lOMoARcPSD| 59773091
1
TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 7 CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
––––––––––––––– –––––––––––––––––––––––––––––––
Bản án số:...../2018/HS-ST
Ngày 12/01/2019
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM TÒA
ÁN NHÂN DÂN QUẬN 7 – THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Bà Vũ Hoàng Hải My
Các Hội thẩm nhân dân:
1. Bà Nguyễn Bảo Ngọc - Hội thẩm nhân dân hoạt động trong công tác giáo dục.
2. Ông Kiến Quân - hội thẩm nhân dân chuyên môn trong công tác Đoàn thanh
niên
- Thư ký phiên tòa: Bà Kiều Thị Phượng - Thư ký Tòa án nhân dân Quận 7, thành
phố Hồ Chí Minh
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận 7 tham gia phiên tòa: Bà Nguyễn Kiều
Nhung, bà Đỗ Gia Ly Kiểm sát viên.
Ngày 12 tháng 1 năm 2019 tại Trụ sở Tòa án nhân dân Quận 7 xét xử sơ thẩm công
khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 99/2018/TLST-HS ngày 22 tháng 8 năm 2018 theo
Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 99/2018/QĐXXST-HS ngày 29 tháng 8 m 2018 đối
với các bị cáo:
1. L Minh, sinh năm 1975 tại Cần Thơ; Nơi cư trú: Số 211D/7 Bến Ba Đinh, phường
8, quận 8, thành phố HChí Minh; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Không; Dân tộc: Kinh;
Nghề nghiệp: không; Trình độ văn hoá: 9/12; Con ông Hy Cầu và con Nguyễn Thị
Hồng Lý; Tiền án, tiền sự: không.
Bị cáo bị bắt, tạm giữ, tạm giam từ ngày 17/3/2018, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam
Chí Hoà, Công an thành phố Hồ Chí Minh.
2. Đ Vn Tng, sinh năm 1998 tại thành phố Hồ Chí Minh; Nơi cư trú: Số 92/2 khu
phố 3, phường Tân Thuận Đông, quận 7, thành phố HChí Minh; Quốc tịch: Việt Nam;
tôn giáo: Không; Dân tộc: Kinh; Nghề nghiệp: Không; Trình độ văn hoá: 10/12;
Con ông Lê Quang Thái và con bà Trương Thị Kim Sa; Tiền án, tiền sự: có 01 tiền án
Bị cáo bị bắt, tạm giữ, tạm giam từ ngày 16/3/2018, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam
Chí Hoà, Công an thành phố Hồ Chí Minh.
lOMoARcPSD| 59773091
2
3. Trn Hng Đc, sinh năm 1980 tại Thành phố Hồ Chí Minh; Nơi cư trú: Số 266/9
Tôn Đản, phường 4, quận 4, thành phố Hồ Chí Minh; Quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo:
Không; dân tộc: Kinh; Nghề nghiệp: Không; Trình độ văn hoá: 8/12; Con ông Nguyễn
Hữu Hạnh và con bà Tống Thị Nhung; Tiền án, tiền sự: có 02 tiền án.
Nhân thân:
- Ngày 25/4/2012 bị Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 03 năm tù về
tội “Tổ chức đánh bạc” theo Bản án số 534/2012/HSST ngày 21/8/2012, Trần Hồng Đức
kháng cáo xin giảm án. Ngày 21/8/2012 Tòa án nhân dân cấp cao tại TP Hồ Chí Minh giữ
nguyên bản án sơ thẩm, xử phạt Trần Hồng Đức 03 năm tù về tội “Tổ chức đánh bạc” theo
Bản án 1168/2012/HSPT ngày 21/10/2012;
- Ngày 18/7/2012 Tòa án nhân dân Quận 4 xử phạt 02 năm tù về tội “Đánh bạc” theo
Bản án số 43/HSST ngày 18/7/2012.
Bị cáo bị bắt, tạm giữ, tạm giam từ ngày 16/3/2018, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam
Chí Hoà, Công an thành phố Hồ Chí Minh.
4. Nguyn Th Hng, sinh năm 2001 tại Khánh Hoà; Nơi trú: thôn Tân Mỹ, Ninh
Xuân, huyn Ninh Hoà, tỉnh Khánh Hoà; Quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo:
không; Nghề nghiệp: không; trình độ văn hoá: 9/12; Con ông Nguyễn Tâm và con bà Trần
Thị Tuyết Mai; tiền án, tiền sự không.
