Bài tiểu luận ôn tập - Lịch Sử Đảng Cộng Sản Việt Nam | Đại học Tôn Đức Thắng
1. Phân tích mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng. Liên hệ với cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng ở Việt Nam hiện nay.2. Tại sao nói: Nhà nước vô sản là kiểu nhà nước đặc biệt, "Nhà nước nửa nhà nước"? Liên hệ với Nhà nước vô sản ở Việt Nam hiện nay. Tài liệu được sưu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuẩn bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đọc đón xem!
Môn: Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐT121)
Trường: Đại học Tôn Đức Thắng
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
BÀI TIỂU LUẬN Câu hỏi:
1. Phân tích mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng.
Liên hệ với cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng ở Việt Nam hiện nay.
2. Tại sao nói: Nhà nước vô sản là kiểu nhà nước đặc biệt, "Nhà nước nửa nhà
nước"? Liên hệ với Nhà nước vô sản ở Việt Nam hiện nay. Bài làm Câu 1:
A. Một số khái niệm:
- Cơ sở hạ tầng là tổng hợp những quan hệ sản xuất hợp thành cơ cấu kinh tế của
một hình thái kinh tế - xã hội nhất định.
Dựa vào khái niệm đó, nó đã phản ánh chức năng xã hội của các quan hệ xã hội
của các quan hệ sản xuất với tư cách là cơ sở kinh tế của các hiện tượng xã hội. Đúng
vậy, mỗi một hình thái kinh tế – xã hội có một kết cấu kinh tế đặc trưng là cơ sở hiện thực
của xã hội, hình thành một cách quan trong quá trình sản xuất vật chất xã hội. Nó bao
gồm không chỉ những quan hệ trực tiếp giữa người với người trong sản xuất vật chất mà
nó còn bao gồm cả những quan hệ kinh tế, trao đổi trong quá trình tái sản xuất ra đời
sống vật chất của con người.
- Kiến trúc thượng tầng là toàn bộ những quan điểm: chính trị, pháp quyền, đạo
đức, triết học, tôn giáo, nghệ thuật… với những thể chế tương ứng: nhà nước, đảng phái,
giáo hội, các đoàn thể… được hình thành trên một cơ sở hạ tầng nhất định.
Bởi vậy, kiến trúc thượng tầng là những hiện tượng xã hội, biểu hiện tập trung
đời sống tinh thần của xã hội, là bộ mặt tinh thần tư tưởng của hình thái kinh tế - xã hội.
Nó đóng vai trò quan trọng cùng các bộ phận khác trong xã hội hợp thành cơ cấu hoàn
chỉnh của hình thái kinh tế - xã hội.
B. Mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và
kiến trúc thượng tầng
Theo như quan điểm của chủ nghĩa duy tâm thì nhà nước và pháp luật quyết định
quan hệ kinh tế, ý thức tư tưởng quyết định tiến trình phát triển của xã hội. Theo chủ
nghĩa duy vật, kinh tế là yếu tố duy nhất quyết định còn ý thức tư tưởng, chính trị không
có vai trò gì đối với tiến bộ xã hội.
Nhưng theo chủ nghĩa Mác- Lê nin, đã khẳng định: Cơ sở hạ tầng và kiến trúc
thượng tầng có quan hệ biện chứng không tách rời nh
au, trong đó có cơ sở hạ tầng giữ
vai trò quyết định kiến trúc thượng tầng. Còn kiến trúc thượng tầng là phản ánh cơ sở hạ
tầng, nhưng nó có vai trò tác động trở lại to lớn đối với cơ sở hạ tầng đã sinh ra nó.
Trong sự thống nhất biện chứng này, sự phát triển của cơ sở hạ tầng đóng vai trò
với kiến trúc thượng tầng. Kiến trúc thượng tầng phải phù hợp với tính chất trình độ phát
triển của cơ sở hạ tầng hay cơ sở hạ tầng nào thì kiến trúc thượng tầng ấy.
Sự biến đổi giữa hai yếu tố này cũng tuân theo mối quan hệ biện chứng giữa chất
và lượng diễn ra theo hai hướng:
Một là: sự phát triển hoặc giảm đi về lượng dẫn đến sự biến đổi ngay về chất.
Hai là: sự tăng hay giảm về lượng không làm cho chất thay đổi ngay mà thay đổi
dần dần từng phần từng bước.
Theo quy luật này thì quá trình biến đổi giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng diễn ra như sau:
Khi cơ sở hạ tầng phát triển đến một mức độ giới hạn nào đó gọi là điểm nút, thì
nó đòi hỏi phải kéo theo sự thay đổi về kiến trúc thượng tầng. Quá trình này không chỉ
đơn thuần là sự biến một hay nhiều bộ phận mà là sự chuyển đổi cả một hình thái kinh tế
chính trị và hình thái kinh tế chính trị ưu thế sẽ chiếm giữ giai đoạn lịch sử này: trong
giai đoạn hình thái kinh tế chính trị đó chiếm giữ thì cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng
tầng có sự dung hoà với nhau hay đạt được giới hạn độ.Tại đây, cơ sở hạ tầng và kiến trúc
thượng tầng tác động biện chứng với nhau theo cách thức bắt đầu sự thay đổi tuần tự về
cơ sở hạ tầng (tăng hoặc giảm dần) nhưng tại đây kiến trúc thượng tầng chưa có sự thay đổi.
