Bài tự luận kinh tế chính trị - Kinh tế Chính trị Mác-Lê Nin (KTCT01) | Đại học kinh tế quốc dân NEU

Bài tự luận kinh tế chính trị - Kinh tế Chính trị Mác-Lê Nin (KTCT01) | Đại học kinh tế quốc dân NEU được siêu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuận bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đón xem!

lOMoARcPSD| 44879730
1
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC
Họ tên sinh viên :
Mã sv:
Giảng viên : TS Mai Lan Hương
BÀI KIỂM TRA TỰ LUN
Môn : Kinh tế chính trị
ĐỀ : Phân tích các ưu điểm và những khuyết tật của nền kinh tế th
trường. Tai sao trong nền kinh tế thtrường cần phải có sự điều tiết
của Nhà nước. Liên hệ với thực tiễn nước ta.
BÀI LÀM
I) Phân tích các ưu điểm và những khuyết tật của nền kinh tế th
trường .
1) Khái quát cơ chế thị trường và nền kinh tế thị trường.
a) Khái niệm
Cơ chế thtrường là hệ thống các quan hệ kinh tế mang đặc tính tự
điều chỉnh các cân đối của nền kinh tế theo yêu cầu của các quy luật kinh
tế .
Cơ chế thị trường là phương thức cơ bản để phân phối và sử dụng
các nguồn vốn, tài nguyên, công nghệ, sức lao động, thông tin, trí tuệ...
Đây là một kiểu cơ chế vận hành nền kinh tế mang tính khách quan, do
bản thân nền sản xuất hàng hóa hình thành. Cơ chế thị trường được
A.Smith ví như là một bàn tay vô hình có khả năng tự điều chỉnh các
quan hệ kinh tế.
Nền kinh tế thị trường là nền kinh tế đưc vận hành theo cơ chế th
trường. Đó là nền kinh tế hàng hóa phát triển cao, ở đó mọi quan hệ sản
xuất và trao đổi đều được thông qua thị trường, chịu sự tác động, điều
tiết của các quy luật thị trường.
Sự hình thành kinh tế thị trường là khách quan trong lịch sử từ kinh
tế tự nhiên, tự túc, kinh tế hàng hóa rồi từ kinh tế hàng hóa phát triển
thành kinh tế th trường.
b) Đặc trưng
lOMoARcPSD| 44879730
2
+) Đặc trưng cơ chế thtrường
Dấu hiệu đặc trưng của cơ chế thị trường là cơ chế hình thành giá cả
một cách tự do. Người bán, người mua thông qua thị trường để xác
định giá cả của hàng hóa, dịch vụ. Trong kiểu tổ chức kinh tế này, toàn
bộ quá trình sản xuất – phân phối – trao đổi – tiêu dùng, sản xuất như
thế nào và cho ai đều thông việc mua bán,thông qua hệ thống thị trường
và do thị trường quyết định. Trong kinh tế thị trường, đặc điểm tự do lựa
chọn hình thức sản xuất kinh doanh, tự chịu trách nhiệm: 'lãi hưởng lỗ
chịu', chấp nhận cạnh tranh, là những điều kiện hoạt động của cơ chế
thị trường. Sự tuân theo cơ chế thị trường là điều không thể tránh khỏi
đối với các doanh nghiệp, nếu không sẽ bị đào thải. Tuy nhiên, để cơ
chế th trường thực hiện tốt được chức năng của mình, thì các điều kiện
sau đây phải được thỏa mãn: thị trường phải có cạnh tranh hoàn hảo,
thông tin đối xứng, không có các ảnh hưởng ngoại lai, không có đầu cơ,
không có vi phạm đạo đức kinh doanh,... Tuy nhiên, trong thực tế không
có nước nào đáp ứng hoàn hảo các điều kiện này, nên có những trưng
hợp cơ chế th trường sẽ không thể phân bổ tối ưu các nguồn lực kinh
tế, thậm chí góp phần gây ra khủng hoảng kinh tế. Khi đó sẽ có thất bại
thị trường.
Các đặc trưng cơ bản bao gồm:
Việc phân bố sử dụng các nguồn tài nguyên, nguyên liệu đầu vào về
cơ bản được giải quyết theo quy luật của kinh tế th trường mà cốt lõi
là quy luật cung cầu.
Các mối quan hệ kinh tế thị trường đều được tiền tệ hoá.
Động lực chính phát triển kinh tế là lợi nhuận thu được.
Vic sản xuất kinh doanh và êu dùng sản phẩm do hai phía cung và cầu
quyết định.
Môi trường, động lực, phương tiện thúc đẩy sản xuất kinhdoanh phát
triển là cạnh tranh.
Nhà sản xuất là nhân vật trung tâm và khách hàng chi phối người bán trên
thị trường.
Có sự chênh lệch giàu nghèo trong xã hội.
Có bất cập cần có sự điều tiết của nhà nước như môi trường,khủng
hoảng và nhiều vấn đề xã hội.
Có xu hướng phát triển kinh tế mang nh hội nhập khuvực và quốc tế.
lOMoARcPSD| 44879730
3
+)Đặc trưng kinh tế thị trưng
Kinh tế th trường đã phát triển qua nhiều giai đoạn với nhiều mô
hình khác nhau, song chúng đều có những đặc trưng chung bao
gồm: Thnhất, kinh tế thị trường đòi hỏi sự đa dạng của các chủ
thể kinh tế, nhiều hình thức sở hữu. Các chủ thkinh tế hình đồng
trước pháp luật.
Thứ hai, thị trường đóng vai trò quyết định trong việc phân bố các
nguồn lực xã hội thông qua hoạt động của các thị trưởng bộ phn
như thị trường hàng hóa, thị trường dịch vụ, thị trường sức
lao động, thị trường tài chính, thị trường bất đng sản, thị
trường khoa học công nghệ
Thứ ba, giá cả được hình thành theo nguyên tắc thị trường cạnh
tranh vừa là mỗi trường, vừa là động lực thúc đẩy kinh tế thtrường
phát triển.
Thứ tư, động lực trực tiếp của các chủ th sản xuất kinh doanh là lợi
ích kinh tế - xã hội.
Thứ năm, nhà nước là chủ ththực hiện chức năng quản lý nhà
ớc đối với các quan hệ kinh tế, đồng thời, nhà nước thực hiện
khắc phục những khuyết tật của thị trường, thúc đẩy những yếu tố
tích cực, đảm bảo sự bình đẳng xã hội và sự ổn định của toàn bộ nền
kinh tế.
Thứ sáu, kinh tế thị trường là nền kinh tế mở, thị trường trongớc gắn
liền với thị trường quốc tế kinh tế th trường
Kinh tế thị trường đã phát triển qua nhiều giai đoạn với nhiều mô
hình khác nhau, song chúng đều có những đặc trưng chung bao gồm:
Thnhất, kinh tế thị trường đòi hỏi sự đa dạng của các chủ thể kinh
tế, nhiều hình thức sở hữu. Các chủ thể kinh tế hình đồng trước pháp
lut.
Thhai, thị trường đóng vai trò quyết định trong việc phân bố các
nguồn lực xã hội thông qua hoạt động của các thị trưởng bộ phn
như thị trường hàng hóa, thị trường dịch vụ, thị trường sức lao động,
thị trường tài chính, thị trường bất đng sản, thị trường khoa học
công nghệ
Thba, giá cả được hình thành theo nguyên tắc thị trường cạnh
tranh vừa là mỗi trường, vừa là động lực thúc đẩy kinh tế thtrường
phát triển.
lOMoARcPSD| 44879730
4
Th, động lực trực tiếp của các chủ th sản xuất kinh doanh là lợi
ích kinh tế - xã hội.
Thứ năm, nhà nước là chủ ththực hiện chức năng quản lý nhà
ớc đối với các quan hệ kinh tế, đồng thời, nhà nước thực hiện
khắc phục những khuyết tật của thị trường, thúc đẩy những yếu tố
tích cực, đảm bảo sự bình đẳng xã hội và sự ổn định của toàn bộ nền
kinh tế.
Thứ sáu, kinh tế th trường là nền kinh tế mở, thị trường trong nước
gắn liền với thị trường quốc tế.
=> Nền kinh tế th trường xã hội tạo điều kiện để kích thích mạnh mẽ
sáng kiến cá nhân, bảo đảm tự do hoạt động kinh tế, thương mại để
đưa tới lợi ích cho toàn xã hội, đồng thời phòng tránh được các khuyết
tật lớn của nền kinh tế thị trường, bằng cách chống lạm phát, giảm thất
nghiệp, thực hiện những chính sách để tạo công bằng xã hội, giảm
khoảng cách quá lớn giữa người giàu và kẻ nghèo.
2. Những ưu thế và khuyết tật của nền kinh tế th trường.
a) Ưu thế .
Thnhất, nền kinh tế thị trường luôn tạo ra động lực mạnh mẽ cho
sự hình thành ý tưởng mới của các chủ thể kinh tế.
Trong nền kinh tế th trường, các chủ thể luôn có cơ hội để tìm ra
động lực cho sự sáng tạo của mình. Thông qua vai trò của thị trường
mà nền kinh tế thị trường trở thành phương thức hữu hiệu kích thích sự
sáng tạo trong hoạt động của các chủ thể kinh tế, tạo điều kiện thuận lợi
cho hoạt động tự do của họ, qua đó, thúc tăng năng suất lao động, tăng
hiệu quả sản xuất, làm cho nền kinh tế hoạt động năng động, hiệu quả.
Nền kinh tế th trường chấp nhận mọi ý tưởng sáng tạo mới trong thực
hiện sản xuất kinh doanh và quản lý. Nền kinh tế th trường tạo môi
trường rộng mở cho các mô hình kinh doanh mới theo đà phát triển của
xã hội.
Hai là, nền kinh tế thtrường luôn thực hiện phát huy tốt nhất tiềm
năng của mọi chủ thể, các vùng miền cũng như lợi thế quốc gia trong
quan hệ với thế gii.
Trong nền kinh tế thị trường, mọi tiềm năng, lợi thế đều có thể đưc
phát huy, đều thể trở thành lợi ích đóng góp cho xã hội. Thông qua vai
trò gắn kết của thị trường mà nền kinh tế thị trường trở thành phương
thức hiệu quả hơn hẳn so với nền kinh tế tự cấp tự túc hay nền kinh tế
lOMoARcPSD| 44879730
5
kế hoạch hóa để phát huy tiềm năng, lợi thế của từng thành viên, từng
vùng miền trong quốc gia, của từng quốc gia trong quan hệ kinh tế với
phần còn lại của thế giới.
Ba là, nền kinh tế thtrường tạo luôn tạo ra các phương thức đ
thỏa mãn tối đa nhu cầu của con người, từ đó thúc đẩy tiến bộ, văn
minh xã hội.
Trong nền kinh tế thị trường, các thành viên của xã hội luôn có thể tìm
thấy cơ hội tối đa để tha mãn nhu cầu của mình. Nền kinh tế thị trưng
với sự tác động của các quy luật thị trường luôn tạo ra sự phù hợp giữa
khối lượng, cơ cấu sản xuất với khối lượng, cơ cấu nhu cầu tiêu dùng
của xã hội. Nhờ đó, nhu cầu tiêu dùng về các loại hàng hóa, dịch vụ
khác nhau được đáp ứng kịp thời, người tiêu dùng được thỏa mãn nhu
cầu cũng như đáp ứng đầy đ mọi chủng loại hàng hóa, dịch vụ. Thông
qua đó, niềm kinh tế thị trường trở thành phương thức để thúc đẩy văn
minh, tiến bộ xã hội.
Thứ tư, sự điều tiết của của kinh tế thị trường mềm dẻo hơn sự điu
chỉnh của cơ quan nhà nước và có khả năng thích nghi cao hơn trước,
những điều kiện kinh tế biến đổi, làm thích ứng kịp thời giữa sản xuất xã
hội với nhu cầu xã hội.
Ngày nay, kinh tế thị trường giúp cho những người cộng sản mở rộng
quan hệ kinh tế quốc tế để: Chung sống hòa bình, giữ và bảo vệ chính
quyền, sử dụng tốt hơn các hình thức kinh tế quá độ, có được kỹ thuật,
quản lý của các nước tư bản phát triển(tiền đề vật chất của xã hội mới).
