



















Preview text:
lOMoARcPSD|50582371
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NỘI VỤ HÀ NỘI
KHOA PHÁP LUẬT HÀNH CHÍNH TÊN ĐỀ TÀI:
TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ ĐỐI VỚI NGƯỜI CHƯA
THÀNH NIÊN PHẠM TỘI
BÀI TIỂU LUẬN KẾT THÚC HỌC PHẦN
Học phần: LUẬT HÌNH SỰ
Mã Phách: . . . . . . . . . . . . . . . . HÀ NỘI - 2021 lOMoARcPSD|50582371 MỤ ỤC L C
Phần Mở Đầu....................................................................................................................................1
1. Lí do chọn đề.................................................................................................................................1
2. Đối tượng nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu..................................................................................2
3. Mục đích nghiên cứu.....................................................................................................................2
4. Đề tài được nghiên cứu bằng phương pháp...................................................................................2
5. Cấu trúc đề tài ..............................................................................................................................2
Phần Nội Dung..................................................................................................................................3
CHƯƠNG I MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ ĐỐI VỚI NGƯỜI CHƯA
THÀNH NIÊN PHẠM TỘI..............................................................................................................3
1.1. Khái niệm người chưa thành niên và người chưa thành niên phạm tội.................................3
1.1.1. Khái niệm người chưa thành niên....................................................................................3
1.1.2. Khái niệm người chưa thành niên phạm tội.....................................................................3
1.2. Đặc điểm, mục đích quy định trách nhiệm hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội.
......................................................................................................................................................4
1.2.1. Đặc điểm tâm lí của người chưa thành niên....................................................................4
1.2.2. Mục đích và ý nghĩa quy định trách nhiệm hình sự đối với người chưa thành niên phạm
tội..............................................................................................................................................5
CHƯƠNG II NỘI DUNG VÀ THỰC TRẠNG CÁC QUY ĐINH TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ
ĐỐI VỚI NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN PHẠM TỘI....................................................................6
2.1 Quy định của pháp luật hình sự về người chưa thành niên phạm tội.....................................6
2.1.1. Các biện pháp giám sát, giáo dục áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội......11
2.1.2. Biện pháp tư pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng........................................................13
2.1.3. Hệ thống hình phạt được áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội...................14
2.2. Thực trạng người chưa thành niên phạm tội hiện nay.........................................................15
2.3.Những hạn chế trong thi hành các quy định của pháp luật...................................................19
CHƯƠNG III MỘT SỐ NHỮNG HẠN CHẾ VÀ GIẢI PHÁP VỀ TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ ĐỐI VỚI NGƯỜI
CHƯA THÀNH NIÊN PHẠM TỘI........................................................................................................19
3.1 Một số hạn chế từ những quy định của Bộ luật hình sự........................................................20
3.2. Giải pháp về các quy định của pháp luật..............................................................................23
KẾT LUẬN.....................................................................................................................................27
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................................................................29 lOMoARcPSD|50582371 Phần Mở Đầu
1. Lí do chọn đề.
Hiện nay, nước ta đang là một nước đang phát triển, có một nền kinh
tế đang có sự hội nhập sâu rộng với rất nhiều nước phát triển và đang phát
triển trên thế giới, việc hội nhập như vậy sẽ giúp cho nền kinh tế phát triển
hơn, khảng định được vị thế của quốc gia trên trường thế giới. Cùng với sự
phát triển của kinh tế thì xã hội cũng có những sự biến chuyển, biến chuyển
về mặt đạo đức và lối sống của con người đặc biệt là người chưa thành niên là
một lứa tuổi rất đặc biệt, với lứa tuổi này thì cũng đã có đôi chút hiểu biết,
nhưng cũng chưa phải là sự trưởng thành thật sự về mặt nhận thức, suy nghĩ
hay là những điều đang làm. Một lớp người có thể nói là mầm non cho tương
lai, xây dựng và phát triển đất nước, phát triển nền kinh tế của một cường quốc
sau này có thể là vậy. Do vậy, việc được chăm sóc, bảo vệ và giáo dục trở
thành những con người có ích cho xã hội là một điều vô cùng cần thiết. Nhưng
thực tế đang cho thấy một điều rất không tốt đó là mặt trái của sự phát triển
kinh tế ảnh hưởng rất nhiều đến xã hội, tình trạng các tệ nạn, các vụ phạm tội
của những người chưa thành niên ngày càng có chiều hướng gia tăng và đang
trở thành một vấn đề cấp thiết hiện nay, từ những sự vi phạm hay phạm tội đó
sẽ ảnh hưởng rất nhiều đến ngay bản thân họ và cả những người trong gia
đình, người thân, lớn hơn là toàn xã hội. Rõ ràng những vấn đề này đang đặt
ra một vấn đề thực sự cho Nhà nước là cần phải có những quy định cụ thể
trong pháp luật nhằm mang tính răn đe, trừng trị những hành động phạm tội,
những hành vi nguy hiểm cho xã hội, chấm dứt tình trạng này nhằm phát triển
thế hệ trẻ (những người chưa thành niên) để có một xã hội văn minh, đất nước phát triển.
2. Đố ượi t ng nghiên cứu, ph m vi nghiên cạ ứu.
Đối tượng nghiên cứu: Những quy định, trách nhiệm hình sự đối với người
chưa thành niên phạm tội trong pháp luật Việt Nam. 1 lOMoARcPSD|50582371
Phạm vi nghiên cứu: Những quy định của pháp luật về trách nhiệm hình
sự đối với người chưa thành niên phạm tội qua đó tìm hiểu về thực trạng hiện
nay và đưa ra những giải pháp.
3. Mục đích nghiên cứu.
Mục đích cơ bản của đề tài là làm sáng tỏ một cách có hệ thống, đầy đủ
và chi tiết về những quy định của pháp luật về trách nhiệm hình sự đối với
người chưa thành niên phạm tội
Từ những kết quả nghiên cứu, bài tiểu luận đưa ra một số khuyến nghị
nhằm nâng cao hiệu quả, chất lượng trong những quy định của pháp luật.