Cơ sở hạ tầng ở mỗi giai đoạn lịch sử lại mâu thuẫn phủ định lẫn nhau dẫn đến quá
trình đào thải. Mác nói: “Nếu không có phủ định những hình thức tồn tại đã có trước thì
không thể có sự phát triển trong bất cứ lĩnh vực nào”. Chính vì cơ sở hạ tầng cũ được
thay thế bằng cơ sở hạ tầng mới bao hàm những mặt tích cực tiến bộ của cái cũ đã được
cải tạo đi trên những nấc thang mới. Chính vì cơ sở hạ tầng thường xuyên vận động như
vậy nên kiến trúc thượng tầng luôn luôn thay đổi nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển của cơ sở hạ tầng.
C. Liên hệ với cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng ở việt nam hiện nay.
Nước ta đã trải qua các hình thái kinh tế - xã hội khác nhau: từ xã hội cộng sản
nguyên thủy tiến lên xã hội chiếm hữu nô lệ, đến xã hội phong kiến rồi tiến hóa lên
CNXH bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa và đỉnh cao nhất trong quá trình tiến hóa này là
chủ nghĩa cộng sản. Nước ta đang trong giai đoạn xây dựng CNXH theo hướng xây dựng
và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Do đó mối quan hệ biện chứng
giữa CSHT và KTTT là 1 quá trình đấu tranh lâu dài giữa cái mới và cái cũ. CNXH đang
trong quá trình xây dựng nên là cái mới còn rất non yếu, muốn xóa bỏ hết tàng dư của xã
hội cũ - đại diện cho cái cũ rất khó bởi nó đã tồn tại lâu dài. Tuy nhiên con đường đi lên
CNXH ở nước ta diễn ra theo các quy luật khách quan của thời đại chứ không phải do ý
muốn chủ quan của con người quyết định nên nó là cái mới nhưng hợp quy luật nên ngày
càng phát triển và ngược lại cái cũ không hợp quy luật sẽ ngày càng yếu đi.
Đảng ta đã ra sức xây dựng CNXH trong đó phát triển lực lượng sản xuất hiện đại
gắn liền với xây dựng quan hệ sản xuất mới phù hợp trên cả 3 mặt: sở hữu, quản lý và
phân phối. Quá trình xây dựng này đòi hỏi chúng ta phải xây dựng các quan điểm về
chính trị, pháp quyền, triết học, đạo đức, tôn giáo, ... các thể chế xã hội tương ứng như
Nhà nước, đảng phái, giáo hội cho phù hợp với sự phát triển của phương thức sản xuất
mà Đảng đã đề ra để góp phần xây dựng một nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh. Câu 2:
Theo Chủ nghĩa Mác-Lênin thì Nhà nước vô sản là một kiểu nhà nước đặc biệt
trong lịch sử. Tính chất đặc biệt của nó trước hết là ở chỗ nó chỉ tồn tại trong thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa cộng sản, nó là kiểu nhà nước cuối cùng trong lịch sử của xã hội loài người.
Sự tồn tại của nhà nước vô sản trong thời kỳ quá độ này được cho là tất yếu vì
trong thời kỳ quá độ xã hội còn tồn tại các giai cấp bóc lột và các lực lượng xã hội, chúng
chống lại sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội khiến giai cấp công nhân và nhân dân lao
động phải trấn áp chúng bằng bạo lực. Hơn nữa, trong thời kỳ quá độ còn có các giai cấp
và tầng lớp trung gian khác. Do địa vị kinh tế - xã hội của mình, họ dễ dao động giữa giai
cấp vô sản và giai cấp tư sản, họ không thể tự mình tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Tính chất đặc biệt của nhà nước vô sản còn thể hiện ở cơ sở quyền lực của nhà
nước - đó là nền tảng liên minh công - nông làm nòng cốt cho sự liên minh với mọi tầng
lớp những người lao động khác trong xã hội. Để thực hiện sứ mệnh của mình, giai cấp
công nhân cần có sự hỗ trợ, cộng tác, liên minh, vững chắc và ngày càng củng cố với
những người lao động khác.
Chủ nghĩa xã hội không thể tồn tại và phát triển được nếu thiếu dân chủ, thiếu sự
thực hiện một cách đầy đủ và mở rộng không ngừng dân chủ. Phát triển dân chủ đến
cùng, tìm ra những hình thức của sự phát triển ấy, đem thí nghiệm những hình thức ấy
trong thực tiễn, v.v là một trong những nhiệm vụ cấu thành của cách mạng xã hội chủ
nghĩa, là một vấn đề có tính quy luật của sự phát triển và hoàn thiện nhà nước vô sản.
Giai cấp công nhân không chỉ có sứ mệnh lịch sử lãnh đạo cuộc đấu tranh để giải phóng
dân tộc mình, mà còn có vai trò lịch sử toàn thế giới.
Nhà nước CHXHCNVN là nhà nước pháp quyền XHCN:
Nhà nước pháp quyền là nhà nước có hệ thống pháp luật hoàn chỉnh, là nhà nước
và quyền và lợi ích hợp pháp được đảm bảo và ngày càng mở rộng, nhà nước pháp quyền
mà ở đó vị trí của nhà nước và công dân bình đẳng.
Ngoài ra, nhà nước XHCN còn có đặc trưng đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng
sản, quyền lực nhà nước thống nhất, không phân chia nhưng có sự phân công và phối hợp
giữa các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp; Nhà nước của dân, do dân, vì dân trên cơ
sở liên minh công – nông – trí.
Nửa nhà nước là giai cấp thống trị là số đông và giai cấp bị trị là số ít. Theo
nguyên nghĩa Nhà nước là bộ máy trấn áp của giai cấp thống trị (số ít) dùng để trấn áp
giai cấp bị trị (số đông).
Vì vậy nhà nước ta là nửa nhà nước là làm giảm bớt phần trấn áp và xây dựng xã hội mới.