Hiện bị cáo đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú. Các
bị cáo đều có mặt tại phiên tòa.
Người giám hộ của Bị cáo Nguyễn Thị Hồng: bà Phạm Thị Tuyết Mai (vắng mặt)
Người bào chữa cho các bị cáo:
+ Luật bào chữa theo yêu cầu của bị cáo Minh bị cáo ng: Luật Nguyễn Minh
Quyền – Văn phòng Luật sư Minh Quyền – Đoàn luật sư thành phố Hà Nội.
+ Luật sư bào chữa cho bị cáo Nguyễn Thị Hồng theo quyết định cử của Trung Tâm trợ
giúp pháp lý nhà nước Tp. Hồ Chí Minh: Luật Sư Nguyễn Qunh Ngân Văn phòng Luật
sư Qunh Ngân – Đoàn luật sư thành phố Hồ Chí Minh.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Ông Võ Quốc Cường; sinh ngày 04/03/1985; HKTT: 450/110 Đoàn Văn Bơ, P14.
Quận 4, Tp Hồ Chí Minh; nơi hiện nay: tổ 15A, KP2, P Tân Phú, Quận 7, Tp Hồ Chí
Minh.
2. Trương Thị Kim Sa; sinh năm 1959; HKTT chỗ ở: 92/2 KP 3, P Tân Thuận
Đông, quận 7, Tp Hồ Chí Minh.
lOMoARcPSD| 59773091
3
Người làm chứng:
1. Ông Nguyễn Văn Hoa; tên gọi khác: Nhún; sinh ngày 19/05/1956; HKTT: 245 A/22,
phường 8, quận 8, Tp Hồ Chí Minh.
2. Ông Hunh Văn Chính; tên gọi khác: Ty; sinh ngày: 03/05/1984; HKTT chở:
ấp 2, thị trấn Cần Giuộc, tỉnh Long An.
3. Ông Phạm Quốc Hiệp; sinh ngày: 23/11/1988; HKTT chỗ ở: C84 Xóm Chiếu,
phường 14, quận 4, Tp Hồ Chí Minh.
4. Ông Nguyễn Văn Lành; tên gọi khác: Năm; sinh năm 1967; HKTT: 946 W6 Đoàn
Văn Bơ, phường 10, quận 4, Tp Hồ Chí Minh; Chỗ ở hiện nay: 95 Lê Văn Lương, KP1, P.
Tân Kiểng, Quận 7, Tp Hồ Chí Minh.
5. Ông Phan Ngọc Thành; sinh ngày: 21/06/1980; HKTT chỗ hiện nay: 280/36
Nguyễn Tất Thành, phường 13, quận 4, Tp Hồ Chí Minh.
6. Bà Võ Quý Hiếu; sinh ngày 30/04/1987; HKTT và nơi ở hiện nay: 160 Nguyễn Chế
Nghĩa, phường 12, quận 8, Tp Hồ Chí Minh
7. Nguyễn Thị Diễm, sinh năm 1989; HKTT: ấp Xa Mau, thị trấn Phú Lộc, huyện
Thanh Trị, Sóc Trăng; chỗ hiện nay: 24/38 Nguyễn Văn Cừ, phường Cầu Kho, quận 1, Tp
Hồ Chí Minh.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được
tóm tắt như sau:
Vào khoảng 01 giờ ngày 16/03/2018, đội Cảnh sát điều tra tội phạm ma tuý Công
an Quận 7 kết hợp với Công an phường Bình Thuận, Quận 7 kiểm tra phòng số 101 khách
sạn Khánh Ngọc (địa chỉ số 30A, đường số 1, phường Bình Thuận, quận 7) phát hiện các
đối tượng Đỗ Văn Tùng, Phạm Ngọc Thành, Quý Hiếu, Nguyễn Thị Diễm đang sử
dụng trái phép chất ma tuý tổng hợp. Vật chứng thu giữ gồm: 20 gói ma túy tổng hợp tên
gọi Methmphetamine (MA), trọng lượng: 4,0852 gram, một máy điện thoại hiệu NOKIA;
số tiền 3.500.000 đồng và một số dụng cụ để sử dụng ma túy tổng hợp.
