương khoá V (12-1984) bàn về kế hoạch Nhà nước năm 1985, nhận định : Sản xuất
lưu thông có chuyển biến khoá hơn trước, nhiều nhân tố mới xuất hiện trong nông nghiệp, công nghiệp và phân phối, lưu thông trong nền
kinh tế nước ta còn nhiều bất cập, đời sống nhân dân còn nhiều khó khăn, tiêu cực xã hội có chiều hướng gia tăng.
Đặc biệt, hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương khoá V (6/1985) đánh dấu bước đột phá thứ hai về đổi mới tư duy
kinh tế, bàn về giá, lương, tiền. Hội nghị cho rằng: Phải dứt khoát xóa bỏ cơ chế tập trung, quan liêu, bao cấp, thực hiện đúng chế độ tập
trung dân chủ, hạch toán kinh tế và kinh doanh xã hội chủ nghĩa.
Hội nghị khẳng định, khâu đột phá có tính chất quyết định để chuyển hẳn nền kinh tế sang hạch toán kinh doanh xã hội chủ
nghĩa là xóa quan liêu, bao cấp qua giá và lương. Nội dung chính giải quyết giá, lương, tiền là : Thực hiện cơ chế một giá (tính chủ chi
phí trong giá thành sản phẩm) ; bảo đảm tiền lương thực tế cho người hưởng lương sống chủ yếu bằng lương, xóa bỏ cung cấp bằng hiện
vật ; các cơ sở sản xuất, xác địa phương chuyển hẳn mọi hoạt động sản xuất, kinh doanh sang chế độ hạch toán kinh doanh xã hội chủ
nghĩa, xoá bỏ mọi khâu bù lỗ bất hợp lý trừ trường hợp cá biệt.
Hội nghị này đánh dấu sự đổi mới tư duy một cách căn bản trên lĩnh vực phân phối, lưu thông của Đảng. Tinh thần cơ bản là
thừa nhận sản xuất hàng hoá, coi trọng thị trường. Sau Hội nghị Trung ương lần thứ tám, ngày 14 tháng 9 năm 1985 Chính phủ tiến hành
tổng điều chỉnh giá, lương, tiền lần thứ hai, bắt đầu từ việc đổi tiền, ban hành một số giá mới và tiền lương mới, xóa bỏ hoàn toàn giá
cung cấp và chế độ tim phiếu, chỉ giữ lại sổ gạo cho người ăn lương. Đổi tiền (1 đồng mới = 10 đồng cũ), thay đổi tỷ giá hối đoái 17 đồng
thành 210 đồng RCN (rúp chuyển nhượng).
Hậu quả lớn nhất của cuộc cải cách giá, lương, tiền lần này đã dẫn đến tình trạng lạm phát phi mã trong 3 năm 1986-1988. Tỷ lệ
lạm phát hàng năm tăng 3 con số, là hiện tượng chưa từng có. Vì thế năm 1986 đã phải lùi một bước, thực hiện trở lại chính sách hai giá
bán lẻ 6 mặt hàng, sau rút xuống 4 mặt hàng theo giá cung cấp mới. Đồng thời, giá mua cũng áp dụng trở lại giá thoả thuận, đối với phần
lớn nông sản phẩm mua bằng tiền, không có hiện vật đối lưu. Tình hình trên, đã làm cho cuộc khủng hoảng kinh tế – xã hội ở n ước ta
ngày càng trầm trọng hơn.
Nguyên nhân của tình hình trên là, giải quyết giá, lương, tiền chưa đồng bộ; làm ồ ạt, toàn diện, mức độ lớn, làm dồn dập trong
một thời gian ngắn gây ra cú sốc lớn cho nền kinh tế, đời sống, kinh tế – xã hội. Không tính đến khả năng tác động, hệ quả xấu đối với
ngân sách Nhà nước. Đặc biệt thực hiện chủ trương trên nhưng vẫn giữ nguyên cơ chế cũ.
Trên cơ sở tổng kết thực tiễn quá trình thực hiện nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V, tham khảo ý kiến đóng góp
của cán bộ, đảng viên và các chuyên gia đối với những vấn đề kinh tế ở nước ta, tháng 8 năm 1986, Bộ Chính trị ban hành bản : Kết luận
của Hội nghị Bộ Chính trị đối với một số vấn đề thuộc về quan điểm kinh tế. Bản kết luận đã chỉ rõ quan điểm, chủ trư ơng, sự chỉ đạo của
Bộ Chính trị trong giải quyết ba vấn đề lớn về cơ cấu kinh tế, về cải tạo xã hội chủ nghĩa, về cơ chế quản lý kinh tế. Những kết luận của
Bộ chính trị về các quan điểm kinh tế nói trên, là sự đổi mới rất cơ bản về tư duy kinh tế của Đảng. Đây là một căn cứ quan trọng để hình
thành nên Báo cáo Chính trị trình Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng sau này.
Trong bố trí cơ cấu kinh tế, cơ cấu đầu tư, phải lấy nông nghiệp làm mặt trận hàng đầu; ra sức phát triển công nghiệp nhẹ; công
nghiệp nặng được phát triển có chọn lọc.
Trong cải tạo xã hội chủ nghĩa, xác định cơ cấu kinh tế nhiều thành phần là một đặc trưng của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Trong cơ chế quản lý kinh tế, lấy kế hoạch làm trung tâm, nhưng đồng thời phải sử dụng đúng quan hệ hàng hoá - tiền tệ, dứt
khoát xóa bỏ cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp; chính sách giá phải vận dụng quy luật giá trị, tiến tới thực hiện cơ chế một giá. Đây là
bước đột phá thứ ba về đổi mới tư duy kinh tế, có ý nghĩa lớn trong đổi mới tư duy lý luận về chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Chủ đề 3: Khái quát về cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới phía Tây Nam Tổ quốc. Tìm hiểu về cuộc
chiến tranh bảo vệ biên giới phía Bắc Tổ quốc năm 1979.
Bài làm
I. Kiến thức chung.
Chiến tranh biên giới Việt Nam – Campuchia tiếng Khmer: សង្ររ មកម ពរជរ -វ ៀ តណាម (phiên âm của UNGEGN: Sangkream
Kâmpŭchéa-Viĕtnam) là cuộc xung đột quân sự giữa Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Campuchia Dân chủ. Phía Những người
theo chủ nghĩa dân tộc Khmer gọi là Việt Nam xâm lược Campuchia (tiếng Khmer: ការ⾈˛ នព រ នរ ប ស រ
វ ៀ តណាមមកកម ពរជរ -Karchhléanpéan rôbâs Viĕtnam
môk Kâmpŭchéa) còn phía Việt Nam gọi đây là Chiến tranh bảo vệ biên giới Tây Nam của Tổ quốc và cùng quân dân
Campuchia chiến thắng chế độ diệt chủng hay còn gọi ngắn gọn là Chiến tranh bảo vệ biên giới Tây Nam,và Chính quyền Vương quốc
Campuchia hiện tại gọi đây là Cuộc chiến giải phóng đất nước khỏi chế độ diệt chủng Khmer Đỏ.
Trong tất cả văn bản của Liên hợp quốc đều không nêu tên đích danh Việt Nam và chỉ sử dụng cụm từ can thiệp vũ trang của
nước ngoài tại Campuchia - foreign armed intervention in Kampuchea mà không hề sử dụng cụm từ "xâm lược" để mô tả hành động của
Việt Nam hay coi đây là hành động vi phạm luật pháp quốc tế. 1.
Hoàn cảnh.
Khi đó, Việt Nam vừa bước ra khỏi cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc, gặp nhiều khó khăn và đang khắc phục hậu quả của
chiến tranh. Đối mặt với sự khiêu khích, xâm phạm lãnh thổ phía Nam từ phía Pol Pot.
Trong khi đó, tại Campuchia, Pol Pot nắm chính quyền, cả đất nước Campuchia chìm trong loạn lạc vào sau ngày 17/04/1975.
Chính quyền Pol Pot liên tục đe dọa, khiêu chiến, xâm phạm lãnh thổ Việt Nam. 2.
Nguyên nhân dẫn đến cuộc chiến.
2.1. Nguyên nhân trực tiếp
Cuộc chiến có nguyên nhân từ việc quân Khmer Đỏ xâm phạm chủ quyền, lãnh thổ Việt Nam, gây ra nhiều tội ác theo lối diệt
chủng đối với nhân dân Việt Nam. Chúng khiêu khích và nhiều lần gây xung đột quân sự trên các vùng biên giới Việt Nam, tiến tới việc
phát động cuộc chiến tranh đẫm máu sang toàn tuyến biên giới Tây Nam của Việt Nam, đặc biệt là vụ thảm sát Ba Chúc khiến hơn 3.000
dân thường Việt Nam thiệt mạng.Cuộc chiến bắt đầu vào ngày 13/12/1978 khi 10 trong 19 sư đoàn (khoảng 50.000 đến 60.000 quân) của
Quân đội Khmer Đỏ được sự trang bị và hậu thuẫn của Trung Quốc tiến công xâm lược Việt Nam trên toàn tuyến biên giới. Việt Nam
chưa kịp khắc phục hậu quả nặng nề của chiến tranh thực dân mới, lại phải chịu thiệt hại rất lớn từ thảm họa diệt chủng và chính sách gây
chiến của tập đoàn Pol Pot – Ieng Sary . Quân và dân Việt Nam thực hiện quyền tự vệ chính đáng của mình, chiến đấu chống xâm lược,
bảo vệ Tổ quốc thiêng liêng.
2.2. Nguyên nhân gián tiếp
Đáp lại yêu cầu của Mặt trận Đoàn kết dân tộc cứu nước Campuchia và nhân dân Campuchia, cứu giúp nhân dân Campuchia
thoát khỏi họa diệt chủng.Song cuộc chiến chỉ thực sự diễn ra sau nhiều nỗ lực ngoại giao không thành của chính phủ Việt Nam và sự
kiềm chế đến mức cao nhất của quân dân địa phương các tỉnh biên giới Tây Nam. Quân đội nhân dân Việt Nam bắt đầu mở chiến dịch tấn
công Khmer Đỏ từ ngày 23/12/1978 đến 07/01/1979. II. Khái quát
Giai đoạn 1: Từ giữa năm 1975 đến cuối năm 1978: Khmer Đỏ tổ chức nhiều cuộc tấn công vào lãnh thổ Việt Nam, phá hủy
nhiều ngôi làng và giết hại hàng ngàn thường dân Việt Nam. Phía Việt Nam chỉ tổ chức phòng ngự và cố đàm phán tìm giải pháp hòa
bình, nhưng Khmer Đỏ bác bỏ.
Sau Chiến tranh Việt Nam, Việt Nam và Campuchia xuất hiện nhiều mâu thuẫn. Tranh chấp và xung đột biên giới xảy ra liên
tục trong các năm 1977 và 1978, nhưng cuộc xung đột thực ra đã bắt đầu ngay sau khi Sài Gòn thất thủ.
Ở An Giang, từ ngày 2/5/1975, quân Khmer Đỏ ngày nào cũng dùng súng cối, pháo bắn vào nội địa ở Tịnh Biên. Ngày
4/5/1975, một toán quân Khmer Đỏ đột kích đảo Phú Quốc. Ngày 7/5/1975 và 19/5/1975, Khmer Đỏ tiến công vào các xã Vĩnh Gia
(Tịnh Biên) và Vĩnh Xương (huyện Phú Châu). Ngày 10/5/1975, Khmer Đỏ dùng tàu đổ bộ LSM và 3 tàu PCF đưa quân đánh chiếm đảo
Thổ Chu, bắt hơn 500 người dân Việt Nam trên đảo đưa về Campuchia và tàn sát toàn bộ. Ngày 27/5/1975, hải quân nhân dân Việt Nam
giải phóng đảo Thổ Chu. Do bị Khmer Đỏ truy sát, hàng chục ngàn người Campuchia đã chạy trốn sang Lào, Thái Lan, Việt Nam. Trong
2 năm (1975 - 1976), đã có trên 15.000 người Campuchia chạy sang Việt Nam.
Cuộc xâm lược lớn đầu tiên diễn ra vào đêm 30/4/1977, quân chính quy Khmer Đỏ sử dụng lực lượng cấp sư đoàn và lực lượng
địa phương các tỉnh biên giới, bất ngờ đồng loạt tiến sâu 10km vào lãnh thổ Việt Nam.
Khmer Đỏ đánh vào 13 đồn công an vũ trang và 14/16 xã trên dọc tuyến biên giới, từ Vĩnh Gia đến Vĩnh Xương, chiếm một số
vùng ở tỉnh An Giang( 14 xã) và tàn sát một số lớn dân thường; từ tháng 8/1977, chúng tấn công khu vực biên giới các tỉnh Long An,
Đồng Tháp; Phía Việt Nam ghi nhận việc Pol Pot đã giết hại 222 người, làm bị thương 614 người, bắt đi 10 người, đốt cháy 552 nhà dân,
cướp 134 tấn lúa, phá hoại hàng trăm héc-ta lúa đang đến mùa gặt; cướp phá nhiều tài sản của người dân Việt Nam...Tháng 6/1977, lãnh
đạo Khmer Đỏ ra nghị quyết coi Việt Nam “là kẻ thù số một, kẻ thù vĩnh cửu” của Campuchia và từ đây, Khmer Đỏ chính thức mở rộng
xung đột thành cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam.
Cuộc tấn công lớn thứ hai diễn ra vào ngày 25/9/1977, 9 sư đoàn chủ lực Khmer Đỏ cùng lực lượng địa phương mở cuộc tiến
công đánh sang các tỉnh An Giang, Kiên Giang, Long An, Đồng Tháp lên hướng Tây Ninh( 3 huyện ).
