



















Preview text:
lOMoAR cPSD| 58511332
TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦY LỢI
KHOA KINH TẾ VÀ QUẢN LÝ
BÀI THUYẾT TRÌNH NHÓM
MÔN HỌC: Pháp Luật Kinh Tế
Tên đề tài: Thực trạng pháp luật và thực tiễn thực hiện pháp luật về hợp
đồng và giải quyết tranh chấp trong hoạt động kinh doanh thương mại
Giáo viên hướng dẫn: Lâm Thị Thùy Linh Lớp: 64K2
Nhóm: 2 - Chủ đề 7 Tên thành viên:
1. Trịnh Tuấn Phương 5. Lâm Thị Thùy Dương
2. Hoàng Hương Giang 6. Nguyễn Thị Linh
3. Nguyễn Thị Hồng Phúc 7. Nguyễn Thị Liên
4. Trần Thanh Sỹ 8. Nguyễn Minh Quân Hà Nội, 2024 MỤC LỤC lOMoAR cPSD| 58511332
I.Thực trạng pháp luật về hợp đồng và giải quyết tranh chấp trong hoạt động
kinh doanh thương mại
1. Thực trạng pháp luật về hợp đồng trong kinh doanh, thương mại
2. Thực trạng pháp luật về tranh chấp trong kinh doanh, thương mại
II. Thực tiễn thực hiện pháp luật về hợp đồng và giải quyết tranh chấp trong
hoạt động kinh doanh thương mại
1. Thực tiễn pháp luật về hợp đồng
1.1 Về ký kết hợp đồng
1.2 Về thực hiện hợp đồng
1.3 Về giải quyết tranh chấp hợp đồng
2. Thực tiễn pháp luật về giải quyết tranh chấp
2.1 Về hình thức giải quyết tranh chấp
2.2 Về cơ quan, tổ chức giải quyết tranh chấp
2.3 Về kết quả giải quyết tranh chấp
III. Đánh giá thực trạng và đề xuất giải pháp hoàn thiện pháp luật 1. Đánh giá thực trạng 2. Đề xuất giải pháp lOMoAR cPSD| 58511332
I.Thực trạng pháp luật về hợp đồng và giải quyết tranh chấp trong
hoạt động kinh doanh thương mại 1. Thực trạng pháp luật về hợp
đồng trong kinh doanh, thương mại
1.1 Khái niệm và đặc điểm -
Hợp đồng trong kinh doanh thương mại là sự thỏa thuận giữa hai
hay nhiều bên ( trong đó ít nhất một trong các bên phải là thương nhân )
nhằm xác lập, thay đổi, chấm dứt quyền và nghĩa vụ của các bên trong
việc thực hiện hoạt động thương mại. -
Với hình thức pháp lý về quan hệ thương mại, hợp đồng kinh
doanh thương mại có một số đặc điểm phân biệt với hợp đồng kinh doanh thương mại :
+ Chủ thể hợp đồng KDTM: phải có ít nhất một bên là thương nhân.
Thương nhân là một trong những chế định trung tâm của luật thương
mại. Theo khoản 1 điều 6 của Luật thương mại 2019, “ Thương nhân
bao gồm tổ chức kinh tế được thành lập hợp pháp, cá nhân hoạt động
thương mại một cách độc lập, thường xuyên và có đăng ký kinh doanh’’.
+ Hình thức hợp đồng KDTM: được thiết lập theo cách thức mà hai bên
thỏa thuận, có thể được thể hiện bằng lời nói, bằng văn bản hoặc bằng
hành vi cụ thể của các bên giao kết
+ Đối tượng của hợp đồng KDTM: hàng hóa và dịch vụ. Theo khoản 2
điều của luật Thương mại 2019, hàng hóa bao gồm tất cả các loại động
sản, kể cả động sản hình thành trong tương lai; những vật gắn liền với đất đai.
+ Mục đích của hợp đồng KDTM là lợi nhuận. Theo khoản 1 điều 3 của
luật Thương mại, Hoạt động thương mại là hoạt động nhằm mục đích
sinh lợi, bao gồm mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến
thương mại và các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi khác. 1.2 Thực trạng
- Do hoàn cảnh khách quan tác động: lOMoAR cPSD| 58511332
Tại điểm a, khoản 1, Điều 420 BLDS 2015 áp dụng trong hợp đồng
KDTM “ Sự thay đổi hoàn cảnh do nguyên nhân khách quan xảy ra sau
khi giao kết hợp đồng KDTM”.
Có thể lý giải rằng “nguyên nhân khách quan” theo khoản 1 Điều 420
BLDS 2015, áp dụng trong hợp đồng KDTM, là sự kiện xảy ra “không
phụ thuộc vào ý chí chủ quan của các bên tham gia trong hợp đồng”.
Thêm vào đó, dựa vào tình tiết vụ việc có thể thấy, các sự kiện nếu xảy
ra do lỗi hoặc sơ suất của các bên trong hợp đồng KDTM làm thay đổi
hoàn cảnh thì bị loại trừ áp dụng điều khoản này.
- Bên bị ảnh hưởng có nghĩa vụ nỗ lực ngăn chặn giảm thiểu thiệt hại
các biện pháp mà bên bị ảnh hưởng áp dụng cần phù hợp với bản chất
của hợp đồng KDTM trong khả năng cho phép của mình, đảm bảo
không vi phạm đến những điều kiện trong hợp đồng KDTM mà các
bên đã giao kết ví dụ như: bí mật kinh doanh, các ưu tiên độc quyền;
không khiến cho sự ảnh hưởng của hoàn cảnh thay đổi trở nên trầm
trọng hơn. - Gây thiệt hại nghiêm trọng cho một bên nếu tiếp tục thực hiện:
Căn cứ theo quy định tại Điều 419 và Điều 361 BLDS 2015 thì thiệt hại
do vi phạm nghĩa vụ bao gồm thiệt hại về vật chất và thiệt hại về tinh thần.
