lOMoARcPSD| 59769538
BÀI TIỂU LUẬN CUỐI KÌ MÔN
PHÁP LUẬT ĐẠI CƯƠNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI
KHOA TẠO DÁNG CÔNG NGHIỆP
Tóm tắt
Bài luận đi sâu vào việc phân tích sự ra đời, đặc điểm của pháp luật chủ nô, 3 con
đường hình thành pháp luật trong lịch sử. Từ những kiến thức đã trả lời cho
hai câu hỏi yêu cầu của học phần dưới đây:
lOMoARcPSD| 59769538
1
- Phân tích sự ra đời, đặc điểm của pháp luật chủ nô
- Các con đường hình thành pháp luật trong lịch sử như thế nào?
Phần mở đầu
I. Tổng quan tài liệu
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, pháp luật ra đời cùng với sự ra đời
của nhà nước. Những nguyên nhân dẫn đến sự ra đời của nhà nước cũng chính là
những nguyên nhân dẫn đến sự ra đời của pháp luật.
Bài viết “Kiểu pháp luật chiếm hữu nô lệ là gì ? Quy định về kiểu pháp luật
chiếm hữu nô lệ” đã nhận xét ra đời trên sự tan rã của xã hội cộng sản nguyên
thuỷ, kiểu nhà nước chủ nô là kiểu nhà đầu tiên trong lịch sử xã hội loài người.
Cùng với sự ra đời của nhà nước chủ nô, pháp luật chủ nô cũng ra đời và là kiểu
pháp luật đầu tiên trong lịch sử.
Bài viết “Cùng tìm hiểu về pháp luật chủ nô” có viết quá trình hình thành và
phát triển của pháp luật chủ nô diễn ra chậm chạp trong một thời gian dài.
Bài nghiên cứu “Lý luận về pháp luật” cho rằng do là kiểu pháp luật đầu tiên
trong lịch sử, nội dung của pháp luật chủ nô hết sức đơn giản, sử dụng nhiều tập
quán, tín điều tồn tại trong xã hội.
Bài nghiên cứu “Lý luận về pháp luật” cũng viết rằng sự ra đời của pháp luật ở
một giai đoạn phát triển nhất định của lịch sử là tất yếu, nhưng vấn đề đặt ra là
pháp luật được hình thành bằng những phương thức nào.
Từ đây, người viết sẽ tiếp tục chỉ ra ba con đường hình thành pháp luật.
II. Câu hỏi nghiên cứu
- Phân tích sự ra đời, đặc điểm của pháp luật chủ nô
- Các con đường hình thành pháp luật trong lịch sử như thế nào?
III. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu được sử dụng trong khuôn khổ bài luận là phương pháp
nghiên cứu tài liệu: Người viết tìm các nguồn học liệu liên quan tới pháp luật chủ
các con đường hình thành pháp luật trong lịch sử, nhằm giải đáp các câu hỏi
nghiên cứu.
Giải quyết vấn đề
I. Sự ra đời của pháp luật chủ nô (pháp luật chiếm hữu nô lệ) Pháp
luật chủ nô là kiểu pháp luật đầu tiên trong lịch sử xã hội loài người, xuất
hiện sớm nhất vào khoảng 4000 năm trước Công nguyên tại Ai Cập cổ đại,
2000 năm trước Công nguyên ở Trung Quốc và Ấn Độ. Nó được hình thành
lOMoARcPSD| 59769538
2
đầu tiên trên cơ sở sự chuyển hoá của các tập quán, và sau đó là sự hình
thành các văn bản quy phạm pháp luật của các nhà nước chủ nô.
Kiểu pháp luật chủ nô được xây dựng trên cơ sở quan hệ sản xuất chiếm hữu nô
lệ, trong đó chủ nô là chủ sở hữu đối với tư liệu sản xuất và cả nô lệ. Pháp luật
chiếm hữu nô lệ cũng có những đặc điểm giống pháp luật phong kiến như chịu
ảnh hưởng sâu sắc của các tư tưởng tôn giáo, có các hình phạt dã man, tàn bạo.
Dưới góc độ xã hội thì pháp luật chủ nô là phương tiện để duy trì trật tự xã hội,
quản lý các mặt khác nhau của đời sống xã hội tạo điều kiện cho xã hội chiếm
hữu nô lệ tồn tại và phát triển vì lợi ích của các lực lượng khác nhau trong xã
hội. Tuy nhiên, tính xã hội của pháp luật chủ nô chưa nhiều và có nhiều hạn chế.
Có thể thấy, tính xã hội của pháp luật chủ nô không được thể hiện rõ rệt và công
khai như tính giai cấp.
Pháp luật chiếm hữu nô lệ có các bộ luật nổi tiếng như Bộ luật Hammurapi thế
kỉ XVIII trước Công nguyên của nhà nước Babylon, Bộ luật Manu thế kỉ II
trước Công nguyên của Ấn Độ, Bộ luật Dracon năm 621 trước Công nguyên của
Hi Lạp cổ đại, Bộ luật XII bảng thế kỉ V trước Công nguyên của nhà nước La
Mã cổ đại.