=>Nhờ những ưu điểm và tác dụng đó, cơ chế th trường có thể gii
quyết được những vấn đề cơ bản của tổ chức kinh tế. Nó là cơ chế tốt
nhất điều tiết nền sản xuất xã hội.Tuy nhiên, “sự thành công” của cơ chế
đó là có điều kiện: Các yếu tố sản xuất được lưu động, di chuyển dễ
dàng, giá cả thị trường có tính linh hoạt thông tin thị trường phải nhạy,
và các chủ thth trường phải nắm được đầy đ thông tin liên quan.
b) Khuyết tật .
Bên cạnh những ưu thế, kinh tế thị trường cũng những khuyết tật
vốn có. Những khuyết tật chủ yếu của kinh tế thị trường bao gồm:
Một là, t trên phạm vi toàn bộ nền sản xuất xã hội, nền kinh tế th
trường luôn tiềm ẩn những rủi ro khủng hoảng.
Trong kinh tế thị trường, rủi ro về khủng hoảng luôn tiềm ẩn. Khủng
hoàng có thể diễn ra cục bộ, có thể din ra trên phạm vi tổng thể. Không
lOMoARcPSD| 44879730
6
hoảng có thể xảy ra đối với mọi loại hình thị trường, với mọi nền kinh tế
thị trường. Sự khó khăn đối với các nền kinh tế thị trường thể hin
chỗ các quốc gia rất khó dự báo chính xác thời điểm xảy ra khủng
hoảng. Nền kinh tế thị trường không tự khắc phục được những rủi ro
tim ẩn này do sự vận động tự phát của các quy luật kinh tế. Tính tự
phát này bên cạnh ý nghĩa tích cực, còn gây ra các rủi ro tiềm ẩn dẫn
đến khủng hoảng. Đây là thách thức với nền kinh tế thị trường.
Hai là, nền kinh tế thtrường không tự khắc phục được xu hướng
cạn kiệt tài nguyên không thể tái tạo, suy thoái môi trường tự nhiên, môi
trường xã hội.
Do phần lớn các chủ thsản xuất kinh doanh trong nền kinh tế thì
trường luôn đặt mục tiêu tìm kiếm lợi nhuận tối đa nên luôn tạo ra ảnh
ớng tiềm ẩn đối với nguồn lực tài nguyên, suy thoái môi trường. Cũng
vì động cơ lợi nhuận, các thủ th sản xuất kinh doanh có thể vi phạm cả
nguyên tắc đạo đức đchạy theo mục tiêu làm giàu thậm chí phi pháp,
góp phần gây ra sự xói mòn đạo đức kinh doanh, thậm chí cả đạo đức
xã hội. Đây là những mặt trái mang tính khuyết tật của bản thân nền
kinh tế thị trường. Cũng vì lợi nhuận, các chủ thhot đng sản xuất
kinh doanh có thể không tham gia vào các lĩnh vực thiết yếu cho nền
kinh tế nhưng có lợi nhuận kỳ vọng thấp, rủi ro cao, quy mô đầu tư lớn,
thời gian thu hồi vốn dài. Tự nền kinh tế thtrường không thể khắc phục
được các khuyết tật này.
Ba là, nền kinh tế thtrường không tự khắc phục được hiện tưng
phân hóa sâu sắc trong xã hội.
Trong nền kinh tế th trường, hiện tượng phân hóa xã hội về thu nhập,
về cơ hội là tất yếu. Bản thân nền kinh tế th trường không thể tự khc
phục được khía cạnh phân hóa có xu hướng sâu sắc. Các quy luật thị
trường luôn phân bổ lợi ích theo mức độ và loại hình hoạt động tham
gia thị trường, cộng với tác động của cạnh tranh mà dẫn đến sự phân
hóa như một tất yếu. Đây là khuyết tật của nền kinh tế thtrường cần
phải có sự bổ sung và điều tiết bởi vai trò của nhà nước.
Thứ tư, một nền kinh tế do cơ chế thị trường thuần tuý điều tiết khó
tránh khỏi những thăng trầm, khủng hoảng kinh tế có tính chu kỳ và thất
nghip.
Người ta nhận thấy rằng, một nền kinh tế thị trường hiện đại đưng
trước mt khó khăn nan giải của kinh tế vĩ mô: không một nước nào
trong một thời gian dài lại có được lạm phát thấp và đầy đủ công ăn việc
làm. Do những khuyết tật của nền kinh tế thị trường nên trong thực tế
lOMoARcPSD| 44879730
7
không tồn tại một nền kinh tế th trường thuần túy, mà thường có sự can
thiệp nhà nước để sửa chữa những những thất bại của kinh tế th
trường. Khi đó nền kinh tế được gọi là nền kinh tế thị trường có sự điu
tiết của nhà nước hay nền kinh tế hỗn hợp.
II) Nền kinh tế thị trường cần phải có sự điều tiết của Nhà
c.
Nhà nước đóng vai trò rất quan trọng việc điều tiết nền kinh
tế thị trường gồm :
1. Vai trò của nhà nước trong xây dựng cơ sở hạ tầng và ổn
định nền kinh tế vĩ mô.
Nền kinh tế của một quốc gia sẽ không thể "cất cánh" trừ phi nó có
được nền tảng là một cơ sở hạ tầng vững chắc. Vì thế, nhà nước phải
đầu tư cơ sở hạ tầng, ổn định nền kinh tế vĩ mô của đất nước. Đặc điểm
của nền kinh tế thị trường là sự bất ổn định do các cuộc khủng hoảng
chu kỳ. Sự ổn định kinh tế là điều mà mọi nhà nước đều mong muốn
nó có lợi cho tất cả mọi người. Do vậy, nhà nước phải duy trì sự ổn định
đó. Nhà nước sử dụng các công cụ, chính sách kinh tế vĩ mô để điu
tiết nền kinh tế, sử dụng ngân sách để tiến hành đầu tư công cho các
công trình; xây dựng các dự án cơ sở hạ tầng dựa trên căn cứ và tiêu
chí kinh tế thích hợp nhằm giảm thiểu những gánh nặng chi phí của
ngân sách nhà nước và của nền kinh tế; tiến hành việc kiểm soát chi
tiêu công và tiền vay của các tập đoàn kinh tế nhà nước để duy trì sự ổn
định nền kinh tế. Với tư cách chủ đầu tư, nhà nước hướng các chương
trình đầu tư của mình vào mục tiêu tối đa hoá lợi ích của quốc gia.
2. Vai trò của nhà nước đối với việc điều tiết các yếu tngoại vi
Yếu tố ngoại vi là ảnh hưởng do các yếu tố bên ngoài gây nên cho hoạt
động của các doanh nghiệp hay cho xã hội. Yếu tố ngoại vi xảy ra khi có
sự khác biệt về phí tổn hoặc lợi ích giữa cá nhân và xã hội. Các chi phí
hoặc lợi ích này không được tính đến trong hệ thống giá cả và thị
trường. Những chi phí ngoại vi cho sản xuất phải tính đến cả sự tắc
nghẽn giao thông và ô nhiễm môi trường mà nhà máy hoặc xí nghiệp
sản xuất tạo ra... Những yếu tố này gây nên sự giảm sút về phúc lợi của
những người dân sống xung quanh hoặc có thể buộc những nhà máy
khác gần đó phải tốn kém thêm chi phí để làm sạch nguồn nước bị ô
lOMoARcPSD| 44879730
8
nhiễm mà mình sử dụng trong sản xuất. Bằng sự can thiệp, nhà nước
buộc tất cả những ai hưởng lợi từ sản xuất và tiêu thụ sản phẩm đu
phải trả toàn bộ chi phí sản xuất và tiêu thụ sản phẩm y.
Nhà nước sử dụng hệ thng thuế, luật pháp, điều lệ, mức hình phạt,
thậm chí truy tố trước pháp luật nhằm giảm thiểu ô nhiễm hoặc tạo điều
kiện để các tổ chức xã hội thành lập các quỹ bảo vệ môi trường, môi
sinh nhằm giám sát các hoạt động của các doanh nghiệp trong việc bo
vệ môi trường và khuyến nghị các biện pháp sản xuất đảm bảo yếu tố
bền vững. Ngoài ra, nhà nước sử dụng chính sách quyền sở hữu công
khai nguồn tài nguyên, bắt buộc các cá nhân, tổ chc sử dụng nguồn tài
nguyên gây ô nhiễm phải chịu chi phí theo giá thị trường. Các khoản
thuế hay biện pháp trợ cấp đều được coi là phương thức để nhà nước
xử lý những yếu tố ngoại vi.
3. Vai trò của nhà nước trong bảo đảm công bằng, trật tự xã hội.
Để thực hiện chức năng phân phối, nền kinh tế thị trường đòi hỏi một
loạt thể chế phát triển cao, trong đó có hệ thống luật pháp để chống
gian lận bao gồm: hthống có liên quan tới những quyền sở hữu,
những điều luật về phá sản và khả năng thanh toán, hệ thống tài chính
với ngân hàng trung ương và các ngân hàng thương mại để giữ cho
việc cung cấp tiền mặt được thực hiện một cách nghiêm ngặt.
Trong nền kinh tế thtrường cả người mua lẫn người bán đều muốn
khi đã đồng ý trao đổi thì sự thỏa thuận phải được thực hiện. Nếu không
có luật pháp thì các giao dịch trên thị trường trở nên khó có thể thc
hiện được.
Nhà nước phải thiết lập và bảo vệ quyền sở hữu tư nhân và quyền
được hưởng các lợi ích kinh tế xuất phát từ việc sử dụng quyền sở hữu
đó. Nếu không có sự bảo đảm ấy, một số người sẽ gặp những rủi ro nếu
đầu tư thời gian và tiền vốn của mình vào lĩnh vực kinh doanh mà rốt
cuc lợi nhuận lại là của người khác. Đây là những can thiệp quan trọng
của nhà nước trong việc bảo vệ bản quyền tác giả và qua đó, khuyến
khích những hoạt động sáng tạo, khả năng trí tuệ của các nhà khoa
học, các nghệ sĩ .
4.Vai trò của nhà nước trong việc bảo đảm cạnh tranh và chống
độc quyền.
lOMoARcPSD| 44879730
9
Vai trò này của nhà nước thể hin những biện pháp kiểm soát
thông qua điều tiết đối với những hãng có khả năng chi phối, kiểm soát
các vụ vic sáp nhập công ty nhằm ngăn ngừa khả năng độc quyền hoá
các ngành công nghiệp, kiểm soát các hành vi chống cạnh tranh,
khuyến khích cạnh tranh lành mạnh giữa các nhà cung ứng, đồng thi
bảo vệ người tiêu dùng chống lại tình trạng độc quyền.
Để đẩy mạnh tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế cũng như để duy trì
được tốc độ tăng trưởng, nhà nước phải tính tới tốc độ tăng trưởng
nhanh của các ngành công nghiệp có tính cạnh tranh. Trong thời kỳ hội
nhập kinh tế quốc tế hiện nay, thương mại quốc tế không chỉ tạo ra sức
ép cạnh tranh mà còn là thước đo năng lực cạnh tranh của các doanh
nghiệp nội địa. Để đảm bảo năng lực cạnh tranh cho các doanh nghiệp,
nhà nước phải tạo lập "sân chơi" bình đẳng cho tất cả các doanh nghiệp
trong toàn bộ nền kinh tế, không thiên vị với bất cứ một loại hình doanh
nghiệp nào, tránh tình trạng bảo hộ cho các doanh nghiệp nhà nước.
5.Vai trò của nhà nước trong việc bảo đảm phúc lợi lợi xã hội.
Trong nền kinh tế thị trường, có một số người thu nhập còn hạn chế,
trong khi đó, số khác lại có nguồn thu nhập cao. Do vậy, vai trò của nhà
ớc trong việc phân phối lại thu nhập là rất quan trọng để thu hẹp
khoảng cách giàu - nghèo trong xã hội. Trên thực tế, chính phủ của
nhiều quốc gia thực hiện điều này thông qua chính sách thuế, đặc biệt
là thuế thu nhập nhằm tạo sự công bằng hơn trong phân phối.
Trong nền kinh tế thtrường, nhà nước có vai trò rất quan trọng trong
việc nâng cao phúc lợi công cộng, xoá đói, giảm nghèo. Các vấn đề như
việc làm, sức khoẻ, bảo hiểm y tế, lương hưu, trợ cấp khó khăn… luôn
là những vấn đề cần đến sự quan tâm của nhà nước, để khích lệ đưc
mọi thành phần lao động trong việc tạo ra của cải và tiết kiệm chi dùng
những của cải y.
6.Vai trò của nhà nước đối với chính sách tài chính và tiền tệ.