4. Đề tài được nghiên cứu bằng phương pháp.
Phương pháp nghiên cứu tài liệu, phân tích, tổng hợp, thống kê.
5. Cấu trúc đề tài .
Ngoài phần lời mở đầu, phần kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, bài bao gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề về trách nhiệm hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội.
Chương 2: Nội dung và thực trạng các quy định trách nhiệm hình sự
đối với người chưa thành niên phạm tội.
Chương 3: Một số hạn chế và giải phấp về trách nhiệm hình sự đối với
người chưa thành niên phạm tội. Phần Nội Dung CHƯƠNG I
MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ ĐỐI VỚI NGƯỜI 2 lOMoARcPSD|50582371
CHƯA THÀNH NIÊN PHẠM TỘI
1.1. Khái niệm người chưa thành niên và người chưa thành niên phạm tội
1.1.1. Khái niệm người chưa thành niên.
Theo khoản 1, điều 21 Bộ luật Dân sự 2015 thì “người chưa thành niên
là người chưa đủ mười tám tuổi”, có thể hiểu thêm đó là những người chưa
hoàn toàn phát triển đầy đủ về nhân cách, nhận thức chưa có đầy đủ quyền
lợi và nghĩa vụ của một công dân.
1.1.2. Khái niệm người chưa thành niên phạm tội.
Người chưa thành niên phạm tội là khái niệm dùng để chỉ những người
từ đủ 14 tuổi trở lên nhưng chưa đủ 18 tuổi thực hiện hành vi nguy hiểm
cho xã hội được quy định trong luật hình sự là tội phạm.
Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật
Hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân thương mại
thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất,
toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn
hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của
tổ chức, xâm phạm quyền con người, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân,
xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa mà theo
quy định của Bộ luật này phải bị xử lý hình sự. Về mặt nguyên tắc, mọi người
phạm tội đều bình đẳng trước pháp luật, không phân biệt nam, nữ, dân tộc, tín
ngưỡng, tôn giáo, thành phần, địa vị xã hội. Tuy nhiên, đối với những trường
hợp người phạm tội là người chưa thành niên, Nhà nước có chính sách và những
quy định riêng trong pháp luật, căn cứ vào tính chất riêng, tâm lý riêng ở độ
tuổi này cũng như đường lối, chính sách, pháp luật về bảo vệ, chăm sóc và
giáodục trẻ em. Một người chưa thành niên chỉ được coi là phạm tội khi họ thỏa
mãn các điều kiện dưới đây: Họ là người chưa thành niên; đã đủ tuổi chịu trách
nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật hiện hành. Đã thực hiện hành vi mà 3 lOMoARcPSD|50582371
luật hình sự quy định là tội phạm.Theo quy định của pháp luật Việt Nam, người
chưa thành niên là người dưới 18 tuổi. Người chưa thành niên phạm tội là người
dưới 18 tuổi, đã thực hiện hành vi phạm tội, thỏa mãn các điều kiện chủ thể của
tội phạm, tức là họ phải có năng lực trách nhiệm hình sự và từ đủ 14 tuổi trở
lên đối với trường hợp phạm tội rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng do cố
ý hoặc từ đủ 16 tuổi trở lên đối với mọi tội phạm. Cũng có thể hiểu rằng, người
chưa thành niên phạm tội là người phạm tội trong độ tuổi từ khoảng trên 14
hoặc 16 tuổi (tùy theo từng trường hợp khác nhau tội phạm thực hiện là tội
phạm ít nghiêm trọng, nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hay đặc biệt nghiêm
trọng) và dưới 18 tuổi.
1.2. Đặc điểm, mục đích quy định trách nhiệm hình sự đối với người chưa
thành niên phạm tội.
1.2.1. Đặc điểm tâm lí của người chưa thành niên
Phần lớn người chưa thành niên phạm tội đều có nhu cầu độc lập quá
mức kèm theo tính tự chủ kém. Họ thường cho rằng mình đã là người lớn đã
đủ chín chắn để có thể làm mọi việc mà mình thích.Thêm vào đó là sự thiếu
quan tâm giáo dục từ gia đình và nhà trường đã dẫn đến những hậu quả đáng
tiếc đối với con em họ sau này.
Thái độ đối với học tập. Đối với người chưa thành niên phạm tội thì hoạt
động học tập là hoạt động chủ đạo, nó giữ vai trò quan trọng đối với sự phát
triển tâm lý, nhân cách. Nhiều công trình nghiên cứu cho thấy, một trong những
đặc điểm nổi bật của người chưa thành niên phạm tội là học vấn của họ rất thấp,
sức học rất kém và động cơ học tập bị suy giảm nghiêm trọng. Nhiều em có
biểu hiện tiêu cực đối với học tập, dễ sa ngã và thiêm nhiễm những thói hư tật
xấu từ chính môi trường học đường từ đó dẫn đến những hành vi phạm pháp. 4 lOMoARcPSD|50582371
Về nhận thức pháp luật. Những người chưa thành niên còn rất non nớt về kiến
thức xã hội và ý thức pháp luật. Nhận thức và quan niệm về pháp luật chưa hình
thành đầy đủ hoặc bị lệch lạc theo cách hiểu chủ quan của họ. Vì thế, nhiều em
thường thờ ơ, lãnh đạm đối với các quy định của pháp luật. Một biểu hiện khác
của sự nhận thức về pháp luật chưa đúng đắn là không ít em cho rằng, những
yêu cầu và những đòi hỏi của các chuẩn mực luật pháp chỉ được quy định trong
các văn bản pháp luật và hoàn toàn mang tính hình thức còn hành động thì phải
căn cứ vào nhu cầu cụ thể của cá nhân mới thể hiện được cuộc sống tự do. Hay
nói cách khác nhận thức pháp luật của phần lớn người chưa thành niên phạm
tội biểu hiện ở mức độ thấp
Nhận thức pháp luật giúp các em phát triển nhân cách một cách đúng đắn
và trở thành công dân tốt cho xã hội.Ý thức pháp luật là nhân tố rất quan trọng
đối với sự phát triển nhân cách của người chưa thành niên. Song, khi các em
không có được ý thức pháp luật đúng đắn thì nguy cơ dẫn tới hành vi phạm tội là rất cao.