Việc xác định mức độ thiệt hại từ sự ảnh hưởng của hoàn cảnh thay đổi
đến bên bị ảnh hưởng đóng vai trò rất quan trọng.
2. Thực trạng pháp luật về tranh chấp hợp đồng kinh doanh thương mại
2.1 Khái niệm và đặc điểm -
Tranh chấp hợp đồng kinh doanh thương mại là những mâu thuẫn
(bất đồng) giữa hai bên hợp tác với nhau về quyền, nghĩa vụ trong quá
trình hoạt động kinh doanh thương mại. -
Theo điều 317 của Luật Thương mại 2019, quy định về hình thức
giải quyết tranh chấp thương mại rằng: lOMoAR cPSD| 58511332
+ Thương lượng giữa các bên.
+ Hòa giải giữa các bên do một cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân được các
bên thỏa thuận chọn làm trung gian hòa giải.
+ Giải quyết tại Trọng tài hoặc Tòa án.
Thủ tục giải quyết tranh chấp trong thương mại tại Trọng tài, Tòa án
được tiến hành theo các thủ tục tố tụng của Trọng tài, Tòa án do pháp luật quy định. -
Nguyên tắc giải quyết tranh chấp bằng hòa giải thương mại được
quy định tại Điều 4 Nghị định 22/2017/NĐ-CP cụ thể như sau:
+ Các bên tranh chấp tham gia hòa giải hoàn toàn tự nguyện và bình
đẳng về quyền và nghĩa vụ.
+ Các thông tin liên quan đến vụ việc hòa giải phải được giữ bí mật, trừ
trường hợp các bên có thỏa thuận bằng văn bản hoặc pháp luật có quy định khác.
+ Nội dung thỏa thuận hòa giải không vi phạm điều cấm của pháp luật,
không trái đạo đức xã hội, không nhằm trốn tránh nghĩa vụ, không xâm
phạm quyền của bên thứ ba. 2.2 Thực trạng
- Nhầm lẫn giữa hợp đồng đại lý với hợp đồng phân phối hàng hóa trên thực tế
+ Hợp đồng đại lý là hợp đồng cung ứng dịch vụ trung gian thương mại,
theo đó bên trung gian là bên đại lý nhân danh mình thực hiện việc mua
bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ cho bên giao đại lý nhằm hưởng thù lao,
quyền sở hữu hàng hóa vẫn thuộc về bên giao đại lý
+ Hợp đồng phân phối chính là hợp đồng mua bán có điều kiện, thế nên,
nó có dấu hiệu của quan hệ đại lý, nhưng đó là mua đứt bán đoạn - Xác
định tư cách chủ thể của các bên trong hợp đồng đại lý
Xét về nguyên tắc, tranh chấp giữa các bên trong hợp đồng đại lý là
tranh chấp kinh doanh thương mại vì cả hai bên đều là thương nhân. Tuy
nhiên, người làm đại lý bảo hiểm không có tư cách thương nhân, do đó lOMoAR cPSD| 58511332
tranh chấp giữa công ty bảo hiểm và người làm đại lý bảo hiểm không
thể xác định là tranh chấp kinh doanh thương mại.
Xét về vai trò, chức năng của người làm đại lý bảo hiểm cũng như theo
quy định của pháp luật lao động thì cũng không đủ cơ sở cho rằng cá
nhân hoạt động trung gian bảo hiểm này có tư cách là người lao động
của của doanh nghiệp bảo hiểm theo quan hệ lao động làm công ăn lương.
Chính vì điều này mà trên thực tế chế độ đãi ngộ của doanh nghiệp bảo
hiểm đối với người trung gian bảo hiểm này không thống nhất, có doanh
nghiệp áp dụng chế độ đãi ngộ như trong quan hệ lao động, có bảo hiểm
xã hội, lương cơ bản và phần trăm hoa hồng trên doanh thu, có doanh
nghiệp đơn thuần chỉ trả thù lao đại lý, theo đó dẫn đến quyền lợi chính
đáng của cá nhân hoạt động trung gian bảo hiểm không được đảm bảo,
ảnh hưởng đến hiệu quả quản lý nhà nước, dẫn đến hoạt động kinh
doanh bảo hiểm lộn xộn và không theo một trật tự nhất định.
II. Thực tiễn thực hiện pháp luật về hợp đồng và giải quyết tranh
chấp trong hoạt động kinh doanh thương mại 1. Thực tiễn pháp luật về hợp đồng
1.1 Về ký kết hợp đồng. Khái niệm
Hợp đồng thương mại là hình thức pháp lý của hành vi thương mại, là sự
thỏa thuận giữa các chủ thể kinh doanh với nhau nhằm xác lập, thay đổi,
chấm dứt quyền và nghĩa vụ của các bên trong việc thực hiện hoạt động thương mại.
Chủ thể: Căn cứ theo điều 2 Luật Thương mại 2005 Điều 2. Đối tượng áp dụng
1. Thương nhân hoạt động thương mại theo quy định tại Điều 1 của Luật này. lOMoAR cPSD| 58511332
2. Tổ chức, cá nhân khác hoạt động có liên quan đến thương mại.
3. Căn cứ vào những nguyên tắc của Luật này, Chính phủ quy định cụ
thể việc áp dụng Luật này đối với cá nhân hoạt động thương mại một
cách độc lập, thường xuyên không phải đăng ký kinh doanh.