Nhà nước trong nền kinh tế thị trường đóng vai trò rất lớn trong việc
ổn định nền kinh tế vĩ mô. Một trong những chính sách quan trọng trong
việc bình ổn giá cả, giảm lạm phát chính là chính sách tài chính
chính sách tiền tệ. Các chính sách này đúng sẽ tạo ra một thị trường
tiền tệ ổn định, được chấp nhận rộng rãi, có khả năng loại bỏ hệ thống
giao dịch cồng kềnh, kém hiệu quả và hạn chế đưc lạm phát. Trong
lOMoARcPSD| 44879730
10
nền kinh tế thị trường, tiền tệ là một loại hàng hóa đặc biệt. Do vậy, mỗi
động thái của chính phủ đều tác động trực tiếp đến hệ thống tài chính
của thị trường. Hơn thế, đầu tư là một hoạt động rủi ro và phụ thuộc rất
nhiều vào các điều kiện thực tế. Chính vì những lý do này mà nhà nước
đóng vai trò then chốt trong việc điều tiết thị trường để giảm thiểu những
rủi ro có tính hệ thng.
Trong xu thế toàn cầu hóa hiện nay, sự giao lưu kinh tế, hội nhập
kinh tế quốc tế của mọi quốc gia chỉ có hiệu quả cao, khi có tác nhân
khởi thủy từ phía nhà nước, được hỗ trợ đắc lực từ phía nhà nước. Đại
diện cho đất nước tham gia vào các quá trình soạn thảo và thông qua
chuẩn mực luật pháp kinh tế, các hiệp định kinh tế, các nghị định thư…
Nhà nước ta góp phần tạo cho chủ thể kinh tế của đất nước vị trí có lợi
trong quan hệ kinh tế quốc tế. Sự kiện đàm phán gia nhập Tổ chc
Thương mại thế giới (WTO) thành công là chứng minh rõ rệt cho điều
này .
Trong thời gian qua, dịch bệnh Covid-19 đã bùng phát trên phạm
vi toàn cầu, tác động sâu sắc, toàn diện tới mọi mặt đời sống kinh
tế - xã hội của nhiều quốc gia .
Nhà nước cần phải đổi mới công tác kế hoạch nhằm xác định rõ
những nội dung kinh tế - xã hội mà mỗi cấp chính quyền cần hoạch
định; đồng thời tính toán sự cân đối các nguồn lực tương ứng với các
mục tiêu đã xác định, nhằm định hướng cho thị trường phát triển. Mở
rộng phân cấp, phân quyền cho địa phương; nhưng đồng thời phải tạo
cơ chế để tăng cường kiểm tra, thanh tra, giám sát của chính quyền
Trung ương đối với chính quyền địa phương. Cụ thể là Chính phủ cần
tập trung vào 3 nhiệm vụ: (1) Hoạch định chính sách; (2) Ban hành các
quy định; (3) Kiểm tra giám sát chế tài vi phạm. Còn các quyết định cụ
thể liên quan đến đời sống kinh tế ở mỗi địa phương, nên để địa
phương thực hiện.
- Chuyển nền hành chính đang mang nặng mục tiêu quản lý, bao cấp
trách nhiệm dân scủa công dân sang nền hành chính mang tính chất
phục vụ.
Xây dựng nền hành chính phục vụ dựa trên cơ sở hình thành các tổ
chức cung cấp dịch vụ công, các định chế yểm trợ. Cần xác định rõ bản
chất của định chế cung cấp dịch vụ công phi lợi nhuận các tổ chc
cung cấp các dịch vụ công cho hội, như : y tế, giáo dục, văn hóa, khoa
học, dịch vđô thị, hỗ trpháp lý, hỗ trthông tin; các tổ chức khuyến
lOMoARcPSD| 44879730
11
nông, khuyến ngư… do các thành phần kinh tế Nhà nước đầu tư;
không phân biệt ai là chủ sở hữu được thành lập để phục vụ cho lợi ích
chung của xã hội và cộng đồng.
=> Để thực hiện vai trò này của Nhà nước cần sớm xây dựng một đạo
luật về các tổ chc dịch vụ công phi lợi nhuận. Khi có đạo luật này, thì
vai trò quản lý Nhà nước chính là giám sát sự hot động của các tổ
chức trên, chứ không phải làm thay các tổ chc này, với những chỉ tiêu,
chỉ số đo đếm hiệu quả sát thực và khoa học.
Quản lý chặt chẽ, xử lý chính xác thông tin về dịch bệnh Covid -19
trên truyền thông xã hội theo Luật An ninh mạng. Để quản lý tốt, cần
thực hiện hiệu quả vic lc và phát hiện tin giả, tin sai sự thật về tình
hình dịch bệnh; kịp thời ngăn chặn sự lan truyền tin giả ngay khi nó xuất
hiện. Bảo đảm sàng lọc nhanh tin giả, tin sai sự thật… để có biện pháp
cảnh báo, ngăn chặn kịp thời.
Hoàn thiện cơ chế phối hợp giữa các cơ quan, đơn vị trong nước,
giữa trong nước và nước ngoài nhằm ngăn chặn, xử lý các thông tin
xấu độc nói chung và thông tin sai sự thật về dịch Covid-19 mang nội
dung chống phá đất nước.
Thực hiện mục tiêu kép vừa phòng, chống dịch Covid – 19 vừa phát
triển kinh tế - xã hội. Triển khai kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, các
phương án, biện pháp phòng, chống dịch bệnh, bảo đảm an sinh xã hội,
giải quyết các vấn đề bức xúc của nhân dân tại địa phương. Kỳ vọng
kiểm soát hiệu quả Covid-19 và tăng trưởng trong công nghiệp, thương
mại và đầu tư sẽ đẩy tốc đtăng trưởng lên đáng kể trong năm 2021 và
2022.
III) Thực trạng nền kinh tế thị trường nước ta .
1) Những điểm nổi bật của nền kinh tế thị trường nước
ta .
Từ Đại hội Đảng lần thứ VI đến Đại hội Đảng lần thứ XII, thể chế
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ngày càng được hoàn
thiện và được chứng minh tính đúng đắn trên thực tế khi đã giúp đất
ớc ta thoát khỏi thời kỳ khó khăn về kinh tế, đạt tốc độ tăng trưởng
có lúc thuộc nhóm cao nhất thế giới. Từ ớc nghèo, thu nhập thấp,
Việt Nam đã gia nhập nhóm nước có thu nhập trung bình, hội nhập
ngày càng sâu rộng hơn với kinh tế thế giới. Trong bối cảnh đó, sự phát
lOMoARcPSD| 44879730
12
triển nhận thức của Đảng từ Đại hội VI đến Đại hội XII về mô hình kinh
tế thị trường (KTTT) định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN), cũng như
mối quan hệ và sự kết hợp giữa Nhà nước với thị trường là cả một quá
trình tìm tòi, trải nghiệm, phát triển từ thấp lên cao, ngày càng đầy đ
và hoàn thiện hơn.
Việt Nam tdo hóa kinh tế bắt đầu vào năm 1986 với đổi mới,
chuyển đổi sang nền kinh tế th trường. Đến nay, những cải cách theo
ớng tự do kinh tế, phát triển kinh tế thtrường đạt được nhiều kết
qu.
1- Hệ thống pháp quyền: Việt Nam, đất đai thuộc sở hữu toàn
dân và do Nhà nước thống nhất quản lý. Tính đến tháng 9-
2018, Chính phủ đã cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
cho 96,9% diện tích đất. Quyền tài sản và các quyền khác
trong kinh doanh đã được thiết lập cơ bản và vẫn tiếp tục cải
thiện. Tuy nhiên, theo một số đánh giá quốc tế, cơ quan tư
pháp của Việt Nam còn nhiều hạn chế và tình trạng tham
nhũng vẫn là vấn đề cần được cải thiện.
2- Quy mô Chính phủ: Mức độ tham gia của Chính phủ tới nền kinh
tế tại Việt Nam ở mức vừa phải. Trong đó, mức thuế thu nhập
cá nhân cao nhất là 35% và mức thuế thu nhập doanh nghiệp
cao nhất là 22%. Các loại thuế khác bao gồm thuế giá trị gia
tăng và thuế tài sản. Tổng gánh nặng thuế tương đương
18,6%tổng thu nhập trong nước. Chi tiêu của Chính phủ đã
lên tới 28,3% sản lượng (GDP) của quốc gia trong 3 năm qua
(tính đến năm 2018) và thâm hụt ngân sách trung bình là
4,7%
GDP . Nợ công tương đương 57,5% GDP.
3- Hiệu quả thi hành pháp luật doanh nghiệp: Mặc dù việc khởi
nghiệp ngày càng trở nên dễ dàng hơn và chi phí đăng ký kinh
doanh cũng được cắt giảm nhưng nhìn chung các tiêu chuẩn
quản trị doanh nghiệp và việc thực thi pháp luật lao động còn
yếu. Các biện pháp kiểm soát bình ổn giá vẫn có hiệu lực đối
với nhiên liệu, năng lượng, nước, tài nguyên thiên nhiên và
ợc phẩm.
4- Độ mở cửa của thị trường: Tổng giá trị xuất khẩu, nhập khẩu
hàng hóa và dịch vụ bằng 187,5% GDP. Mức thuế trung bình
được áp dụng là 2,7% và 80 biện pháp phi thuế quan đang có
hiệu lực. Khuôn khổ đầu tư tổng thể đã được hiện đại hóa và
lOMoARcPSD| 44879730
13
tạo thuận lợi cho đầu tư nước ngoài, dẫu vậy, căn cứ trên tiêu
chuẩn quốc tế, vẫn bị đánh giá là thiếu hiệu quả. Khu vực tài
chính tiếp tục phát triển và việc cho vay theo chỉ đạo của các
ngân hàng thương mại nhà nước đã được thu hẹp trong những
năm gần đây.
Về quyền tài sản, sự cải thiện đáng kể trong khoảng thời gian 2016
2017 liên quan đến quyền tài sản được đánh giá là bước phát triển quan
trọng trong kích thích sự phát triển của hệ thống kinh tế thị trường. Đây
là kết quả những nỗ lực rất lớn, nhất là từ sau Đại hội Đảng lần thứ XII.
Theo đó, một số văn bản và nghị quyết quan trọng được ban hành
nhằm xác lập rõ ràng hơn về quyền sở hữu và quản lý tài sản, đặc biệt
là liên quan đến tài sản công như Luật Quản lý, sử dụng tài sản công.
Luật xác định rõ ràng về phạm vi tài sản công, các tài sản chuyên dùng,
tài sản đấu giá,... Điều 4 của Luật phân loại chi tiết các tài sản công
khác nhau. Các quy định về nguyên tắc quản lý, sử dụng cũng khá minh
bạch (Điều 6). Chỉ số gánh nặng thuế cũng được cải thiện liên tục từ
năm 1995 đến năm 2020. Đặc biệt, sự cải thiện đáng kể trong Luật
Thuế thu nhập doanh nghiệp năm 1997 (Luật số 57-L/CTN) và có hiệu
lực năm 1999; Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp năm 2003 (Luật số
09/2003/QH11) và Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp năm 2008 (Luật số
14/2008/QH12) đã góp phần cải thiện môi trường thuế của doanh
nghiệp và hướng đến nền kinh tế th trường.
Sau những áp lực từ nợ công, trong đó cao nhất là năm 2016 với nợ
công khoảng 59,7%/GDP, Chính phủ đã có những kế hoạch chi tiêu hiệu
quả hơn với các biện pháp cụ th và gắn trách nhiệm các cơ quan trong
chi tiêu Chính phủ. Có thể, chính những biện pháp này đã giúp Việt
Nam cải thiện đáng kể về chính sách tài khóa, góp phần nâng cao chỉ số
tự do kinh tế, xây dựng kinh tế th trường theo thông lệ quốc tế.
Luật Doanh nghiệp 2005 (Luật số 60/2005/QH11) cũng mang đến sự
cải thiện trong xây dựng kinh tế thị trường tại Việt Nam. Trong đó, Nhà
ớc công nhận sự tồn tại lâu dài và phát triển của các loại hình doanh
nghiệp; công nhận và bảo hộ quyền sở hữu tài sản, vốn đầu tư, thu
nhập, các quyền và lợi ích hợp pháp khác của doanh nghiệp và chủ sở
hữu doanh nghiệp; tài sản và vốn đầu tư hợp pháp của doanh nghiệp và
chủ sở hữu doanh nghiệp không bị quc hu hóa, không bị tịch thu
bằng biện pháp hành chính (Điều 5). Doanh nghiệp có quyền kinh
doanh các ngành, nghề mà pháp luật không cấm (Điều 7) và các quyền
lOMoARcPSD| 44879730
14
tự chủ trong kinh doanh của doanh nghiệp cũng được công nhận (Điều
8).