1.2.2. Mục đích và ý nghĩa quy định trách nhiệm hình sự đối với người
chưa thành niên phạm tội.
Mục đích lớn nhất vẫn là mang tính chất giáo dục, răn đe những người
phạm tội, trừng phạt những hành vi sai lệch vi phạm đến đạo đức, pháp luật,
giáo dục nhằm giúp cho họ có thể nhận thức được những việc sai trái khi đã
phạm tội, làm cho những suy nghĩ sẽ tốt hơn, đúng đắn hơn tránh việc phạm tội tiếp theo.
CHƯƠNG II NỘI DUNG VÀ THỰC TRẠNG CÁC QUY ĐINH TRÁCH
NHIỆM HÌNH SỰ ĐỐI VỚI NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN PHẠM TỘI
2.1 Quy định của pháp luật hình sự về người chưa thành niên phạm tội.
Chúng ta có thể thấy rằng Nhà nước luôn luôn có những công tác tuyên
truyền, giáo dục đưa pháp luật đến gần hơi với người dân, giúp cho những người 5 lOMoARcPSD|50582371
chưa có hiểu biết về pháp luật có thể hiểu thêm về pháp luật, những quy định của
Nhà nước để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ. Và đặc biệt, những năm
gần đây Đảng và Nhà nước đã có nhiều chủ trương, chính sách để phổ biến pháp
luật rộng rãi hơn ngay trong trường học, để trực tiếp giáo dục cho những thế hệ
trẻ biết về những quy định của pháp luật. Tuy nhiên, một thực tế cũng đang diễn
ra hết sức phổ biến và thậm chí có thêm sự gia tăng đó là tình trạng những người
ở độ tuổi chưa thành niên phạm tội đang ngày càng nhiều, loại tội phạm rất nghiêm
trọng và đặc biệt nghiêm trọng mà những người này vi phạm cũngngày một nhiều
hơn, hành vi phạm tội cũng ngày một tinh vi hơn, xảo quyệt hơn. Điều này đỏi
hỏi Nhà nước cần phải có nhữung quy định cụ thể, mang tính răn đe, trừng trị,
giáo dục để chấm dứt tình trạng phạm tội ở lứa tuổi chưa thành niên như hiện nay.
Bộ luật hình sự dành riêng một chương là Chương XII quy định về
người chưa thành niên phạm tội, những chính sách này cũng dựa trên nhiều
yếu tố khác nhau có thể kể đến như là dựa trên đặc điểm đặc thù của lứa tuổi
người chưa thành niên là sự hạn chế về nhận thức, hạn chế về suy nghĩ do vậy
việc xét xử cũng chù yếu nhằm giáo dục, qua đó giúp họ nhận thức được sai
lầm và tuân thủ các quy định của pháp luật. Các nguyên tắc xử lý của Nhà
nước đối với người chưa thành niên phạm tội là những quan điểm, tư tưởng
chỉ đạo, chủ yếu mang tính chất định hướng trong việc giải quyết vấn đề trách
nhiệm hình sự của người chưa thành niên phạm tội, đó cũng cho thấy sự phù
hợp với tình hình chung của đất nước khi luôn đưa những quy định mang một
tinh thần nhân đạo, giáo dục lên trên, bởi nó sẽ không làm ảnh hưởng quá
nhiều đến tinh thần và suy nghĩ và tương lai về sau cho những người phạm tội.
Các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội được luật hóa tại
điều 1 chương XII Bộ luật hình sự 2015(sửa đổi, bổ sung năm 2017) có những nguyên tắc sau: 6 lOMoARcPSD|50582371
Nguyên tắc thứ nhất: Việc xử lý người chưa thành niên phạm tội chủ
yếu nhằm giáo dục, giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh và trở
thành công dân có ích cho xã hội. Quy định này cho thấy sự phù hợp và đúng
đắn của Nhà nước về việc xử lý hình sự người chưa thành niên phạm tội trước
hết và chủ yếu nhằm: Giáo dục, làm cho người phạm tội nhận thức được những
sai lầm mà họ đã mắc phải, khiến cho họ nhận ra và suy nghĩ về sai lầm, biết
được những hậu quả xảy ra khi thực hiện hành vi phạm tội. Mục đích của quy
định nhằm mang tính giáo dục là chủ yếu sau thì có thể là răn đe nhưng nhìn
chung không đặt ra khi áp dụng hình phạt và các biện pháp tư pháp đối với
loại đối tượng này. Việc này sẽ giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm, phát triển lành
mạnh, trở thành công dân có ích cho xã hội. Một phần nữa đó là do người chưa
thành niên phạm tội là người đang trong giai đoạn phát triển về mặt nhận thức,
suy nghĩ và nhân cách nên mục đích này phải luôn được coi trọng và đặt lên
hàng đầu. Tránh cho những hậu quả không đáng có khi người phạm tội không
thể nhận thức được. Và cũng cần phải có những sự minh bạch, chính xác từ từ
những cơ quan điều tra, xét xử tìm ra được nguyên nhân, động cơ, động lực
gây ra việc phạm tội, cách họ nhận thức việc làm của mình gây ra ra sao nhằm
xác định một cách chính xác nhất, đầy đủ nhất để có những xử lý đúng đắn.