- Hình thức: Theo Luật Thương mại 2005 thì, hợp đồng thương mại
đươc thể hiện bằng lời nói, bằng văn bản hoặc được xác lập bằng
hành vi cụ thể. Trường hợp pháp luật qui định bằng văn bản thì phải
tuân theo hình thức này, ví dụ như: hợp đồng mua bán hàng hóa quốc
tế, hợp đồng dịch vụ khuyến mại, hợp đồng dịch vụ quảng cáo thương
mại, hợp đồng dịch vụ trưng bày, giới thiệu hàng hóa, hợp đồng ủy
thác mua bán hàng hóa, hợp đồng đại lý thương mại, hợp đồng gia công, …)
- Việc ký kết hợp đồng:
+ Soạn dự thảo hợp đồng trước khi đàm phán: giống như một bản kế
hoạch cho việc đàm phán, khi có một dự thảo tốt coi như đã đạt 50%
công việc đàm phán và ký kết hợp đồng.
+ Hình thức hợp đồng cần được thể hiện dưới dạng văn bản.
+ Chủ thể giao kết hợp đồng: kiểm tra tư cách của người giao kết hợp đồng.
+ Kiểm tra khả năng thực hiện hợp đồng của doanh nghiệp.
+ Những điều khoản cẩn trọng khi ký kết hợp đồng thương mại: Điều
khoản hiệu lực của hợp đồng, điều khoản phạt vi phạm hợp đồng, điều
khoản giải quyết tranh chấp.
+ Ngôn ngữ sử dụng trong hợp đồng phải mạch lạc, rõ ràng, tránh từ ngữ
mang ý nghĩa hàm ý dễ gây hiểu lầm.
- Ví dụ: Công ty X đề nghị xác lập hợp đồng mua bán vật liệu xây dựng
với xí nghiệp Y. Giám đốc Công ty X trực tiếp đến gặp giám đốc xí
nghiệp Y để đề nghị giao kết hợp đồng mua bán. lOMoAR cPSD| 58511332
1.2 Về thực hiện hợp đồng.
- Điều 297. Buộc thực hiện đúng hợp đồng
1. Buộc thực hiện đúng hợp đồng là việc bên bị vi phạm yêu cầu bên vi
phạm thực hiện đúng hợp đồng hoặc dùng các biện pháp khác để hợp
đồng được thực hiện và bên vi phạm phải chịu chi phí phát sinh.
2. Trường hợp bên vi phạm giao thiếu hàng hoặc cung ứng dịch vụ
không đúng hợp đồng thì phải giao đủ hàng hoặc cung ứng dịch vụ
theo đúng thỏa thuận trong hợp đồng. Trường hợp bên vi phạm giao
hàng hóa, cung ứng dịch vụ kém chất lượng thì phải loại trừ khuyết
tật của hàng hóa, thiếu sót của dịch vụ hoặc giao hàng khác thay thế,
cung ứng dịch vụ theo đúng hợp đồng. Bên vi phạm không được dùng
tiền hoặc hàng khác chủng loại, loại dịch vụ khác để thay thế nếu
không được sự chấp thuận của bên bị vi phạm.
3. Trong trường hợp bên vi phạm không thực hiện theo quy định tại
khoản 2 Điều này thì bên bị vi phạm có quyền mua hàng, nhận cung
ứng dịch vụ của người khác để thay thế theo đúng loại hàng hóa, dịch
vụ ghi trong hợp đồng và bên vi phạm phải trả khoản tiền chênh lệch
và các chi phí liên quan nếu có; có quyền tự sửa chữa khuyết tật của
hàng hóa, thiếu sót của dịch vụ và bên vi phạm phải trả các chi phí thực tế hợp lý.
4. Bên bị vi phạm phải nhận hàng, nhận dịch vụ và thanh toán tiền hàng,
thù lao dịch vụ, nếu bên vi phạm đã thực hiện đầy đủ nghĩa vụ theo
quy định tại khoản 2 Điều này.
5.Trường hợp bên vi phạm là bên mua thì bên bán có quyền yêu cầu bên
mua trả tiền, nhận hàng hoặc thực hiện các nghĩa vụ khác của bên mua
được quy định trong hợp đồng và trong Luật này.
- Ví dụ : Trong hợp đồng có thỏa thuận thời gian giao hàng vào 08h
sángngày 01/01/2013) thì khi đã có hành vi vi phạm hợp đồng về mặt
thời hạn thì hợp đồng đó không thể “thực hiện đúng hợp đồng” được
nữa vì các bên không thể quay ngược thời gian vào thời điểm thỏa
thuận trong hợp đồng để thực hiện đúng hợp đồng. lOMoAR cPSD| 58511332
1.3 Về giải quyết tranh chấp hợp đồng.
- Ví dụ về tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hoá: Tranh chấp hợp
đồngđại lý thể hiện trong quyết định giám đốc thẩm số
05/2011/KDTM-GĐT ngày 20/7/2011 của Hội đồng thẩm phán Tòa án
nhân dân tối cao là một ví dụ về sự nhầm lẫn giữa hợp đồng phân phối
hàng hóa với hợp đồng đại lý. Hợp đồng có nội dung như sau: Công ty
Cổ phần (CTCP) Chữ thập đỏ Việt Nam có quan hệ hợp đồng đại lý
thuốc tân dược (Reamberin, Cycloferon viên và ống) với các công ty:
Công ty Trách nhiệm hữu hạn (TNHH) Thương mại dược phẩm Thống
Nhất, CTCP Dược phẩm Y Phương, CTCP Dược phẩm Thanh Phương,
CTCP Dược Hòa Bình. Mặc dù hình thức các bên ghi trong hợp đồng
là đại lý nhưng các điều khoản trong hợp đồng lại trái với bản chất của
hoạt động đại lý như chứa đựng thỏa thuận bên đại lý là chủ sở hữu
hàng hóa, bên đại lý phải chịu rủi ro do hàng hóa mất mát, hư hỏng…
Bên cạnh đó, một số thỏa thuận khác mang tính chất là các chỉ dẫn của
nhà sản xuất đã làm các bên lầm lẫn mà xác định đây là hợp đồng đại lý.