Sự kết hợp hiệu quả giữa tính KTTT và tính định hướng XHCN cũng
chính là đáp ứng xu hướng mới mang tầm vóc thời đại, đòi hỏi có sự kết
hợp tất yếu của bàn tay thị trường với bàn tay nhà nước trong một mô
hình quản lý xã hội mới đang dần định hình trên thế giới, nhất là từ sau
những cuộc khủng hoảng kinh tế-xã hội liên tiếp xảy ra trong những
thập niên cuối thế kỉ XX, đầu thế kỷ XXI trên quy mô toàn thế giới và
trong bối cảnh toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng hơn.
Sự kết hợp bàn tay thị trường với bàn tay nhà nước là việc lựa chọn và
kết hợp để tạo hiệu ứng tổng hợp tích cực những điểm tốt của mỗi cách
thức quản lý kinh tế, đồng thời góp phần giảm những tác động mặt trái
của chúng, tạo động lực mạnh mẽ, kiểm soát chặt chẽ các rủi ro và
nâng cao hiệu quả, chất lượng tăng trưởng, hài hòa các mục tiêu, củng
cố định hướng và yêu cầu phát triển bền vững cả về kinh tế, xã hội và
môi trường.
2) Những hạn chế của nền kinh tế ớc ta hiện nay. Bên
cạnh những tính ưu việt vượt trội ca nền kinh tế thị trường nó
còn là những hn chế để giúp nền kinh tế hoàn thiện hơn .
Nhng hạn chế đó gồm :
Gia tăng tình trạng tham nhũng; bội chi ngân sách; cạnh tranh gay gắt
cá lớn nuốt cá bé; mâu thuẫn tổng cung và tổng cầu; khủng hoảng
những mô hình kinh tế; gia tăng số ợng DN phá sản; gia tăng tình
trạng thất nghiệp, lạm phát; bất bình đẳng, gia tăng khoảng cách giàu
nghèo….
+) Nhìn từ góc độ xã hội .
Trước hết, kinh tế thị trường coi trọng lợi ích cá nhân, xem lợi ích
nhân là lợi ích trung tâm trong các mối quan hệ. Điều này ảnh hưởng rất
lớn đến quan niệm ứng xử, quan niệm kinh doanh của các chủ DN và
mọi người dân. Người ta tìm mọi cách cạnh tranh để có lợi nhuận cá
nhân, đúng luật có, nhưng thường là lách luật, thậm chí vi phạm pháp
luật. Sự tiêu xài (theo lối hưởng thụ gấp) vượt quá số đang có cũng như
số làm ra, dẫn đến mất cân bằng của cải xã hội, từ đó tạo nên những
"cuộc phá sản" từ nhân đến các tổ chức kinh tế. DN hối lộ để đưc
ởng chính sách ưu đãi, hối lộ để thoát hiểm khi vi phạm pháp luật, hối
lộ để có dự án, hợp đồng...Từ hối lộ, DN móc nối với công chức nhà
lOMoARcPSD| 44879730
15
ớc để làm biến tướng chính sách nhằm hưởng lợi cao, dựa tiếng
tăm, dựa quyền lực để đe nạt người khác, để đi qua trót lọt các khung
cửa hẹp. Để bảo đảm có chỗ dựa vững chắc hơn, không ít chủ DN tư
nhân "đầu tư vào chính trị" như: móc nối để người quen thân của họ
được tham gia vào hệ thống quyền lực nhà nước các cấp hoặc lợi dụng
"cơ cấu" để trc tiếp leo vào hệ thống nhà nước với vai trò thành viên
các tổ chc chính trị xã hội.
Thêm vào đó là sự vay mượn mô hình kinh doanh chứng khoán đã
đẻ ra bi kịch của người nghèo. Phong trào" thành lập ngân hàng, tổ
chức tài chính, chứng khoán, kinh doanh ngoài ngành đã dẫn đến
những hệ lụy xã hội to lớn. Nhiều DN lớn (có vốn hàng ngàn tỷ đồng)
phá sản đã tác động rất xấu đến nền kinh tế và đời sống xã hội. Không
chỉ DN phá sản mà người nghèo cũng phá sản. Họ vay tiền đầu tư
chứng khoán, kinh doanh bất động sản nên khi bị tác động xấu đã mất
nhà cửa, tài sản khác, gia đình ly tán. Các phong trào kinh doanh bất
chấp quy luật của nhiều DN và cá nhân làm cho tiền nhà nước bị tht
thoát không có khả năng thu hồi, số người lao động thất nghiệp tăng
lên, một số ngân hàng vốn được coi là mạnh thì lâm vào khủng hoảng
mất vốn. Mà khi ngân hàng khủng hoảng thì dòng chảy vốn của nền
kinh tế bị tắc nghẽn hoặc b rò rỉ. Và nữa, một số mô hình DN vốn được
coi là năng động, là tiêu biểu chuẩn , nay phá sản kéo theo những thiệt
hại về tài chính, an toàn xã hội, thất nghiệp, mất cân đối ngành nghề (
dụ như trường hợp Vinashin)...
Ở đây cũng cần thẳng thắn chỉ ra những khiếm khuyết của lực
ợng quản lý kinh tế. Tư duy nhiệm kỳ của không ít các vị lãnh đạo kinh
tế, của người đứng đầu DN nhà nước làm cho họ không có tầm nhìn xa.
Cũng từ tư duy nhiệm kỳ, vì sự vị kỷ, sợ trách nhiệm của một số vị cán
bộ lãnh đạo nên tình trạng đùn đẩy, "đá" trách nhiệm cho nhau giữa các
cơ quan chức năng của Nhà nước về quản lý kinh tế din ra thường
xuyên. Những chủ DN dù là của tư nhân hay của Nhà nước luôn tính
đến lợi ích cá nhân, lợi ích nhóm hơn là lợi ích tổng thể. Lợi ích nhóm
khi ở trong bối cảnh thiếu minh bạch về thông tin kinh tế đã ít nhiều chi
phối khả năng dự báo, khả năng đối phó có tầm chiến lược cũng như
tình huống cụ thể của hệ thống quản lý, điều hành. Việc sử dụng mệnh
lệnh hành chính có tác dụng trong những trường hợp điều tiết mạnh mẽ,
tức thời đối với những biểu hiện đe dọa tới tiềm lực nền kinh tế c
nhà, đe dọa sự ổn định xã hội, nhưng mặt khác, khi bị lạm dụng lại tạo
nên những bất hợp lý và sự thiên lệch trong điều hành kinh tế. Chính
lOMoARcPSD| 44879730
16
vậy mà Đảng và Nhà nước ta đã và đang chấn chỉnh quyết liệt những
hiện tượng lấy ngân sách để "cứu" một cách vô lối những DN làm ăn
thua lỗ.
+) Nền kinh tế ớc ta kể từ khi đại dịch covid-19 xuất hiện
Việt Nam là một trong số ít các nước kiểm soát tốt dịch Covid-19,
nhưng vẫn bị ảnh hưởng nghiêm trọng đối với nền kinh tế, sau 9 tháng
đã có dấu hiệu phục hồi rõ nét, sau khi dịch Covid-19 được kiểm soát
qua 2 lần bùng phát (tháng 3 và tháng 7). Quý I năm 2020, tốc độ tăng
trưởng đạt 3,82%, quý II giảm còn 0,39%, quý III tăng trở lại đạt 2,62%,
đưa con số tăng trưởng của 9 tháng năm 2020 lên 2,12%. Mặc dù tăng
trưởng vẫn là một con số dương, nhưng đây là mức tăng thấp nhất so
với cùng kỳ của các năm trong giai đoạn 2011-2020 và là một trong số ít
các quốc gia có tăng trưởng dương .
Tuy nhiên, trong quý 3, các khu vực kinh tế đều có dấu hiệu phục hi
và khởi sắc hơn, bước vào trạng thái hoạt động trong điều kiện bình
thường mới. Theo Tổng cục Thống kê, tính chung 9 tháng năm 2020,
GDP ước tăng 2,12% so với cùng kỳ năm 2019, là mức tăng thấp nhất
so cùng kỳ trong giai đoạn 2011-2020. Trong mức tăng chung của toàn
nền kinh tế, nông lâm nghiệp và thủy sản tăng 1,84%, đóng góp 13,62%
vào mức tăng trưởng chung; công nghiệp và xây dựng tăng 3,08%,
đóng góp 58,35%; khu vực dch vụ tăng 1,37%, đóng góp 28,03%. Mặc
dù gặp nhiều khó khăn do dịch Covid-19, làm đứt gãy thương mại toàn
cầu, nhưng cán cân thương mại tháng 9 tiếp tục thặng dư 3,5 tỷ USD,
đưa giá trị xut siêu 9 tháng đạt gần 17 tỷ USD, tăng gần gấp đôi so
cùng kỳ năm 2019. Kinh tế trong nước đã trở thành động lực tăng
trưởng xuất khẩu với kim ngạch hàng hóa xuất khẩu 9 tháng tăng 20,2%
và chiếm 35,4% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả ớc. Hoạt đng
thương mại, vận tải trong nước cũng có dấu hiệu tăng trở lại ngay khi
đợt bùng phát thứ hai được khống chế (tháng 7/2020).
Những tác động của COVID-19 đối với nền kinh tế, đặc biệt là về du
lịch, thương mại FDI cũng như về sản xuất các chuỗi cung ứng
rất lớn. Ngành du lịch tại Việt Nam dự kiến sẽ giảm 2,7 tỷ đô la cho mỗi
tháng của cuộc khủng hoảng.
Các doanh nghiệp, nhà hàng, xí nghiệp, công ty buộc phải đóng cửa
do dịch bệnh, điều này dẫn đến người lao động không việc làm, gia
tăng tình trạng thất nghiệp hội chênh lệch giữa người giàu, người
nghèo.
lOMoARcPSD| 44879730
17
Covid-19 cũng mang lại các chi phí lớn về phòng ngừa và điều trị
trong ngành y tế. Việc thực hiện các biện pháp liên quan đến sức khỏe
cần thiết về cách ly xã hội cũng mang lại một chi phí rất ln cho nền
kinh tế.Chi phí này liên quan đến việc giảm tốc các hoạt động kinh tế
(chứ không phải là tăng tốc như các biện pháp kinh tế thường làm trong
thời kỳ suy thoái). Chi phí giảm tốc bao gồm đóng cửa các trường học
và doanh nghiệp, ngừng hoạt động đi lại, vận chuyển, dịch vụ của chính
phủ và quan trọng là chi phí của những người lao động thất nghiệp .
KẾT LUẬN
Tóm lại, Nhà nước có vai trò to lớn trong việc bảo đảm sự ổn định vĩ
mô cho phát triển và tăng trưởng kinh tế, thể hiện sự cân đối, hài hòa
các quan hệ nhu cầu, lợi ích giữa người và người, tạo ra sự đồng thuận
xã hội trong hành động vì mục tiêu phát triển của đất nước. Tính đúng
đắn, hợp lý và kịp thời của việc hoạch định và năng lực tổ chức thực
hiện các chính sách phát triển vĩ mô do Nhà nước đảm nhiệm là điều
kiện tiên quyết để hình thành sự đồng thuận đó. Việc tăng cường quản
lý vĩ mô sẽ nâng cao hiệu quả tác động của Nhà nước tới sự phát triển
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở ớc ta trong thời
kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc
tế .
Tài liệu tham khảo
1) Bài giảng text-elearning đại học kinh tế quốc dân
2) https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/kinh-te/-
/2018/819611/tac-dong-cua-dai-dich-covid-19%C2%A0va-mot-so
giai-phap-chinh-sach-cho-viet-nam-trong-giai-doan-toi.aspx
3) https://thongtinphapluatdansu.edu.vn/2009/05/01/2794/
lOMoARcPSD| 44879730
18
4) https://laodong.vn/thoi-su/chong-dich-covid-19-phai-dat-trong-tong
the-nhiem-vu-phat-trien-kinh-te-xa-hoi-an-ninh-quoc-phong-va-doi
ngoai-800766.ldo
Xin chân thành cảm ơn !
lOMoARcPSD| 44879730
19
| 1/19

Preview text:

lOMoAR cPSD| 44879730
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC
Họ tên sinh viên : Mã sv:
Giảng viên : TS Mai Lan Hương
BÀI KIỂM TRA TỰ LUẬN
Môn : Kinh tế chính trị
ĐỀ : Phân tích các ưu điểm và những khuyết tật của nền kinh tế thị
trường. Tai sao trong nền kinh tế thị trường cần phải có sự điều tiết
của Nhà nước. Liên hệ với thực tiễn nước ta.