II. Đặc điểm của pháp luật chủ nô
Thông qua các thư tịch cổ, đặc biệt thông qua các quy định trong các bộ luật nổi
tiếng còn tồn tại có thể thấy, pháp luật chủ nô có một số đặc điểm sau:
1. Pháp luật chủ nô tạo cơ sở pháp lí cho việc củng cố và bảo vệ quan hệ sản
xuất chiếm hữu nô lệ, hợp pháp hoá chế độ bóc lột của chủ nô đối với nô
lệ
Pháp luật chủ nô luôn ghi nhận và củng cố quyền tư hữu của chủ nô đối với tư
liệu sản xuất và nô lệ. Quyền này bao giờ cũng gồm quyền chiếm hữu, quyền sử
dụng và quyền định đoạt đối với tài sản cũng như đối với nô lệ.
Nô lệ chỉ là “công cụ”, là “tài sản biết nói” của chủ, chủ nô có toàn quyền chiếm
hữu, sử dụng, định đoạt đối với nô lệ như đối với các tài sản khác, có quyền
chiếm đoạt toàn bộ kết quả lao động, có quyền đánh đập, chửi mắng, mua, bán,
tặng, cho thậm chí giết chết nô lệ. dụ như trong Luật La Mã có quy định: chủ
nô có toàn quyền đối với tài sản, chủ nô có toàn quyền đối với nô lệ kể cả việc
mua, bán, đánh đập hoặc huỷ diệt.
2. Pháp luật chủ nô ghi nhận và củng cố tình trạng không bình đẳng trong xã
hội và gia đình
Trong xã hội chiếm hữu nô lệ, chỉ chủ nô mới được coi là công dân và pháp luật
chia công dân (giai cấp chủ nô) ra thành nhiều loại nhiều thứ bậc khác nhau phụ
thuộc vào số tài sản mà họ có. Cùng với việc phân loại công dân, pháp luật còn
ghi nhận cho mỗi loại công dân những quyền hạn và nghĩa vụ khác nhau. Những
lOMoARcPSD| 59769538
3
người càng ở tầng lớp trên càng được pháp luật trao cho nhiều quyền lực. Ngược
lại, công dân loại thấp không được hưởng những quyền của người thượng đẳng
và không được tham gia vào các cơ quan Nhà nước, nếu vi phạm pháp luật có
thể bị đưa xuống hàng nô lệ.
Luật La Mã quy định: "Hoàng đế không phải phục tùng pháp luật nào cả. Ý chí
của hoàng đế là pháp luật đối với nhân dân."
Cũng như luật La Mã, luật của nhiều Nhà nước chủ nô khác cũng quy định vua
có quyền vô hạn. Trong khi đó, nô lệ không được coi là người mà chỉ là hàng
hóa thuộc sở hữu của chủ nô. Việc giết nô lệ không bị coi là phạm tội giết người
mà coi là hành vi xâm phạm tài sản của chủ nô.
Theo luật Manou thì cùng phạm một tội nhưng nếu là chủ nô thì mức phạt là
cách chức còn đối với những người khác thì có thể bị giết chết.
Có thể thấy, chế tài đối với chủ nô luôn nhẹ hơn đối với nô lệ dù là cùng hành vi
vi phạm. Thông qua pháp luật, Nhà nước chủ nô yêu cầu vua có nghĩa vụ áp
dụng mọi biện pháp cưỡng chế để “những kẻ hạ đẳng không chiếm được vị trí
của những người thượng đẳng”.
Như vậy, pháp luật chủ nô còn ghi nhận và củng cố tình trạng bình đẳng giữa
các thành viên trong gia đình, bảo vệ sự thống trị tuyệt đối của người chồng,
người cha trong gia đình. Trong xã hội chiếm hữu nô lệ, hôn nhân được coi như
một dạng hợp đồng mua bán, trong đó đối tượng bị mua bán là cô dâu. Người
phụ nữ đều phải sống phụ thuộc vào người khác, khi ở nhà thì dưới quyền cha,
khi đi lấy chồng thì dưới quyền chồng, khi chồng chết thì phải chịu sự cai quản
của họ hàng nhà chồng… Khi lấy chồng, người vợ chỉ có địa vị ngang hàng với
con cái và phải có nghĩa vụ trung thành với chồng.
Chẳng hạn, Bộ luật Manou quy định người vợ là do được người chồng mua về,
tất cả của hồi môn của vợ trở thành sở hữu của chồng.
Trong luật Hammurabi, điều 129 có quy định: “Nếu vợ của dân tự do ngủ với
người đàn ông khác mà bị bắt, thì phải trói cả hai người này lại và ném xuống
sông”. Ngược lại, nếu người vợ bắt được chồng ngoại tình thì chỉ được quyền li
dị, còn người chồng không phải chịu bất kì một trách nhiệm pháp lí nào.
Ở nhiều nước, các con của chủ nô tuy không phải là nô lệ nhưng bị coi là sở hữu
của chủ nô. Con của chủ nô có quyền công dân, có địa vị pháp lý nhất định
nhưng chủ nô có toàn quyền quyết định đến số phận, tính mạng của họ.