Nguyên tắc thứ hai, người chưa thành niên phạm tội có thể được miễn
trách nhiệm hình sự (nếu phạm tội ngoài các trường hợp pháp luật quy định),
tự nguyện khắc phục hậu quả, có nhiều tình tiết giảm nhẹ. Để có thể được xác
đinh là miễn trách nhiệm hình sự thì cần phải có những điều kiện cụ thể như
phải là người chưa thành niên tại thời điểm thực hiện tội phạm, tội mà họ phạm
phải là phạm tội ít nghiêm trọng hoặc phạm tội nghiêm trọng trừ những trường
hợp được pháp luật quy định, Người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội
ít nghiêm trọng, phạm tội nghiêm trọng, trừ trường hợp quy định tại Điều 134
(tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác); Điều
141 (tội hiếp dâm); Điều 171 (tội cướp giật tài sản); Điều 248 (tội sản xuất trái
phép chất ma túy); Điều 249 (tội tàng trữ trái phép chất ma túy); Điều 250 (tội 7 lOMoARcPSD|50582371
vận chuyển trái phép chất ma túy); Điều 251 (tội mua bán trái phép chất ma
túy); Điều 252 (tội chiếm đoạt chất ma túy) của Bộ luật này, và Người từ đủ
14 tuổi đến dưới 16 tuổi phạm tội rất nghiêm trọng do cố ý quy định tại khoản
2 Điều 12 của Bộ luật này, trừ trường hợp quy định tại Điều 123 (tội giết
người); Điều 134, các khoản 4, 5 và khoản 6 (tội cố ý gây thương tích hoặc
gây tổn hại cho sức khỏe của người khác); Điều 141 (tội hiếp dâm), Điều 142
(tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi); Điều 144 (tội cưỡng dâm người từ đủ 13
tuổi đến dưới 16 tuổi); Điều 150 (tội mua bán người); Điều 151 (tội mua bán
người dưới 16 tuổi); Điều 168 (tội cướp tài sản); Điều 171 (tội cướp giật tài
sản); Điều 248 (tội sản xuất trái phép chất ma túy); Điều 249 (tội tàng trữ trái
phép chất ma túy); Điều 250 (tội vận chuyển trái phép chất ma túy); Điều 251
(tội mua bán trái phép chất ma túy); Điều 252 (tội chiếm đoạt chất ma túy)
của Bộ luật này, Người dưới 18 tuổi là người đồng phạm nhưng có vai trò
không đáng kể trong vụ án ( khoản 2, điều 91 Bộ luật hình sự 2015(sửa đổi, bổ sung 2017).
Nguyên tắc thứ ba, việc truy cứu trách nhiệm hình sự người chưa thành
niên phạm tội và áp dụng hình phạt đối với họ được thực hiện chỉ trong trường
hợp cần thiết và phải căn cứ vào tính chất của hành vi phạm tội, vào những
đặc điểm về nhân thân và yêu cầu của việc phòng ngừa tội phạm. Pháp luật
Việt Nam không đặt vấn đề truy cứu trách nhiệm hình sự đối với mọi trường
hợp người chưa thành niên phạm tội mà chỉ tiến hành việc làm này trong
những trường hợp “cần thiết”. Sự “cần thiết” hay “không cần thiết” ở đây xác
định dựa trên cơ sở căn cứ vào: Tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi
phạm tội đã thực hiện. Nếu hành vi phạm tội của người chưa thành niên có
tính chất không lớn thì không cần thiết phải truy cứu trách nhiệm hình sự đối
với họ. Đặc điểm nhân thân người chưa thành niên phạm tội. Nếu người chưa
thành niên lần đầu phạm tội, có nhân thân tốt thì cần thiết phải cân nhắc việc
có truy cứu trách nhiệm hình sự đối với họ hay không. Yêu cầu cụ thể của việc 8 lOMoARcPSD|50582371
phòng ngừa tội phạm đối với bản thân người chưa thành niên phạm tội và đối
với người khác trong xã hội.
Nguyên tắc thứ tư, khi xét xử Tòa án chỉ áp dụng hình phạt đối với
người dưới 18 tuổi phạm tội nếu xét thấy việc miễn trách nhiệm hình sự và áp
dụng một trong các biện pháp quy định, hoặc việc áp dụng biện pháp giáo dục
tại trường giáo dưỡng không bảo đảm hiệu quả giáo dục, phòng ngừa. Những
biện pháp tư pháp này gồm có giáo dục tại xã, phường, thị trấn và đưa vào
trường giáo dưỡng. Đây là những biện pháp dược Tòa án áp dụng thay thế
hình phạt để giáo dục, giúp đỡ người chưa thành niên phạm tội trong những
trường hợp có căn cứ do pháp luật quy định.
Nguyên tắc thứ năm, “Không xử phạt tù chung thân hoặc tử hình đối
với người dưới 18 tuổi phạm tội”. Nguyên tắc thứ năm, không xử phạt tù
chung thân hoặc tử hình đối với người chưa thành niên phạm tội. Khi xử phạt
tù có thời hạn, Tòa án cho người chưa thành niên phạm tội được hưởng mức
án nhẹ hơn mức án áp dụng đối với người đã thành niên phạm tội tương ứng.
Không áp dụng hình phạt tiền đối với người chưa thành niên phạm tộ ở độ
tuổi từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuôi. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với
người chưa thành nhiên phạm tội.
Nguyên tắc thứ sáu,“Tòa án chỉ áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối
với người dưới 18 tuổi phạm tội khi xét thấy các hình phạt và biện pháp giáo
dục khác không có tác dụng răn đe, phòng ngừa. Khi xử phạt tù có thời hạn,
Tòa án cho người dưới 18 tuổi phạm tội được hưởng mức án nhẹ hơn mức án
áp dụng đối với người đủ 18 tuổi trở lên phạm tội tương ứng và với thời hạn
thích hợp ngắn nhất. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với người dưới 18
tuổi phạm tội”. Tử hình và tù chung thân là hai biện pháp nghiêm khắc nhất
trong hệ thống hình phạt được quy định trong BLHS, người phạm tội chỉ bị
áp dụng hình phạt này trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng và khi khả năng
giáo dục không còn nữa. Chính vì vậy đối với người chưa thành niên phạm 9 lOMoARcPSD|50582371
tội, khi mục đích của việc truy cứu trách nhiệm hình sự chủ yếu là nhằm giáo
dục cải tạo họ, thì không thể áp dụng hai hình phạt này. Nguyên tắc cuối cùng
đối với người chưa thành niên phạm tội được quy định tại Khoản 7 Điều 91
Bộ luật hình sự: “Án đã tuyên đối với người chưa đủ 16 tuổi phạm tội, thì
không tính để xác định tái phạm hoặc tái phạm nguy hiểm”.