Qua lời khai của Tùng, số ma y tổng hợp trên Đỗ Văn Tùng mua của Lê Minh vào
các ngày 12/3/2018 ngày 15/3/2018. Mỗi lần Tùng mua ½ hộp 5 về phân ra từng gói
nhỏ giá từ 200.000 đồng đến 300.000 đồng để bán lẻ cho các đối tượng nghiện. Cùng
thời điểm, đội Cảnh sát điều tra phát hiện Lê Minh đang thuê phòng 303 khách sạn Khánh
Ngọc cùng địa chỉ đã mời Minh về trụ sở làm mở rộng điều tra. Đến khoảng 16
giờ 45 ngày 16/03/2018, tại ngã ba đường Phan Huy Thực đường Văn Lương phường
Tân Kiểng, quận 7, đội ma y phát hiện Trần Hồng Đức đang được Võ Quốc Cường dùng
lOMoARcPSD| 59773091
4
xe NOUVO, biển số 54Z4- 2723 chở Đức mang ma túy đi bán cho đối tượng nghiện
(Cường không biết Đức đi bán ma túy). Sauk hi mời Đức Cường về trụ sở Công an
phương làm việc, đội công tác thu giữ của Đức 01 gói ma túy tổng hợp (MA), trọng lượng
0,0852gram; 01 điện thoại di động; số tiền 300.000 đồng và 1 xe gắn máy NOUVO mang
biển số 54Z4- 2723.
Tại trụ sở công an phường Tân Kiểng, quận 7, trong lúc lập hồ sơ bắt quả tang Trần Hồng
Đức thì có các đối tượng nghiện gọi điện cho Đức để mua ma túy nên bị đội công tác mời
về làm việc bao gồm Phạm Văn Chính (còn gọi Ty) (sinh năm: 1984; HKTT: ấp 2, thị
trấn Cần Giuộc, Long An); Phạm Quốc Hiệp (sinh năm 1988, HKTT: C84 xóm Chiếu,
phường 14, quận 4).
Mở rộng điều tra đến khoảng 00 giờ 30 ngày 17/03/2018 trước khách sạn Lan Anh
(địa chỉ A77 khu dân cư Kim Sơn, phường Tân Phong, Quận 7), Đội ma túy Công an quận
7 đã phát hiện Nguyễn Thị Hồng đi xe ôm của Nguyễn Văn Hoa (sinh năm 1956 HKTT:
245A/22 đến Ba Đình, phường 8, quận 8) mang ma y đi bán. Đội công tác thu giữ của
Hồng 01 gói ma túy tổng hợp tên gọi Methamphetaminne, trọng ợng 2,3947 gram, 02
điện thoại di động và 600.000 đồng. Nguyễn Thị Hồng được đưa về trụ sở Công an Quận
7 để điều tra làm rõ.
Vật chng của vụ án và vật đang b tạm giữ:
Tạm giữ của Đ Vn Tng:
- 20 gói nylon chứa tinh thể không màu (Qua giám định tại phòng PC 54
Công an TP. Hồ Chí Minh là ma túy tổng hợp, chứa thành phần MA, cân nặng:
4,0852 gram).
- 01 máy điện thoại di động hiệu NOKIA X1 01, số Imel
358603/04/00/08277/ 9 đã qua sử dụng, phương tiện trong việc liên lạc dùng
để buôn bán ma túy.
- Số tiền 3.500.000 đồng (ba triệu năm trăm nghìn đồng) và một số dụng
cụ dùng để sử dụng ma túy.
- 01 xe gắn máy biển số 5426 0098, số y 1512399, số khung:
5055490 do chị Phạn Thị Hoa (ngụ tại: 92/2 khu phố 3, phường Tân Thuận Đông,
quận 7) đứng tên đăng ký. Chị Hoa khai nhận đã bán chiếc xe trên cho Trương
Thị Kim Sa (mẹ bị can Đỗ Văn Tùng) nhưng chưa làm thủ tục sang tên đổi chủ.
Lời khai của bà Trương Thị Kim Sa cũng phù hợp với lời khai của chị Phạm Thị
Hoa. Trong thời gian nói trên đưa chiếc xe nói trên cho con bị can Đỗ
Văn Tùng dùng làm phương tiện chạy xe ôm, còn Tùng dùng chiếc xe y làm
phương tiện buôn bán ma túy mà bà Sa không biết.