BÀI LÀM
I) Phân tích các ưu điểm và những khuyết tật của nền kinh tế thị trường .
1) Khái quát cơ chế thị trường và nền kinh tế thị trường. a) Khái niệm
Cơ chế thị trường là hệ thống các quan hệ kinh tế mang đặc tính tự
điều chỉnh các cân đối của nền kinh tế theo yêu cầu của các quy luật kinh tế .
Cơ chế thị trường là phương thức cơ bản để phân phối và sử dụng
các nguồn vốn, tài nguyên, công nghệ, sức lao động, thông tin, trí tuệ...
Đây là một kiểu cơ chế vận hành nền kinh tế mang tính khách quan, do
bản thân nền sản xuất hàng hóa hình thành. Cơ chế thị trường được
A.Smith ví như là một bàn tay vô hình có khả năng tự điều chỉnh các quan hệ kinh tế.
Nền kinh tế thị trường là nền kinh tế được vận hành theo cơ chế thị
trường. Đó là nền kinh tế hàng hóa phát triển cao, ở đó mọi quan hệ sản
xuất và trao đổi đều được thông qua thị trường, chịu sự tác động, điều
tiết của các quy luật thị trường.
Sự hình thành kinh tế thị trường là khách quan trong lịch sử từ kinh
tế tự nhiên, tự túc, kinh tế hàng hóa rồi từ kinh tế hàng hóa phát triển
thành kinh tế thị trường. b) Đặc trưng 1 lOMoAR cPSD| 44879730
+) Đặc trưng cơ chế thị trường
Dấu hiệu đặc trưng của cơ chế thị trường là cơ chế hình thành giá cả
một cách tự do. Người bán, người mua thông qua thị trường để xác
định giá cả của hàng hóa, dịch vụ. Trong kiểu tổ chức kinh tế này, toàn
bộ quá trình sản xuất – phân phối – trao đổi – tiêu dùng, sản xuất như
thế nào và cho ai đều thông việc mua bán,thông qua hệ thống thị trường
và do thị trường quyết định. Trong kinh tế thị trường, đặc điểm tự do lựa
chọn hình thức sản xuất kinh doanh, tự chịu trách nhiệm: 'lãi hưởng lỗ
chịu', chấp nhận cạnh tranh, là những điều kiện hoạt động của cơ chế
thị trường. Sự tuân theo cơ chế thị trường là điều không thể tránh khỏi
đối với các doanh nghiệp, nếu không sẽ bị đào thải. Tuy nhiên, để cơ
chế thị trường thực hiện tốt được chức năng của mình, thì các điều kiện
sau đây phải được thỏa mãn: thị trường phải có cạnh tranh hoàn hảo,
thông tin đối xứng, không có các ảnh hưởng ngoại lai, không có đầu cơ,
không có vi phạm đạo đức kinh doanh,... Tuy nhiên, trong thực tế không
có nước nào đáp ứng hoàn hảo các điều kiện này, nên có những trường
hợp cơ chế thị trường sẽ không thể phân bổ tối ưu các nguồn lực kinh
tế, thậm chí góp phần gây ra khủng hoảng kinh tế. Khi đó sẽ có thất bại thị trường.
Các đặc trưng cơ bản bao gồm:
❖ Việc phân bố sử dụng các nguồn tài nguyên, nguyên liệu đầu vào về
cơ bản được giải quyết theo quy luật của kinh tế thị trường mà cốt lõi là quy luật cung cầu.
❖ Các mối quan hệ kinh tế thị trường đều được tiền tệ hoá.
❖ Động lực chính phát triển kinh tế là lợi nhuận thu được.
❖ Việc sản xuất kinh doanh và tiêu dùng sản phẩm do hai phía cung và cầu quyết định.
❖ Môi trường, động lực, phương tiện thúc đẩy sản xuất kinhdoanh phát triển là cạnh tranh.
❖ Nhà sản xuất là nhân vật trung tâm và khách hàng chi phối người bán trên thị trường.
❖ Có sự chênh lệch giàu nghèo trong xã hội.
❖ Có bất cập cần có sự điều tiết của nhà nước như môi trường,khủng
hoảng và nhiều vấn đề xã hội.
❖ Có xu hướng phát triển kinh tế mang tính hội nhập khuvực và quốc tế. 2 lOMoAR cPSD| 44879730
+)Đặc trưng kinh tế thị trường
Kinh tế thị trường đã phát triển qua nhiều giai đoạn với nhiều mô
hình khác nhau, song chúng đều có những đặc trưng chung bao
gồm: ❖ Thứ nhất, kinh tế thị trường đòi hỏi sự đa dạng của các chủ
thể kinh tế, nhiều hình thức sở hữu. Các chủ thể kinh tế hình đồng trước pháp luật.
❖ Thứ hai, thị trường đóng vai trò quyết định trong việc phân bố các
nguồn lực xã hội thông qua hoạt động của các thị trưởng bộ phận
như thị trường hàng hóa, thị trường dịch vụ, thị trường sức
lao động, thị trường tài chính, thị trường bất động sản, thị
trường khoa học công nghệ
❖ Thứ ba, giá cả được hình thành theo nguyên tắc thị trường cạnh
tranh vừa là mỗi trường, vừa là động lực thúc đẩy kinh tế thị trường phát triển.
❖ Thứ tư, động lực trực tiếp của các chủ thể sản xuất kinh doanh là lợi ích kinh tế - xã hội.
❖ Thứ năm, nhà nước là chủ thể thực hiện chức năng quản lý nhà
nước đối với các quan hệ kinh tế, đồng thời, nhà nước thực hiện
khắc phục những khuyết tật của thị trường, thúc đẩy những yếu tố
tích cực, đảm bảo sự bình đẳng xã hội và sự ổn định của toàn bộ nền kinh tế.
❖ Thứ sáu, kinh tế thị trường là nền kinh tế mở, thị trường trongnước gắn
liền với thị trường quốc tế kinh tế thị trường
Kinh tế thị trường đã phát triển qua nhiều giai đoạn với nhiều mô
hình khác nhau, song chúng đều có những đặc trưng chung bao gồm:
Thứ nhất, kinh tế thị trường đòi hỏi sự đa dạng của các chủ thể kinh
tế, nhiều hình thức sở hữu. Các chủ thể kinh tế hình đồng trước pháp luật.
Thứ hai, thị trường đóng vai trò quyết định trong việc phân bố các
nguồn lực xã hội thông qua hoạt động của các thị trưởng bộ phận
như thị trường hàng hóa, thị trường dịch vụ, thị trường sức lao động,
thị trường tài chính, thị trường bất động sản, thị trường khoa học công nghệ
Thứ ba, giá cả được hình thành theo nguyên tắc thị trường cạnh
tranh vừa là mỗi trường, vừa là động lực thúc đẩy kinh tế thị trường phát triển. 3 lOMoAR cPSD| 44879730
Thứ tư, động lực trực tiếp của các chủ thể sản xuất kinh doanh là lợi ích kinh tế - xã hội.
Thứ năm, nhà nước là chủ thể thực hiện chức năng quản lý nhà
nước đối với các quan hệ kinh tế, đồng thời, nhà nước thực hiện
khắc phục những khuyết tật của thị trường, thúc đẩy những yếu tố
tích cực, đảm bảo sự bình đẳng xã hội và sự ổn định của toàn bộ nền kinh tế.
Thứ sáu, kinh tế thị trường là nền kinh tế mở, thị trường trong nước
gắn liền với thị trường quốc tế.
=> Nền kinh tế thị trường xã hội tạo điều kiện để kích thích mạnh mẽ
sáng kiến cá nhân, bảo đảm tự do hoạt động kinh tế, thương mại để
đưa tới lợi ích cho toàn xã hội, đồng thời phòng tránh được các khuyết
tật lớn của nền kinh tế thị trường, bằng cách chống lạm phát, giảm thất
nghiệp, thực hiện những chính sách để tạo công bằng xã hội, giảm
khoảng cách quá lớn giữa người giàu và kẻ nghèo.
2. Những ưu thế và khuyết tật của nền kinh tế thị trường. a) Ưu thế .
Thứ nhất, nền kinh tế thị trường luôn tạo ra động lực mạnh mẽ cho
sự hình thành ý tưởng mới của các chủ thể kinh tế.
Trong nền kinh tế thị trường, các chủ thể luôn có cơ hội để tìm ra
động lực cho sự sáng tạo của mình. Thông qua vai trò của thị trường
mà nền kinh tế thị trường trở thành phương thức hữu hiệu kích thích sự
sáng tạo trong hoạt động của các chủ thể kinh tế, tạo điều kiện thuận lợi
cho hoạt động tự do của họ, qua đó, thúc tăng năng suất lao động, tăng
hiệu quả sản xuất, làm cho nền kinh tế hoạt động năng động, hiệu quả.
Nền kinh tế thị trường chấp nhận mọi ý tưởng sáng tạo mới trong thực
hiện sản xuất kinh doanh và quản lý. Nền kinh tế thị trường tạo môi
trường rộng mở cho các mô hình kinh doanh mới theo đà phát triển của xã hội.
Hai là, nền kinh tế thị trường luôn thực hiện phát huy tốt nhất tiềm
năng của mọi chủ thể, các vùng miền cũng như lợi thế quốc gia trong quan hệ với thế giới.
Trong nền kinh tế thị trường, mọi tiềm năng, lợi thế đều có thể được
phát huy, đều thể trở thành lợi ích đóng góp cho xã hội. Thông qua vai
trò gắn kết của thị trường mà nền kinh tế thị trường trở thành phương
thức hiệu quả hơn hẳn so với nền kinh tế tự cấp tự túc hay nền kinh tế 4 lOMoAR cPSD| 44879730
kế hoạch hóa để phát huy tiềm năng, lợi thế của từng thành viên, từng
vùng miềntrong quốc gia, của từng quốc gia trong quan hệ kinh tế với
phần còn lại của thế giới.
Ba là, nền kinh tế thị trường tạo luôn tạo ra các phương thức để
thỏa mãn tối đa nhu cầu của con người, từ đó thúc đẩy tiến bộ, văn minh xã hội.
Trong nền kinh tế thị trường, các thành viên của xã hội luôn có thể tìm
thấy cơ hội tối đa để thỏa mãn nhu cầu của mình. Nền kinh tế thị trường
với sự tác động của các quy luật thị trường luôn tạo ra sự phù hợp giữa
khối lượng, cơ cấu sản xuất với khối lượng, cơ cấu nhu cầu tiêu dùng
của xã hội. Nhờ đó, nhu cầu tiêu dùng về các loại hàng hóa, dịch vụ
khác nhau được đáp ứng kịp thời, người tiêu dùng được thỏa mãn nhu
cầu cũng như đáp ứng đầy đủ mọi chủng loại hàng hóa, dịch vụ. Thông
qua đó, niềm kinh tế thị trường trở thành phương thức để thúc đẩy văn minh, tiến bộ xã hội.
Thứ tư, sự điều tiết của của kinh tế thị trường mềm dẻo hơn sự điều
chỉnh của cơ quan nhà nước và có khả năng thích nghi cao hơn trước,
những điều kiện kinh tế biến đổi, làm thích ứng kịp thời giữa sản xuất xã
hội với nhu cầu xã hội.
Ngày nay, kinh tế thị trường giúp cho những người cộng sản mở rộng
quan hệ kinh tế quốc tế để: Chung sống hòa bình, giữ và bảo vệ chính
quyền, sử dụng tốt hơn các hình thức kinh tế quá độ, có được kỹ thuật,
quản lý của các nước tư bản phát triển(tiền đề vật chất của xã hội mới).
=>Nhờ những ưu điểm và tác dụng đó, cơ chế thị trường có thể giải
quyết được những vấn đề cơ bản của tổ chức kinh tế. Nó là cơ chế tốt
nhất điều tiết nền sản xuất xã hội.Tuy nhiên, “sự thành công” của cơ chế
đó là có điều kiện: Các yếu tố sản xuất được lưu động, di chuyển dễ
dàng, giá cả thị trường có tính linh hoạt thông tin thị trường phải nhạy,
và các chủ thể thị trường phải nắm được đầy đủ thông tin liên quan. b) Khuyết tật .