Nguyên tắc thứ bảy, án đã tuyên đối với người chưa thành niên phạm
tội khi chưa đủ 16 tuổi, thì không tính để xác định tái phạm hoặc tái phạm
nguy hiểm. Với nguyên tắc nêu trên, luật hình sự Việt Nam khẳng định vẫn có
án tích đối với người chưa thành niên phạm tội trong trường hợp biện pháp xử
lý đối với họ là hình phạt. Tuy nhiên, phạm tội mới trong thời gian mang án
tích không phải là căn cứ để xác định tái phạm, tái phạm nguy hiểm trong
trường hợp người phạm tội dưới 16 tuổi. Các biện pháp tư pháp và hình phạt
giành cho người chưa thành niên phạm tội Cùng với hình phạt, biện pháp tư
pháp là một trong những hình thức biểu hiện cụ thể của trách nhiệm hình sự.
Với những điều kiện như trên, thực chất chỉ những người từ đủ 16 tuổi
đến dưới 18 tuổi mới được áp dụng biện pháp này bởi lẽ những người từ đủ
14 tuổi đến dưới 16 tuổi nếu thực hiện tội phạm ít nghiêm trọng hoặc tội phạm
nghiêmtrọng sẽ không phải chịu trách nhiệm hình sự do chưa đủ tuổi chịu
trách nhiệm hình sự do luật định.
2.1.1. Các biện pháp giám sát, giáo dục áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội.
Trước đây Bộ luật hình sự 1999 chỉ quy định chung chung rằng người
chưa thành niên phạm tội được miễn trách nhiệm hình sự thì sẽ có gia đình
hoặc cơ quan, tổ chức giám sát, giáo dục. Bộ luật hình sự 2015 bổ sung một
số biện pháp giám sát, giáo dục đối với người chưa thành niên được miễn trách
nhiệm hình sự là: biện pháp khiển trách (Điều 93), hòa giải tại cộng đồng
(Điều 94) và giáo dục tại xã, phường, thị trấn (Điều 95). Đây là những quy
định cụ thể nhằm đưa việc giáo dục, nâng cao nhận thức đối với người phạm 10 lOMoARcPSD|50582371
tội đi vào thực tế và có hiệu quả. Trên cơ sở quy định của BLHS, Bộ luật tố
tụng hình sự năm Bộ luật tố tụng hình sự 2015 cũng bổ sung các quy định về
thẩm quyền, trình tự, thủ tục áp dụng các biện pháp giám sát, giáo dục đối với
người dưới 18 tuổi phạm tội tại các Điều từ 426 đến 429 của bộ luật. Ngoài
ra, Bộ luật hình sự 2015 bỏ đi biện pháp tư pháp giáo dục tại xã, phường, thị
trấn theo quy định của Bộ luật Hình sự năm 1999 (do đã có các biện pháp
giám sát, giáo dục cụ thể nêu trên) và chỉ giữ lại 1 biện pháp tư pháp áp dụng
đối với người chưa thành niên phạm tội, đó là biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng.
Biện pháp khiển trách (Điều 93 Bộ luật hình sự 2015)Được áp dụng đối với
người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi lần đầu phạm tội ít nghiêm trọng thuộc
trường hợp quy định tại điểm a khoản 2, Điều 91 của BLHS 2015; người dưới
18 tuổi là người đồng phạm có vai trò không đáng kể trong vụ án. Viêc ̣ khiển
trách đối với người dưới 18 tuổi phạm tôi phải có sự chứng kiến củạ cha mẹ
hoăc người đại diện hợp pháp của người dưới 18 tuổi. Người bị ̣khiển trách
phải tuân thủ pháp luật, nội quy, quy chế của nơi cư trú, học tập, làm việc;
trình diện trước cơ quan có thẩm quyền khi được yêu cầu; tham gia các chương
trình học tập, dạy nghề do địa phương tổ chức, tham gia lao động với hình
thức phù hợp. Tùy từng trường hợp cụ thể cơ quan có thẩm quyền ấn định thời
gian thực hiện các nghĩa vụ quy định tại điểm b và điểm c khoản 3, Điều 93
Bộ luật hình sự 2015 từ 03 tháng đến 01 năm. Biện pháp này nhằm giúp họ
nhận thức rõ hành vi phạm tội và hậu quả gây ra đối với cộng đồng, xã hội và
nghĩa vụ của họ. Hòa giải tại cộng đồng (Điều 94 Bộ luật hình sự năm 2015)
Được áp dụng đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội ít nghiêm
trọng hoặc phạm tôi nghiêm trọng thuộc trường ̣ hợp quy định tại điểm a khoản
2 điều 91 của Bộ luật hình sự 2015; người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phạm
tôi rất nghiêm trọng quy định tại điểm ḅ khoản 2 Điều 91 của Bộ . Cơ quan
điều tra, Viện kiểm sát hoặc Tòa án phối hợp với Ủy ban nhân dân cấp xã tổ
chức việc hòa giải tại cộng đồng khi người bị hại hoặc người đại diện hợp 11 lOMoARcPSD|50582371
pháp của người bị hại đã tự nguyện hòa giải và đề nghị miễn trách nhiệm hình
sự. Người được áp dụng biêṇ pháp hòa giải tại công đồng phải xin l ̀i người
bị hại và bồi thường thiệt hại;̣ tuân thủ pháp luật, nội quy, quy chế của nơi cư
trú, học tập, làm việc; trình diện trước cơ quan có thẩm quyền khi được yêu
cầu; tham gia các chương trình học tập, dạy nghề do địa phương tổ chức, tham
gia lao động với hình thức phù hợp. Tùy trường hợp cụ thể, cơ quan có thẩm
quyền ấn định thời điểm xin l ̀i, thời gian thực hiện nghĩa vụ bồi thường thiệt
hại quy định tại điểm a khoản 3 điều 94 Bộ luật hình sự 2015 và nghĩa vụ quy
định tại điểm b và điểm c khoản 3 điều 93 của Bộ luật hình sự 2015 từ 03