- Ví dụ về tranh chấp hợp đồng dịch vụ: Từ năm 2014-2016, nguyên đơn
Công ty TNHH Thương mại dịch vụ P.P.S có ký kết với bị đơn Công ty
CP Xây dựng C.N các hợp đồng sau: Hợp đồng vận chuyển công trình
HN số 01-03/HĐVC năm 2014; Hợp đồng vận chuyển công trình Bia
Mỹ (ABI) số 01-03/HĐVC năm 2014; Hợp đồng vận chuyển công trình
C.M số 01-03/HĐVC năm 2014 tại tỉnh Bình Dương. Trong quá trình
thực hiện hợp đồng, nguyên đơn đã thực hiện và hoàn thành xong nghĩa
vụ vận chuyển dàn giáo các loại cho bị đơn. Đến 31 tháng 12 năm 2018,
hai bên ký biên bản đối chiếu công nợ với số tiền còn nợ là 188.982.000
đồng, nhưng cho đến nay bị đơn vẫn không thanh toán cho nguyên đơn.
Nay nguyên đơn khởi kiện yêu cầu bị đơn thanh toán số tiền còn nợ là
188.982.000 đồng, không yêu cầu tính lãi.
- Qua hai ví dụ thực tế trên có thể giải quyết tranh chấp bằng các hình
thức như thương lượng, hoà giải, giải quyết tại trọng tài hoặc Toà án lOMoAR cPSD| 58511332
2. Thực tiễn pháp luật về giải quyết tranh chấp
Giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng giữa Ngân hàng Sài Gòn
thương tín( chi nhánh Gò Vấp ) với công ty TNHH cơ khí Trường Giang
. Ngày 23/2/2001 , chi nhánh Gò Vấp của ngân hàng Sài Gòn thương tín
( bên A ) kí hợp đồng tín dụng số 212100 với công ty TNHH cơ khí
Trường Giang ( bên B ). Hợp đồng do giám đốc chi nhánh Gò Vấp và
giám đốc công ty cơ khí Trường Giang kí . Nội dung : bên A cho bên B
vay 200 triệu đồng , lãi suất 0.8%/tháng , thời hạn vay là 24 tháng . Để
đảm bảo hợp đồng , các bên kí hợp đồng cầm cố , theo đó bên B đem
chiếc xe sở hữu của mình , trị giá khoảng 330 triệu cầm cố cho A . Hợp
đồng có cam kết : Trường hợp đến hạn trả nợ mà bên B không trả được
nợ , bên B đồng ý để bên A toàn quyền tổ chức đấu giá tài sản để thu hồi
nợ ( vốn và lãi ). Hợp đồng cầm cố được công chứng nhà nước chứng
nhận . Đáo hạn bên B không trả được nợ nên bên A khởi kiện tại toà .
Với tư cách là người đại diện quyền lợi cho bên A. Bên A sẽ yêu cầu
được đứng ra bán đấu giá chiếc xe đó để thu lại số tiền đã cho bên B vay
( bao gồm tiền gốc và tiền lãi ) . Căn cứ : theo điều khoản của hợp đồng
vay , thì bên B có nghĩa vụ trả số tiền vay + lãi đúng hạn nhưng bên B
đã không thực hiện nghĩa vụ đó đúng hạn . Mặt khác , theo điều khoản
của hợp đồng cầm cố , bên A có toàn quyền đứng ra bán đấu giá chiếc xe
đó . Thêm vào đó , hợp đồng cầm cố đã được chứng nhận bởi công
chứng nhà nước , do vậy được nhà nước bảo hộ quyền và nghĩa vụ của
mỗi bên . Theo sự bảo hộ đó thì bên B có nghĩa vụ giao chiếc xe để bên
A đấu giá thu hồi nợ . Trong phiên toà , đại diện bên B đề nghị toà tuyên
bố hợp đồng cầm cố không có hiệu lực pháp luật do người kí hợp đồng
này phía bên B là ông Phan chỉ là thành viên của công ty thôi . Ông
Phan không có giấy uỷ quyền của giám đốc. Ông Phan không phải là đại
diện của bên B , và cũng không được uỷ quyền kí kết hợp đồng cầm cố .
Do vậy , ông Phan không có thẩm quyền đại diện bên B kí kết hợp đồng
. Vậy hợp đồng cầm cố do ông Phan kí với bên A là vô hiệu ( không làm
phát sinh quyền và nghĩa vụ của bên B ). Nhưng ông Phan có nghĩa vụ lOMoAR cPSD| 58511332
bồi thường cho bên A khi hợp đồng vô hiệu . ( theo điều 592, bộ luật dân sự 2005 ).
- Về hình thức giải quyết tranh chấp: Luật thương mại
Điều 317. Hình thức giải quyết tranh chấp
1. Thương lượng giữa các bên.
2. Hòa giải giữa các bên do một cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân
được các bên thỏa thuận chọn làm trung gian hòa giải.