Luật La mã quy định chỉ người cha mới là chủ thể độc lập, các con chỉ là những
người thuộc quyền người khác. Trong xã hội nếu đã lớn tuổi con trai trưởng
ngang hàng bố và giữ những địa vị trong xã hội (trừ địa vị nghị viện), nhưng
trong gia đình anh ta hoàn toàn phụ thuộc quyền lực của người bố, kể cả khi đã
lOMoARcPSD| 59769538
4
lấy vợ và có con. Luật La Mã cũng cho thấy quyền lực của người cha có thể
bán người con làm nô lệ. Cụ thể, điều 2, bảng IV: “Nếu người cha bán con làm
nô lệ đến ba lần, người con đó sẽ được tự do khỏi người cha của mình.”
3. Pháp luật chủ nô quy định một hệ thống hình phạt và cách thi hành hình
phạt hết sức dã man, tàn bạo
Trong các kiểu pháp luật, pháp luật chủ nô quy định hình phạt tàn bạo nhất. T
hình hoặc tra tấn nhục hình được áp dụng đối với rất nhiều hành vi vi phạm pháp
luật mà không cần xác định mức độ nguy hiểm cho xã hội của các hành vi đó.
Hơn nữa, hình thức tử hình và tra tấn cũng vô cùng dã man như chôn sống, ném
vào vạc dầu, ném vào lửa hoặc móc mắt, cắt lưỡi…
Luật Dracon hình phạt đối với tất cả các tội lớn, nhỏ đều chỉ là tử hình.
Theo luật Hammurabi, điều 38 quy định: "Nếu thợ xây nhà mà xây không đảm
bảo, nhà đổ, chủ nhà chết thì người thợ xây bị giết." hoặc điều 39: "Nếu nhà đổ,
con của người chủ nhà chết thì con của người thợ xây cũng phải chết theo".
Luật Manou chương 8, điều 125 có quy định: tội phản quốc thì bị trừng phạt
bằng cách “thiêu bàn tay”, cắt lưỡi, chặt tay, móc mắt, xẻo mũi, cắt bỏ bộ phận
sinh dục.
4. Pháp luật chủ nô có tính tản mạn, thiếu thống nhất
Pháp luật chủ nô chủ yếu tồn tại dưới hình thức tập quán pháp.
Xã hội chiếm hữu nô lệ đã phân chia giai cấp và xuất hiện chế độ tư hữu, đòi hỏi
Nhà nước và pháp luật phải ra đời để duy trì sự thống trị giai cấp. Tuy nhiên, ở
thời kỳ này, giai cấp thống trị chủ yếu sử dụng các tập quán sẵn có trong xã hội
tồn tại từ thời kỳ thị tộc bộ lạc và coi đó là quy phạm có giá trị bắt buộc thi
hành. Chính vì vậy, pháp luật chủ nô chưa có sự xác định chặt chẽ về nội dung
và hình thức nên giai cấp chủ nô có thể toàn quyền theo ý mình để xét xử nô lệ.
Nhiều tư tưởng tôn giáo được thể chế hoá thành pháp luật, nhiều tín điều tôn
giáo được thừa nhận, nâng lên thành pháp luật.
Sau này, bên cạnh nguồn chủ yếu là tập quán pháp, pháp luật chủ nô cũng đã tồn
tại hình thức văn bản pháp luật, điển hình là các bộ luật như Bộ luật Hammurabi
của Nhà nước chiếm hữu nô lệ Babylon, Bộ luật Manou của Nhà nước chiếm
hữu nô lệ Ấn Độ, Luật Dracon của Nhà nước chiếm hữu nô lệ Hy Lạp, Luật 12
Bảng của Nhà nước chiếm hữu nô lệ La Mã…
III. Các con đường hình thành pháp luật trong lịch sử
Thông qua việc phân tích các đặc điểm của pháp luật chủ nô, ta đã thấy được con
đường đầu tiên hình thành nên pháp luật – tập quán pháp. Bên cạnh đó, pháp luật
còn được hình thành bằng 2 con đường khác, đó tiền lệ pháp ban hành văn
bản quy phạm pháp luật.
lOMoARcPSD| 59769538
5
1. Tập quán pháp là thừa nhận các tập quán sẵn có trong xã hội và nâng
chúng lên thành các quy phạm pháp luật có giá trị bắt buộc thi hành. Khi
Nhà nước mới ra đời, giai cấp thống trị thường sử dụng các tập quán sẵn
có trong xã hội để nâng chúng lên thành pháp luật, chẳng hạn như các quy
phạm pháp luật về sở hữu trong Đạo luật Mười hai bảng của La Mã được
nâng lên từ các tập quán sở hữu về ruộng đất và nô lệ trong tổ chức công
xã La Mã cổ đại. Cách thức này đến nay tuy không còn phổ biến nhưng
vẫn là một trong những con đường hữu hiệu để hình thành pháp luật.