tháng đến 01 năm. Giáo dục tại xã, phường, thị trấn (Điều 95 Bộ luật hình sự
năm 2015) Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát hoặc Tòa án có thể áp dụng biện
pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn từ 01 năm đến 02 năm đối với người từ
đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tôi ít nghiêm trọng hoặc phạm tộ i nghiêm
trọng ̣ quy định tại điểm a khoản 2 Điều 91 của Bộ luật hình sự; người từ đủ
14 tuổi đến dưới 16 tuổi phạm tôi rất nghiêm trọng quy định tại điểm b khoản
2̣ Điều 91 của Bộ luật hình sự. Người được Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát
hoặc Tòa án giao cho Ủy ban nhân dân cấp xã tổ chức giám sát, giáo dục phải
chấp hành đầy đủ nghĩa vụ về học tập, lao động; chịu sự giám sát, giáo dục
của gia đình, xã, phường, thị trấn; không đi khỏi nơi cư trú khi không được
phép và thực hiện các nghĩa vụ theo quy định tại khoản 3 Điều 93 của Bộ luật
hình sự 2015. Nếu người được giáo dục tại xã, phường, thị trấn đã chấp hành
một phần hai thời hạn, có nhiều tiến bộ thì theo đề nghị của Ủy ban nhân dân
cấp xã được giao trách nhiệm quản lý, giáo dục, cơ quan đã áp dụng biện pháp
này có thể quyết định chấm dứt thời hạn giáo dục tại xã, phường, thị trấn. Việc
áp dụng các biện pháp thay thế xử lý hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm
tội là một trong những điểm mới nổi bật của Bộ luật hình sự 2015, thể hiện rõ
chính sách nhân đạo của Nhà nước ta, tăng tính hướng thiện trong chính sách
xử lý hình sự, nhất là đối với đối tượng cần bảo vệ đặc biệt là người chưa thành niên. 12 lOMoARcPSD|50582371
2.1.2. Biện pháp tư pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng.
Biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng là biện pháp tư pháp đối với
người chưa thành niên phạm tội nếu xét cần phải cách ly họ ra khỏi môi trường
gia đình- xã hội để giáo dục và cải tạo họ thành công dân có ích. Khi quyết
định biện pháp tư pháp này, tòa án cần xem xét tính chất nghiêm trọng của
hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội và môi trường sống của người đó.
Thời hạn của biện pháp giáo dục trường giáo dưỡng là từ 1 năm đến 2 năm.
Trường giáo dưỡng là cơ sở giáo dục đặc biệt được Nhà nước thành lập để
giáo dục, cải tạo người chưa thành niên phạm tội hoặc có những vi phạm pháp
luật khác. Tuy biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng bắt buộc người chưa
thành niên phạm tội phải chịu sự quản lý chặt chẽ và phải cách li ra khỏi xã
hội nhưng họ được học tập văn hóa và nghề nghiệp. Tại đây, họ được học tập,
rèn luyện để trờ thành công dân tốt trong tương lai. Nếu người được giáo dục
tại trường giáo dưỡng đã chấp hành một phần hai thời hạn, có nhiều tiến bộ,
thì theo đề nghị của trường giáo dưỡng được giao trách nhiệm quản lý, giáo
dục, Tòa án có thể quyết định chấm dứt thời hạn giáo dục tại trường giáo
dưỡng (Điều 97 Bộ luật hình sự 2015)
2.1.3. Hệ thống hình phạt được áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội.
Hệ thống hình phạt được quy định trong Bộ luật hình sự bao gồm hình
phạt chính và hình phạt bổ sung. Tuy nhiên, căn cứ vào đặc điểm của người
chưa thành niên, yêu cầu của việc phòng chống tội phạm, nguyên tắc nhân đạo
xã hội chủ nghĩa, luật hình sự quy định các hình phạt được áp dụng đối với
người chưa thành niên phạm tội bao gồm: Cảnh cáo, Phạt tiền. .
Cải tạo không giam giữ. 13 lOMoARcPSD|50582371 Tù có thời hạn.
Cảnh cáo: Cảnh cáo là hình phạt chính, có tính giáo dục sâu sắc, thể
hiện sự khiển trách công khai của Nhà nước đối với người phạm tội và hành
vi phạm tội của họ. Cảnh cáo gây ra cho người bị kết án những tổn hại về tinh
thần. Người chưa thành niên phạm tội bị phạt cảnh cáo khi phạm tội ít nghiêm
trọng và có nhiều tình tiết giảm nhẹ.
Phạt tiền: Phạt tiền là hình phạt chính áp dụng đối với người chưa thành
niên phạm tội nhằm tước đi quyền lợi vật chất của họ. Người chưa thành niên
phạm tội bị phạt tiền khi có đủ hai điều kiện: Họ là người đã từ đủ 16 tuổi đến
dưới 18 tuổi và có thu nhập hoặc tài sản riêng.
Cải tạo không giam giữ: Hình phạt cải tạo không giam giữ được áp dụng
đối với người từ đủ 16 đến dưới 18 tuổi phạm tội ít nghiêm trọng, phạm tội
nghiêm trọng hoặc phạm tội rất nghiêm trọng do vô ý hoặc người từ đủ 14
tuổi đến dưới 16 tuổi phạm tội rất nghiêm trọng do cố ý. Cải tạo không giam
giữ là hình phạt chính có nội dung giáo dục sâu sắc không buộc người được
áp dụng hình phạt này phải cách li khỏi xã hội. Họ vẫn có thể thực hiện công
việc thường ngày và sống trong môi trường gia đình và xã hội như trước đây.