Tạm giữ của Trn Hng Đc:
lOMoARcPSD| 59773091
5
- 01 gói nylon chứa tinh thể không màu (Qua giám định tại phòng PC 54
- Công an TP. Hồ Chí Minh là ma túy tổng hợp, chứa thành phần MA, cân nặng:
4,0852 gram).
- 01 máy điện thoại di động Mobel M520I màu đen trắng, số Imel:
357443043675785 đã qua sử dụng, phương tiện trong việc liên lạc dùng để
buôn bán ma túy.
- Số tiền 300.000 đồng.
- 01 xe gắn máy biển số 5424 – 2723 do anh Nguyễn Đỗ Tuấn Kiệt (sinh
năm
1988 , ngụ tại 570/59/5 Đoàn Văn Bơ, phường 16, quận 4; Chỗ ở: 502/45/11 Huỳnh Tấn
Phát, phường Bình Thuận, quận 7) đứng tên đăng ký xe. Anh Nguyễn Đỗ Tuấn Kiệt khai
nhận, anh đã n chiếc xe trên cho người bạn Võ Quốc Cường, sinh năm 1985, ngụ tại
450/110 Đoàn Văn Bơ, phường 14, quận 4, nhưng chưa làm thủ tục sang tên đổi chcũng
như giấy tờ mua bán.
Thu giữ của Nguyn Th Hng:
- 01 gói nylon chứa tỉnh thể không màu (Qua giám định tại phòng PC 54
- Công an TP. Hồ Chí Minh là ma túy tổng hợp, chứa thành phần MA, cân nặng:
2,3947 gram).
- 01 y điện thoại di động, phương tiện trong việc liên lạc dùng đ
buôn bán ma túy.
- 600.000 đồng tiền thu lợi bất chính trong việc buôn bán trái phép
chất ma tuý.
Tạm giữ của L Minh:
- 01 điện thoại di động hiệu Nokia 2730 màu trắng đen, số Imel
:354076046949200 đã qua sử dụng.
Tại bản kết luận giám đnh số 475/KLGĐ ngày 4/4/2018 của Phòng kỹ thuật
hình sự Công an Quận 7 xác đnh:
- Gói 01: tinh thể không màu trong một gói nilon thu giữ của Trần Hồng
Đức là Methamphetamine (MA) có trọng lượng 0,0852g
- Gói 2: tinh thể không màu trong một gói nilon thu giữ của Nguyễn Thị
Hồng là Methamphetamine (MA) có trọng lượng 2, 3947g.
Tại bản kết luận giám đnh số 473/KLGĐ ngày 4/4/2018 của Phòng kỹ thuật
hình sự Công an Quận 7 xác đnh:
- 01 Gói nilon chứa tinh thể không màu Methamphetamine (MA)
trọng lượng 4 ,0852g.
lOMoARcPSD| 59773091
6
Tại Bản cáo trạng số …./CT-VKS ngày 22/8/2018 của Viện kiểm sát nhân dân
Quận 7 truy tố các bị cáo minh, Đỗ Văn Tùng, Trần Hồng Đức và Nguyễn Thị Hồng
về tội “Mua bán trái phép chất ma y” quy định tại điểm b, khoản 2 điều 251 Bộ luật
Hình sự.
Tại phiên tòa:
- Minh Luật của bị cáo Minh không đồng tình với tội danh
mà VKS đã trình bày, và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét lại tội danh của bị cáo
Minh tội “Tàng trữ trái phép chất ma ytheo Điều 249 Bộ luật hình sự,
xem xét giảm nhẹ mức hình phạt để các bị cáo sớm về đoàn tụ với gia đình và đề
nghị không áp dụng hình phạt bổ sung vì hoàn cảnh kinh tế khó khăn.
- Các bị cáo Trần Hồng Đức và Đỗ Văn Tùng đồng tình với tội danh mà
VKS đã trình bày, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ mức hình phạt
để các bị cáo sớm về đoàn tụ với gia đình và đề nghị không áp dụng hình phạt bổ
sung vì hoàn cảnh kinh tế khó khăn.