2. Tiền lệ pháp là nhà nước thừa nhận các quyết định có trước về từng vụ
việc cụ thể của cơ quan xét xử hoặc cơ quan hành chính cấp trên để trở
thành khuôn mẫu cho các cơ quan cấp dưới tương ứng giải quyết những
vụ việc tương tự xảy ra.
Bên cạnh hình thức tập quán pháp, tiền lệ pháp cũng là một hình thức biểu hiện
của nhiều Nhà nước chủ nô. Các quyết định của cơ quan Nhà nước chủ nô hoặc
của chủ nô thường được xem là khuôn mẫu để giải quyết các trường hợp tương
tự.
3. Ban hành văn bản quy phạm pháp luật
Cùng với sự phát triển của chữ viết trong xã hội chiếm hữu nô lệ là sự hình
thành và phát triển pháp luật thành văn. Nhiều Nhà nước chủ nô đã ban hành các
văn bản pháp luật ở nhiều dạng khác nhau và được chép trên các loại vật liệu
khác nhau như gỗ, tre, da súc vật ... Thời kỳ đầu, các văn vần pháp luật chủ yếu
là sao chép lại một cách có hệ thống những tập quán pháp không thành văn, ít có
quy phạm pháp luật mang tính sáng tạo mới. Tuy nhiên, cũng có những Nhà
nước chủ nô đã xây dựng được những bộ luật tổng hợp khá công phu và tương
đối hoàn chỉnh. Có thể nêu ra mt số bộ luật nổi tiếng còn được biết đến như:
Bộ luật Hammurabi của Nhà nước chủ nô Babylon thế kỉ thứ XVIII tr.CN. Bộ
luật gồm 282 điều quy định về các vấn đề như quyền lực của vua, tổ chức bộ
máy nhà nước, lãnh thổ, tài sản, thuế, sở hữu, hôn nhân và gia đình ... Trong b
luật đã có lời nói đầu và các vấn đề đã được sắp xếp theo một trật tự nhất định.
Bộ luật Manou của Nhà nước chủ nô Ấn Độ thế kỷ thứ II tr.CN. Bộ luật gồm
2685 điều chép lại tập quán và các quy định của các thời đai trước.
Luật Dracon của Nhà nước chủ nô Hy Lạp năm 621 tr.CN. Đây là đạo luật nổi
tiếng hà khắc mà người đương thời cho là nó được viết bằng máu vì tất cả mọi
tội lớn nhỏ trong luật này đều có mức án tử hình. Trong luật Dracon, nguyên tắc
"ăn miếng trả miếng" đã bị loại bỏ. Hành vi giết người không còn coi là gây
thiệt hại tài sản mà đã được coi là tội phạm. Trong luật cũng đã có sự phân định
khái niệm lỗi cố ý và lỗi vô ý.
lOMoARcPSD| 59769538
6
Luật 12 bảng của Nhà nước chủ nô La Mã thế kỷ thứ V tr.CN là bộ luật hoàn
thiện nhất. Chế định sở hữu tư nhân trong luật này rất phát triển. Tuy nhiên
Luật 12 bảng vẫn mang tàn dư của chế độ thị tộc, như trong luật tồn tại cách
đền bù ngang nhau, luật nợ máu phải trả bằng máu…
Kết luận
Vì là kiểu pháp luật đầu tiên trong lịch sử xã hội loài người, nội dung của pháp
luật chủ nô vẫn còn tương đối đơn giản, vẫn mang nhiều tàn dư của chế độ thị
tộc, cùng với đó là các hình thức biểu hiện rất đa dạng. Xét về bản chất, cùng
với nhà nước chủ nô, pháp luật chủ nô đã thể hiện rất rõ tính giai cấp và tính xã
hội so với các kiểu nhà nước và pháp luật khác. Trong đó, tính giai cấp được thể
hiện rõ rệt hơn cả, vì thực chất pháp luật chủ nô chỉ là công cụ để duy trì và bảo
vệ sự thống trị của chủ nô với nô lệ.
Thông qua việc phân tích sự ra đời và các đặc điểm của pháp luật chủ nô, ta
cũng thấy được các con đường hình thành nên pháp luật trong lịch sử. Pháp luật
chủ nô có tất cả các hình thức ấy, nhưng hình thức tập quán pháp là phổ biến
nhất, chiếm ưu thế tuyệt đối.