Người chưa thành niên phạm tội bị phạt cải tạo không giam giữ cần đáp ứng
hai điều kiện sau: Hành vi phạm tội thuộc vào tội ít nghiêm trọng, nghiêm
trọng hoặc rất nghiêm trọng do vô ý hoặc người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi
phạm tội rất nghiêm trọng do cố ý; Họ phải có nơi làm việc ổn định hoặc có
nơi thường trú rõ ràng.
Tù có thời hạn: Tù có thời hạn là hình phạt cách li người phạm tội ra
khỏi xã hội để giáo dục, cải tạo họ trở thành công dân có ích cho xã hội. Đây
là hình phạt có hiệu quả giáo dục và ngăn ngừa cao. Chính vì vậy loại hình
này có thể áp dụng đối với mọi tội phạm được quy định trong luật hình sự Việt
Nam. Tù có thời hạn là hình phạt nghiêm khắc nhất có thể áp dụng đối với
người chưa thành niên phạm tội. Mức phạt tù có thời hạn áp dụng đối với 14 lOMoARcPSD|50582371
người dưới 18 tuổi phạm tội được quy định như sau: “Đối với người từ đủ 16
tuổi đến dưới 18 tuổi khi phạm tội, nếu điều luật được áp dụng quy định hình
phạt tù chung thân hoặc tử hình, thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng
không quá 18 năm tù; nếu là tù có thời hạn thì mức hình phạt cao nhất được
áp dụng không quá ba phần tư mức phạt tù mà điều luật quy định; Đối với
người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi khi phạm tội, nếu điều luật được áp dụng
quy định hình phạt tù chung thân hoặc tử hình, thì mức hình phạt cao nhất
được áp dụng không quá 12 năm tù; nếu là tù có thời hạn thì mức hình phạt
cao nhất được áp dụng không quá một phần hai mức phạt tù mà điều luật quy định”.
2.2. Thực trạng người chưa thành niên phạm tội hiện nay.
Theo thống kê gần nhất của Bộ Công an, tỷ lệ gây án theo lứa tuổi ở tuổi
vị thành niên trên địa bàn cả nước là 5,2% đối với người dưới 14 tuổi, 24,5%
đối với người từ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi và 70,3% đối với người từ 16 đến
dưới 18 tuổi. Từ đánh giá tổng thể có thể thấy, tình hình tội phạm, vi phạm
pháp luật do trẻ vị thành niên gây ra tiếp tục diễn biến phức tạp với tính chất,
mức độ phạm tội nguy hiểm hơn, gây hậu quả nghiêm trọng. Đặc biệt, tại các
thành phố lớn, tỉ lệ trẻ vị thành niên vi phạm pháp luật và phạm tội chiếm tỷ lệ
cao hơn và có chiều hướng tăng nhanh hơn. Chính vì vậy, việc siết chặt cũng
như nới lỏng chính sách xử lý hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội một
cách phù hợp, đủ sức răn đe, giáo dục là hết sức cần thiết, vừa đáp ứng yêu cầu
kéo giảm tội phạm, vừa phù hợp với quan điểm chung của cộng đồng quốc tế .
a. Về số lượng các vụ án có bị cáo là người chưa thành niên phạm tội.
Theo thống kê của Cục Cảnh sát hình sự Bộ Công an thì, trong ba năm
từ 2016 đến 2018 toàn quốc đã phát hiện 13.794 vụ với 20.367 đối tượng là
người dưới 18 tuổi phạm tội. Trong các tội danh mà người dưới 18 tuổi phạm
tội, có thể thống kê một số tội danh như sau: Giết người là 183 vụ với 293 đối
tượng; Cướp tài sản là 475 vụ với 830 đối tượng; Cưỡng đoạt tài sản là 88 vụ 15 lOMoARcPSD|50582371
với 111 đối tượng; Cố ý gây thương tích là 2017 vụ với 3797 đối tượng; Trộm
cắp tài sản là 5565 vụ với 7611 đối tượng; Cướp giật tài sản là 505 vụ với 627 đối tượng.
Ngoài các tội danh nêu trên, người dưới 18 tuổi còn phạm các tội khác
với 4961 vụ, 10.895 đối tượng. Trong số vụ phạm tội do người dưới 18 tuổi
thực hiện thì số vụ do người dưới 14 tuổi gây ra chiếm 6%, số vụ do người từ
đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi gây ra chiếm 23%, còn lại số vụ do người từ đủ
16 đến dưới 18 tuổi thực hiện là 71% .
Trong những năm qua, ngành Tòa án đã hết sức chú ý đảm bảo về chất
lượng xét xử đối với các vụ án hình sự nói chung và các vụ án hình sự do
người chưa thành niên thực hiện nói riêng, ngoài xét xử tại trụ sở Tòa án, các
Tòa án địa phương cũng tăng cường công tác xét xử lưu động các vụ án điểm
do người chưa thành niên thực hiện, nhằm tăng cường công tác giáo dục, phổ
biến pháp luật, góp phần phòng ngừa tình trạng thanh, thiếu niên phạm tội. Cụ
thể từ năm 2016 đến tháng 6/2019, toàn Hệ thống Tòa án thụ lý 8.129 vụ với
10.923 bị cáo là người dưới 18 tuổi (năm 2016 là 2653 vụ với 3494 bị cáo;
2017 là 2119 vụ với 2688 bị cáo; 2018 là 2265 vụ với 3176 bị cáo và 06 tháng
đầu năm 2019 là 1092 vụ với 1565 bị cáo). Đã xét xử được 7014 vụ với 9188
bị cáo (năm 2016, 2424 vụ với 3169 bị cáo; năm 2017, 1878 vụ với 2374 bị
cáo; 2018, 1800 vụ với 2483 bị cáo và 06 tháng đầu năm 2019 là 912 vụ với
1262 bị cáo). Trong số các bị cáo bị đưa ra xét xử, có độ tuổi từ 14 đến dưới
16 tuổi là 284 chiếm 3% còn lại là ở độ tuổi từ đủ 16 đến dưới 18 tuổi chiếm
97%, về giới tính có 186 bị cáo là nữ giới còn lại là nam giới.