- Luật sư bào chữa cho bị cáo Nguyễn Thị Hồng trình bày sự thông cảm
với bị cáo Hồng tuổi đời non trẻ đã vướng vào đường dây mua bán trái phép chất
ma tuý, và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét hoàn cảnh đáng thương và khó khăn
của gia đình: cha mẹ ly dị, bị o sống xa gia đình, không nơi trú ổn định tại
thành phố Hồ Chí Minh, không nhận được sự giúp đỡ tài chính của gia đình và xã
hội. Trước sự cám dỗ của đồng tiền nghe theo lời xúi giục của đối tượng Dũng,
bị cáo Hồng đã trở thành tay sai để đi giao ma tuý, rồi trở thành đối tượng mua
bán trái phép chất ma tuý làm nguồn sống cho mình khi chưa đủ 18 tuổi. Ngoài
ra, trong tình hình bị cáo Hồng vừa sinh con nuôi con nhỏ dưới 01 tuổi, Luật
sư đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng các tình tiết giảm nhẹ quy định ở các điểm n,
s khoản 1, khoản 2 Điều 51 ; và căn cứ khoản 2 và Điều 54 Bộ luật Hình sự năm
2015 để tuyên một mức hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được
áp dụng; đồng thời đề nghị HĐXX không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị
cáo Hồng.
Người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Quốc Cường, ông Nguyễn n
Hoa Thị Dung tại phiên toà đều lời khai thống nhất với lời khai trong quá
trình điều tra và nội dung bản Cáo trạng.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận 7, Thành phố Hồ CMinh giữ nguyên
quan điểm truy tố đối với các bị cáo như hai bản Cáo trạng phạm tội “Mua bán trái phép
chất ma tuý” và đề nghị Hội đồng xét xử:
- Về hình phạt :
- Áp dụng khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51 điểm h khoản 1
Điều
52; 50; 38 Bộ luật Hình sự xử phạt: Trn Hng Đc từ 10 năm 6 tháng đến 11 năm 6 tháng
năm tù.
lOMoARcPSD| 59773091
7
- Áp dụng khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51; 50; 58; 38 Bộ luật
Hình sự xử phạt: Đ Vn Tng từ 9 năm 6 tháng đến 10 năm tù.
- Áp dụng khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1,2 Điều 51; 50; 58; 38 B
luật Hình sự xử phạt L Minh từ 7 năm 6 tháng đến 8 năm 6 tháng tù về tội “Mua
bán trái phép chất ma tuý”.
- Áp dụng khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1,2 Điều 51; 50; 58; 38; 101
Bộ luật hình sự xử phạt: Nguyn Th Hng từ 5 năm 6 tháng đến 6 năm tù.
* Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng đối với bị cáo,
- Tịch thu tiêu huỷ: 22 gói nilon đều chứa tinh thể không màu các
dụng cụ cho việc sử dụng chất ma tuý.
- Tịch thu sung quỹ Nhà nước: Số tiền 4.400.000 đồng (trong đó
3.600.000 đồng của Đỗ Văn Tùng; 300.000 đồng của Trần Hồng Đức; 600.000
đồng của Nguyễn Thị Hồng);
- 01 y điện thoại di động của Trần Hồng Đức; 01 máy điện thoại di
động NOKIA của Đỗ Văn Tùng; 01 y điện thoại di động của Nguyễn Thị Hồng;
01 điện thoại NOKIA của Minh, đây phương tiện trong việc liên lạc dùng
để mua bán ma túy cần tiến hành tịch thu phát mại sung công.
- Trả lại: 01 xe gắn máy biến số 54Z6 - 0098, số máy 1512399, số khung
5055490 đứng tên đăng ký Phạm Thị Hoa cho bà Trương Thị Kim Sa; 01 xe gắn
máy biển số 54Z4 2723 đăng xe tên Nguyễn Đỗ Tuấn Kiệt cho Nguyễn Quốc
Cường.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Trên sở nội dung ván, căn cứ vào các tài liệu trong hồ vụ án đã được tranh
tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, Quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an Quận 7, Điều
tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Quận 7, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã
thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá
trình điều tra và tại phiên tòa, các Bị cáo Đỗ Văn Tùng, Trần Hồng Đức, Nguyễn Thị Hồng
không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định củaquan tiến hành tố tụng, người
tiến hành tố tụng. Riêng Bị cáo Lê Minh có lời khai bị bức cung, dùng nhục hình trong quá
trình lấy lời khai. Tuy nhiên, Bị cáo không đưa ra được tài liệu, chứng cứ chứng minh về
việc mình bị bức cung, dùng nhục hình, Bị cáo cũng không nói được Bị cáo bị ai bức
cung. Mặt khác, việc lấy lời khai, cho Bị cáo tiến hành đối chất đều được thực hiện đúng
quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan
tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng theo quy định của pháp luật.