Danh mục tài liệu tham khảo
1. Lý luận về Pháp luật
2. Pháp luật chủ nô Th.s Phạm Ngọc Minh
3. Nhà nước và pháp luật thế giới thời cổ đại
4. Cùng tìm hiểu về pháp luật chủ nô
5. Tìm hiểu Luật Mười Hai Bảng của người La Mã xưa
6. Tìm hiểu luật 12 Bảng của luật pháp La Mã cổ đại – TS Đỗ Đình Bảng
7. Bộ Luật Hammurabi
8. Kiểu pháp luật chiếm hữu nô lệ là gì ? Quy định về kiểu pháp luật
chiếm hữu nô lệ

Preview text:

lOMoAR cPSD| 59769538
BÀI TIỂU LUẬN CUỐI KÌ MÔN
PHÁP LUẬT ĐẠI CƯƠNG

TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI
KHOA TẠO DÁNG CÔNG NGHIỆP Tóm tắt
Bài luận đi sâu vào việc phân tích sự ra đời, đặc điểm của pháp luật chủ nô, 3 con
đường hình thành pháp luật trong lịch sử. Từ những kiến thức đã có trả lời cho
hai câu hỏi yêu cầu của học phần dưới đây: lOMoAR cPSD| 59769538
- Phân tích sự ra đời, đặc điểm của pháp luật chủ nô
- Các con đường hình thành pháp luật trong lịch sử như thế nào? Phần mở đầu I.
Tổng quan tài liệu
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, pháp luật ra đời cùng với sự ra đời
của nhà nước. Những nguyên nhân dẫn đến sự ra đời của nhà nước cũng chính là
những nguyên nhân dẫn đến sự ra đời của pháp luật.
Bài viết “Kiểu pháp luật chiếm hữu nô lệ là gì ? Quy định về kiểu pháp luật
chiếm hữu nô lệ” đã nhận xét ra đời trên sự tan rã của xã hội cộng sản nguyên
thuỷ, kiểu nhà nước chủ nô là kiểu nhà đầu tiên trong lịch sử xã hội loài người.
Cùng với sự ra đời của nhà nước chủ nô, pháp luật chủ nô cũng ra đời và là kiểu
pháp luật đầu tiên trong lịch sử.
Bài viết “Cùng tìm hiểu về pháp luật chủ nô” có viết quá trình hình thành và
phát triển của pháp luật chủ nô diễn ra chậm chạp trong một thời gian dài.
Bài nghiên cứu “Lý luận về pháp luật” cho rằng do là kiểu pháp luật đầu tiên
trong lịch sử, nội dung của pháp luật chủ nô hết sức đơn giản, sử dụng nhiều tập
quán, tín điều tồn tại trong xã hội.
Bài nghiên cứu “Lý luận về pháp luật” cũng viết rằng sự ra đời của pháp luật ở
một giai đoạn phát triển nhất định của lịch sử là tất yếu, nhưng vấn đề đặt ra là
pháp luật được hình thành bằng những phương thức nào.
Từ đây, người viết sẽ tiếp tục chỉ ra ba con đường hình thành pháp luật. II.
Câu hỏi nghiên cứu
- Phân tích sự ra đời, đặc điểm của pháp luật chủ nô
- Các con đường hình thành pháp luật trong lịch sử như thế nào?
III. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu được sử dụng trong khuôn khổ bài luận là phương pháp
nghiên cứu tài liệu: Người viết tìm các nguồn học liệu liên quan tới pháp luật chủ
nô và các con đường hình thành pháp luật trong lịch sử, nhằm giải đáp các câu hỏi nghiên cứu.
Giải quyết vấn đề
I. Sự ra đời của pháp luật chủ nô (pháp luật chiếm hữu nô lệ) Pháp
luật chủ nô là kiểu pháp luật đầu tiên trong lịch sử xã hội loài người, xuất
hiện sớm nhất vào khoảng 4000 năm trước Công nguyên tại Ai Cập cổ đại,
2000 năm trước Công nguyên ở Trung Quốc và Ấn Độ. Nó được hình thành 1 lOMoAR cPSD| 59769538
đầu tiên trên cơ sở sự chuyển hoá của các tập quán, và sau đó là sự hình
thành các văn bản quy phạm pháp luật của các nhà nước chủ nô.
Kiểu pháp luật chủ nô được xây dựng trên cơ sở quan hệ sản xuất chiếm hữu nô
lệ, trong đó chủ nô là chủ sở hữu đối với tư liệu sản xuất và cả nô lệ. Pháp luật
chiếm hữu nô lệ cũng có những đặc điểm giống pháp luật phong kiến như chịu
ảnh hưởng sâu sắc của các tư tưởng tôn giáo, có các hình phạt dã man, tàn bạo.
Dưới góc độ xã hội thì pháp luật chủ nô là phương tiện để duy trì trật tự xã hội,
quản lý các mặt khác nhau của đời sống xã hội tạo điều kiện cho xã hội chiếm
hữu nô lệ tồn tại và phát triển vì lợi ích của các lực lượng khác nhau trong xã
hội. Tuy nhiên, tính xã hội của pháp luật chủ nô chưa nhiều và có nhiều hạn chế.
Có thể thấy, tính xã hội của pháp luật chủ nô không được thể hiện rõ rệt và công khai như tính giai cấp.
Pháp luật chiếm hữu nô lệ có các bộ luật nổi tiếng như Bộ luật Hammurapi thế
kỉ XVIII trước Công nguyên của nhà nước Babylon, Bộ luật Manu thế kỉ II
trước Công nguyên của Ấn Độ, Bộ luật Dracon năm 621 trước Công nguyên của
Hi Lạp cổ đại, Bộ luật XII bảng thế kỉ V trước Công nguyên của nhà nước La Mã cổ đại.