3. Giải quyết tại Trọng tài hoặc Tòa án.
Thủ tục giải quyết tranh chấp trong thương mại tại Trọng tài, Tòa
án được tiến hành theo các thủ tục tố tụng của Trọng tài, Tòa án do pháp luật quy định.
- Về phiên họp giải quyết tranh chấp: luật trọng tài thương mại
Điều 54. Chuẩn bị phiên họp giải quyết tranh chấp 1.
Trường hợp các bên không có thoả thuận khác hoặc quy tắc tố tụng
của Trung tâm trọng tài không có quy định khác, thời gian và địa điểm
mở phiên họp do Hội đồng trọng tài quyết định. 2.
Trường hợp các bên không có thoả thuận khác hoặc quy tắc tố tụng
của Trung tâm trọng tài không có quy định khác, giấy triệu tập tham dự
phiên họp phải được gửi cho các bên chậm nhất 30 ngày trước ngày mở phiên họp.
Điều 55. Thành phần, thủ tục phiên họp giải quyết tranh chấp 1.
Phiên họp giải quyết tranh chấp được tiến hành không công khai,
trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác. 2.
Các bên có thể trực tiếp hoặc uỷ quyền cho người đại diện tham dự
phiên họp giải quyết tranh chấp; có quyền mời người làm chứng, người
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. 3.
Trong trường hợp có sự đồng ý của các bên, Hội đồng trọng tài có
thể cho phép những người khác tham dự phiên họp giải quyết tranh chấp. lOMoAR cPSD| 58511332 4.
Trình tự, thủ tục tiến hành phiên họp giải quyết tranh chấp do quy
tắc tố tụng trọng tài của Trung tâm trọng tài quy định; đối với Trọng tài
vụ việc do các bên thỏa thuận.
Điều 56. Việc vắng mặt của các bên 1.
Nguyên đơn đã được triệu tập hợp lệ tham dự phiên họp giải quyết
tranh chấp mà vắng mặt không có lý do chính đáng hoặc rời phiên họp
giải quyết tranh chấp mà không được Hội đồng trọng tài chấp thuận thì
bị coi là đã rút đơn khởi kiện. Trong trường hợp này, Hội đồng trọng tài
tiếp tục giải quyết tranh chấp nếu bị đơn có yêu cầu hoặc có đơn kiện lại. 2.
Bị đơn đã được triệu tập hợp lệ tham dự phiên họp giải quyết tranh
chấp mà vắng mặt không có lý do chính đáng hoặc rời phiên họp giải
quyết tranh chấp mà không được Hội đồng trọng tài chấp thuận thì Hội
đồng trọng tài vẫn tiếp tục giải quyết tranh chấp căn cứ vào tài liệu và chứng cứ hiện có. 3.
Theo yêu cầu của các bên, Hội đồng trọng tài có thể căn cứ vào hồ
sơ để tiến hành phiên họp giải quyết tranh chấp mà không cần sự có mặt của các bên.
Điều 57. Hoãn phiên họp giải quyết tranh chấp
Khi có lý do chính đáng, một hoặc các bên có thể yêu cầu Hội đồng
trọng tài hoãn phiên họp giải quyết tranh chấp. Yêu cầu hoãn phiên họp
giải quyết tranh chấp phải được lập bằng văn bản, nêu rõ lý do kèm theo
chứng cứ và được gửi đến Hội đồng trọng tài chậm nhất 07 ngày làm
việc trước ngày mở phiên họp giải quyết tranh chấp. Nếu Hội đồng trọng
tài không nhận được yêu cầu theo thời hạn này, bên yêu cầu hoãn phiên
họp giải quyết tranh chấp phải chịu mọi chi phí phát sinh, nếu có. Hội
đồng trọng tài xem xét, quyết định chấp nhận hay không chấp nhận yêu
cầu hoãn phiên họp và thông báo kịp thời cho các bên.
Thời hạn hoãn phiên họp do Hội đồng trọng tài quyết định. lOMoAR cPSD| 58511332
Điều 58. Hoà giải, công nhận hòa giải thành
Theo yêu cầu của các bên, Hội đồng trọng tài tiến hành hòa giải để các
bên thỏa thuận với nhau về việc giải quyết tranh chấp. Khi các bên thỏa
thuận được với nhau về việc giải quyết trong vụ tranh chấp thì Hội đồng
trọng tài lập biên bản hoà giải thành có chữ ký của các bên và xác nhận
của các Trọng tài viên. Hội đồng trọng tài ra quyết định công nhận sự
thỏa thuận của các bên. Quyết định này là chung thẩm và có giá trị như phán quyết trọng tài.
Điều 59. Đình chỉ giải quyết tranh chấp
1. Vụ tranh chấp được đình chỉ giải quyết trong các trường hợp sau đây:
a) Nguyên đơn hoặc bị đơn là cá nhân đã chết mà quyền, nghĩa vụ của
họ không được thừa kế;
b) Nguyên đơn hoặc bị đơn là cơ quan, tổ chức đã chấm dứt hoạt động,
bị phá sản, giải thể, hợp nhất, sáp nhập, chia, tách hoặc chuyển đổi
hình thức tổ chức mà không có cơ quan, tổ chức nào tiếp nhận quyền,
nghĩa vụ của cơ quan, tổ chức đó;
c) Nguyên đơn rút đơn khởi kiện hoặc được coi là đã rút đơn khởi kiện
theo quy định tại khoản 1 Điều 56 của Luật này, trừ trường hợp bị đơn
yêu cầu tiếp tục giải quyết tranh chấp;
d) Các bên thoả thuận chấm dứt việc giải quyết tranh chấp;
đ) Tòa án đã quyết định vụ tranh chấp không thuộc thẩm quyền của Hội
đồng trọng tài, không có thỏa thuận trọng tài, thỏa thuận trọng tài vô
hiệu hoặc thỏa thuận trọng tài không thể thực hiện được theo quy định
tại khoản 6 Điều 44 của Luật này. 2.