[2] Lời khai nhận tội của các bị o tại phiên tòa phù hợp với lời khai tại Cơ quan
điều tra, phù hợp với lời khai của người m chứng, phù hợp với biên bản bắt người phạm
tội quả tang, biên bản tạm giữ đồ vật tài liệu, phù hợp với bản Kết luận giám định số 475
/KLGĐ ngày 4/4/2018, bản kết luận giám định số 473/KLGĐ ngày 4/4/2018 của Phòng kỹ
lOMoARcPSD| 59773091
8
thuật hình sự Công an Quận 7 và các biên bản, tài liệu khác mà Cơ quan điều tra đã thu thập
được có trong hồ sơ.
[3] Những chứng cứ trên đây đủ sở xác định: Vào các ngày 12/3/2018 15
/3/2018, Lê Minh có hành vi bán ma túy cho Đỗ Văn Tùng 02 lần, mỗi lần ½ hộp 5, cả hai
lần Minh đều đưa cho Tùng tại khách sạn Khánh Ngọc vào ban đêm. Tùng mua ma túy của
Minh về chia nhỏ ra bán cho các đối tượng nghiện. Vào 01h ngày 16/3/2018, Đỗ Văn Tùng
cùng các bạn là Phạm Ngọc Thành, Võ Quí Hiếu, Nguyễn Thị Diễm đang sử dụng trái phép
chất ma y tổng hợp tbị Công an Quận 7 bắt quả tang. Ngoài việc bán ma y cho Đỗ
Văn Tùng, Minh n bán ma y tổng cộng 03 lần cho Trần Hồng Đức, cụ thể: Lần 1:
Ngày 02/3/2018, Minh bán cho Trần Hồng Đức ½ hộp 5 ma túy tổng hợp giá 3.500.000
đồng, Trần Hồng Đức trả trước 1.000.000 đồng và thiếu 2.500.000 đồng. Lần 2:
Ngày 10/3/2018, Minh bán cho Trần Hồng Đức 01 hộp 10 ma y tổng hợp, giá 2.200.000
đồng (Đức khai mua hộ người bạn tên Tuấn – không rõ nhân thân, lai lịch), Tùng người
lấy tiền bán ma túy đem về cho Minh. Lần 3: Ngày 12/3/2018, Lê Minh bán cho Trần Hồng
Đức ½ hộp 5 ma y tổng hợp giá 3.500.000 đồng. Ngoài ra, Trần Hồng Đức còn mua ma
túy của Dũng (không xác định được nhân thân, lai lịch) được 02 lần. Lần 01 cách ngày Đức
bị bắt khoảng 01 tháng lần 02 ngày 17/03/2018. Mỗi lần Trần Hồng Đức mua của Dũng
thì Dũng không trực tiếp mang đi bán, Dũng nhờ Nguyễn Thị Hồng đem đi bán cho
Dũng. Trong thời gian thực hiện hành vi mua bán trái phép chất ma túy, tổng số tiền Trần
Hồng Đức thu lợi bất chính là 6.000.000 đồng, số tiền này Đức đã ăn xài và mua ma túy sử
dụng hết.
Đối với Nguyễn Thị Hồng, Hồng đã có hành vi bán ma túy của đối tượng Dũng cho
Trần Hồng Đức 02 lần. Ngoài việc bán cho Trần Hồng Đức, Hồng còn 02 lần bán ma túy
cho đối tượng khác (không nhân thân, lai lịch) trên địa bàn Quận 7. Việc Nguyễn Thị
Hồng bán ma y cho Dũng, Hồng được Dũng cho tiền 02 lần, tổng cộng 3.000.000 đồng.
Số tiền này Hồng đã tiêu xài cá nhân và mua ma túy sử dụng hết.