II. Đặc điểm của pháp luật chủ nô
Thông qua các thư tịch cổ, đặc biệt thông qua các quy định trong các bộ luật nổi
tiếng còn tồn tại có thể thấy, pháp luật chủ nô có một số đặc điểm sau:
1. Pháp luật chủ nô tạo cơ sở pháp lí cho việc củng cố và bảo vệ quan hệ sản
xuất chiếm hữu nô lệ, hợp pháp hoá chế độ bóc lột của chủ nô đối với nô lệ
Pháp luật chủ nô luôn ghi nhận và củng cố quyền tư hữu của chủ nô đối với tư
liệu sản xuất và nô lệ. Quyền này bao giờ cũng gồm quyền chiếm hữu, quyền sử
dụng và quyền định đoạt đối với tài sản cũng như đối với nô lệ.
Nô lệ chỉ là “công cụ”, là “tài sản biết nói” của chủ, chủ nô có toàn quyền chiếm
hữu, sử dụng, định đoạt đối với nô lệ như đối với các tài sản khác, có quyền
chiếm đoạt toàn bộ kết quả lao động, có quyền đánh đập, chửi mắng, mua, bán,
tặng, cho thậm chí giết chết nô lệ. Ví dụ như trong Luật La Mã có quy định: chủ
nô có toàn quyền đối với tài sản, chủ nô có toàn quyền đối với nô lệ kể cả việc
mua, bán, đánh đập hoặc huỷ diệt.

2. Pháp luật chủ nô ghi nhận và củng cố tình trạng không bình đẳng trong xã hội và gia đình
Trong xã hội chiếm hữu nô lệ, chỉ chủ nô mới được coi là công dân và pháp luật
chia công dân (giai cấp chủ nô) ra thành nhiều loại nhiều thứ bậc khác nhau phụ
thuộc vào số tài sản mà họ có. Cùng với việc phân loại công dân, pháp luật còn
ghi nhận cho mỗi loại công dân những quyền hạn và nghĩa vụ khác nhau. Những 2 lOMoAR cPSD| 59769538
người càng ở tầng lớp trên càng được pháp luật trao cho nhiều quyền lực. Ngược
lại, công dân loại thấp không được hưởng những quyền của người thượng đẳng
và không được tham gia vào các cơ quan Nhà nước, nếu vi phạm pháp luật có
thể bị đưa xuống hàng nô lệ.
Luật La Mã quy định: "Hoàng đế không phải phục tùng pháp luật nào cả. Ý chí
của hoàng đế là pháp luật đối với nhân dân."
Cũng như luật La Mã, luật của nhiều Nhà nước chủ nô khác cũng quy định vua
có quyền vô hạn. Trong khi đó, nô lệ không được coi là người mà chỉ là hàng
hóa thuộc sở hữu của chủ nô. Việc giết nô lệ không bị coi là phạm tội giết người
mà coi là hành vi xâm phạm tài sản của chủ nô.
Theo luật Manou thì cùng phạm một tội nhưng nếu là chủ nô thì mức phạt là
cách chức còn đối với những người khác thì có thể bị giết chết.
Có thể thấy, chế tài đối với chủ nô luôn nhẹ hơn đối với nô lệ dù là cùng hành vi
vi phạm. Thông qua pháp luật, Nhà nước chủ nô yêu cầu vua có nghĩa vụ áp
dụng mọi biện pháp cưỡng chế để “những kẻ hạ đẳng không chiếm được vị trí
của những người thượng đẳng”.
Như vậy, pháp luật chủ nô còn ghi nhận và củng cố tình trạng bình đẳng giữa
các thành viên trong gia đình, bảo vệ sự thống trị tuyệt đối của người chồng,
người cha trong gia đình. Trong xã hội chiếm hữu nô lệ, hôn nhân được coi như
một dạng hợp đồng mua bán, trong đó đối tượng bị mua bán là cô dâu. Người
phụ nữ đều phải sống phụ thuộc vào người khác, khi ở nhà thì dưới quyền cha,
khi đi lấy chồng thì dưới quyền chồng, khi chồng chết thì phải chịu sự cai quản
của họ hàng nhà chồng… Khi lấy chồng, người vợ chỉ có địa vị ngang hàng với
con cái và phải có nghĩa vụ trung thành với chồng.
Chẳng hạn, Bộ luật Manou quy định người vợ là do được người chồng mua về,
tất cả của hồi môn của vợ trở thành sở hữu của chồng.
Trong luật Hammurabi, điều 129 có quy định: “Nếu vợ của dân tự do ngủ với
người đàn ông khác mà bị bắt, thì phải trói cả hai người này lại và ném xuống
sông”. Ngược lại, nếu người vợ bắt được chồng ngoại tình thì chỉ được quyền li
dị, còn người chồng không phải chịu bất kì một trách nhiệm pháp lí nào.