Hội đồng trọng tài ra quyết định đình chỉ giải quyết tranh chấp.
Trường hợp Hội đồng trọng tài chưa được thành lập thì Chủ tịch Trung
tâm trọng tài ra quyết định đình chỉ giải quyết tranh chấp. 3.
Khi có quyết định đình chỉ giải quyết tranh chấp, các bên không có
quyền khởi kiện yêu cầu Trọng tài giải quyết lại vụ tranh chấp đó nếu
việc khởi kiện vụ tranh chấp sau không có gì khác với vụ tranh chấp lOMoAR cPSD| 58511332
trước về nguyên đơn, bị đơn và quan hệ pháp luật có tranh chấp, trừ các
trường hợp quy định tại điểm c và điểm đ khoản 1 Điều này.
- Một số giải pháp nâng cao hiệu quả giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại:
Nước ta phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa có sự can thiệp, điều tiết của Nhà nước tạo điều kiện cho nền kinh
tế phát triển lành mạnh, đa dạng. Chính sự phát triển này, các vụ tranh
chấp trong lĩnh vực KDTM phát sinh ngày càng nhiều và việc có cơ
quan đứng ra giải quyết tranh chấp đó là tất yếu. Ở Việt Nam, tòa án là
cơ quan có thẩm quyền giải quyết các vụ án KDTM phổ biến nhất. Tuy
nhiên, thực tiễn giải quyết tại tòa án không phải lúc nào cũng thuận lợi,
đạt được nhiều ưu điểm mà tồn tại theo đó là những hạn chế.
Thứ nhất, về nguyên tắc khởi kiện. Tòa án giải quyết tranh chấp KDTM
phải tuân thủ theo các nguyên tắc chung của tố tụng được quy định trong
BLTTDS 2015. Việc thực hiện những nguyên tắc này, góp phần đảm bảo
hoạt động điều tra xét xử tại tòa án chặt chẽ hơn. Tuy nhiên trong thực
tiễn, để áp dụng hiệu quả các nguyên tắc về tố tụng tại tòa án không phải
lúc nào cũng thực hiện được. Do đó, cần phải sửa đổi, bổ sung một số quy
định để phù hợp hơn với thực tiễn. Cụ thể:
Quy định về đương sự có quyền và nghĩa vụ tự mình thu thập, cung
cấp chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp
pháp, tòa án chỉ có trách nhiệm hỗ trợ và chỉ tiến hành thu thập, xác minh
chứng cứ trong trường hợp mà luật có quy định. Quy định của nguyên tắc
này là phù hợp, song khi áp dụng vào thực tiễn lại gặp nhiều khó khăn. lOMoAR cPSD| 58511332
Khi BLTTDS chỉ quy định chung chung mà không quy định rõ các chế tài
để khắc phục, đối với việc đương sự không cung cấp chứng cứ hoặc cung
cấp chứng cứ không có giá trị để giải quyết vụ án… Vì thực tế, có rất
nhiều trường hợp đương sự có khả năng thu thập chứng cứ hoặc đang giữ
chứng cứ có giá trị liên quan đến vụ án nhưng lại không cung cấp cho tòa
án, chỉ khi thấy có lợi mới giao nộp cho tòa án dẫn đến tòa án bị thụ động
trong việc giải quyết, xét xử. Từ thực tiễn này, pháp luật cần phải quy định
rõ ràng hơn về các chế tài nếu đương sự không cung cấp hoặc cố tình che
giấu chứng cứ thì phải bị xử phạt, góp phần đảm bảo tòa án không bị thụ động.
Ngoài ra, với nguyên tắc hòa giải, pháp luật cũng phải quy định rõ
hơn về trình tự, thủ tục hòa giải. Bởi, hòa giải có ý nghĩa hết sức quan
trọng trong giải quyết tranh chấp KDTM. Trường hợp, các bên tranh chấp
hòa giải thành sẽ góp phần giúp tòa án giải quyết nhanh vụ án, tiết kiệm
được chi phí, công sức cho đương sự, hơn hết là giữ được bí mật kinh
doanh và sự hợp tác làm ăn cho các bên – những yếu tố mà các thương
nhân luôn đặt lên hàng đầu khi tham gia lĩnh vực kinh doanh. Việc hòa
giải tại tòa án hoàn toàn phụ thuộc vào kinh nghiệm của Thẩm phán. Do
đó, ngoài quy định rõ về trình tự, thủ tục hòa giải cần phải ban hành thêm
các văn bản hướng dẫn, đào tạo cho Thẩm phán.
Thứ hai, hoàn thiện khung pháp lý cho hoạt động KDTM theo hướng
đồng bộ, phù hợp với tình hình thực tiễn của Việt Nam trong xu hướng
phát triển, hội nhập quốc tế và hệ thống lại các quy định của pháp luật về lOMoAR cPSD| 58511332
giải quyết tranh chấp trong KDTM một cách quy cũ. Tránh sự chồng
chéo, trùng lặp giữa các quy định của pháp luật cho một vấn đề giải
quyết tranh chấp, nhưng đồng thời cũng thể hiện sự rõ ràng của các quy
định tránh tình trạng các quy định của luật thể hiện một cách chung
chung để điều chỉnh một lĩnh vực. Cụ thể, cần xem xét, sửa đổi thời hạn
chuẩn bị xét xử vụ án KDTM theo hướng phù hợp với thực tiễn.