Hành vi của các Bị cáo Lê Minh, Trần Hồng Đức, Đỗ Văn Tùng, Nguyễn Thị Hồng
đã phạm vào tội “Mua bán trái phép chất ma túy” quy định tại điểm b, khoản 2 điều 251 Bộ
luật Hình sự:
“Điều 251. Tội mua bán trái phép chất ma túy
2 . Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến
15 năm :
…b) Phạm tội 02 lần trở lên;…”
[4] Hành vi phạm tội của các bị cáo gây nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm
đến quyền kiểm soát các chất ma y của Nhà nước, gây mất trật tự trị an cho xã hội. Các bị
cáo đều đủ năng lực nhận thức được hành vi của mình vi phạm pháp luật nhưng vẫn
phạm tội do vậy cần phải xử lý nghiêm, cách ly các bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời
gian mới có tính giáo dục để cải tạo các bị cáo trở thành người tốt cho xã hội, tuy nhiên xét
tại phiên tòa các bị cáo Đỗ Văn Tùng, Trần Hồng Đức, Nguyễn Thị Hồng thành khẩn khai
lOMoARcPSD| 59773091
9
báo, ăn năn hối cải nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật
Hình sự. Bị cáo Hồng thực hiện hành vi phạm tội khi chưa thành niên nên được áp dụng
Điều 101 BLHS cho Bị cáo được hưởng mức phạt bằng ¾ mức phạt điều luật quy định. Đối
với Bị cáo Minh, Bị cáo Minh các lời khai trước sau mâu thuẫn, do vậy, Bị cáo
Minh không được hưởng tình tiết giảm nhẹ tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật
Hình sự. Đối với Bị cáo Đức, bị cáo người nhân thân xấu, đã 02 tiền án về tội “Đánh
bạc” và tội “Tổ chức đánh bạc” hiện nay chưa được xóa án tích, do vậy, Hành vi của bị cáo
thoả mãn tình tiết tăng nặng tái phạm theo quy định tại điểm h Khoản 1 Điều 52 BLHS 2015.
Xét về vai trò của các Bị cáo, Bị cáo Lê Minh là người cầm đầu đường dây mua bán
ma y. đối tượng nghiện ma y, không nghề nghiệp ổn định. Minh đã mua ma
túy của người khác để bán lại ma y cho Đỗ Văn Tùng 02 lần vào các ngày 12/3/2018
15 /3/2018 tại khách sạn Khánh Ngọc và bán ma y tổng cộng 03 lần cho Trần Hồng Đức
nhằm thu lợi bất chính.
Vai trò của bị cáo Tùng trong vụ án: Bị cáo Tùng là đối tượng nghiện chất ma y
không nghề nghiệp ổn định. Do không tiền để sử dụng trái phép chất ma y nên Đỗ
Văn Tùng đã 2 lần mua ma y của Minh về phân ra thành từng gói nhỏ bán cho đối
tượng nghiện. Ngoài việc mua ma túy của Lê Minh mang về bán thì Tùng còn đi lấy tiền do
Minh bán ma túy cho Trần Hồng Đức để thu lợi bất chính.
Vai trò của Bị cáo Đức trong vụ án: Do quen biết Minh, Trần Hồng Đức là đối tượng
nghiện chất ma y và đã 02 tiền án về tội “đánh bạc”. Sau khi ra tù, Đức không lo làm
ăn lương thiện mà thực hiện hành vi mua ma túy của Minh bán đi kiếm lời. Trong thời gian
từ 16/2/2018 đến 16/3/2018, Đức nhiều lần mua ma y từ Minh Nguyễn Thị Hồng
phân nhỏ ra bán cho các đối tượng nghiện.
Vai trò của Bị cáo Hồng trong vụ án: Bị cáo Hồng đối tượng nghiện chất ma túy,
không có nghề nghiệp ổn định. Từ 16/2/2018 đến 16/3/2018, Nguyễn Thị Hồng nhiều lần
lấy ma túy của Dũng đem bán cho Trần Hồng Đức thu lợi bất chính.
Về nguồn gốc ma túy, quá trình điều tra các Bị cáo khai lấy ma túy từ các đối tượng
Dũng, Minh đê, Thúng. Các đối tượng y hiện quan Công an chưa xác định nhân
thân, lai lịch, địa chỉ nên Cơ quan điều tra chưa có điều kiện xác minh làm rõ để xử lý.
Đối với Nguyễn Văn Lành, Quốc Cường, Phạm Quốc Hiệp, Huỳnh Văn Chính,
Võ Quý Hiếu, Nguyễn Thị Diễm và Phạm Ngọc Thành có hành vi mua ma túy về sử dụng.
Hành vi của các đối tượng này đã bị Công an Quận 7 xử lý hành chính theo quy định.