Ở nhiều nước, các con của chủ nô tuy không phải là nô lệ nhưng bị coi là sở hữu
của chủ nô. Con của chủ nô có quyền công dân, có địa vị pháp lý nhất định
nhưng chủ nô có toàn quyền quyết định đến số phận, tính mạng của họ.
Luật La mã quy định chỉ người cha mới là chủ thể độc lập, các con chỉ là những
người thuộc quyền người khác. Trong xã hội nếu đã lớn tuổi con trai trưởng
ngang hàng bố và giữ những địa vị trong xã hội (trừ địa vị nghị viện), nhưng
trong gia đình anh ta hoàn toàn phụ thuộc quyền lực của người bố, kể cả khi đã
3 lOMoAR cPSD| 59769538
lấy vợ và có con. Luật La Mã cũng cho thấy quyền lực của người cha – có thể
bán người con làm nô lệ. Cụ thể, điều 2, bảng IV: “Nếu người cha bán con làm
nô lệ đến ba lần, người con đó sẽ được tự do khỏi người cha của mình.”

3. Pháp luật chủ nô quy định một hệ thống hình phạt và cách thi hành hình
phạt hết sức dã man, tàn bạo
Trong các kiểu pháp luật, pháp luật chủ nô quy định hình phạt tàn bạo nhất. Tử
hình hoặc tra tấn nhục hình được áp dụng đối với rất nhiều hành vi vi phạm pháp
luật mà không cần xác định mức độ nguy hiểm cho xã hội của các hành vi đó.
Hơn nữa, hình thức tử hình và tra tấn cũng vô cùng dã man như chôn sống, ném
vào vạc dầu, ném vào lửa hoặc móc mắt, cắt lưỡi…
Luật Dracon hình phạt đối với tất cả các tội lớn, nhỏ đều chỉ là tử hình.
Theo luật Hammurabi, điều 38 quy định: "Nếu thợ xây nhà mà xây không đảm
bảo, nhà đổ, chủ nhà chết thì người thợ xây bị giết." hoặc điều 39: "Nếu nhà đổ,
con của người chủ nhà chết thì con của người thợ xây cũng phải chết theo".

Luật Manou chương 8, điều 125 có quy định: tội phản quốc thì bị trừng phạt
bằng cách “thiêu bàn tay”, cắt lưỡi, chặt tay, móc mắt, xẻo mũi, cắt bỏ bộ phận sinh dục.
4. Pháp luật chủ nô có tính tản mạn, thiếu thống nhất
Pháp luật chủ nô chủ yếu tồn tại dưới hình thức tập quán pháp.
Xã hội chiếm hữu nô lệ đã phân chia giai cấp và xuất hiện chế độ tư hữu, đòi hỏi
Nhà nước và pháp luật phải ra đời để duy trì sự thống trị giai cấp. Tuy nhiên, ở
thời kỳ này, giai cấp thống trị chủ yếu sử dụng các tập quán sẵn có trong xã hội
tồn tại từ thời kỳ thị tộc bộ lạc và coi đó là quy phạm có giá trị bắt buộc thi
hành. Chính vì vậy, pháp luật chủ nô chưa có sự xác định chặt chẽ về nội dung
và hình thức nên giai cấp chủ nô có thể toàn quyền theo ý mình để xét xử nô lệ.
Nhiều tư tưởng tôn giáo được thể chế hoá thành pháp luật, nhiều tín điều tôn
giáo được thừa nhận, nâng lên thành pháp luật.
Sau này, bên cạnh nguồn chủ yếu là tập quán pháp, pháp luật chủ nô cũng đã tồn
tại hình thức văn bản pháp luật, điển hình là các bộ luật như Bộ luật Hammurabi
của Nhà nước chiếm hữu nô lệ Babylon, Bộ luật Manou của Nhà nước chiếm
hữu nô lệ Ấn Độ, Luật Dracon của Nhà nước chiếm hữu nô lệ Hy Lạp, Luật 12
Bảng của Nhà nước chiếm hữu nô lệ La Mã…
III. Các con đường hình thành pháp luật trong lịch sử
Thông qua việc phân tích các đặc điểm của pháp luật chủ nô, ta đã thấy được con
đường đầu tiên hình thành nên pháp luật – tập quán pháp. Bên cạnh đó, pháp luật
còn được hình thành bằng 2 con đường khác, đó là tiền lệ pháp và ban hành văn
bản quy phạm pháp luật. 4 lOMoAR cPSD| 59769538
1. Tập quán pháp là thừa nhận các tập quán sẵn có trong xã hội và nâng
chúng lên thành các quy phạm pháp luật có giá trị bắt buộc thi hành. Khi
Nhà nước mới ra đời, giai cấp thống trị thường sử dụng các tập quán sẵn
có trong xã hội để nâng chúng lên thành pháp luật, chẳng hạn như các quy
phạm pháp luật về sở hữu trong Đạo luật Mười hai bảng của La Mã được
nâng lên từ các tập quán sở hữu về ruộng đất và nô lệ trong tổ chức công
xã La Mã cổ đại.
Cách thức này đến nay tuy không còn phổ biến nhưng
vẫn là một trong những con đường hữu hiệu để hình thành pháp luật.