Như vậy, số lượng các vụ án do người dưới 18 tuổi thực hiện trong ban
năm được đưa ra xét xử chỉ chiếm 51% (7037 vụ/13.794 vụ) số bị cáo chỉ
chiếm 46% tổng số người dưới 18 tuổi phạm tội (9358 bị cáo/20.367 đối tượng phạm tội). 16 lOMoARcPSD|50582371
Nếu chỉ thông qua số liệu xét xử hàng năm như trên thì chúng ta thấy
có tín hiệu đáng mừng vì số vụ án và số bị cáo là người dưới 18 tuổi phạm tội
có chiều hướng giảm, (năm 2016 là 3169 bị cáo, năm 2017 là 2374 bị cáo,
năm 2018 là 2383 giảm so với 2016 là 786 bị cáo bằng 24,8%) . Phải chăng
đây chính là hiệu quả của công tác xét xử đã có tác dụng trong công tác phòng
ngừa người dưới 18 tuổi phạm tội. Tuy nhiên, chúng ta lại thấy tỷ lệ người
dưới 18 tuổi phạm tội được đưa ra xét xử ít hơn rất nhiều so với người dưới
18 tuổi vi phạm pháp luật bị phát hiện như đã phân tích ở trên. Chính vì vậy,
cũng chưa thể khẳng định chính xác hiệu quả của công tác phòng ngừa người
dưới 18 tuổi phạm tội thông qua công tác xét xử của Tòa án là bao nhiêu phần
trăm. Cũng thông qua số liệu người dưới 18 tuổi phạm tội được phát hiện và
số liệu người dưới 18 tuổi được đưa ra xét xử thì thấy nguy cơ số trẻ em phạm
tội đang “gia tăng và trẻ hóa” đang trong tình trạng báo động bởi lẽ: Số người
dưới 18 tuổi phạm tội không đưa ra xét xử được chiếm 59%.
b. Về độ tuổi và loại tội mà các bị cáo là người chưa thành niên thực hiện.
Theo thống kê của Tòa án nhân dân tối cao thì thấy số người chưa thành
niên phạm tội chủ yếu ở độ tuổi từ 16 đến dưới 18 tuổi chiếm 97% (9074 bị
cáo), từ 14 đến dưới 16 tuổi chiếm 3 % (284 bị cáo). Những loại tội mà các bị
cáo là người chưa thành niên thực hiện tập trung nhiều ở các tội như: “Cố ý
gây thương tích”, “Trộm cắp tài sản”, “Cướp tài sản”, “Giết người”,” Cướp
giật tài sản” chiếm 87% tổng các loại tội như đã phân tích ở phần trên.
c. Về mức hình phạt được áp dụng đối với các bị cáo.
Năm 2019, việc quyết định hình phạt khi xét xử đối với người chưa
thành niên phạm tội của hệ thống Tòa án đã vận dụng thì mức hình phạt từ 15
– 18 năm chỉ có 27 bị cáo chiếm 0,29%, từ 7 – 15 năm có 248 bị cáo chiếm
2,7%, từ 3 đến 7 năm có 993 bị cáo chiếm 10,6%, dưới 03 năm có 4782 bị cáo
chiếm 51% và số bị cáo được hưởng án treo và cải tạo không giam giữ là 2803
bị cáo chiếm 30,5%. Số bị cáo được áp dụng các loại hình phạt khác không 17 lOMoARcPSD|50582371
phải là hình phạt tù là 505 bị cáo chiếm 3,6%. Nhìn chung hình phạt phổ biến
được áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội trong thời gian qua tập
trung ở mức dưới ba năm và án treo. Có thể thấy mức hình phạt đối với người
chưa thành niên phạm tội chủ yếu là mang tính giáo dục thể hiện sự nhân đạo
của pháp luật xã hội chủ nghĩa, đã được quy định cụ thể trong Chương XII
những quy định đối với người dưới 18 tuổi phạm tội của Bộ luật hình sự.
Từ những thực trạng đáng báo động đã được nêu ở trên thì chúng ta có
thể thấy một điều rất rõ đó là tình trạng người chưa thành niên phạm tội đang
ngày càng gia tăng cả về số lượng và mức độ nguy hiểm, hình thức thì ngày
càng đa dạng, tinh vi hơn, đây cũng là mặt trái của sự phát triển kinh tế khi
kinh tế phát triển kéo theo sự đi lên của xã hội nhưng luôn có những mặt hạn
chế, không tốt đặc biệt đó là những vấn đề liên quan đến người chưa thành
niên phạm tội, những con số thống kê trong những năm qua đã cho chúng ta
hiểu thêm về tình trạng, số lượng phạm tội của người chưa thành niên ở mức
đáng báo động, cần phải có những chính sách của Nhà nước để giải quyết vấn
đề cấp thiết này của đất nước.
2.3. Những hạn chế trong thi hành các quy định của pháp luật.
Trên cơ sở đánh giá tình hình thi hành các nguyên tắc xử lý người chưa
thành niên phạm tội trong bộ luật hình sự, việc áp dụng các nguyên tắc này của
bộ luật hình sự còn có những tồn tại trong thực tiễn và hướng móc trong luật pháp.
Việc xử lý người chưa thành niên phạm tội chủ yếu nhằm giáo dục, giúp đỡ
họ sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh và trở thành công dân có ích cho xã
hội. Việc truy cứu trách nhiệm hình sự người chưa thành niên phạm tội và áp
dụng hình phạt đối với họ được thực hiện chỉ trong trường hợp cần thiết và phải
căn cứ vào tình tính chất của hành vi phạm tội, và những đặc điểm em về nhân
thân và yêu cầu của việc phòng ngừa tội phạm. 18