Riêng ở Tây Ninh, Pol Pot đốt phá 471 ngôi nhà, làm gần 800 người dân bị giết, bị thương hoặc mất tích.Tính từ ngày
30/4/1975 đến tháng 6/1977, quân Khmer Đỏ đã xâm phạm biên giới Việt Nam trên 2.000 lần, sát hại hơn 4.000 người dân. Tính từ tháng
5/1975 đến giữa năm 1978, Khmer Đỏ đã tàn sát hơn 5.000 dân thường Việt Nam, làm bị thương gần 5.000 người, bắt và đưa đi hơn
20.000 người; hàng nghìn trường học, bệnh viện, cơ sở y tế, nhà thờ, chùa chiền bị đốt phá, trâu, bò bị cướp, giết, hoa màu bị phá hoại;
hàng vạn héc-ta ruộng đất và đồn điền cao su ở vùng biên giới Tây Nam Việt Nam bị bỏ hoang; khoảng nửa triệu dân sát biên giới với
Campuchia phải bỏ nhà, bỏ đất, bỏ ruộng chạy sâu vào nội địa. Chúng đòi đất ở tất cả những nơi có cây thốt nốt và vu cáo Việt Nam
muốn xoá đất nước Campuchia để lập liên bang; chúng ra “Sách đen” kích động “hận thù dân tộc”, bôi nhọ sự thật lịch sử và truyền thống
láng giềng tốt đẹp Việt Nam – Campuchia. Ngày 31/12/1977, Pol Pot đơn phương cắt đứt quan hệ ngoại giao với Việt Nam và giao tranh tiếp diễn.
Để trả đũa, ngày 31/12/1977, Quân đội Nhân dân Việt Nam tập trung 8 sư đoàn mở đợt phản công, đánh thiệt hại 5 sư đoàn
Khmer Đỏ, đánh vào sâu 20–30 km trong đất Campuchia đến tận Neak Luong rồi mới rút lui từ ngày 5/1/1978. Cuộc tấn công này được
xem là lời "cảnh cáo" cho Khmer Đỏ.
Chúng gây ra nhiều cuộc thảm sát dã man theo lối diệt chủng trên nhiều địa phương hai bên biên giới: Rạng sáng 17/3/1978,
một trung đoàn Khmer Đỏ bất ngờ tấn công vào khu vực Bù Đốp (Bình Phước), thảm sát 247 người, 291 nóc nhà và khoảng 14 tấn lương
thực bị thiêu rụi ; vụ thảm sát lớn nhất là Ba Chúc ở An Giang từ ngày 18/4 đến 30/4/1978 giết hại 3.157 người,trong đó hơn 100 gia đình
bị giết cả nhà;Từ năm 1975 cho tới năm 1978, có tới 30 ngàn người Việt Nam bị Khmer Đỏ sát hại trong các cuộc tấn công dọc biên giới;
Tính từ tháng 5/1975 đến ngày 23/12/1978, quân Khmer Đỏ đã giết hại hơn 5.230 dân thường Việt Nam, làm bị thương gần 5.000 người,
bắt cóc hoặc đưa đi thủ tiêu hơn 20.000 người).
Ngày 5/2/1978, Chính phủ Việt Nam ra tuyên bố ba điểm đề nghị 2 bên thương lượng, tránh tiếp tục đổ máu:
(1) Chấm dứt mọi hoạt động quân sự, rút lực lượng vũ trang cách biên giới 5 km;
(2) Hội đàm tiến tới ký hiệp ước hữu nghị và không xâm lược, ký hiệp ước về biên giới;
(3) Thỏa thuận về một hình thức thích hợp bảo đảm thông lệ quốc tế và giám sát quốc tế.
Việt Nam cố gắng giải quyết cuộc xung đột một cách hòa bình thông qua đàm phán ngoại giao, nhưng Khmer Đỏ từ chối đàm
phán, Trung Quốc không chịu làm trung gian hòa giải, còn Liên Hợp Quốc không có biện pháp gì phản hồi lại các phản đối của chính
quyền Việt Nam về các hành động gây hấn của Khmer Đỏ.Việt Nam phải chuyển sang sử dụng vũ lực để giải quyết cuộc xung đột.
Ngày 13/12/1978, được sự trang bị và hậu thuẫn của Trung Quốc, Khmer Đỏ đã huy động 19 trong 23 sư đoàn (khoảng 80.000
đến 100.000 quân) tiến công xâm lược Việt Nam trên toàn tuyến biên giới. Tại những vùng chiếm đóng, Khmer Đỏ đã thực hiện sách
lược diệt chủng đối với người Việt, như đã làm với người Khmer.
Quân đội Việt Nam đã chống trả quyết liệt và đã kìm chân bước tiến, đồng thời tiêu hao sinh lực của quân Khmer Đỏ.
Các hướng tiến quân của Khmer Đỏ bị chặn lại và không thể tiến lên. Ngoại trừ Hà Tiên bị chiếm giữ trong thời gian ngắn,
không một thị xã nào của Việt Nam bị chiếm. Theo thống kê từ Việt Nam, từ tháng 6/1977 đến tháng 12/1978, họ đã tiêu diệt 38.563
quân Khmer Đỏ, bắt sống 5.800 lính khác. Theo Tạp chí Time, quân Việt Nam tiến hành các cuộc không kích và giao tranh trên bộ, đánh
vào các đơn vị quân Khmer Đỏ dọc biên giới nhằm làm suy yếu quân Khmer Đỏ trước khi quân Việt Nam bắt đầu chiến dịch đã tiêu diệt
khoảng 17.000 quân Khmer Đỏ.
Giai đoạn 2: Từ tháng 12/1978 đến tháng 5/1979: Khmer Đỏ tổ chức cuộc tấn công lớn nhất vào lãnh thổ Việt Nam với 19 sư
đoàn nhưng bị phía Việt Nam đánh bại. Sau cuộc tấn công, Việt Nam thấy không có cơ hội để đàm phán hòa bình nên đã tổ chức tấn công
lớn vào Campuchia, lật đổ Khmer Đỏ và lập nên chế độ mới do Heng Samrin đứng đầu. Tàn quân Khmer Đỏ chạy sang ẩn náu bên kia biên giới Thái Lan.
Quân dân Việt Nam thực hiện cuộc chiến tranh bảo vệ vững chắc biên giới Tổ quốc, giúp đỡ và từng bước phối hợp với lực
lượng bạn trong “Lực lượng vũ trang cách mạng đoàn kết cứu nước Campuchia” (thành lập ngày 12/5/1978) và Mặt trận Đoàn kết Dân
tộc cứu nước Campuchia (ra đời ngày 2/12/1978).
Từ ngày 22/12/1978 đến ngày 7/1/1979, Quân đội nhân dân Việt Nam tiến hành cuộc tổng công kích giải phóng Campuchia:
Ngày 23/12/1978, sau khi được tăng viện, với 80.000 quân, quân đội Việt Nam đã tiến hành phản công trên toàn bộ mặt trận,
đẩy lùi quân Khmer Đỏ. Quân đội Việt Nam quyết định mở cuộc tấn công phòng ngừa vào Campuchia vào ngày 25/12/1978.
Ngày 25/12/1978 sau khi đánh tan sức kháng cự của quân Khmer Đỏ, các lực lượng Việt Nam đã nhanh chóng tiến hành đánh
chiếm phía đông Campuchia. Quân ta gặp sự chống trả quyết liệt, tập kích bất ngờ của quân Pol Pot khiến quân số thương vong một nửa.
Tuy nhiên, sau khi không chặn được quân Việt Nam, quân Khmer Đỏ phải rút lui, ngày 29/12, thị xã Kratie rơi vào tay quân đội Việt
Nam, ngày 4/1, ta chiếm được Chhloung. Kể từ lúc đó, toàn bộ lãnh thổ đông bắc Campuchia ở phía đông sông Mekong coi như bị quân
đội Việt Nam kiểm soát.
Ở phía Tây sông Mekong, quân ta và Pol Pot giao chiến kịch liệt :sử dụng không quân, pháo binh, xe bọc thép. Quân Pol Pot
tiêu diệt một số đơn vị Quân khu 9 bảo vệ biên giới và chiếm một vùng rộng lãnh thổ Việt Nam dọc theo kênh Vĩnh Tế. Quân Khmer Đỏ
đã chiếm được khu vực đầu cầu mà Quân đoàn 2 và lực lượng Quân khu 9 định dùng để tiến vào Campuchia, đồng thời giành được một
chiến lũy tự nhiên cản đường tiến của quân Việt Nam. Sau khi nhận được sự chấp thuận từ Bộ chỉ huy, sáng ngày 31/12, quân ta mở cuộc
phản công. Sau 24 giờ giao tranh kịch liệt, quân Việt Nam đã đánh lui quân Pol Pot khỏi bờ tây kênh Vĩnh Tế. Chiều ngày 1/1, được pháo
binh và không quân yểm trợ, Lữ đoàn công binh 219 thuộc Quân đoàn 2 bắc cầu phao vượt sông. Sư đoàn 304 và Lữ đoàn xe bọc thép
203 mở đường tiến vào đất Campuchia. Tới trưa ngày 3/1, Quân đoàn 2 và Quân khu 9 đã tiêu diệt hoặc đánh tan tất cả các lực lượng
Khmer Đỏ ở hạ lưu sông Mekong dọc biên giới. Sở chỉ huy Quân khu Tây Nam của Khmer Đỏ phải rút về Takéo. Tới ngày 2/1/1979,
quân đội Việt Nam đánh tan các sư đoàn chủ lực của Khmer Đỏ án ngữ các trục đường số 1, 7 và 2 ở lối vào Phnôm Pênh. Chiều ngày
3/1, Sư đoàn 7 chiếm được cầu Don So và tới ngày 4 tháng 1 đã làm chủ toàn bộ vùng phía đông sông Mekong.
Ngày 6/1, Quân đoàn 4 và Quân đoàn 3 Việt Nam gồm 9 sư đoàn làm thành hai gọng kìm tiến vào Phnôm Pênh từ phía Đông
Nam qua phà Neak Luong và từ phía Bắc qua ngã Kampong Cham. Ở cánh phía nam, Sư đoàn 7 và Sư đoàn 2 của Quân đoàn 4 là mũi
chủ công tiến theo quốc lộ 1, Sư đoàn 9 tiến song song bảo vệ sườn phía nam và Sư đoàn 341 bảo vệ sườn phía bắc. Ngày 6/1/1979 quân
ta được 1 tiểu đoàn UFNSK hỗ trợ chiếm được bờ phía đông của bến phà Neak Luong. Quân Khmer Đỏ trong khi rút lui vội vã đã không
kịp thiết lập công sự phòng thủ. Trong đêm, cách bến phà khoảng hai cây số về phía nam, Trung đoàn 113 cùng Trung đoàn 14 của Sư
đoàn 7 được tàu đổ bộ đưa sang bên kia sông, tiến chiếm bờ phía tây của bến phà. Ngày 7/1, toàn bộ đội hình Quân đoàn 4 tiến hành vượt
sông. Do sự tan rã nhanh chóng của lực lượng phòng thủ biên giới và sự chủ quan của Pol Pot, quân đội Việt Nam tiến vào Phnôm Pênh
từ Neak Luong mà không gặp sức chống cự đáng kể nào.
Ở cánh phía bắc, Quân đoàn 3 của tướng Kim Tuấn cũng giao tranh quyết liệt với quân Khmer Đỏ ở Kampong Cham để vượt
sông Mekong. Quân Khmer Đỏ thiết lập trận địa phòng ngự dọc bờ tây sông Mekong với nhiều ổ súng máy, súng cối bắn trùm lên mặt
sông để ngăn thuyền chở quân Việt Nam đổ bộ. Xa hơn một chút, quân Khmer Đỏ bố trí xe tăng, xe bọc thép, pháo 105mm, 122mm và
155mm để bắn vào quân Việt Nam đang tập trung ở bờ đông sông Mekong. Lực lượng đột kích vừa hành quân vừa giao chiến với các ổ
phục kích của quân Khmer Đỏ, tới chiều tối đã tới bờ sông Tonle Sap và tổ chức đánh vượt sông để tiến vào Phnôm Pênh.Tuy nhiên Quân
đoàn 3 đã không kịp chặn đường Chính phủ Pol Pot rút chạy khỏi Phnôm Pênh.Ngày 7/1, quân Việt Nam chiếm sân bay Kampong
Chhnang và bắt được mười máy bay A-37, ba C-123K, sáu C-47, ba Alouette III cùng một số T-28. Ngoài ra Khmer Đỏ cũng bỏ lại hàng
trăm xe tăng và xe bọc thép, rất nhiều đạn dược và lương thực dự trữ chiến lược mà họ không kịp mang theo.
Ngày 8/1, Hội đồng Nhân dân Cách mạng Campuchia do Heng Samrin làm Chủ tịch đã được thành lập với sự hậu thuẫn của Việt Nam.
Tại mặt trận phía nam, từ An Giang, quân Việt Nam bắt đầu vượt biên giới vào ngày 3/1/1979 và tấn công theo hai hướng.