2. Tiền lệ pháp là nhà nước thừa nhận các quyết định có trước về từng vụ
việc cụ thể của cơ quan xét xử hoặc cơ quan hành chính cấp trên để trở
thành khuôn mẫu cho các cơ quan cấp dưới tương ứng giải quyết những
vụ việc tương tự xảy ra.
Bên cạnh hình thức tập quán pháp, tiền lệ pháp cũng là một hình thức biểu hiện
của nhiều Nhà nước chủ nô. Các quyết định của cơ quan Nhà nước chủ nô hoặc
của chủ nô thường được xem là khuôn mẫu để giải quyết các trường hợp tương tự.
3. Ban hành văn bản quy phạm pháp luật
Cùng với sự phát triển của chữ viết trong xã hội chiếm hữu nô lệ là sự hình
thành và phát triển pháp luật thành văn. Nhiều Nhà nước chủ nô đã ban hành các
văn bản pháp luật ở nhiều dạng khác nhau và được chép trên các loại vật liệu
khác nhau như gỗ, tre, da súc vật ... Thời kỳ đầu, các văn vần pháp luật chủ yếu
là sao chép lại một cách có hệ thống những tập quán pháp không thành văn, ít có
quy phạm pháp luật mang tính sáng tạo mới. Tuy nhiên, cũng có những Nhà
nước chủ nô đã xây dựng được những bộ luật tổng hợp khá công phu và tương
đối hoàn chỉnh. Có thể nêu ra một số bộ luật nổi tiếng còn được biết đến như:
Bộ luật Hammurabi của Nhà nước chủ nô Babylon thế kỉ thứ XVIII tr.CN. Bộ
luật gồm 282 điều quy định về các vấn đề như quyền lực của vua, tổ chức bộ
máy nhà nước, lãnh thổ, tài sản, thuế, sở hữu, hôn nhân và gia đình ... Trong bộ
luật đã có lời nói đầu và các vấn đề đã được sắp xếp theo một trật tự nhất định.

Bộ luật Manou của Nhà nước chủ nô Ấn Độ thế kỷ thứ II tr.CN. Bộ luật gồm
2685 điều chép lại tập quán và các quy định của các thời đai trước.
Luật Dracon của Nhà nước chủ nô Hy Lạp năm 621 tr.CN. Đây là đạo luật nổi
tiếng hà khắc mà người đương thời cho là nó được viết bằng máu vì tất cả mọi
tội lớn nhỏ trong luật này đều có mức án tử hình. Trong luật Dracon, nguyên tắc
"ăn miếng trả miếng" đã bị loại bỏ. Hành vi giết người không còn coi là gây
thiệt hại tài sản mà đã được coi là tội phạm. Trong luật cũng đã có sự phân định
khái niệm lỗi cố ý và lỗi vô ý.
5 lOMoAR cPSD| 59769538
Luật 12 bảng của Nhà nước chủ nô La Mã thế kỷ thứ V tr.CN là bộ luật hoàn
thiện nhất. Chế định sở hữu tư nhân trong luật này rất phát triển. Tuy nhiên
Luật 12 bảng vẫn mang tàn dư của chế độ thị tộc, như trong luật tồn tại cách
đền bù ngang nhau, luật nợ máu phải trả bằng máu…
Kết luận
Vì là kiểu pháp luật đầu tiên trong lịch sử xã hội loài người, nội dung của pháp
luật chủ nô vẫn còn tương đối đơn giản, vẫn mang nhiều tàn dư của chế độ thị
tộc, cùng với đó là các hình thức biểu hiện rất đa dạng. Xét về bản chất, cùng
với nhà nước chủ nô, pháp luật chủ nô đã thể hiện rất rõ tính giai cấp và tính xã
hội so với các kiểu nhà nước và pháp luật khác. Trong đó, tính giai cấp được thể
hiện rõ rệt hơn cả, vì thực chất pháp luật chủ nô chỉ là công cụ để duy trì và bảo
vệ sự thống trị của chủ nô với nô lệ.
Thông qua việc phân tích sự ra đời và các đặc điểm của pháp luật chủ nô, ta
cũng thấy được các con đường hình thành nên pháp luật trong lịch sử. Pháp luật
chủ nô có tất cả các hình thức ấy, nhưng hình thức tập quán pháp là phổ biến
nhất, chiếm ưu thế tuyệt đối.
Danh mục tài liệu tham khảo
1. Lý luận về Pháp luật
2. Pháp luật chủ nô – Th.s Phạm Ngọc Minh
3. Nhà nước và pháp luật thế giới thời cổ đại
4. Cùng tìm hiểu về pháp luật chủ nô
5. Tìm hiểu Luật Mười Hai Bảng của người La Mã xưa
6. Tìm hiểu luật 12 Bảng của luật pháp La Mã cổ đại – TS Đỗ Đình Bảng 7. Bộ Luật Hammurabi
8. Kiểu pháp luật chiếm hữu nô lệ là gì ? Quy định về kiểu pháp luật chiếm hữu nô lệ 6