Bên cạnh những ưu thế, kinh tế thị trường cũng những khuyết tật
vốn có. Những khuyết tật chủ yếu của kinh tế thị trường bao gồm:
Một là, xét trên phạm vi toàn bộ nền sản xuất xã hội, nền kinh tế thị
trường luôn tiềm ẩn những rủi ro khủng hoảng.
Trong kinh tế thị trường, rủi ro về khủng hoảng luôn tiềm ẩn. Khủng
hoàng có thể diễn ra cục bộ, có thể diễn ra trên phạm vi tổng thể. Không 5 lOMoAR cPSD| 44879730
hoảng có thể xảy ra đối với mọi loại hình thị trường, với mọi nền kinh tế
thị trường. Sự khó khăn đối với các nền kinh tế thị trường thể hiện ở
chỗ các quốc gia rất khó dự báo chính xác thời điểm xảy ra khủng
hoảng. Nền kinh tế thị trường không tự khắc phục được những rủi ro
tiềm ẩn này do sự vận động tự phát của các quy luật kinh tế. Tính tự
phát này bên cạnh ý nghĩa tích cực, còn gây ra các rủi ro tiềm ẩn dẫn
đến khủng hoảng. Đây là thách thức với nền kinh tế thị trường.
Hai là, nền kinh tế thị trường không tự khắc phục được xu hướng
cạn kiệt tài nguyên không thể tái tạo, suy thoái môi trường tự nhiên, môi trường xã hội.
Do phần lớn các chủ thể sản xuất kinh doanh trong nền kinh tế thì
trường luôn đặt mục tiêu tìm kiếm lợi nhuận tối đa nên luôn tạo ra ảnh
hướng tiềm ẩn đối với nguồn lực tài nguyên, suy thoái môi trường. Cũng
vì động cơ lợi nhuận, các thủ thể sản xuất kinh doanh có thể vi phạm cả
nguyên tắc đạo đức để chạy theo mục tiêu làm giàu thậm chí phi pháp,
góp phần gây ra sự xói mòn đạo đức kinh doanh, thậm chí cả đạo đức
xã hội. Đây là những mặt trái mang tính khuyết tật của bản thân nền
kinh tế thị trường. Cũng vì lợi nhuận, các chủ thể hoạt động sản xuất
kinh doanh có thể không tham gia vào các lĩnh vực thiết yếu cho nền
kinh tế nhưng có lợi nhuận kỳ vọng thấp, rủi ro cao, quy mô đầu tư lớn,
thời gian thu hồi vốn dài. Tự nền kinh tế thị trường không thể khắc phục
được các khuyết tật này.
Ba là, nền kinh tế thị trường không tự khắc phục được hiện tượng
phân hóa sâu sắc trong xã hội.
Trong nền kinh tế thị trường, hiện tượng phân hóa xã hội về thu nhập,
về cơ hội là tất yếu. Bản thân nền kinh tế thị trường không thể tự khắc
phục được khía cạnh phân hóa có xu hướng sâu sắc. Các quy luật thị
trường luôn phân bổ lợi ích theo mức độ và loại hình hoạt động tham
gia thị trường, cộng với tác động của cạnh tranh mà dẫn đến sự phân
hóa như một tất yếu. Đây là khuyết tật của nền kinh tế thị trường cần
phải có sự bổ sung và điều tiết bởi vai trò của nhà nước.
Thứ tư, một nền kinh tế do cơ chế thị trường thuần tuý điều tiết khó
tránh khỏi những thăng trầm, khủng hoảng kinh tế có tính chu kỳ và thất nghiệp.
Người ta nhận thấy rằng, một nền kinh tế thị trường hiện đại đưng
trước một khó khăn nan giải của kinh tế vĩ mô: không một nước nào
trong một thời gian dài lại có được lạm phát thấp và đầy đủ công ăn việc
làm. Do những khuyết tật của nền kinh tế thị trường nên trong thực tế 6 lOMoAR cPSD| 44879730
không tồn tại một nền kinh tế thị trường thuần túy, mà thường có sự can
thiệp nhà nước để sửa chữa những những thất bại của kinh tế thị
trường. Khi đó nền kinh tế được gọi là nền kinh tế thị trường có sự điều
tiết của nhà nước hay nền kinh tế hỗn hợp.
II) Nền kinh tế thị trường cần phải có sự điều tiết của Nhà nước.
Nhà nước đóng vai trò rất quan trọng việc điều tiết nền kinh
tế thị trường gồm :
1.
Vai trò của nhà nước trong xây dựng cơ sở hạ tầng và ổn
định nền kinh tế vĩ mô.
Nền kinh tế của một quốc gia sẽ không thể "cất cánh" trừ phi nó có
được nền tảng là một cơ sở hạ tầng vững chắc. Vì thế, nhà nước phải
đầu tư cơ sở hạ tầng, ổn định nền kinh tế vĩ mô của đất nước. Đặc điểm
của nền kinh tế thị trường là sự bất ổn định do các cuộc khủng hoảng
chu kỳ. Sự ổn định kinh tế là điều mà mọi nhà nước đều mong muốn vì
nó có lợi cho tất cả mọi người. Do vậy, nhà nước phải duy trì sự ổn định
đó. Nhà nước sử dụng các công cụ, chính sách kinh tế vĩ mô để điều
tiết nền kinh tế, sử dụng ngân sách để tiến hành đầu tư công cho các
công trình; xây dựng các dự án cơ sở hạ tầng dựa trên căn cứ và tiêu
chí kinh tế thích hợp nhằm giảm thiểu những gánh nặng chi phí của
ngân sách nhà nước và của nền kinh tế; tiến hành việc kiểm soát chi
tiêu công và tiền vay của các tập đoàn kinh tế nhà nước để duy trì sự ổn
định nền kinh tế. Với tư cách chủ đầu tư, nhà nước hướng các chương
trình đầu tư của mình vào mục tiêu tối đa hoá lợi ích của quốc gia. 2.
Vai trò của nhà nước đối với việc điều tiết các yếu tố ngoại vi
Yếu tố ngoại vi là ảnh hưởng do các yếu tố bên ngoài gây nên cho hoạt
động của các doanh nghiệp hay cho xã hội. Yếu tố ngoại vi xảy ra khi có
sự khác biệt về phí tổn hoặc lợi ích giữa cá nhân và xã hội. Các chi phí
hoặc lợi ích này không được tính đến trong hệ thống giá cả và thị
trường. Những chi phí ngoại vi cho sản xuất phải tính đến cả sự tắc
nghẽn giao thông và ô nhiễm môi trường mà nhà máy hoặc xí nghiệp
sản xuất tạo ra... Những yếu tố này gây nên sự giảm sút về phúc lợi của
những người dân sống xung quanh hoặc có thể buộc những nhà máy
khác gần đó phải tốn kém thêm chi phí để làm sạch nguồn nước bị ô 7 lOMoAR cPSD| 44879730
nhiễm mà mình sử dụng trong sản xuất. Bằng sự can thiệp, nhà nước
buộc tất cả những ai hưởng lợi từ sản xuất và tiêu thụ sản phẩm đều
phải trả toàn bộ chi phí sản xuất và tiêu thụ sản phẩm ấy.
Nhà nước sử dụng hệ thống thuế, luật pháp, điều lệ, mức hình phạt,
thậm chí truy tố trước pháp luật nhằm giảm thiểu ô nhiễm hoặc tạo điều
kiện để các tổ chức xã hội thành lập các quỹ bảo vệ môi trường, môi
sinh nhằm giám sát các hoạt động của các doanh nghiệp trong việc bảo
vệ môi trường và khuyến nghị các biện pháp sản xuất đảm bảo yếu tố
bền vững. Ngoài ra, nhà nước sử dụng chính sách quyền sở hữu công
khai nguồn tài nguyên, bắt buộc các cá nhân, tổ chức sử dụng nguồn tài
nguyên gây ô nhiễm phải chịu chi phí theo giá thị trường. Các khoản
thuế hay biện pháp trợ cấp đều được coi là phương thức để nhà nước
xử lý những yếu tố ngoại vi. 3.
Vai trò của nhà nước trong bảo đảm công bằng, trật tự xã hội.
Để thực hiện chức năng phân phối, nền kinh tế thị trường đòi hỏi một
loạt thể chế phát triển cao, trong đó có hệ thống luật pháp để chống
gian lận bao gồm: hệ thống có liên quan tới những quyền sở hữu,
những điều luật về phá sản và khả năng thanh toán, hệ thống tài chính
với ngân hàng trung ương và các ngân hàng thương mại để giữ cho
việc cung cấp tiền mặt được thực hiện một cách nghiêm ngặt.
Trong nền kinh tế thị trường cả người mua lẫn người bán đều muốn
khi đã đồng ý trao đổi thì sự thỏa thuận phải được thực hiện. Nếu không
có luật pháp thì các giao dịch trên thị trường trở nên khó có thể thực hiện được.
Nhà nước phải thiết lập và bảo vệ quyền sở hữu tư nhân và quyền
được hưởng các lợi ích kinh tế xuất phát từ việc sử dụng quyền sở hữu
đó. Nếu không có sự bảo đảm ấy, một số người sẽ gặp những rủi ro nếu
đầu tư thời gian và tiền vốn của mình vào lĩnh vực kinh doanh mà rốt
cuộc lợi nhuận lại là của người khác. Đây là những can thiệp quan trọng
của nhà nước trong việc bảo vệ bản quyền tác giả và qua đó, khuyến
khích những hoạt động sáng tạo, khả năng trí tuệ của các nhà khoa học, các nghệ sĩ .
4.Vai trò của nhà nước trong việc bảo đảm cạnh tranh và chống độc quyền. 8 lOMoAR cPSD| 44879730
Vai trò này của nhà nước thể hiện ở những biện pháp kiểm soát
thông qua điều tiết đối với những hãng có khả năng chi phối, kiểm soát
các vụ việc sáp nhập công ty nhằm ngăn ngừa khả năng độc quyền hoá
các ngành công nghiệp, kiểm soát các hành vi chống cạnh tranh,
khuyến khích cạnh tranh lành mạnh giữa các nhà cung ứng, đồng thời
bảo vệ người tiêu dùng chống lại tình trạng độc quyền.
Để đẩy mạnh tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế cũng như để duy trì
được tốc độ tăng trưởng, nhà nước phải tính tới tốc độ tăng trưởng
nhanh của các ngành công nghiệp có tính cạnh tranh. Trong thời kỳ hội
nhập kinh tế quốc tế hiện nay, thương mại quốc tế không chỉ tạo ra sức
ép cạnh tranh mà còn là thước đo năng lực cạnh tranh của các doanh
nghiệp nội địa. Để đảm bảo năng lực cạnh tranh cho các doanh nghiệp,
nhà nước phải tạo lập "sân chơi" bình đẳng cho tất cả các doanh nghiệp
trong toàn bộ nền kinh tế, không thiên vị với bất cứ một loại hình doanh
nghiệp nào, tránh tình trạng bảo hộ cho các doanh nghiệp nhà nước.
5.Vai trò của nhà nước trong việc bảo đảm phúc lợi lợi xã hội.
Trong nền kinh tế thị trường, có một số người thu nhập còn hạn chế,
trong khi đó, số khác lại có nguồn thu nhập cao. Do vậy, vai trò của nhà
nước trong việc phân phối lại thu nhập là rất quan trọng để thu hẹp
khoảng cách giàu - nghèo trong xã hội. Trên thực tế, chính phủ của
nhiều quốc gia thực hiện điều này thông qua chính sách thuế, đặc biệt
là thuế thu nhập nhằm tạo sự công bằng hơn trong phân phối.
Trong nền kinh tế thị trường, nhà nước có vai trò rất quan trọng trong
việc nâng cao phúc lợi công cộng, xoá đói, giảm nghèo. Các vấn đề như
việc làm, sức khoẻ, bảo hiểm y tế, lương hưu, trợ cấp khó khăn… luôn
là những vấn đề cần đến sự quan tâm của nhà nước, để khích lệ được
mọi thành phần lao động trong việc tạo ra của cải và tiết kiệm chi dùng những của cải ấy.
6.Vai trò của nhà nước đối với chính sách tài chính và tiền tệ.