Hướng thứ nhất, Sư đoàn 325 và Sư đoàn 8 tiến về phía Tây, dọc theo quốc lộ số 2. Ngày 5/1/1979, trong khi lực lượng Quân
khu 9 tiến đánh Takeo, sư đoàn 325 bắt đầu tiến theo hướng Tây Bắc. Lực lượng Khmer Đỏ của Quân khu Tây Nam do Ta Mok chỉ huy
đã chuẩn bị công sự phòng thủ ở Tuk Meas trên đường 16, ở khoảng giữa biên giới và Chhuk. Phải mất hai ngày giao chiến, Sư đoàn 325
mới có thể đánh tan tuyến phòng ngự của Khmer Đỏ và chiếm được khu vực Tuk Meas. Tới chiều ngày 7/1, lực lượng xung kích đã ra
đến đường số 3, và trong quá trình tiến công đã đánh tan sư đoàn quân Khmer Đỏ phòng ngự Chhuk. Trong hai ngày 4-5/1/1979, từ đảo
Phú Quốc, hai phân đội Hải quân Việt Nam gồm một số tàu tuần tiễu loại lớn của Mỹ, hai tàu khu trục Petya của Nga, cùng nhiều tàu
chiến nhỏ chuẩn bị chuyển Lữ đoàn Hải quân 101 và 126 đổ bộ. Hải quân cũng lập trận địa pháo 130mm ở mũi đảo Phú Quốc để yểm trợ
cho lực lượng đổ bộ. Sẩm tối ngày 6/1, toán quân đặc công gồm 87 người bí mật đổ bộ và tấn công chiếm một trận địa pháo Khmer Đỏ
bảo vệ bờ biển, cùng lúc, pháo 130mm bắt đầu bắn phá các vị trí quân Khmer Đỏ. Lập tức các tàu tuần tiễu loại nhỏ của Khmer Đỏ xuất
kích từ quân cảng Ream và các bến cảng nhỏ tấn công vào Hải quân Việt Nam. Sau một trận giao chiến trên biển, do có ưu thế về số
lượng và hỏa lực, Hải quân Việt Nam đẩy lùi hoặc đánh chìm hầu hết các tàu Khmer Đỏ, nhưng một tàu của Việt Nam cũng bị trúng đạn,
khiến nhiều thủy thủ bị thương vong.Số tàu phóng lôi Khmer Đỏ chạy thoát khỏi cuộc hải chiến và các cuộc không kích của không quân
Việt Nam, đến ngày 16/1 lại bị Hải quân Việt Nam chặn đánh trong vịnh Thái Lan và bị tiêu diệt gần hết.
Hướng thứ hai, Quân khu 9 phụ trách, tiến về phía Bắc đánh chiếm hai thị xã Tan và Takeo. Các sư đoàn Khmer Đỏ trấn giữ
quân khu Tây Nam như Sư đoàn 2, 210, 230, 250, bị tan rã và rút lui vào rừng.
Giai đoạn 3: Từ giữa năm 1979 đến năm 1984: Khmer Đỏ với sự trợ giúp về lương thực, vũ khí của Thái Lan, Trung Quốc và
Hoa Kỳ đã tổ chức đánh du kích và đe dọa sự tồn tại của chế độ Cộng hòa Nhân dân Campuchia. Năm 1982, Việt Nam rút bớt quân khỏi
Campuchia, ngay sau đó Khmer Đỏ hoạt động mạnh trở lại và chiếm một số khu vực. Nhận thấy quân đội Cộng hòa Nhân dân Campuchia
còn rất yếu ớt nên không thể tự chống cự được, Việt Nam buộc phải tiếp tục đóng quân tại Campuchia để bảo vệ chế độ Hun Sen và truy quét Khmer Đỏ.
Quân đoàn 2 và các sư đoàn của Quân khu 9 sau khi chiếm được vùng duyên hải cũng tiến dọc theo quốc lộ 4 về hướng Bắc.
Mấy ngày sau khi Trung Quốc tiến đánh biên giới Việt-Trung, Quân đoàn 2 rút về bảo vệ Hà Nội Trên đường đi, một đoàn xe chở quân
Khmer Đỏ cũng nhập vào đội hình trung đoàn do tưởng nhầm là tàn quân Khmer Đỏ tháo chạy. Do trời tối, không ai phát hiện ra sự nhầm
lẫn này. Mãi đến khi hai bên nhận ra nhau thì một trận đánh khốc liệt mới nổ ra, quân Việt Nam tiêu diệt và chiếm toàn bộ đoàn xe gồm
23 xe tải chở quân Khmer Đỏ. Rạng sáng ngày 10, quân Việt Nam đến Siem Reap, quân Khmer Đỏ bị bất ngờ, phải tháo chạy ra bốn
phía. Tới khi trời tối thì Trung đoàn 24 thuộc Sư đoàn 10 và Sư đoàn 5 của Quân khu 7 cũng đã tới nơi. Ngày hôm sau, Trung đoàn 24 lại
hành quân 100km nữa đánh chiếm thị xã Sisophon nằm cách biên giới Thái Lan 50 km. Ngày 12/1, (sau khi trao lại thị xã cho lực lượng
Quân khu 5) trung đoàn 24 một tiểu đoàn của Trung đoàn 66 cùng một đại đội xe M-113, pháo phòng không và trọng pháo theo theo
đường 5 phía nam Sisophon đánh vào các lực lượng Khmer Đỏ đang tập trung về Battambang và chiếm thành phố ngay trong ngày hôm
đó. Ngày 13/3/1979,quân ta tiến quân để tiêu diệt Pol Pot ở phía Tây. Ba ngày sau, ông rời Battambang để đi Siem Reap, trên đường đi
khoảng 40km về hướng bắc Battambang, đoàn xe của ông bị Khmer Đỏ phục kích. Mặc dù lực lượng phục kích bị đè bẹp, chiếc com-
măng-ca thứ 3 có Tư lệnh Kim Tuấn ngồi bên cạnh người lái xe bị trúng đạn M79 khiến ông bị thương nặng vùng cột sống và mất ngày
hôm sau, ngày 17/3. Ông là sĩ quan cao cấp nhất của Quân đội Nhân dân Việt Nam hy sinh khi tham chiến ở Campuchia. Ba tháng sau,
tháng 6 năm 1979, Quân đoàn 3 của ông rời Campuchia để tham gia phòng thủ biên giới phía bắc với Trung Quốc.
Trận đánh quan trọng đầu tiên trong chiến dịch bình định diễn ra tại Kampong Speu, nằm trên quốc lộ 4 nối hải cảng Kampong
Som với Phnôm Pênh, cách Phnôm Pênh khoảng 50km.Trận đánh khmer Đỏ muốn chiếm lại thị xã này từ quân Việt Nam bắt đầu ngày
21/1/1979 đến ngày 7/2 mới kết thúc. Dù bị tổn thất nặng, quân Việt Nam vẫn giữ được Kampong Speu, các lực lượng của 3 sư đoàn
Khmer Đỏ bị tan rã, chỉ còn là những nhóm nhỏ hoặc tiếp tục đánh du kích, hoặc rút về biên giới Thái Lan. Leach là một thị trấn nằm gần
quốc lộ số 5 là con đường từ Phnom Penh đi Battambang, cách biên giới Thái Lan khoảng 80 km. Trước ngày 7/1, Leach được Khmer Đỏ
sử dụng làm căn cứ tiếp liệu. Sau khi Phnôm Pênh thất thủ, khi quân Việt Nam chưa có đủ thì giờ để chiếm đóng hết các vị trí, Khmer Đỏ
dự định biến Leach thành một căn cứ phản công. Vì trận chiến ở Leach là một trận quyết định, nên trận đánh đã kéo dài trên một tháng.
Tất cả các sư đoàn tham chiến đều bị tổn thất nặng. Cuối cùng, căn cứ Leach của Khmer Đỏ bị Sư đoàn 9 chiếm được ngày 29/4/1979.
Trận đánh tại căn cứ Leach là trận đánh có quy mô lớn cuối cùng trên đất Campuchia. Sau khi Leach bị mất, các đơn vị còn lại của Khmer
Đỏ rút về các mật khu ở Pailin và Tasanh sát biên giới Thái Lan. Một số khác phân tán thành những đơn vị nhỏ tiếp tục đánh du kích.
Giữa tháng 3, quân Việt Nam mở chiến dịch mới đánh chiếm căn cứ Tasanh, nằm ở phía nam Pailin. Tới 28/3, căn cứ này thất thủ, khiến
cho "đại sứ quán" Trung Quốc đóng tại đây phải sơ tán về vùng núi cao. Ban lãnh đạo Khmer Đỏ tại đây cũng bỏ chạy, bỏ lại một phần
tài liệu, xe cộ, vũ khí, lương thực dự trữ và 3.000 tấn đạn dược.
Phía Việt Nam cho biết, tới cuối tháng 1/1979, quân Việt Nam đã có tới 8.000 thương vong. Riêng Quân đoàn 4, đơn vị chủ lực
đánh vào giải phóng Phnôm Pênh, sau 18 tháng chiến đấu (từ giữa năm 1977 tới tháng 1/1979) đã tiến hành 5 chiến dịch cấp quân đoàn,
13 trận đánh cấp sư đoàn, 68 trận cấp trung đoàn và gần 700 trận cấp tiểu đoàn, bị hi sinh 3.446 người, 12.464 người bị thương. Quân
chủng Hải quân trong chiến dịch Tà Lơn đã xóa sổ lực lượng hải quân của Khmer Đỏ, làm chủ hoàn toàn vùng biển phía Nam Campuchia
với tổn thất là 373 người chết, bị thương 661, mất tích 65 người.
Về phía quân Khmer Đỏ, lực lượng này bị thiệt hại rất nặng. Hầu hết các sư đoàn bị đánh tan, khoảng 3/4 lực lượng đã bị mất.
Tuy nhiên, Khmer Đỏ vẫn còn khoảng 30.000 quân kịp chạy thoát sang Thái Lan hoặc trốn vào các vùng rừng núi, lực lượng này vẫn còn
khả năng quấy phá, phục kích, gây mất ổn định khiến Việt Nam phải duy trì một lực lượng quân sự lớn tại Campuchia.
Campuchia bị mất, Thái Lan trở nên một địa bàn chiến lược quan trọng để Trung Quốc có thể giúp đỡ cho Khmer Đỏ tiếp tục
cuộc chiến. Sau khi Việt Nam liên minh với Liên Xô và tấn công Campuchia, Thái Lan không còn giữ thái độ trung lập nữa, Thái Lan
đồng ý để Trung Quốc dùng lãnh thổ Thái Lan tiếp tế cho Khmer Đỏ. Tuy vậy, trong trường hợp chiến tranh nổ ra, quân Thái Lan vẫn
không phải là đối thủ của Việt Nam. Với lực lượng 141.000 quân, số lượng quân Thái chỉ bằng 1/4 quân Việt Nam, và họ không có được
kinh nghiệm chiến đấu như quân Việt Nam.Việt Nam hy vọng có thể nhanh chóng truy quét và tiêu diệt tàn quân Khmer Đỏ trước khi
mùa khô 1979-1980 kết thúc, nhưng tàn quân Khmer Đỏ đã phân tán rải rác trong các trại tị nạn dọc biên giới Thái Lan-Campuchia.
Tổ chức cứu trợ khẩn cấp Campuchia của Mỹ, dựa vào đại sứ quán Mỹ tại Bangkok, đã nuôi dưỡng và hỗ trợ Khmer Đỏ để tiếp
tục chống lại chính phủ mới của Campuchia do Việt Nam hậu thuẫn. Dưới sức ép của Mỹ, Chương trình Lương thực thế giới đã cung cấp
lương thực cho 20.000 đến 40.000 lính Khmer Đỏ. Suốt một thập kỷ sau đó, cơ quan tình báo quân đội Mỹ đã giúp Khmer Đỏ do thám
qua vệ tinh, đồng thời các lực lượng đặc nhiệm của Mỹ và Anh hướng dẫn quân Khmer Đỏ đặt hàng triệu quả mìn bộ binh khắp miền Tây Campuchia.
Hoa Kỳ và Trung Quốc cũng dùng quyền của mình ở Liên Hợp Quốc để giữ ghế đại diện cho Khmer Đỏ. Chính quyền Pol Pot
dù chỉ còn là một nhóm du kích trong rừng nhưng lại được coi là đại diện hợp pháp duy nhất của Campuchia.
Trung Quốc tích cực hỗ trợ Khmer Đỏ với ngân khoản 80 triệu đôla hàng năm, và vận động Hoa Kỳ viện trợ cho các phe đối
lập. Hoa Kỳ tiếp tục tiến hành cấm vận kinh tế với Việt Nam, và từ khi quân Việt Nam tiến vào Phnôm Pênh, hủy bỏ đàm phán bình
thường hóa quan hệ với Việt Nam. Hoa Kỳ và đồng minh gây áp lực để cả Ngân hàng Phát triển châu Á và Ngân hàng Thế giới ngưng
các khoản vay cho Việt Nam và Campuchia.
Thái Lan đồng ý cho lực lượng Khmer Đỏ thiết lập căn cứ tại vùng biên giới. Để hỗ trợ Khmer Đỏ, liên minh không chính thức
giữa Trung Quốc và Thái Lan đã thiết lập một tuyến đường bí mật trên đất Thái tiếp tế cho Khmer Đỏ. Tàu Trung Quốc chở vũ khí đạn
dược đến các cảng Sattahip và Klong Yai, từ đó, quân đội Thái Lan chuyển hàng đến cho các trại đóng quân của Khmer Đỏ dọc theo biên
giới Thái Lan - Campuchia. Sứ quán Trung Quốc tại Bangkok phối hợp với các thương gia người Thái gốc Hoa cùng quân đội Thái chịu
trách nhiệm cung cấp lương thực, thuốc men và hàng dân dụng cho Khmer Đỏ. Đổi lại, Trung Quốc trả phí vận chuyển cho quân đội Thái
và cho phép quân đội Thái giữ lại một phần vũ khí. Trung Quốc cũng chuyển giao cho Thái Lan công nghệ chế tạo vũ khí chống tăng với
điều kiện một phần sản lượng sẽ được chuyển cho Khmer Đỏ.
Ngoài hỗ trợ khổng lồ mà Bắc Kinh dành cho Khmer Đỏ, Trung Quốc cũng cung cấp viện trợ cho các phe phái đối lập khác ở
Campuchia như KPNLF. Nhờ đó, lực lượng quân sự của các phái này có lúc đã phát triển lên gần 30 ngàn. Lực lượng Việt Nam vừa phải
chống lại Khmer Đỏ vừa phải chống lại quân đội của các phe phái đối lập này.