Thứ ba, bổ sung các văn bản hướng dẫn chi tiết về xét xử án KDTM
theo thủ tục rút gọn của BLTTDS nhằm tạo điều kiện cho tòa án mạnh dạn
áp dụng các giải quyết vụ án theo thủ tục này đảm bảo chính xác, hiệu
quả. BLTTDS 2015 đã quy định trình tự, thủ tục giải quyết vụ án dân sự
theo thủ tục rút gọn tại Điều 316 đến Điều 324. Quy định này là một bước
tiến quan trọng trong giải quyết tranh chấp, góp phần nâng cao hiểu quả
hoạt động của tòa án, là cơ sở để tòa án giải quyết nhanh chóng các tranh
chấp nhưng vẫn đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp cho các đương sự, tiết
kiệm thời gian, chi phí tố tụng cho tòa án và cho các đương sự trong việc
tham gia tố tụng tại tòa án. Tuy nhiên, thực tiễn tại tòa án, thủ tục rút gọn
này vẫn chưa được triển khai áp dụng để giải quyết các vụ án KDTM. Khi
mà pháp luật chỉ đưa ra quy định mà không có hướng dẫn cụ thể, dẫn đến
tòa án còn e ngại để áp dụng thủ tục này, bởi việc này ảnh hưởng rất lớn
đến quyền lợi của đương sự. Vì vậy, cần phải ban hành văn bản hướng dẫn
chi tiết và phải có cơ chế giám sát chặt chẽ quá trình thực hiện thủ tục tố
tụng này, đảm bảo tối đa quyền lợi của đương sự không bị xâm phạm.
Thứ tư, hoàn hiện pháp luật về mô hình, cơ cấu tổ chức của tòa án. lOMoAR cPSD| 58511332
Pháp luật Việt Nam quy định, mô hình tòa án kinh tế trong hệ thống
TAND không phải là một tòa chuyên trách thực sự theo đúng nghĩa của
nó. Bởi, mục đích thành lập tòa kinh tế là để phân định thẩm quyền và thủ
tục tố tụng với tòa dân sự nhưng đến nay, mục đích này vẫn không thực
hiện được. Hơn nữa, khi BLTTDS có hiệu lực, mục đích này trở nên không
cần thiết vì thủ tục tố tụng tại tòa kinh tế và tòa dân sự được áp dụng hoàn
toàn giống nhau, thậm chí tòa án cũng thừa nhận việc tòa kinh tế giải quyết
các vụ án dân sự, hành chính, lao động… ngoài mục đích chính là giải
quyết các vụ án KDTM. Điều này cho thấy, tính chất chuyên ngành của
tòa kinh tế trong thực tiễn không được phát huy một cách hiệu quả.
Bên cạnh đó, việc thay đổi mô hình công tác tổ chức của ngành tòa
án nói chung và tòa án kinh tế nói riêng hiện nay cũng đang được Đảng
và Nhà nước xác định là trọng tâm. Ngoài ra, vấn đề này cũng được rất
nhiều nhà nghiên cứu khoa học quan tâm, góp ý kiến. Dó đó, cần phải
thành lập một tòa kinh tế độc lập tại các khu vực, thông qua thiết lập từ
các Thẩm phán hoặc Trọng tài viên không còn hoạt động tại các trung tâm
trọng tài thương mại am hiểu pháp luật về giải quyết tranh chấp KDTM.
Thứ năm, hoàn thiện công tác tổ chức thi hành bản án, quyết định
của tòa án. Sau khi kết thúc quá trình giải quyết tranh chấp KDTM tại tòa
án, Hội đồng xét xử sẽ ra bản án, quyết định, có hiệu lực pháp luật buộc
các bên tranh chấp, cơ quan nhà nước và tổ chức liên quan phải thi hành
một cách nghiêm túc, đúng pháp luật để đảm bảo quyền lợi và nghĩa vụ
của các bên liên quan. Dó đó, cần hoàn thiện công tác tổ chức của cơ quan lOMoAR cPSD| 58511332
thi hành án để các phán quyết về giải quyết tranh chấp KDTM được thi
hành một cách đầy đủ, nhanh chóng và kịp thời.
III. Đánh giá thực trạng và đề xuất giả pháp hoàn thiện pháp luật
1. Đánh giá thực trạng :
Giải quyết trong kinh doanh thương mại là các vấn đề do các bên tranh
chấp tự định đoạt. Tức là các bên tham gia tranh chấp có quyền tự do lựa
chọn các phương thức giải quyết, quyền tự do lựa chọn thực hiện hay
không thực hiện tất cả các hành vi mà pháp luật không cấm nhằm hòa
giải và tháo gỡ các mâu thuẫn, bất đồng của các bên chủ thể trong các
tranh chấp kinh doanh thương mại; Hay quyền tự do thể hiện ý chí của
các đương sự trong việc lựa chọn cơ quan có thẩm quyền giải quyết.
Nhìn chung tranh chấp kinh doanh thương mại và tranh chấp dân sự
khác nhau về luật áp dụng tranh chấp dân sự áp dụng Luật dân sự giải
quyết, tranh chấp kinh doanh thương mại thì ngoài áp dụng Luật dân sự
còn áp dụng Luật Thương mại để giải quyết. Thời hạn giải quyết vụ án
cũng khác nhau. Trong khi thời hạn giải quyết tranh chấp dân sự là 04
tháng thì thời hạn giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại chỉ có 02 tháng.