Nhà nước trong nền kinh tế thị trường đóng vai trò rất lớn trong việc
ổn định nền kinh tế vĩ mô. Một trong những chính sách quan trọng trong
việc bình ổn giá cả, giảm lạm phát chính là chính sách tài chính và
chính sách tiền tệ. Các chính sách này đúng sẽ tạo ra một thị trường
tiền tệ ổn định, được chấp nhận rộng rãi, có khả năng loại bỏ hệ thống
giao dịch cồng kềnh, kém hiệu quả và hạn chế được lạm phát. Trong 9 lOMoAR cPSD| 44879730
nền kinh tế thị trường, tiền tệ là một loại hàng hóa đặc biệt. Do vậy, mỗi
động thái của chính phủ đều tác động trực tiếp đến hệ thống tài chính
của thị trường. Hơn thế, đầu tư là một hoạt động rủi ro và phụ thuộc rất
nhiều vào các điều kiện thực tế. Chính vì những lý do này mà nhà nước
đóng vai trò then chốt trong việc điều tiết thị trường để giảm thiểu những
rủi ro có tính hệ thống.
Trong xu thế toàn cầu hóa hiện nay, sự giao lưu kinh tế, hội nhập
kinh tế quốc tế của mọi quốc gia chỉ có hiệu quả cao, khi có tác nhân
khởi thủy từ phía nhà nước, được hỗ trợ đắc lực từ phía nhà nước. Đại
diện cho đất nước tham gia vào các quá trình soạn thảo và thông qua
chuẩn mực luật pháp kinh tế, các hiệp định kinh tế, các nghị định thư…
Nhà nước ta góp phần tạo cho chủ thể kinh tế của đất nước vị trí có lợi
trong quan hệ kinh tế quốc tế. Sự kiện đàm phán gia nhập Tổ chức
Thương mại thế giới (WTO) thành công là chứng minh rõ rệt cho điều này .
Trong thời gian qua, dịch bệnh Covid-19 đã bùng phát trên phạm
vi toàn cầu, tác động sâu sắc, toàn diện tới mọi mặt đời sống kinh
tế - xã hội của nhiều quốc gia .

Nhà nước cần phải đổi mới công tác kế hoạch nhằm xác định rõ
những nội dung kinh tế - xã hội mà mỗi cấp chính quyền cần hoạch
định; đồng thời tính toán sự cân đối các nguồn lực tương ứng với các
mục tiêu đã xác định, nhằm định hướng cho thị trường phát triển. Mở
rộng phân cấp, phân quyền cho địa phương; nhưng đồng thời phải tạo
cơ chế để tăng cường kiểm tra, thanh tra, giám sát của chính quyền
Trung ương đối với chính quyền địa phương. Cụ thể là Chính phủ cần
tập trung vào 3 nhiệm vụ: (1) Hoạch định chính sách; (2) Ban hành các
quy định; (3) Kiểm tra giám sát chế tài vi phạm. Còn các quyết định cụ
thể liên quan đến đời sống kinh tế ở mỗi địa phương, nên để địa phương thực hiện.
- Chuyển nền hành chính đang mang nặng mục tiêu quản lý, bao cấp
trách nhiệm dân sự của công dân sang nền hành chính mang tính chất phục vụ.
Xây dựng nền hành chính phục vụ dựa trên cơ sở hình thành các tổ
chức cung cấp dịch vụ công, các định chế yểm trợ. Cần xác định rõ bản
chất của định chế cung cấp dịch vụ công phi lợi nhuận là các tổ chức
cung cấp các dịch vụ công cho xã hội, như : y tế, giáo dục, văn hóa, khoa
học, dịch vụ đô thị, hỗ trợ pháp lý, hỗ trợ thông tin; các tổ chức khuyến 10 lOMoAR cPSD| 44879730
nông, khuyến ngư… do các thành phần kinh tế và Nhà nước đầu tư;
không phân biệt ai là chủ sở hữu được thành lập để phục vụ cho lợi ích
chung của xã hội và cộng đồng.
=> Để thực hiện vai trò này của Nhà nước cần sớm xây dựng một đạo
luật về các tổ chức dịch vụ công phi lợi nhuận. Khi có đạo luật này, thì
vai trò quản lý Nhà nước chính là giám sát sự hoạt động của các tổ
chức trên, chứ không phải làm thay các tổ chức này, với những chỉ tiêu,
chỉ số đo đếm hiệu quả sát thực và khoa học.
Quản lý chặt chẽ, xử lý chính xác thông tin về dịch bệnh Covid -19
trên truyền thông xã hội theo Luật An ninh mạng. Để quản lý tốt, cần
thực hiện hiệu quả việc lọc và phát hiện tin giả, tin sai sự thật về tình
hình dịch bệnh; kịp thời ngăn chặn sự lan truyền tin giả ngay khi nó xuất
hiện. Bảo đảm sàng lọc nhanh tin giả, tin sai sự thật… để có biện pháp
cảnh báo, ngăn chặn kịp thời.
Hoàn thiện cơ chế phối hợp giữa các cơ quan, đơn vị trong nước,
giữa trong nước và nước ngoài nhằm ngăn chặn, xử lý các thông tin
xấu độc nói chung và thông tin sai sự thật về dịch Covid-19 mang nội
dung chống phá đất nước.
Thực hiện mục tiêu kép vừa phòng, chống dịch Covid – 19 vừa phát
triển kinh tế - xã hội. Triển khai kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, các
phương án, biện pháp phòng, chống dịch bệnh, bảo đảm an sinh xã hội,
giải quyết các vấn đề bức xúc của nhân dân tại địa phương. Kỳ vọng
kiểm soát hiệu quả Covid-19 và tăng trưởng trong công nghiệp, thương
mại và đầu tư sẽ đẩy tốc độ tăng trưởng lên đáng kể trong năm 2021 và 2022.
III) Thực trạng nền kinh tế thị trường nước ta .
1) Những điểm nổi bật của nền kinh tế thị trường nước ta .
Từ Đại hội Đảng lần thứ VI đến Đại hội Đảng lần thứ XII, thể chế
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ngày càng được hoàn
thiện và được chứng minh tính đúng đắn trên thực tế khi đã giúp đất
nước ta thoát khỏi thời kỳ khó khăn về kinh tế, đạt tốc độ tăng trưởng
có lúc thuộc nhóm cao nhất thế giới. Từ nước nghèo, thu nhập thấp,
Việt Nam đã gia nhập nhóm nước có thu nhập trung bình, hội nhập
ngày càng sâu rộng hơn với kinh tế thế giới. Trong bối cảnh đó, sự phát 11 lOMoAR cPSD| 44879730
triển nhận thức của Đảng từ Đại hội VI đến Đại hội XII về mô hình kinh
tế thị trường (KTTT) định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN), cũng như
mối quan hệ và sự kết hợp giữa Nhà nước với thị trường là cả một quá
trình tìm tòi, trải nghiệm, phát triển từ thấp lên cao, ngày càng đầy đủ và hoàn thiện hơn.
Việt Nam tự do hóa kinh tế bắt đầu vào năm 1986 với đổi mới,
chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường. Đến nay, những cải cách theo
hướng tự do kinh tế, phát triển kinh tế thị trường đạt được nhiều kết quả. 1-
Hệ thống pháp quyền: Ở Việt Nam, đất đai thuộc sở hữu toàn
dân và do Nhà nước thống nhất quản lý. Tính đến tháng 9-
2018, Chính phủ đã cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
cho 96,9% diện tích đất. Quyền tài sản và các quyền khác
trong kinh doanh đã được thiết lập cơ bản và vẫn tiếp tục cải
thiện. Tuy nhiên, theo một số đánh giá quốc tế, cơ quan tư
pháp của Việt Nam còn nhiều hạn chế và tình trạng tham
nhũng vẫn là vấn đề cần được cải thiện. 2-
Quy mô Chính phủ: Mức độ tham gia của Chính phủ tới nền kinh
tế tại Việt Nam ở mức vừa phải. Trong đó, mức thuế thu nhập
cá nhân cao nhất là 35% và mức thuế thu nhập doanh nghiệp
cao nhất là 22%. Các loại thuế khác bao gồm thuế giá trị gia
tăng và thuế tài sản. Tổng gánh nặng thuế tương đương
18,6%tổng thu nhập trong nước. Chi tiêu của Chính phủ đã
lên tới 28,3% sản lượng (GDP) của quốc gia trong 3 năm qua
(tính đến năm 2018) và thâm hụt ngân sách trung bình là 4,7%
GDP . Nợ công tương đương 57,5% GDP. 3-
Hiệu quả thi hành pháp luật doanh nghiệp: Mặc dù việc khởi
nghiệp ngày càng trở nên dễ dàng hơn và chi phí đăng ký kinh
doanh cũng được cắt giảm nhưng nhìn chung các tiêu chuẩn
quản trị doanh nghiệp và việc thực thi pháp luật lao động còn
yếu. Các biện pháp kiểm soát bình ổn giá vẫn có hiệu lực đối
với nhiên liệu, năng lượng, nước, tài nguyên thiên nhiên và dược phẩm. 4-
Độ mở cửa của thị trường: Tổng giá trị xuất khẩu, nhập khẩu
hàng hóa và dịch vụ bằng 187,5% GDP. Mức thuế trung bình
được áp dụng là 2,7% và 80 biện pháp phi thuế quan đang có
hiệu lực. Khuôn khổ đầu tư tổng thể đã được hiện đại hóa và 12 lOMoAR cPSD| 44879730
tạo thuận lợi cho đầu tư nước ngoài, dẫu vậy, căn cứ trên tiêu
chuẩn quốc tế, vẫn bị đánh giá là thiếu hiệu quả. Khu vực tài
chính tiếp tục phát triển và việc cho vay theo chỉ đạo của các
ngân hàng thương mại nhà nước đã được thu hẹp trong những năm gần đây.
Về quyền tài sản, sự cải thiện đáng kể trong khoảng thời gian 2016
2017 liên quan đến quyền tài sản được đánh giá là bước phát triển quan
trọng trong kích thích sự phát triển của hệ thống kinh tế thị trường. Đây
là kết quả những nỗ lực rất lớn, nhất là từ sau Đại hội Đảng lần thứ XII.
Theo đó, một số văn bản và nghị quyết quan trọng được ban hành
nhằm xác lập rõ ràng hơn về quyền sở hữu và quản lý tài sản, đặc biệt
là liên quan đến tài sản công như Luật Quản lý, sử dụng tài sản công.
Luật xác định rõ ràng về phạm vi tài sản công, các tài sản chuyên dùng,
tài sản đấu giá,... Điều 4 của Luật phân loại chi tiết các tài sản công
khác nhau. Các quy định về nguyên tắc quản lý, sử dụng cũng khá minh
bạch (Điều 6). Chỉ số gánh nặng thuế cũng được cải thiện liên tục từ
năm 1995 đến năm 2020. Đặc biệt, sự cải thiện đáng kể trong Luật
Thuế thu nhập doanh nghiệp năm 1997 (Luật số 57-L/CTN) và có hiệu
lực năm 1999; Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp năm 2003 (Luật số
09/2003/QH11) và Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp năm 2008 (Luật số
14/2008/QH12) đã góp phần cải thiện môi trường thuế của doanh
nghiệp và hướng đến nền kinh tế thị trường.
Sau những áp lực từ nợ công, trong đó cao nhất là năm 2016 với nợ
công khoảng 59,7%/GDP, Chính phủ đã có những kế hoạch chi tiêu hiệu
quả hơn với các biện pháp cụ thể và gắn trách nhiệm các cơ quan trong
chi tiêu Chính phủ. Có thể, chính những biện pháp này đã giúp Việt
Nam cải thiện đáng kể về chính sách tài khóa, góp phần nâng cao chỉ số
tự do kinh tế, xây dựng kinh tế thị trường theo thông lệ quốc tế.
Luật Doanh nghiệp 2005 (Luật số 60/2005/QH11) cũng mang đến sự
cải thiện trong xây dựng kinh tế thị trường tại Việt Nam. Trong đó, Nhà
nước công nhận sự tồn tại lâu dài và phát triển của các loại hình doanh
nghiệp; công nhận và bảo hộ quyền sở hữu tài sản, vốn đầu tư, thu
nhập, các quyền và lợi ích hợp pháp khác của doanh nghiệp và chủ sở
hữu doanh nghiệp; tài sản và vốn đầu tư hợp pháp của doanh nghiệp và
chủ sở hữu doanh nghiệp không bị quốc hữu hóa, không bị tịch thu
bằng biện pháp hành chính (Điều 5). Doanh nghiệp có quyền kinh
doanh các ngành, nghề mà pháp luật không cấm (Điều 7) và các quyền 13 lOMoAR cPSD| 44879730
tự chủ trong kinh doanh của doanh nghiệp cũng được công nhận (Điều 8).