Nhờ có sự giúp đỡ về vũ khí, lương thực của Trung Quốc, Hoa Kỳ và các căn cứ do Thái Lan cung cấp, từ tình trạng chỉ còn là
những nhóm du kích hồi cuối năm 1979, đến cuối năm 1980 lực lượng Khmer Đỏ đã hồi phục sức mạnh, với quân số tăng lên khoảng
20.000 đến 40.000. Đến cuối năm 1981, chiến tranh du kích của Khmer Đỏ thực hiện tại Campuchia đã lan rộng mạnh mẽ tại những khu vực rộng lớn.
Giai đoạn 4: Từ 1984 đến 1989: Mùa khô 1984–1985, cuộc tấn công quyết định của Việt Nam đã phá hủy các căn cứ chính của
Khmer Đỏ, khiến Khmer Đỏ suy yếu đi nhiều và không còn đủ sức đe dọa chế độ mới của Campuchia. Sau chiến dịch mùa khô năm
1985, nhận thấy chế độ Cộng hòa Nhân dân Campuchia đã tự đứng vững được, từ năm 1986, Việt Nam rút dần quân khỏi Campuchia và
đến năm 1989 thì rút hết. Nhân việc Việt Nam rút quân, các lực lượng tàn quân của Khmer Đỏ định tái hoạt động, nhưng bị quân đội Hun
Sen đánh bại. Khmer Đỏ dần tan rã, các lãnh đạo bị bắt và bị đưa ra xét xử ở tòa án quốc tế.
Sau khi giành thắng lợi vào 1/1979 Việt Nam đã giúp Campuchia xây dựng chính quyền, giúp đỡ khắc phục hậu quả sau chiến
tranh và tới tháng 7/1982, Việt Nam tuyên bố sẽ rút quân từng phần khỏi Campuchia đơn phương và vô điều kiện. Nhưng tình hình quân
sự tại Campuchia trong năm 1983 trở nên xấu đi, buộc Việt Nam phải ngừng việc rút quân khỏi Campuchia.
Tương quan lực lượng năm 1984 là Việt Nam có khoảng 180 ngàn quân tại Campuchia, so với khoảng 17 ngàn quân của
KPNLF, và khoảng 30-50 ngàn quân Khmer Đỏ và khoảng 5 ngàn quân thuộc lực lượng Sihanouk.
Tới mùa khô năm 1984 - 1985, Việt Nam huy động khoảng 60 ngàn quân cho chiến dịch tấn công quyết định nhằm triệt hạ các
căn cứ của Khmer Đỏ nằm gần Thái Lan, cùng với hàng chục ngàn dân công Campuchia xây đường và mở rộng các sân bay dã chiến tại
khu vực biên giới. Cuối tháng 12/1984, khoảng 1.000 quân Việt Nam đánh hạ căn cứ Nong Samet. Tháng 1/1985, khoảng 4.000 quân
Việt Nam, với hơn 30 xe tăng và xe bọc thép hỗ trợ, đánh vào căn cứ Ampil của lực lượng Mặt trận Nhân dân Giải phóng Quốc gia
Campuchia (KPNLF) với 5.000 quân phòng ngự và triệt hạ hoàn toàn căn cứ này sau 36 giờ. Quân Việt Nam và quân chính phủ Cộng hòa
Nhân dân Campuchia cũng mở chiến dịch tấn công căn cứ lớn có gần 10.000 quân Khmer Đỏ đóng giữ tại Phnom Malai, nơi mà họ từng
định đánh chiếm năm 1982 nhưng bất thành, và đã triệt hạ căn cứ này sau 2 ngày giao tranh. Chiến dịch mùa khô năm 1984-85 là chiến
dịch lớn chưa từng có của Việt Nam kể cả về quy mô, thời gian và mức độ thành công.
Sau các chiến dịch 1984 - 85 của Việt Nam, lực lượng đối lập bị nhiều tổn thất. Ngày 16/8/1985, thông cáo của cuộc họp các bộ
trưởng ngoại giao ba nước Đông Dương tại Phnôm Pênh tuyên bố Việt Nam sẽ rút quân hoàn toàn khỏi Campuchia, quá trình rút quân hoàn thành năm 1990.
Tháng 6/1988, trên cơ sở trưởng thành của quân đội Campuchia và với sự thỏa thuận của giữa Việt Nam và Campuchia, Việt
Nam đã rút toàn bộ chuyên gia dân sự và đến ngày 26/9/1989, Việt Nam rút toàn bộ quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam về
nước. Sau khi quân tình nguyện Việt Nam rút hết, lúc đầu phía Campuchia có lúng túng trước các hoạt động dành dân, chiếm đất của
Khmer Đỏ và đồng minh nhưng dần dần Campuchia vươn lên làm chủ tình hình, kiểm soát trên 90% lãnh thổ.[81]
Năm 1992-1993, lực lượng gìn giữ hòa bình Liên Hợp Quốc Campuchia (UNTAC - United Nations Transitional Authority in
Cambodia) tạm thời quản lý Campuchia.
Sau khi Campuchia giải phóng, Việt Nam đã quyết định để bộ đội tình nguyện tiếp tục ở lại Campuchia đề phòng Khmer Đỏ
quay lại cướp chính quyền. Trong thời kỳ đóng quân tại Campuchia, quân đội và chuyên gia Việt Nam đã giúp đỡ hàng triệu người dân
Campuchia trở về quê cũ, khôi phục sản xuất, làm lại nhà cửa, trường học, chùa chiền. Bộ quốc Phòng đã chỉ đạo hành động theo từng
giai đoạn. Theo đó, giai đoạn đầu do người dân Campuchia chưa có gì, Việt Nam sẽ thực hiện “Việt Nam làm giúp Campuchia” - nghĩa là
đánh giặc cũng Việt Nam, giúp dân sản xuất cũng Việt Nam, xây dựng chính quyền cũng Việt Nam (bởi khi đó chính quyền của
Campuchia đã bị Khmer Đỏ phá hủy). Khi người dân Campuchia đã có cơ sở, Việt Nam chuyển sang khẩu hiệu “Ta, bạn cùng làm”. Giai
đoạn ba là “Bạn làm ta giúp” - nghĩa là khi người dân Campuchia đã đủ khả năng, người dân Campuchia yêu cầu tới đâu Việt Nam giúp
tới đó. Cuối cùng, khi người dân Campuchia thực sự lớn mạnh thì Việt Nam rút toàn bộ quân tình nguyện về nước để người dân
Campuchia tự đảm đương công việc trong nước.
Sau khi Việt Nam rút quân, ngày 16/3/1992, Cơ quan chuyển tiếp Liên Hợp Quốc tại Campuchia (UNTAC), dưới đại diện đặc
biệt UNSYG Yasushi Akashi và Trung tướng John Sanderson, đã tới Campuchia để bắt đầu thực hiện kế hoạch hòa giải của Liên Hợp
Quốc, kế hoạch này đã được ký kết nhờ kết quả của Hội nghị Paris năm 1991. Cuộc bầu cử tự do đã được tổ chức vào năm 1993. Đảng
Campuchia Dân chủ (PDK) (lúc này chỉ còn kiểm soát 6% dân số Campuchia) đã cản trở người dân tham gia.
Hoàng thân Norodom Ranariddh thuộc đảng bảo hoàng Funcinpec là người nhận số phiếu bầu cao nhất với 45,5% phiếu bầu,
chiếm 58 ghế quốc hội, tiếp đến là Đảng Nhân dân Campuchia (CPP) của Hun Sen (nguyên là Đảng cộng sản Campuchia) do Việt Nam
hậu thuẫn chiếm 51 ghế. Funcinpec đã phải đàm phán để liên hiệp với Đảng Nhân dân Campuchia do Hun Sen lãnh đạo.
Một cố gắng ám sát Hun Sen đã được tiến hành vào năm 1996 bởi hai kẻ bắn tỉa bắn vào xe của ông ở thành phố Kandal. Hun
Sen bình yên vô sự và tiếp tục từ tư dinh của ông ở Takhmau tới điện Chamcarmon ở Phnôm Pênh. Các cuộc đàm phán bí mật của
Ranariddh với Khmer Đỏ nhằm mục đích gây dựng liên minh được xem là một sự khơi mào chiến tranh, Hun Sen đã quyết định ra tay
trước để loại bỏ nguy cơ Khmer Đỏ quay lại. Từ ngày 5-6/7/1997 đã xảy ra cuộc xung đột ngay tại Thủ đô Phnôm Pênh. Với sự hỗ trợ từ
các cố vấn quân sự Việt Nam, CPP đã dùng lực lượng quân sự đập tan nhóm FUNCINPEC.
Ngày 10/7/1997, ASEAN đã quyết định hoãn lại việc kết nạp Campuchia. Đứng trước tình hình này, Việt Nam đã chủ động tiến
hành các hoạt động nhằm giúp đỡ, tạo điều kiện tối đa để Campuchia sớm được gia nhập ASEAN, kêu gọi cộng đồng quốc tế công nhận
chính phủ Phnôm Pênh. Trong một nỗ lực khác, Việt Nam đã tích cực vận động và thuyết phục những nước có quan điểm thận trọng
(Thái Lan, Singapore, Philippines) chấp nhận kết nạp Campuchia vào ASEAN. Việt Nam đã chuẩn bị trước tài liệu “Lễ kết nạp
Campuchia vào ASEAN” và phân phát tài liệu này tại Hội nghị quan chức cấp cao ASEAN (SOM) ngày 8/12/1998. Ngoài ra, để tạo điều
kiện thuận lợi cho Campuchia, phía Việt Nam đã mời Thủ tướng Hunsen sang thăm chính thức Việt Nam vào ngày 13/12, hai ngày trước
khi Hội nghị cấp cao lần thứ VI khai mạc, nhằm giúp Campuchia vận động và thuyết phục các nước.
Trong cuộc bầu cử tháng 7/1998, đảng Nhân dân Campuchia (CPP) của Hun Sen giành thắng lợi. Hun Sen đã triển khai một
chiến lược mới nhằm ly gián những đơn vị Khmer Đỏ còn lại bằng cách khuyến khích những lãnh đạo hàng đầu rời bỏ hàng ngũ chạy
sang phía chính phủ. Quân số Khmer Đỏ giảm xuống còn 4.000 quân vào năm 1993 và chỉ còn khoảng 1.000 quân năm 1997. Khieu
Samphan và Nuon Chea quy hàng Chính phủ Campuchia vào tháng 12/1998, Khmer Đỏ chính thức kết thúc tồn tại. Các lãnh đạo Khmer
Đỏ còn sống cũng lần lượt bị bắt giam và bị tòa án quốc tế xét xử vì phạm những tội ác chiến tranh.
III. Kết quả.
Việt Nam hoàn thành nhiệm vụ chiến tranh bảo vệ Tổ quốc: Giữ vững biên cương và chủ quyền quốc gia lãnh thổ, bảo vệ vững
chắc đất đai và cuộc sống hòa bình cho nhân dân vùng biên giới Tây Nam, lập lại sự ổn định và trật tự vùng biên giới; đồng thời cũng cứu
thoát nhân dân Campuchia khỏi thảm họa diệt chủng, giúp bạn gây dựng lại lực lượng cách mạng, khép lại trang sử đen tối, đau thương
của dân tộc Campuchia, mở ra quá trình giúp bạn làm lại cuộc cách mạng, thực hiện công cuộc hồi sinh dân tộc và phát triển đất nước Campuchia.
Chiến tranh bảo vệ Tổ quốc ở biên giới Tây Nam năm 1979 là 1 trong 23 cuộc chiến lớn trong lịch sử chống ngoại xâm của
dân tộc Việt Nam, chính nghĩa và tất thắng.
IV. Tìm hiểu về cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới phía Bắc Tổ quốc năm 1979. 1.
Quan hệ Việt Nam – Trung Quốc – Liên Xô
Tuy nhận được sự giúp đỡ rất lớn của Trung Quốc trong chiến tranh Đông Dương và Chiến tranh Việt Nam, các rạn nứt trong
quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Trung Quốc đã bắt đầu thể hiện từ năm 1968. Việt Nam nhất định cùng lúc giữ
mối quan hệ nồng ấm với cả Moskva lẫn Bắc Kinh trong khi mâu thuẫn giữa Liên Xô và Trung Quốc đã lên cao. Bất đồng quan điểm
giữa Việt Nam và Trung Quốc về cách thức tiến hành cuộc chiến với Hoa Kỳ tại miền Nam Việt Nam trở nên rõ rệt. Và hơn thế nữa, Việt
Nam muốn trực tiếp đàm phán với Hoa Kỳ, không cần thông qua một nước nào làm trung gian.
Năm 1972, chuyến thăm của Tổng thống Mỹ Nixon tới Bắc Kinh và thỏa thuận giữa Mỹ và Trung Quốc được Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa xem là một sự phản bội.Từ năm 1973, ban lãnh đạo Trung Quốc đã có chỉ thị: "Bề ngoài ta đối xử tốt với họ (Việt Nam)
như đối xử với đồng chí mình, nhưng trên tinh thần phải chuẩn bị họ sẽ trở thành kẻ thù của chúng ta". Năm 1974, Trung Quốc cho quân
đánh chiếm quần đảo Hoàng Sa (đang được Việt Nam Cộng hòa quản lí) trong sự làm ngơ của Hoa Kỳ.
Khi Việt Nam ngày càng có quan hệ chặt chẽ hơn với Liên Xô thì Trung Quốc thấy mình bị đe dọa từ hai phía. Đồng thời, Việt
Nam cũng đang cố gắng xây dựng mối quan hệ đặc biệt chặt chẽ giữa 3 nước Đông Dương mà trong đó Việt Nam giữ vị thế đứng đầu.
Cùng với thực tế rằng nước Việt Nam thống nhất đã trở thành một sức mạnh quan trọng trong vùng, làm giảm ảnh hưởng của Trung Quốc
tại khu vực Đông Nam Á. Những điều này làm cho Trung Quốc lo ngại về một "tiểu bá quyền" Việt Nam. Như vậy, nước Campuchia
chống Việt Nam đã trở thành một đồng minh quan trọng đối với Trung Quốc.