Hoạt động giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại là xóa bỏ các
mâu thuẫn, bất đồng xung đột lợi ích giữa các bên tạo lập sự cân bằng về
mặt lợi ích mà các bên tranh chấp mong muốn; Đảm bảo lợi ích giữa các
chủ thể kinh doanh, giữa các công dân trước pháp luật, góp phần thiết
lập sự cân bằng, giữ gìn trật tự kỉ cương, pháp luật tạo nên một môi
trường kinh doanh lành mạnh; Ngoài ra việc giải quyết tranh chấp kinh
doanh thương mại còn đánh giá được việc áp dụng pháp luật trong thực
tiễn kinh doanh, chỉ ra được những bất cập tạo định hướng cho việc
hoàn thiện pháp luật về hoạt động kinh doanh thương mại tạo ra một
hành lang pháp lý vững mạnh. lOMoAR cPSD| 58511332
Tranh chấp kinh doanh, thương mại đã trở thành một hiện tượng tất yếu
khách quan của nền kinh tế thị trường. Khi tranh chấp kinh doanh
thương mại phát sinh cần phải giải quyết một cách minh bạch và hiệu
quả; bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các chủ thể. Do đó, việc giải
quyết tranh chấp KDTM cần đáp ứng được một số yêu cầu như sau:
Thứ nhất, là nhanh chóng, thuận lợi, không làm hạn chế, cản trở các hoạt
động kinh doanh thương mại. Tính chất của các hoạt động kinh doanh
thương mại là diễn ra liên tục theo một trình tự. Nếu giải quyết kéo dài
sẽ ảnh hưởng đến quá trình hoạt động kinh doanh của các chủ thể, có thể
bị ngừng trệ, uy tín và năng lực cạnh tranh trên thị trường có thể bị giảm
sút.... Do đó yêu cầu giải quyết nhanh chóng, kịp thời là yêu cầu cần
thiết cơ bản nhất của các chủ thể khi xảy ra các tranh chấp.
Thứ hai, là khôi phục và duy trì các quan hệ hợp tác, tín nhiệm giữa các
bên trong kinh doanh, thương mại. Vì khi xảy ra các tranh chấp các chủ
thể sợ ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của mình nên họ sẽ muốn có
một phương thức giải quyết khách quan nhất.
Thứ ba, là giữ bí mật kinh doanh, uy tín của các bên. Bí mật kinh doanh
là những thông tin hữu ích cần thiết để tạo nên những sự thành công,
những thương hiệu nhất định. Các đối thủ cạnh tranh trên thương trường
tìm rất nhiều cách để tiếp cận những thông tin đó. Vì vậy bất kì một
doanh nghiệp, chủ thể nào muốn tồn tại lâu dài được bền vững trên thị
trường thì cần bảo vệ những bí mật kinh doanh là điều cần thiết. Ngoài
ra uy tín của các bên cũng là mối lo ngại khi giải quyết các tranh chấp
kinh doanh thương mại bởi hoạt động kinh doanh thương mại quan trọng
chữ tín, nếu mất uy tín thì doanh nghiệp, cá nhân đó khó có thể phát
triển được trên thị trường.
Cuối cùng, là kinh tế ít tốn kém. Đây là yêu cầu cần thiết mà bất cứ chủ
thể nào cũng đều cần. lOMoAR cPSD| 58511332
2. Đề xuất giải pháp
Ngày 02/10/2019, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số
1268/QĐ-TTg phê duyệt Đề án hoàn thiện pháp luật về hợp đồng và giải
quyết tranh chấp hợp đồng bằng phương thức trọng tài thương mại, hòa
giải thương mại. Đề án được ban hành nhằm mục tiêu chung hoàn thiện
pháp luật về hợp đồng và giải quyết tranh chấp hợp đồng bằng phương
thức trọng tài thương mại, hòa giải thương mại theo hướng thống nhất,
đồng bộ, khả thi, chi phí tuân thủ pháp luật thấp, góp phần giảm thiểu
các tranh chấp hợp đồng và nâng xếp hạng chỉ số giải quyết tranh chấp
hợp đồng, tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa, nâng cao chỉ số cạnh tranh quốc gia, xây dựng môi trường
đầu tư kinh doanh thuận lợi ở Việt Nam. Để đạt được mục tiêu chung
nêu trên, Đề án đề ra 08 nhóm nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu, cụ thể như sau:
1. Nghiên cứu, khảo sát kinh nghiệm quốc tế về hợp đồng, giải quyết
tranh chấp hợp đồng; rà soát tính tương thích của pháp luật Việt Nam
với các điều ước quốc tế có liên quan mà nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam là thành viên và luật mẫu, tập quán quốc tế phổ biến có liên quan.
2. Hệ thống hóa quy định pháp luật về hợp đồng.
3. Rà soát cụ thể, đánh giá pháp luật hợp đồng và đề xuất giải pháp
hoànthiện hệ thống pháp luật trong từng lĩnh vực liên quan.
4. Rà soát cụ thể, đánh giá pháp luật và kiến nghị hoàn thiện pháp luật về
giải quyết tranh chấp hợp đồng bằng phương thức trọng tài thương
mại, hòa giải thương mại.
5. Xây dựng Báo cáo Thủ tướng Chính phủ về tổng thể thực trạng pháp
luật hợp đồng, pháp luật giải quyết tranh chấp hợp đồng bằng phương