Sự kết hợp hiệu quả giữa tính KTTT và tính định hướng XHCN cũng
chính là đáp ứng xu hướng mới mang tầm vóc thời đại, đòi hỏi có sự kết
hợp tất yếu của bàn tay thị trường với bàn tay nhà nước trong một mô
hình quản lý xã hội mới đang dần định hình trên thế giới, nhất là từ sau
những cuộc khủng hoảng kinh tế-xã hội liên tiếp xảy ra trong những
thập niên cuối thế kỉ XX, đầu thế kỷ XXI trên quy mô toàn thế giới và
trong bối cảnh toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng hơn.
Sự kết hợp bàn tay thị trường với bàn tay nhà nước là việc lựa chọn và
kết hợp để tạo hiệu ứng tổng hợp tích cực những điểm tốt của mỗi cách
thức quản lý kinh tế, đồng thời góp phần giảm những tác động mặt trái
của chúng, tạo động lực mạnh mẽ, kiểm soát chặt chẽ các rủi ro và
nâng cao hiệu quả, chất lượng tăng trưởng, hài hòa các mục tiêu, củng
cố định hướng và yêu cầu phát triển bền vững cả về kinh tế, xã hội và môi trường.
2) Những hạn chế của nền kinh tế nước ta hiện nay. Bên
cạnh những tính ưu việt vượt trội của nền kinh tế thị trường nó
còn là những hạn chế để giúp nền kinh tế hoàn thiện hơn .
Những hạn chế đó gồm :

Gia tăng tình trạng tham nhũng; bội chi ngân sách; cạnh tranh gay gắt
cá lớn nuốt cá bé; mâu thuẫn tổng cung và tổng cầu; khủng hoảng
những mô hình kinh tế; gia tăng số lượng DN phá sản; gia tăng tình
trạng thất nghiệp, lạm phát; bất bình đẳng, gia tăng khoảng cách giàu nghèo….

+) Nhìn từ góc độ xã hội .
Trước hết, kinh tế thị trường coi trọng lợi ích cá nhân, xem lợi ích cá
nhân là lợi ích trung tâm trong các mối quan hệ. Điều này ảnh hưởng rất
lớn đến quan niệm ứng xử, quan niệm kinh doanh của các chủ DN và
mọi người dân. Người ta tìm mọi cách cạnh tranh để có lợi nhuận cá
nhân, đúng luật có, nhưng thường là lách luật, thậm chí vi phạm pháp
luật. Sự tiêu xài (theo lối hưởng thụ gấp) vượt quá số đang có cũng như
số làm ra, dẫn đến mất cân bằng của cải xã hội, từ đó tạo nên những
"cuộc phá sản" từ cá nhân đến các tổ chức kinh tế. DN hối lộ để được
hưởng chính sách ưu đãi, hối lộ để thoát hiểm khi vi phạm pháp luật, hối
lộ để có dự án, hợp đồng...Từ hối lộ, DN móc nối với công chức nhà 14 lOMoAR cPSD| 44879730
nước để làm biến tướng chính sách nhằm hưởng lợi cao, dựa tiếng
tăm, dựa quyền lực để đe nạt người khác, để đi qua trót lọt các khung
cửa hẹp. Để bảo đảm có chỗ dựa vững chắc hơn, không ít chủ DN tư
nhân "đầu tư vào chính trị" như: móc nối để người quen thân của họ
được tham gia vào hệ thống quyền lực nhà nước các cấp hoặc lợi dụng
"cơ cấu" để trực tiếp leo vào hệ thống nhà nước với vai trò thành viên
các tổ chức chính trị xã hội.
Thêm vào đó là sự vay mượn mô hình kinh doanh chứng khoán đã
đẻ ra bi kịch của người nghèo. Phong trào" thành lập ngân hàng, tổ
chức tài chính, chứng khoán, kinh doanh ngoài ngành đã dẫn đến
những hệ lụy xã hội to lớn. Nhiều DN lớn (có vốn hàng ngàn tỷ đồng)
phá sản đã tác động rất xấu đến nền kinh tế và đời sống xã hội. Không
chỉ DN phá sản mà người nghèo cũng phá sản. Họ vay tiền đầu tư
chứng khoán, kinh doanh bất động sản nên khi bị tác động xấu đã mất
nhà cửa, tài sản khác, gia đình ly tán. Các phong trào kinh doanh bất
chấp quy luật của nhiều DN và cá nhân làm cho tiền nhà nước bị thất
thoát không có khả năng thu hồi, số người lao động thất nghiệp tăng
lên, một số ngân hàng vốn được coi là mạnh thì lâm vào khủng hoảng vì
mất vốn. Mà khi ngân hàng khủng hoảng thì dòng chảy vốn của nền
kinh tế bị tắc nghẽn hoặc bị rò rỉ. Và nữa, một số mô hình DN vốn được
coi là năng động, là tiêu biểu chuẩn , nay phá sản kéo theo những thiệt
hại về tài chính, an toàn xã hội, thất nghiệp, mất cân đối ngành nghề (ví
dụ như trường hợp Vinashin)...
Ở đây cũng cần thẳng thắn chỉ ra những khiếm khuyết của lực
lượng quản lý kinh tế. Tư duy nhiệm kỳ của không ít các vị lãnh đạo kinh
tế, của người đứng đầu DN nhà nước làm cho họ không có tầm nhìn xa.
Cũng từ tư duy nhiệm kỳ, vì sự vị kỷ, sợ trách nhiệm của một số vị cán
bộ lãnh đạo nên tình trạng đùn đẩy, "đá" trách nhiệm cho nhau giữa các
cơ quan chức năng của Nhà nước về quản lý kinh tế diễn ra thường
xuyên. Những chủ DN dù là của tư nhân hay của Nhà nước luôn tính
đến lợi ích cá nhân, lợi ích nhóm hơn là lợi ích tổng thể. Lợi ích nhóm
khi ở trong bối cảnh thiếu minh bạch về thông tin kinh tế đã ít nhiều chi
phối khả năng dự báo, khả năng đối phó có tầm chiến lược cũng như
tình huống cụ thể của hệ thống quản lý, điều hành. Việc sử dụng mệnh
lệnh hành chính có tác dụng trong những trường hợp điều tiết mạnh mẽ,
tức thời đối với những biểu hiện đe dọa tới tiềm lực nền kinh tế nước
nhà, đe dọa sự ổn định xã hội, nhưng mặt khác, khi bị lạm dụng lại tạo
nên những bất hợp lý và sự thiên lệch trong điều hành kinh tế. Chính vì 15 lOMoAR cPSD| 44879730
vậy mà Đảng và Nhà nước ta đã và đang chấn chỉnh quyết liệt những
hiện tượng lấy ngân sách để "cứu" một cách vô lối những DN làm ăn thua lỗ.
+) Nền kinh tế nước ta kể từ khi đại dịch covid-19 xuất hiện
Việt Nam là một trong số ít các nước kiểm soát tốt dịch Covid-19,
nhưng vẫn bị ảnh hưởng nghiêm trọng đối với nền kinh tế, sau 9 tháng
đã có dấu hiệu phục hồi rõ nét, sau khi dịch Covid-19 được kiểm soát
qua 2 lần bùng phát (tháng 3 và tháng 7). Quý I năm 2020, tốc độ tăng
trưởng đạt 3,82%, quý II giảm còn 0,39%, quý III tăng trở lại đạt 2,62%,
đưa con số tăng trưởng của 9 tháng năm 2020 lên 2,12%. Mặc dù tăng
trưởng vẫn là một con số dương, nhưng đây là mức tăng thấp nhất so
với cùng kỳ của các năm trong giai đoạn 2011-2020 và là một trong số ít
các quốc gia có tăng trưởng dương .
Tuy nhiên, trong quý 3, các khu vực kinh tế đều có dấu hiệu phục hồi
và khởi sắc hơn, bước vào trạng thái hoạt động trong điều kiện bình
thường mới. Theo Tổng cục Thống kê, tính chung 9 tháng năm 2020,
GDP ước tăng 2,12% so với cùng kỳ năm 2019, là mức tăng thấp nhất
so cùng kỳ trong giai đoạn 2011-2020. Trong mức tăng chung của toàn
nền kinh tế, nông lâm nghiệp và thủy sản tăng 1,84%, đóng góp 13,62%
vào mức tăng trưởng chung; công nghiệp và xây dựng tăng 3,08%,
đóng góp 58,35%; khu vực dịch vụ tăng 1,37%, đóng góp 28,03%. Mặc
dù gặp nhiều khó khăn do dịch Covid-19, làm đứt gãy thương mại toàn
cầu, nhưng cán cân thương mại tháng 9 tiếp tục thặng dư 3,5 tỷ USD,
đưa giá trị xuất siêu 9 tháng đạt gần 17 tỷ USD, tăng gần gấp đôi so
cùng kỳ năm 2019. Kinh tế trong nước đã trở thành động lực tăng
trưởng xuất khẩu với kim ngạch hàng hóa xuất khẩu 9 tháng tăng 20,2%
và chiếm 35,4% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Hoạt động
thương mại, vận tải trong nước cũng có dấu hiệu tăng trở lại ngay khi
đợt bùng phát thứ hai được khống chế (tháng 7/2020).
Những tác động của COVID-19 đối với nền kinh tế, đặc biệt là về du
lịch, thương mại và FDI cũng như về sản xuất vì các chuỗi cung ứng là
rất lớn. Ngành du lịch tại Việt Nam dự kiến sẽ giảm 2,7 tỷ đô la cho mỗi
tháng của cuộc khủng hoảng.
Các doanh nghiệp, nhà hàng, xí nghiệp, công ty buộc phải đóng cửa
do dịch bệnh, điều này dẫn đến người lao động không có việc làm, gia
tăng tình trạng thất nghiệp xã hội và chênh lệch giữa người giàu, người nghèo. 16 lOMoAR cPSD| 44879730
Covid-19 cũng mang lại các chi phí lớn về phòng ngừa và điều trị
trong ngành y tế. Việc thực hiện các biện pháp liên quan đến sức khỏe
cần thiết về cách ly xã hội cũng mang lại một chi phí rất lớn cho nền
kinh tế.Chi phí này liên quan đến việc giảm tốc các hoạt động kinh tế
(chứ không phải là tăng tốc như các biện pháp kinh tế thường làm trong
thời kỳ suy thoái). Chi phí giảm tốc bao gồm đóng cửa các trường học
và doanh nghiệp, ngừng hoạt động đi lại, vận chuyển, dịch vụ của chính
phủ và quan trọng là chi phí của những người lao động thất nghiệp . KẾT LUẬN
Tóm lại, Nhà nước có vai trò to lớn trong việc bảo đảm sự ổn định vĩ
mô cho phát triển và tăng trưởng kinh tế, thể hiện sự cân đối, hài hòa
các quan hệ nhu cầu, lợi ích giữa người và người, tạo ra sự đồng thuận
xã hội trong hành động vì mục tiêu phát triển của đất nước. Tính đúng
đắn, hợp lý và kịp thời của việc hoạch định và năng lực tổ chức thực
hiện các chính sách phát triển vĩ mô do Nhà nước đảm nhiệm là điều
kiện tiên quyết để hình thành sự đồng thuận đó. Việc tăng cường quản
lý vĩ mô sẽ nâng cao hiệu quả tác động của Nhà nước tới sự phát triển
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta trong thời
kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế .
Tài liệu tham khảo
1) Bài giảng text-elearning đại học kinh tế quốc dân
2) https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/kinh-te/-
/2018/819611/tac-dong-cua-dai-dich-covid-19%C2%A0va-mot-so
giai-phap-chinh-sach-cho-viet-nam-trong-giai-doan-toi.aspx
3) https://thongtinphapluatdansu.edu.vn/2009/05/01/2794/ 17 lOMoAR cPSD| 44879730
4) https://laodong.vn/thoi-su/chong-dich-covid-19-phai-dat-trong-tong
the-nhiem-vu-phat-trien-kinh-te-xa-hoi-an-ninh-quoc-phong-va-doi ngoai-800766.ldo
Xin chân thành cảm ơn ! 18 lOMoAR cPSD| 44879730 19