Ngày 1 tháng 11 năm 1977, tờ Nhân dân Nhật báo, cơ quan ngôn luận của Đảng Cộng sản Trung Quốc, trong một bài xã luận
đã gọi Liên Xô như một kẻ thù nguy hiểm nhất của Trung Quốc, đồng thời coi Mỹ như là một đồng minh.
Trung Quốc đòi quân đội Liên Xô phải hoàn toàn triệt thoái khỏi Mông Cổ, đồng thời giảm số lượng các lực lượng vũ trang trên
suốt tuyến biên giới Trung – Xô. Sau đó, vào đầu tháng 4 năm 1978, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Liên Xô Leonid Brezhnev khi đến thăm
Siberia và Hạm đội Thái Bình Dương, tuyên bố rằng sẽ triển khai trên tuyến biên giới các hệ thống vũ khí mới, ngoài những hệ thống vũ
khí trang bị hiện đại đã có sẵn trên biên giới Trung – Xô. Ngày 12 tháng 4 năm 1978, chính phủ Mông Cổ cũng công khai bác bỏ yêu cầu
của Trung Quốc, tuyên bố rằng lực lượng quân đội Liên Xô được tăng cường và triển khai dọc biên giới Mông Cổ – Trung Quốc là theo
yêu cầu của Mông Cổ nhằm đáp trả việc tăng cường lực lượng Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc trên biên giới. Ngày 26 tháng 4
năm 1978 Bộ Ngoại giao Trung Quốc yêu cầu bổ sung thêm vào điều kiện công nhận sự tồn tại các vấn đề tranh chấp khu vực trên biên giới Trung – Xô.
Liên Xô cũng tăng cường áp lực lên Trung Quốc với mục đích đạt được sự kéo dài Hiệp định Xô – Trung có giới hạn 30 năm về
quan hệ Liên minh, Hợp tác hữu nghị và giúp đỡ lẫn nhau, được ký vào ngày 14 tháng 2 năm 1950 (hết hạn vào ngày 15 tháng 2 năm
1979).Ngày 16 tháng 2 năm 1979, Đặng Tiểu Bình tuyên bố khả năng một cuộc chiến tranh tổng lực chống Liên Xô. Dọc tuyến biên giới
Xô – Trung đã tập trung khoảng 1,5 triệu Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc trên tổng số quân thường trực chiến đấu là 3,6 triệu
người, phía Liên Xô đã triển khai hơn 40 sư đoàn Hồng quân.
Ngoài ra, theo một số nhà nghiên cứu quân sự Tây phương, về mặt chiến lược, Trung Quốc thử nghiệm một cuộc chiến tranh
biên giới có giới hạn với Việt Nam để thăm dò khả năng tương trợ của Liên Xô, sau khi Việt Nam gia nhập Hội đồng Tương trợ Kinh tế
(SEV) và ký Hiệp ước hữu nghị và hợp tác với Liên Xô (1978) có giá trị trong 25 năm, trong đó có điều khoản về tương trợ quân sự. Nếu
thỏa ước này được tuân thủ nghiêm ngặt, theo nhận định của Quân ủy Trung ương Trung Quốc, thì nó sẽ là hiểm họa quốc phòng lớn vì
đặt Trung Quốc vào tình thế lưỡng đầu thọ địch khi xảy ra chiến tranh với Việt Nam hoặc Liên Xô.
Về phía Liên Xô, nguy cơ bị cô lập về ngoại giao sau khi quan hệ Trung Quốc – Hoa Kỳ trở nên nồng ấm khiến Moskva buộc
phải tìm cách tăng cường quan hệ đối với Việt Nam. 2.
Quan hệ Việt Nam – Campuchia – Trung Quốc.
2.1. Bối cảnh.
Năm 1975, sau khi lên nắm quyền, Khmer Đỏ bác bỏ đề nghị đàm phán xây dựng mối quan hệ đặc biệt từ phía Việt Nam do lo
ngại Việt Nam âm mưu áp đảo Campuchia và lôi kéo Campuchia vào Liên bang Đông Dương. Khmer Đỏ tìm đến Trung Quốc để có được
sự hậu thuẫn của nước này dù rằng Trung Quốc từng ủng hộ Hoàng thân Norodom Sihanouk chống lại Khmer Đỏ suốt những năm 1960
và không nhiệt tình ủng hộ họ chống Lon Nol. Trung Quốc đồng ý ủng hộ Khmer Đỏ, nhưng tuyên bố rằng chính phủ mới sẽ được dẫn
dắt bởi Sihanouk. Trung Quốc ủng hộ Khmer Đỏ do nước này cần một đồng minh tại Đông Nam Á để thay thế cho Việt Nam trong lúc
quan hệ Việt – Trung ngày càng xấu đi, đồng thời Trung Quốc cho rằng Việt Nam sẽ bành trướng ở Đông Dương nên cần phải ngăn chặn
"nguy cơ bá quyền của Việt Nam"
Khmer Đỏ muốn lấy lại các lãnh thổ thuộc đế quốc Khmer cũ đã bị các quốc gia láng giềng như Thái Lan, Việt Nam chiếm từ
thế kỷ XVIII trở về trước. Hành động này bắt nguồn từ chủ nghĩa dân tộc, đã được khơi dậy từ thời Pháp thuộc, từng được cả Sihanouk và
Lon Nol ủng hộ. Sihanouk, Lon Nol và sau này là Pol Pot đều xem các nước lân cận là kẻ thù truyền kiếp vì đã tiêu diệt đế quốc Khmer,
xâm chiếm đất đai của Campuchia.
Quan hệ Việt Nam – Campuchia ngày càng đi xuống, thể hiện ngay từ tháng 5 năm 1975 khi Khmer Đỏ cho quân đánh chiếm
các đảo Phú Quốc và Thổ Chu và bắt đi hàng trăm dân thường, lên cao trào vào những năm 1977–1978 khi Khmer Đỏ nhiều lần đánh sâu
vào lãnh thổ Việt Nam, tàn sát hàng chục nghìn dân thường. Trong suốt thời gian đó và cả về sau, Trung Quốc luôn là nước viện trợ đắc
lực cho Khmer Đỏ về vũ khí, khí tài cũng như cố vấn quân sự. Chính phủ Việt Nam nhiều lần đề nghị Trung Quốc giúp đỡ dàn xếp quan
hệ giữa Việt Nam và Campuchia, song Trung Quốc im lặng.
Cuối năm 1978, căng thẳng giữa Việt Nam với Campuchia cũng như Trung Quốc đều lên một nấc thang mới. Cùng lúc căng
thẳng Việt Nam – Trung Quốc lên cao thì ở biên giới phía Tây Nam của Việt Nam, chính quyền Khmer Đỏ, với sự bảo trợ của Trung
Quốc, cũng bắt đầu leo thang hoạt động quân sự xâm lấn miền Nam Việt Nam.
Các xung đột lẻ tẻ ở khu vực này đã nhanh chóng bùng nổ thành Chiến tranh biên giới Việt Nam – Campuchia với hệ quả là
Việt Nam đưa quân vào Campuchia lật đổ chính quyền diệt chủng Khmer Đỏ.
Đứng trước tình hình đó, Trung Quốc quyết định tấn công xâm lược Việt Nam với lý do "dạy cho Việt Nam một bài học" (lời
của Đặng Tiểu Bình) nhưng mục đích chính là phân chia lực lượng quân đội của Việt Nam để giúp chính quyền diệt chủng Khmer Đỏ.
Trung Quốc có được lý do để tuyên bố về cuộc chiến chống Việt Nam sắp tiến hành. Sau khi Phnôm Pênh thất thủ, ngày 27 tháng 1 năm
1979 tờ Nhân dân Nhật báo (Trung Quốc) có bài viết, trong đó có đoạn: "Sự thất thủ của Phnôm Pênh không có nghĩa là chiến tranh chấm
dứt mà chỉ là khởi đầu" và "vấn đề Campuchia đóng vai trò vật xúc tác để đẩy các quan hệ với Việt Nam vượt quá một điểm không thể
nào quay trở lại được nữa".
Trong khi đó, Đặng Tiểu Bình nổi lên trở thành người lãnh đạo quyền lực nhất Trung Quốc. Đặng nhìn thấy cả rắc rối lẫn cơ
hội trong mối quan hệ khó khăn với Việt Nam và cho rằng cách tốt nhất để nắm lấy những cơ hội này là một hành động quân sự. Trong
chuyến thăm Đông Nam Á tháng 12 năm 1978, tại một cuộc trả lời phỏng vấn được Trung Quốc truyền hình trực tiếp, Đặng Tiểu Bình
tuyên bố: "Việt Nam là côn đồ, phải dạy cho Việt Nam bài học" mà ngày hôm sau báo chí chính thức của Trung Quốc cắt ngắn thành
"phải dạy cho Việt Nam bài học".
Việc Trung Quốc lựa chọn thời điểm tấn công Việt Nam cũng hết sức thuận lợi cho Trung Quốc. Đặng Tiểu Bình vừa kết thúc
chuyến công du sang Mỹ, cùng với việc ông ta lớn tiếng đe dọa "dạy cho Việt Nam một bài học", Trung Quốc tỏ ra họ có được hậu thuẫn
từ Hoa Kỳ, hoặc ít nhất là Mỹ cũng im lặng tán thành.
2.2. Nguyên nhân.
Một là, xuất phát từ chủ nghĩa dân tộc nước lớn của Trung Quốc, họ luôn muốn Việt Nam suy yếu, làm đệm an toàn ở phía
Nam Trung Quốc. Khi thấy bị ngăn cản, không thực hiện được mục đích, Trung Quốc bằng các âm mưu, thủ đoạn, kể cả đẩy dân tộc
Campuchia vào họa diệt chủng, xâm lược Việt Nam để đạt được mục đích của mình.
Hai là, sự kiện Việt Nam giúp nhân dân Campuchia thoát khỏi họa diệt chủng Khmer Đỏ (do Trung Quốc ủng hộ), Trung Quốc
vu cáo Việt Nam “xâm lược Campuchia”, ngả về phía Liên Xô và thực hiện các mục tiêu chiến lược bành trướng ảnh hưởng của Liên Xô khắp Đông Dương.
Ba là, lấy cớ Việt Nam xua đuổi người Hoa về nước, nhưng thực chất Trung Quốc đã sử dụng vấn đề Hoa kiều để ép Việt Nam
theo các chính sách của mình và đã kích động người Hoa về nước nhằm tạo cớ.
2.3. Mục tiêu.
Về chính trị: Là buộc Việt Nam phải rút quân khỏi Campuchia, cứu chính quyền Pol Pot và cải thiện quan hệ với Mỹ. Trung
Quốc muốn trở thành một cường quốc trên thế giới, thống trị ở châu Á và muốn giảm sự phụ thuộc vào Liên Xô và tìm kiếm mối quan hệ
hợp tác với Mỹ để trở thành một cường quốc toàn diện trên thế giới.Chiến tranh biên giới Việt – Trung năm 1979 đã có tác động lớn đến
sự phát triển của cả hai nước.
Về quân sự: Cuộc chiến tranh biên giới Việt – Trung năm 1979 là một sự kiện lịch sử quan trọng trong lịch sử hai nước, đặc
biệt là trong quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc. Cuộc chiến này được Trung Quốc khởi đầu với mục tiêu tiêu diệt một phần quan
trọng của quân đội Việt Nam, rút lực lượng chủ lực của họ từ Campuchia để trừng phạt. Thời điểm này, quân đội Việt Nam đang đối mặt
với nhiều khó khăn trong việc giải quyết các vấn đề nội bộ và cũng đang trong giai đoạn quan trọng trước khi hoàn tất việc rút quân ra
khỏi Campuchia. Với cuộc tấn công này, Trung Quốc muốn tiêu diệt một phần chính quy của quân đội Việt Nam, lôi những sư đoàn chủ
lực của Việt Nam từ Campuchia về những “cối xay thịt” để trừng phạt. Đồng thời, cuộc tấn công cũng tạo ra nhu cầu cải tiến, hiện đại hóa quân đội Trung Quốc.
Về kinh tế: Trung Quốc đặt mục tiêu kinh tế là làm suy yếu nền kinh tế của Việt Nam, buộc nước này phải phụ thuộc vào Trung
Quốc. Điều này được thực hiện bằng cách cô lập nền kinh tế Việt Nam, cắt đứt các đường giao thương và vận tải và áp đặt các biện pháp
kinh tế trừng phạt. Trung Quốc sử dụng cuộc tấn công Việt Nam nhằm chuyển hướng sự chú ý của dư luận khỏi sự tranh chấp lớn hơn
trong nội bộ Trung Quốc và tạo cơ hội để thúc đẩy quá trình hiện đại hóa. Hiện đại hóa quân đội được coi là một trong những yếu tố quan trọng.
Đối với Việt Nam, cuộc chiến là một phần trong kế hoạch bành trướng về phía nam của Trung Quốc. Trước khi có xung đột,
Việt Nam đã đề phòng những kế hoạch tiến xuống Đông Dương (bao gồm biển Đông). Trung Quốc đã viện trợ vũ khí, thuốc men và các
nhu yếu phẩm khác cho Campuchia và xây dựng nhiều cơ sở hạ tầng, đồng thời xúi giục Khmer Đỏ tấn công Việt Nam. Sau khi khống
chế Campuchia rồi sẽ dùng bàn đạp để phối hợp với quân Trung Quốc ở phía bắc làm thế gọng kìm bao vây, nếu cần sẽ tấn công để buộc
Việt Nam khuất phục. Theo phân tích của phía Việt Nam, mục tiêu chính của Trung Quốc trong hành động quân sự lần này gồm:
Nhanh chóng chiếm đóng vùng biên giới Việt – Trung, đặc biệt là các thị xã trọng yếu gồm Lạng Sơn (chốt chặn nối Quốc lộ 1
của Việt Nam với Trung Quốc), Cao Bằng và Lào Cai. Vùng chiếm đóng dự kiến với bề sâu chừng vài chục km sẽ được Trung Quốc sử
dụng làm bàn đạp cho các cuộc tấn công vào sâu nội địa Việt Nam.
Tiêu hao lực lượng chủ lực và làm suy yếu khả năng phòng ngự phía Việt Nam bằng việc quét sạch các đồn biên phòng, tiêu
diệt một phần lực lượng quân địa phương và các đơn vị quân độc lập khác của Việt Nam.
Hủy diệt cơ sở hạ tầng và nền kinh tế ở các vùng chiếm đóng để đưa nền kinh tế Việt Nam tới chỗ sụp đổ. 3.
Các bước đi và toan tính từ trước của Trung Quốc
3.1. Bối cảnh.
Thời điểm đó, quan hệ giữa Liên Xô và Trung Quốc ngày càng trở lên căng thẳng. Quan hệ Xô - Trung lúc đó chuyển từ bình
thường, thậm chí tốt đẹp, sang đối đầu. Quan hệ Liên Xô - Trung Quốc rạn nứt nghiêm trọng trong lúc quan hệ Liên Xô - Việt Nam ngày càng gắn bó.
Khi cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới Tây Nam, giúp đỡ nhân dân Campuchia thoát khỏi chế độ diệt chủng tàn bạo càng giành
chiến thắng, quan hệ Trung Quốc - Việt Nam cũng càng thêm căng thẳng, thậm chí xảy ra tranh chấp, xâm lấn biên giới. Quan hệ giữa
Việt Nam và Trung Quốc dần xấu đi nghiêm trọng khi Trung Quốc không đạt được mục đích gây áp lực với Việt Nam trong vấn đề Campuchia.
Giữa năm 1978, Trung Quốc đã hoàn chỉnh các phương án tác chiến, các đơn vị quân đội Trung Quốc đã sẵn sàng mở cuộc tiến
công quân sự quy mô lớn chống Việt Nam, chỉ cần thời cơ đến là phát động chiến tranh.
Ngay từ cuối năm 1978, Trung Quốc đã âm thầm lựa chọn, điều động lực lượng binh lực cùng số lượng lớn trang thiết bị vũ khí
áp sát trên toàn tuyến biên giới với Việt Nam.
Cũng từ tháng 1-1979, Trung Quốc bắt đầu đẩy mạnh các hoạt động trinh sát vũ trang để chuẩn bị cho chiến dịch xâm chiếm
dọc biên giới với Việt Nam.
Trung Quốc đẩy mạnh việc chuẩn bị trên mặt trận ngoại giao, tiến hành nhiều hoạt động ngoại giao con thoi ở khu vực và thế
giới, trong đó đặc biệt là chuyến công du Mỹ vào tháng 1-1979 của lãnh đạo Trung Quốc Đặng Tiểu Bình. Trong nước, Trung Quốc cũng
tiến hành chuẩn bị kỹ lưỡng về tuyên truyền với đỉnh điểm tuyên bố của Đặng Tiểu Bình "dạy cho Việt Nam một bài học".
Cuộc chiến xâm chiếm trên toàn tuyến biên giới Việt Nam bùng nổ sáng sớm ngày 17-2-1979 là kết quả một quá trình chuẩn bị,
tính toán từ trước của Trung Quốc!
Cuộc chiến đấu khẳng định chủ quyền và chính nghĩa
Cuộc tấn công được bắt đầu vào 3 giờ 30 phút sáng ngày 17/2/1979. Trung quốc bất ngờ đưa quân tràn vào biên giới, đồng loạt
tấn công 6 tỉnh biên giới lãnh thổ Việt Nam từ Pa Nậm Cúm ( Lai Châu) đến Pó Hèn ( Quảng Ninh) với chiều dài 1.200km
Tối 17/2/1979, Thông tấn xã Việt Nam kêu gọi Liên Xô và các nước anh em giúp đỡ bảo vệ Việt Nam chống lại cuộc chiến
tranh xâm lược của Trung Quốc. Bộ Ngoại giao Việt Nam cũng gửi ngay Công hàm cho Liên Hợp Quốc kêu gọi Trung Quốc ngừng ngay cuộc chiến xâm lược
Trước tình cảnh Tổ quốc lâm nguy, thêm một lần nữa, quân và dân Việt Nam không còn con đường nào khác là buộc phải cầm
súng chiến đấu để bảo vệ độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của mình. Đây là thử thách đầy khắc nghiệt với dân tộc
Việt Nam trong hoàn cảnh lịch sử lúc bấy giờ. Với tinh thần "Không có gì quý hơn độc lập, tự do", quân và dân ta, nhất là ở các
tỉnh Việt Bắc và Tây Bắc, một lần nữa đã phát huy cao độ truyền thống cách mạng, sát cánh cùng các lực lượng vũ trang, kiên quyết chiến
đấu, bảo vệ chủ quyền lãnh thổ thiêng liêng của Tổ quốc.
Sự chênh lệch về lực lượng, về vũ khí trang bị là rất lớn.Thế nhưng, tinh thần chiến đấu của quân và dân ta là anh dũng vô song.
Lực lượng ít hơn đội quân Trung Quốc hàng chục lần nhưng quân và dân biên giới đã chiến đấu ngoan cường, anh dũng chặn đứng bước
tiến của đội quân đông hơn gấp bội.
Sự đánh trả dũng mãnh bảo vệ biên giới của quân và dân ta đã gây thiệt hại nặng nề cho quân Trung Quốc. Khoảng 6 vạn quân
Trung Quốc đã bị thương vong cùng hàng trăm tù binh bị bắt sống. Thiệt hại nặng nề trên chiến trường, bị dư luận thế giới lên án, Trung
Quốc buộc phải rút quân vào ngày 6-3-1979.Cuộc chiến tranh diễn ra trong một thời gian ngắn, chỉ kéo dài vài tuần, nhưng gây ra nhiều
thương vong và thiệt hại cho cả hai bên.
Nhìn lại cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới phía Bắc của Tổ quốc năm 1979, chúng ta một lần nữa thấy rõ sự thật lịch sử: Nhân
dân Việt Nam không bao giờ chịu quỳ gối trước bất kỳ thế lực xâm lược ngoại bang nào. Nó khẳng định ý chí, sức mạnh bền bỉ của nhân
dân Việt Nam quyết tâm vượt qua mọi khó khăn, thử thách để bảo vệ độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc
3.2. Hậu chiến.
Sau khi chiến tranh kết thúc, Việt Nam và Trung Quốc nối lại đàm phán về vấn đề biên giới. Cuộc đàm phán Việt – Trung lần
ba diễn ra vào năm 1979 với hai vòng đàm phán. Trong vòng đàm phán thứ nhất phía Việt Nam cho rằng, trước hết cần vãn hồi hòa bình,
tạo không khí thuận lợi để giải quyết những vấn đề khác. Đoàn Việt Nam đưa ra phương án ba điểm để giải quyết vấn đề biên giới: chấm
dứt chiến sự, phi quân sự hóa biên giới; khôi phục giao thông, vận tải bình thường trên "cơ sở tôn trọng đường biên giới lịch sử mà các
Hiệp định Trung – Pháp năm 1887 và 1895 đã thiết lập". Phía Trung Quốc kiên quyết từ chối những đề nghị của Việt Nam, đưa ra đề nghị
tám điểm của mình, bác bỏ việc phi quân sự hóa biên giới, đề nghị giải quyết các vấn đề lãnh thổ trên "cơ sở những công ước Trung –
Pháp" chứ không phải trên cơ sở đường ranh giới thực tế do các Hiệp định đó đưa lại. Trung Quốc cũng đòi Việt Nam thừa nhận các quần
đảo Hoàng Sa và Trường Sa là "một bộ phận không thể tách rời của lãnh thổ Trung Quốc"; Việt Nam phải rút quân ra khỏi Trường Sa,
thay đổi chính sách với Lào và Campuchia, giải quyết vấn đề Campuchia. Trung Quốc cũng yêu cầu Việt Nam nhận lại những người Hoa
đã ra đi. Trong quan hệ với các nước khác: "Không bên nào sẽ tham gia bất cứ khối quân sự nào chống bên kia, cung cấp căn cứ quân sự
hoặc dùng lãnh thổ và các căn cứ các nước khác chống lại phía bên kia"; "Việt Nam không tìm kiếm bá quyền ở Đông Dương hay ở bất
cứ nơi nào" làm điều kiện để tiến hành thương lượng.
Vòng đàm phán thứ hai được tổ chức tại Bắc Kinh từ ngày 8 tháng 6 năm 1979. Đoàn đại biểu Việt Nam đề nghị hai bên cam
kết không tiến hành các hoạt động thám báo và trinh sát dưới mọi hình thức trên lãnh thổ của nhau; không tiến hành bất cứ hoạt động tiến
công, khiêu khích vũ trang nào, không nổ súng từ lãnh thổ bên này sang bên kia, cả trên bộ, trên không, trên biển; không có bất cứ hành
động gì uy hiếp an ninh của nhau. Việt Nam cũng đưa ra những quan điểm của mình về "chống bá quyền" với ba nội dung chính: Không
bành trướng lãnh thổ dưới bất cứ hình thức nào, chấm dứt ngay việc chiếm đoạt đất đai của nước kia, không xâm lược, không dùng vũ lực
để "trừng phạt" hoặc để "dạy bài học"; không can thiệp vào quan hệ của một nước với nước khác, không can thiệp vào công việc nội bộ
của nước khác, không áp đặt tư tưởng, quan điểm, đường lối của mình cho nước khác; không liên minh với các thế lực phản động khác
chống lại hòa bình, độc lập dân tộc. Trong vòng đàm phán này, Trung Quốc chủ yếu chỉ trích Việt Nam về việc "buộc" Trung Quốc phải
thực hiện "chiến tranh tự vệ", đề cập đến một số vấn đề liên quan đến quan hệ hai nước và lập trường tại khu vực, không tập trung giải
quyết thực chất vấn đề biên giới. Đầu năm 1980, Trung Quốc đơn phương đình chỉ vòng ba, không nối lại đàm phán. Việt Nam liên tiếp
gửi công hàm yêu cầu họp tiếp vòng ba, nhưng Trung Quốc làm ngơ. Trong những năm 1979–1982, Việt Nam nhiều lần đề nghị nối lại
các cuộc đàm phán đã bị Trung Quốc đơn phương bỏ dở, nhưng Trung Quốc vẫn một mực khước từ.
3.3. Hậu quả.
Cuộc chiến tranh biên giới năm 1979 đã để lại một dấu ấn đau đớn trong lịch sử Việt Nam và Trung Quốc. Bên cạnh sự mất mát
về người và tài sản, chiến tranh còn gây ra nhiều tác động phức tạp và kéo dài trong nhiều năm sau đó.Theo ước tính, khoảng 50.000 binh
sĩ Việt Nam đã hy sinh trong cuộc chiến, trong khi đó, 2.173 người đã đầu hàng và 916 khẩu đại bác cùng 16.000 khẩu súng và xe ô tô đã
bị thu giữ. Nhiều quân sĩ Trung Quốc cũng đã bị tiêu diệt trong cuộc chiến này.Các tỉnh phía Bắc của Việt Nam đã bị chiếm đóng trong
một thời gian dài, và dân lành đã phải chịu đựng những hậu quả nghiêm trọng như bị giết, bị thương và bị cướp phá. Nhiều tài sản, công
trình và mùa màng đã bị thiệt hại nặng nề. Ngoài ra, Trung Quốc còn đã đốt các mỏ apatit, gây ảnh hưởng xấu đến môi trường sống của
người dân. Chiến tranh biên giới đã gây ảnh hưởng đến kinh tế, chính trị và xã hội của Việt Nam trong nhiều năm sau đó. Việc phục hồi
lại đời sống mọi mặt đã đòi hỏi sự nỗ lực và cố gắng rất lớn.Trong khi đó, Trung Quốc cũng đã phải đối mặt với nhiều thiệt hại, với hàng
loạt xe tăng, thiết giáp và pháo bị phá hủy và nhiều quân sĩ bị thương vong. Tuy nhiên, họ vẫn cố gắng chiếm đóng lãnh thổ Việt Nam sau
chiến tranh. Mặc dù hai nước đã ký một số hiệp định không chiến tranh, tuy nhiên Trung Quốc vẫn tiếp tục âm mưu chiếm đóng Việt
Nam. Vì vậy, Việt Nam vẫn phải cảnh giác và tiếp tục củng cố đời sống mọi mặt và tập trung huấn luyện bộ đội sẵn sàng đánh giặc ngoại xâm bất cứ lúc nào.
Tuy Việt Nam và Trung Quốc đều tuyên bố chiến thắng trong cuộc chiến nhưng cả hai bên đều phải chịu thiệt hại nặng nề về
người và tài sản.Cuộc chiến đặc biệt để lại nhiều tác hại lớn cho phía Việt Nam, đặc biệt là nền kinh tế. Ngoài các thương vong về con
người, tổn thất cụ thể về cơ sở vật chất hạ tầng ở 6 tỉnh biên giới bị phá hủy do trận chiến, Việt Nam còn phải gánh chịu nhiều khó khăn,
thiệt hại do thái độ và chính sách thù địch, vây hãm mà Trung Quốc và đồng minh của Trung Quốc gây ra trên các mặt trận quân sự, kinh tế, ngoại giao,...
Theo tuyên bố của Việt Nam, kết quả chiến đấu của họ như sau:
Mặt trận Lạng Sơn: diệt 19.000 lính Trung Quốc, phá hủy 76 xe tăng, xe thiết giáp và 52 xe quân sự, 95 khẩu pháo cối và giàn
phóng hỏa tiễn, tiêu diệt và đánh thiệt hại nặng 3 trung đoàn, 4 tiểu đoàn (có hơi khác biệt so với ký sự Sư đoàn Sao Vàng). Về phía Việt
Nam tại mặt trận này, sư đoàn 3 bị tổn thất khoảng 660 chết và 840 bị thương, sư đoàn 337 tổn thất khoảng 650 tử trận, sư đoàn 338 tổn
thất khoảng 260 tử trận, sư đoàn 327 chưa có số liệu. 20 cá nhân và 14 đơn vị được phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang
nhân dân, Quân đoàn 5 được mang danh hiệu “Binh đoàn Chi Lăng”, Sư đoàn 337 được tặng danh hiệu “Sư đoàn Khánh Khê”
Mặt trận Cao Bằng: diệt 18.000 lính Trung Quốc, phá hủy 134 xe tăng, thiết giáp và 23 xe quân sự, tiêu diệt và đánh thiệt hại
nặng 7 tiểu đoàn. 5 cá nhân và 17 đơn vị đã được phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân. Sư đoàn 311 được mang
danh hiệu “Sư đoàn Đông Khê”; Trung đoàn 567 được nhân dân địa phương tặng danh hiệu “Trung đoàn Khâu Chỉa”, “Trung đoàn Phục Hòa”.
Mặt trận Hoàng Liên Sơn (Lào Cai): diệt 11.500 lính Trung Quốc, phá hủy 66 xe tăng, thiết giáp và 189 xe quân sự, tiêu diệt và
đánh thiệt hại nặng 4 tiểu đoàn. 12 cá nhân và 6 đơn vị được phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân.
Mặt trận Quảng Ninh, Lai Châu và Hà Tuyên (Hà Giang): diệt 14.000 lính Trung Quốc, phá hủy 4 xe tăng, thiết giáp, 6 xe quân
sự, tiêu diệt và đánh thiệt hại nặng 3 tiểu đoàn. 11 cá nhân và 6 đơn vị chiến đấu trên hướng Lai Châu, 2 cá nhân và 5 đơn vị chiến đấu
trên hướng Quảng Ninh, 1 cá nhân và 1 đơn vị công an biên phòng tại Hà Tuyên được phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân.
Tỷ lệ tử vong hỏa tuyến trong những ngày đầu chiến tranh khá cao (thương binh 5,7% trong 30 ngày chiến đấu) do không đảm
bảo về vận tải, quân y và sơ cứu. Tình hình tốt hơn từ tuyến quân y trung đoàn và các tuyến sau.
3.4. Đánh giá
Cả Việt Nam và Trung Quốc đều tuyên bố chiến thắng.
Phía Việt Nam: Lời nói đầu Hiến pháp Việt Nam năm 1980 khẳng định "Vừa trải qua ba mươi năm chiến tranh giải phóng,
đồng bào ta thiết tha mong muốn có hoà bình để xây dựng Tổ quốc, nhưng lại phải đương đầu với bọn bá quyền Trung Quốc xâm lược
cùng bè lũ tay sai của chúng ở Campuchia. Phát huy truyền thống vẻ vang của dân tộc, quân và dân ta đã giành được thắng lợi oanh liệt
trong hai cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc chống bọn phản động Campuchia ở biên giới Tây Nam và chống bọn bá quyền Trung Quốc ở
biên giới phía Bắc, bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của mình".
Phía Trung Quốc: Đặng Tiểu Bình khẳng định mặc dù có nhiều thất bại về quân sự nhưng Trung Quốc "đã đạt được chiến thắng
về chính trị và chiến thắng chung cuộc". Ông còn khẳng định quân Trung Quốc "đã có thể tiến thẳng tới Hà Nội nếu muốn". Quan điểm ít
phổ biến hơn là của Trần Vân (Phó Thủ tướng, một trong 5 nhân vật quan trọng nhất của Đảng Cộng sản Trung Quốc, cùng với Mao
Trạch Đông, Lưu Thiếu Kỳ, Chu n Lai và Chu Đức) cho rằng việc chiếm được Hà Nội không phục vụ được mục đích gì cả, cuộc chiến sẽ
có chi phí nặng nề quá sức chịu đựng nếu kéo dài thêm 6 tháng nữa, và vì lý do tài chính không nên lặp lại một cuộc chiến không phân thắng bại như vậy.
Trong bài phát biểu của Đặng Tiểu Bình tại hội nghị quân chính nội bộ ngày 16 tháng 4 năm 1979 (sau khi rút quân về nước 1
tháng), Đặng Tiểu Bình chỉ trích gay gắt các quan chức chính quyền và các lãnh đạo quân đội về những sai lầm trong chiến dịch: "Đánh
lần này vũ khí, quân số đều gấp mấy lần Việt Nam. Chiến đấu ở Cao Bằng chí ít là 5 đánh 1, 6 đánh 1. Chiến đấu ở Lạng Sơn, Lào Cai
cũng đều gấp mấy lần, thậm chí 6 đánh 1, 7 đánh 1…" nhưng "…thương vong của chúng ta gấp 4 lần so với Việt Nam. Thần thoại của
chúng ta đã bị hủy diệt” (ý nói về uy thế của Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc).
V. Bài học kinh nghiệm.
Trong hội nghị bàn về quy chế phối hợp giữa Mặt trận Tổ quốc và Chính phủ năm 2014, khi một số đại biểu đề cập tới cuộc
chiến tranh biên giới phía Bắc, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã trả lời: "Đảng, Nhà nước không bao giờ quên công lao của đồng bào
chiến đấu, hy sinh để giành thắng lợi trong cuộc chiến chống xâm lược ngày 17/2/1979". Thủ tướng cho biết, tất cả chiến sĩ hy sinh đều
nằm ở nghĩa trang, được nhang khói và nhấn mạnh: “Chúng ta làm gì cũng phải tính lợi ích cao nhất của đất nước".Chính sách cho cán
bộ, chiến sĩ tham gia bảo vệ biên giới phía Bắc được hưởng theo Quyết định số 62/2011/QĐ-TTg, năm 2011 của Thủ tướng và Nghị định
23/2012/NĐ-CP của Chính phủ.
Tiếp tục chuyến công tác tại các tỉnh biên giới phía Bắc, sáng 17/2/2016, Chủ tịch nước Trương Tấn Sang cùng đoàn công tác
Trung ương đã đến dâng hương tại nghĩa trang liệt sĩ huyện Trà Lĩnh – nơi yên nghỉ của hơn 300 liệt sĩ đã anh dũng hy sinh ngay trong
những ngày đầu nổ súng của cuộc chiến bảo vệ biên giới phía Bắc năm 1979. Để ghi nhớ công lao và bày tỏ tấm lòng biết ơn vô hạn đến
các anh hùng liệt sĩ, Chủ tịch nước Trương Tấn Sang và các thành viên trong đoàn đã thắp hương từng ngôi mộ. Hiện nay, Nghĩa trang
huyện Trà Lĩnh được các đơn vị bộ đội biên phòng, chính quyền địa phương, thân nhân các liệt sĩ và các tổ chức xã hội như Đoàn Thanh
niên, Phụ nữ, Cựu chiến binh thường xuyên chăm sóc, hương khói. Một số tỉnh phía Bắc và Bộ Quốc phòng đang xây dựng đề án tiếp tục
tìm kiếm và quy tập hài cốt các liệt sĩ trong các cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới phía Bắc giai đoạn 1979–1988.
Năm 2017, vài chục người tập trung lại tại tượng đài vua Lý Thái Tổ ở Hà Nội để tưởng niệm Chiến tranh Biên giới Việt –
Trung 1979 trong sự hiện diện của rất đông cảnh sát, công an, an ninh... Nhà cầm quyền đã dùng loa đề nghị đám đông giải tán.Theo báo
điện tử BBC tiếng Việt, khoảng một chục người, trong đó có các nhà hoạt động và văn nghệ sĩ, đã bị câu lưu trong lễ tưởng niệm cuộc
chiến biên giới Việt – Trung 17/2/1979 tại Hà Nội và Tp Hồ Chí Minh. Bên cạnh đó là cáo buộc đã xảy ra tình trạng phá đám, bắt cóc
người trái pháp luật, phá rối những người đi tưởng niệm của các cơ quan an ninh Việt Nam. Theo trang web của Quốc hội Việt Nam, một
số hoạt động tưởng niệm đã bị một số đối tượng xấu lợi dụng để tổ chức biểu tình trái phép, gây rối trật tự.Cũng trong ngày 17/02/2017,
đoàn Cựu chiến binh Hà Nội từng tham chiến ở chiến trường phía Bắc do Trung tướng Nguyễn Như Hoạt – Anh hùng Lực lượng vũ
trang, nguyên Tư lệnh Quân khu Thủ đô, nguyên Sư đoàn trưởng Sư đoàn 3 – dẫn đầu đã lên tận Nghĩa trang Cao Lộc (huyện Cao Lộc),
Nghĩa trang Hoàng Đồng (thành phố Lạng Sơn) để thắp hương và cầu nguyện cho những đồng đội đã hy sinh trong cuộc chiến.Theo AP,
không có hoạt động chính thức của chính phủ đánh dấu sự kiện này, những thông tin về cuộc chiến đã được tường thuật rộng rãi trong các
phương tiện truyền thông nhà nước. Báo Asia Times cho rằng việc nhiều hãng tin Việt Nam, do nhà nước kiểm soát, những năm gần đây
nhắc lại chiến tranh biên giới năm 1979, cho đến bây giờ vẫn là một chủ đề cấm kỵ, có thể là tín hiệu Đảng Cộng sản cầm quyền Việt
Nam cuối cùng cũng đã nới lỏng sự kiểm duyệt tin tức về cuộc xung đột quân sự này.
Quá khứ bi hùng đó nhắc nhở chúng ta, tất cả các thế hệ người Việt Nam hôm nay và mai sau, phải luôn tăng cường đoàn kết,
xây dựng đất nước giàu mạnh để đủ sức đối phó với mọi tình huống trong một thế giới tiềm ẩn nhiều nguy cơ, bất trắc. Trên cơ sở đó, có
chiến lược bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa; chủ động ngăn ngừa các nguy cơ chiến tranh, xung đột; phát huy truyền thống "giữ nước từ khi nước chưa nguy".
Cuộc chiến đấu này cần được lịch sử ghi lại để thế hệ trẻ hôm nay hiểu rõ hơn về tính chính nghĩa, sự quả cảm của thế hệ đi
trước bảo vệ chủ quyền độc lập và toàn vẹn lãnh thổ bằng mọi giá. Nhắc lại cuộc chiến đấu bảo vệ Tổ quốc và diễn biến những gì xảy ra ở
biên giới phía Bắc năm 1979, để các thế hệ mai sau trân trọng giá trị của hòa bình. Nhân dân Việt Nam và nhân dân Trung Quốc đều
mong muốn hòa bình, ổn định, hợp tác và phát triển.
Chủ đề 4: Đại hội VI (12-1986) (Tại sao Việt Nam phải tiến hành đổi mới? Nội dung cơ bản của Đại
hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng).
Lập bảng so sánh giữa 2 thời kỳ: trước đổi mới và Đổi mới trên các nội dung cơ bản sau: về cơ chế
quản lý kinh tế; về cải tạo XHCN; về giá cả; về sản xuất hàng hoá; quan niệm về nền kinh tế thị
trường; về công nghiệp hoá (sau này là công nghiệp hoá - hiện đại hoá, hội nhập quốc tế…
Bài làm
I. Việt Nam tiến hành công cuộc đổi mới.
Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ VI diễn ra vào tháng 12 năm 1986 đã đánh dấu bước ngoặt quan trọng trong lịch sử
chính trị và kinh tế của Việt Nam. Được biết đây là cuộc họp quan trọng mở đường cho việc triển khai Chính sách Đổi mới.
Đại hội nhận định: "Năm năm qua là một đoạn đường đầy thử thách đối với Đảng và nhân dân ta. Cách mạng nước ta diễn ra
trong bối cảnh quốc tế và trong nước có những thuận lợi cơ bản, nhưng cũng có nhiều khó khăn phức tạp. Thực hiện những nhiệm vụ và
mục tiêu do Đại hội lần thứ V của Đảng đề ra, nhân dân ta anh dũng phấn đấu, khắc phục khó khăn, vượt qua trở ngại, đã đạt được những
thành tựu quan trọng trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, giành những thắng lợi to lớn trong cuộc chiến đấu bảo vệ Tổ quốc và
làm nghĩa vụ quốc tế". Đất nước lâm vào tình trạng khủng hoảng trầm trọng về kinh tế - xã hội. Một trong những nguyên nhân của tình
trạng đó là do “sai lầm nghiêm trọng và kéo dài về chủ trương, chính sách lướn, sai lầm về chỉ đạo chiến lược và tổ chức thực hiện”. Để
khắc phục sai lầm, khuyết điểm, đưa đất nước vượt qua khủng hoảng và vững bước tiến lên chủ nghĩa xã hội, phải tiến hành công cuộc đổi mới.
Cuộc khủng hoảng toàn diện, trầm trọng ở Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa khác cũng đòi hỏi Đảng và Nhà nước Việt
Nam phải tiến hành đổi mới. Như vậy đổi mới là yêu cầu cấp bách, có ý nghĩa sống còn đối với chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, đồng thời là
vấn đề phù hợp với xu thế chung của thời đại.
1. Nội dung của Đại hội
Trên cơ sở thực tiễn cách mạng của 10 năm vừa qua, Đại hội nêu lên bốn bài học kinh nghiệm có tính thời sự chính trị nóng hổi:
"Một, trong toàn bộ hoạt động của mình, Đảng phải quán triệt tư tưởng”, "Lấy dân làm gốc", xây dựng và phát huy quyền làm
chủ tập thể của nhân dân lao động. Hai, Đảng phải luôn luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan. Ba,
phải biết kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại trong điều kiện mới. Bốn, phải chăm lo xây dựng đảng ngang tầm với
một đảng cầm quyền lãnh đạo nhân dân tiến hành cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa".
Mục tiêu: Dân giàu nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh; thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “xây dựng
lại đất nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp hơn”, “xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh”.
Về Kinh tế:
Xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với một cơ cấu hợp lý, một nền kinh tế với cơ cấu nhiều ngành
nghề, nhiều quy mô, trình độ công nghệ, với hai bộ phận chủ yếu là công nghiệp và nông nghiệp kết hợp chặt chẽ với nhau.
Phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần. Nhà nước bảo hộ quyền sở hữu hợp pháp, quyền bình đẳng của các thành phần
kinh tế; khuyến khích mọi thành phần kinh tế sản xuất kinh doanh. Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo.
Cải tạo quan hệ sản xuất, cải tạo đi đôi với sử dụng. Xóa bỏ cơ chế quản lý kinh tế tập trung, quan liêu, bao cấp hình thành cơ
chế thị trường có sự quản lý của nhà nước. Thực hiện nhiều hình thức phân phối, chủ yếu là phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả
kinh tế. Thực hiện chính sách mở cửa và hội nhập, mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại, mở rộng sự phân công lao động với sự hợp tác
quốc tế, tích cực khai thác nguồn vốn công nghệ và thị trường.
Về chính trị:
Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, nhà nước của, dân do dân và vì dân; lấy liên minh công nhân nông dân và
tầng lớp trí thức làm nên tảng, do đảng Cộng sản lãnh đạo
Xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, đảm bảo quyền lực thuộc về nhân dân, coi dân chủ vừa là mục tiêu vừa là động lực của
công cuộc đổi mới. Thực hiện quyền dân chủ của nhân dân, chuyên chính với mọi hành động xâm phạm lợi ích của Tổ quốc, của nhân dân
Thực hiện chính sách đại đoàn kết dân tộc, tập hợp mọi lực lượng dân tộc, phấn đấu vì sự nghiệp dân giàu nước mạnh, xã hội
dân chủ, công bằng, văn minh.
Thực hiện chính sách đối ngoại mở rộng, đa phương hó,a đa dạng hóa, vì hòa bình hữu nghị và hợp tác. Chủ động hội nhập quốc tế.
1. Bảng so sánh Tiêu chí
Trước đổi mới
Sau đổi mới
Cơ chế quản Kinh tế trước Đổi mới áp dụng kinh tế kế hoạch hóa tập trung,
Khi Đổi mới bắt đầu, áp dụng kinh tế thị trường hướng XHCN, mở rộng
lý nền kinh
khép kín hoặc chỉ quan hệ với các nước trong hệ thống XHCN.
quan hệ hợp tác theo xu thế quốc tế hóa, hội nhập kinh tế thế giới. tế
Cơ chế quản lý nền kinh tế thời kỳ này mang 5 đặc điểm chính:
Sau khi đổi mới, cơ chế quản lý nền kinh tế của nước ta đã có sự thay 1.
Quyết định tập trung: Các quyết định quan trọng về đổi toàn diện:
kinh tế được đưa ra từ trên cao, thường do chính phủ 1.
Mô hình kinh tế thị trường: Quyền sở hữu cá nhân và doanh
và các cơ quan trung ương quyết định. Nhà nước đóng
nghiệp được thúc đẩy, và thị trường tự do và cạnh tranh được
vai trò quan trọng trong việc quản lý và kiểm soát các
khuyến khích. Nhà nước chỉ đạo và điều tiết hoạt động kinh tế, hoạt động kinh tế.
tạo điều kiện cho doanh nghiệp hoạt động. 2.
Kinh tế trình độ thấp: Kinh tế trước Đổi mới chủ yếu 2.
Đa dạng hóa ngành nghề: Phát triển các ngành công nghiệp
là nền kinh tế trình độ thấp, với các ngành nông
mới và dịch vụ, đa dạng hóa cơ cấu kinh tế. Ngoài nông
nghiệp và các ngành công nghiệp truyền thống chiếm
nghiệp, phát triển các ngành công nghiệp hiện đại như điện tử,
ưu thế. Công nghệ và quy trình sản xuất thường còn
ô tô, công nghệ thông tin, du lịch và dịch vụ tài chính.
lạc hậu, gặp nhiều khó khăn và hạn chế. 3.
Tăng cường hội nhập quốc tế: Tăng cường quan hệ và hội 3.
Kiểm soát của nhà nước: Nhà nước có vai trò quan
nhập với nền kinh tế quốc tế. Tham gia hiệp định thương mại
trọng trong việc kiểm soát và quản lý các hoạt động
tự do và tổ chức kinh tế quốc tế, mở rộng thị trường xuất khẩu
kinh tế. Các quy định và hạn chế của nhà nước được
và thu hút đầu tư nước ngoài.
áp dụng rộng rãi, và doanh nghiệp và tư nhân có ít 4.
Tăng cường vai trò của tư nhân và doanh nghiệp: Khuyến
không gian tự do trong hoạt động kinh doanh.
khích sự phát triển của tư nhân và doanh nghiệp. Tạo điều kiện 4.
Hạn chế về thị trường tự do: Quan niệm về nền kinh tế
thuận lợi cho sự sáng tạo và khởi nghiệp.
thị trường và quyền sở hữu cá nhân không được thực 5.
Đổi mới công nghệ và quy trình sản xuất: Áp dụng công nghệ
hiện rộng rãi. Thị trường tự do và cạnh tranh không
tiên tiến, cải thiện chất lượng sản phẩm và hiệu suất sản xuất.
được khuyến khích, và sự can thiệp của nhà nước
Phát triển công nghệ thông tin và viễn thông, mở ra cơ hội
trong hoạt động kinh tế là phổ biến. kinh doanh trực tuyến. 5.
Hiện địa hóa hạn chế: Kinh tế trước Đổi mới gặp khó
khăn trong việc tiếp cận công nghệ tiên tiến và liên kết
với nền kinh tế quốc tế. Công nghiệp và sản xuất chủ
yếu tập trung vào thị trường nội địa và có ít liên kết
với thị trường quốc tế. Cải tạo
Trước Đổi mới, nông nghiệp và các ngành công nghiệp truyền Đổi mới đã tạo điều kiện cho cải tạo XHCN, tập trung vào phát triển XHCN thống chiếm ưu thế.
nông nghiệp hiện đại, công nghiệp hóa và phân công lao động hiệu quả
Tuy nhiên, quá trình này gặp phải nhiều khó khăn và mâu thuẫn. hơn. 1.
Kinh tế tăng trưởng chậm, lạm phát nghiêm trọng.
Sau thời kỳ này, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu to lớn trong quá 2.
Cơ sở vật chất kỹ thuật yếu kém, thiếu đồng bộ, trình trình cải tạo XHCN như:
độ kỹ thuật lạc hậu. 1.
Phục hồi và phát triển kinh tế: Việt Nam đã ra khỏi khủng 3.
Cải tạo một cách gò ép, chạy theo số lượng không coi
hoảng kinh tế, đạt được tốc độ tăng trưởng nhanh, tăng cường
trọng chất lượng, buông lỏng quản lý. Cơ chế kế
cơ sở vật chất và tạo tiền đề cho giai đoạn phát triển mới công
hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp được duy trì
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
quá lâu. Nhiều chính sách thể chế lỗi thời chưa được 2.
Cải cách chính trị: Các lãnh đạo Việt Nam đã nói đến nhu cầu
bãi bỏ. Một số cải tiến được đưa ra nhưng mang tính
“dân chủ”, “pháp luật” và chất lượng của bộ máy công quyền.
chắp vá, thiếu đồng bộ, không ăn khớp thậm chí trái
Chủ tịch Nguyễn Xuân Phúc đã nói rằng Việt Nam đang dịch ngược nhau.
chuyển từ mô hình “chuyên chính vô sản” sang Nhà nước pháp 4.
Mô hình kinh tế kế hoạch hoá tập trung đã là sức cản
quyền xã hội chủ nghĩa.
lớn cho sự phát triển kinh tế xã hội. 3.
Nâng cao vị thế quốc tế: Việt Nam đã trở thành thành viên của
Cuộc sống đòi hỏi cấp thiết phải thay đổi mô hình cũ bằng mô
nhiều tổ chức quốc tế và khu vực, bao gồm Liên Hiệp Quốc,
hình mới phù hợp hơn để đưa đất nước khỏi khủng hoảng
Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), Diễn đàn Hợp
tác Kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương (APEC), và Tổ chức
Thương mại Thế giới (WTO). 4.
Cải thiện đời sống người dân: Đời sống người dân đã được cải
thiện đáng kể, với tỷ lệ người nghèo giảm mạnh, chất lượng
giáo dục và y tế được nâng cao, và quyền con người được tôn trọng hơn. Sản xuất
Trước Đổi mới, sản xuất hàng hóa chủ yếu tập trung vào nhu Đổi mới đã mở rộng thị trường xuất khẩu, thu hút đầu tư nước ngoài và hàng hóa
cầu nội địa và có ít liên kết với thị trường quốc tế.
tạo điều kiện cho việc tích hợp vào chuỗi cung ứng toàn cầu. Sản xuất
- Các ngành chủ yếu bao gồm nông nghiệp, công hàng hóa tăng cường liên kết với thị trường quốc tế và tăng cường xuất
nghiệp và thương nghiệp. Công nghiệp được chia khẩu.
thành công nghiệp nặng (như điện, than, gang thép,
- Các ngành chủ yếu bao gồm nông nghiệp, công nghiệp và
chế tạo máy công cụ,…); công nghiệp hóa chất; công
thương nghiệp. Công nghiệp được chia thành công nghiệp
nghiệp nhẹ; công nghiệp thực phẩm (thuốc lá, đường
nặng (như điện, than, gang thép, chế tạo máy công cụ,…);
mật, rượu bia, đồ hộp,…).
công nghiệp hóa chất; công nghiệp nhẹ; công nghiệp thực -
Trong thời kỳ bao cấp ở Việt Nam, sản xuất hàng hóa
phẩm (thuốc lá, đường mật, rượu bia, đồ hộp,…).
chỉ mang tính hình thức, có sự phân công lao động
- Sau 20 năm đổi mới kể từ Đại hội Đảng lần VI năm 1986, Việt
nhưng không có sự tách biệt tương đối về mặt kinh tế
Nam đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế, đạt được tốc độ tăng
giữa những người sản xuất. Nhà nước quản lý nền
trưởng nhanh, tăng cường cơ sở vật chất và tạo tiền đề cho giai
kinh tế chủ yếu bằng mệnh lệnh hành chính dựa trên
đoạn phát triển mới công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
hệ thống chỉ tiêu pháp lệnh chi tiết áp đặt từ trên
xuống dưới. Các doanh nghiệp hoạt động trên cơ sở
các quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền
và các chỉ tiêu pháp lệnh được giao. -
Việt Nam đã có một số liên kết với thị trường quốc tế,
nhưng chúng bị hạn chế do chính sách kinh tế và
chính trị của thời kỳ đó. Việt Nam chủ yếu tập trung
vào việc xây dựng nền kinh tế nội địa và giảm sự phụ
thuộc vào thị trường quốc tế. Tuy nhiên, một số hoạt
động xuất nhập khẩu hàng hóa vẫn diễn ra.
Quan điểm Quan niệm trước Đổi mới tập trung vào quản lý trình độ thấp và Đổi mới đã đưa quan niệm về nền kinh tế thị trường vào thực tế, tạo điều
về nền kinh kiểm soát các hoạt động kinh tế.
kiện cho tư nhân, doanh nghiệp và thị trường tự do phát triển, và giảm sự
tế thị trường Nền kinh tế thị trường và cơ chế thị trường được coi là đặc trưng can thiệp của nhà nước trong hoạt động kinh tế.
chỉ có ở phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Trong thập niên Quá trình đổi mới nền kinh tế ở nước ta có đặc điểm nổi bật là chuyển từ
đầu sau thống nhất (1975-1985), Việt Nam đã áp dụng chủ kinh tế kế hoạch hóa tập trung bao cấp sang nền kinh tế thị trường
nghĩa xã hội chặt chẽ trong địa hạt kinh tế qua hệ thống chính (KTTT) định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN), với nội hàm quan trọng
sách “bao cấp”, tập trung kiểm soát các phương tiện sản xuất và nhất là phát triển mạnh mẽ nền kinh tế hàng hóa với nhiều thành phần
phân phối. Nền kinh tế bị hoàn toàn tê liệt và dân chúng bị đói kinh tế có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền XHCN. kém khó khăn. Công nghiệp
Trước Đổi mới, công nghiệp còn yếu kém và phụ thuộc vào các Đổi mới đã tạo điều kiện cho công nghiệp hóa, tăng cường phát triển các hóa
ngành công nghiệp truyền thống.
ngành công nghiệp hiện đại và chuyển dịch từ công nghiệp truyền thống
Đường lối công nghiệp hóa đất nước đã được hình thành từ Đại sang công nghiệp hiện đại.
hội III của Đảng (tháng 9-1960). Trong thời kỳ này, Đảng ta đã Chính sách đổi mới kinh tế đã mở cửa thu hút đầu tư nước ngoài và tạo
xác định đúng sự cần thiết phải công nghiệp hóa nền kinh tế điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của các ngành CN
quốc dân trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam Công nghiệp hóa ở VN đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể. Sự đa dạng
và coi đó là nhiệm vụ trọng tâm.
hóa ngành công nghiệp và thu hút đầu tư nước ngoài đã tạo ra nhiều cơ
Do hạn chế về công nghệ, vốn đầu tư và quy mô sản xuất, công hội cho phát triển kinh tế và thúc đẩy tăng trưởng của đất nước.
nghiệp trước đổi mới không thể cạnh tranh được trên thị trường quốc tế.
Công nghiệp hóa ở giai đoạn này còn gặp nhiều hạn chế và
không đạt được sự phát triển đáng kể.