[5] Về hình phạt bổ sung: Ngoài ra, Hội đồng xét xử quyết định phạt tiền bổ sung
đối với các bị cáo Lê Minh, Trần Hồng Đức, Đỗ Văn Tùng số tiền là 20.000.000 (hai mươi
triệu) đồng theo quy định tại khoản 5 Điều 251 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung
năm 2017. Xét thấy bị cáo Nguyễn Thị Hồng hoàn cảnh khó khăn nên Hội đồng xét xử
miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật
Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017
lOMoARcPSD| 59773091
10
[6] Về xử vật chứng của vụ án: Căn cứ điều 47 Bộ luật Hình sự, Điều 106
BLTTHS:
- Tch thu tiu hủy:
01 gói được niêm phong bên ngoài chữ ghi tên Đỗ Văn Tùng hình dấu
Công an phường Tân Kiểng, Quận 7, bên trong ghi 01 gói nilon chứa tinh thể không
màu, trọng lượng 4,0852g, Methaphetamine (sau khi giám định còn lại 3,9643g được
niêm phong chữ giám định viên và cán bộ điều tra); một số dụng cụ để sử dụng ma
túy.
01 gói được niêm phong bên ngoài có chữ ký ghi tên Trần Hồng Đức hình dấu
Công an phường Tân Kiểng, Quận 7, bên trong ghi 01 gói nilon chứa tinh thể không
màu, trọng lượng 0,0852g, Methaphetamine (sau khi giám định còn lại 0,0500g được
niêm phong có chữ ký giám định viên và cán bộ điều tra).
01 gói được niêm phong bên ngoài có chữ ký ghi tên Nguyễn Thị Hồng và hình dấu
Công an phường Tân Kiểng, Quận 7, bên trong ghi 01 gói nilon chứa tinh thể không
màu, trọng lượng 2,3947g, Methaphetamine (sau khi giám định còn lại 2,1820g được
niêm phong có chữ ký giám định viên và cán bộ điều tra).
- Tịch thu sung nộp vào ngân sách nhà nước:
01 máy điện thoại di động hiệu Nokia model X1 màu đen, số điện thoại
01269918567 được sử dụng để liên lạc để buôn bán ma túy.
01 y điện thoại di động hiệu Nokia model X1 màu đen, có 2 sim với số điện thoại
0935252261 và 0918623677 là phương tiện trong việc liên lạc dùng để mua bán trái phép
chất ma túy.
01 y điện thoại di động hiệu Mobell màu đen, số điện thoại 0903536313
phương tiện trong việc liên lạc dùng để mua bán trái phép chất ma túy; 300.000 đồng tiền
mặt là số tiền bị cáo Trần Hồng Đức có được do bán ma túy cho Nguyễn Văn Lành;
01 điện thoại di động hiệu Sáung màu tím đen, sim card với số điện thoại
01664456039, 01 điện thoại di động hiệu Nokia màu đen cùng sim card với số điện thoại
là 0903027803 là phương tiện trong việc liên lạc dùng để mua bán trái phép chất ma túy.
- Trả lại:
Trả lại cho bị cáo ĐVăn Tùng số tiền 3.500.000 đồng số tiền do cầm xe có,
không liên quan đến hành vi phạm tội
Đối với chiếc xe gắn máy tạm giữ của Đỗ Văn Tùng, hiệu Wave S màu đỏ, biển số
54 Z4-0098, số máy 1512399, số khung 5055490 do chị Phạm Thị Hoa đứng tên đăng ký,
đã bán cho Trương Thị Kim Sa (mẹ của Đỗ Văn Tùng) nhưng chưa sang tên đổi chủ,
đưa Tùng để chạy xe ôm. Bà kim Sa không biết việc bị cáo Tùng dùng xe để mua bán ma
tuý; không phải vật chứng của vụ án nên cần hoàn trả lại cho Trương Thị Kim Sa
theo quy định.
lOMoARcPSD| 59773091
11
Đối với chiếc xe gắn máy hiệu NOUVO, tạm giữ của Trần Hồng Đức, biển số 54 Z4-
2723 do anh Nguyễn Đỗ Tuấn Kiệt đứng tên đăng xe, đã bán cho anh Quốc Cường
nhưng chưa làm thủ tục sang tên đổi chủ. Võ Quốc Cường được Trần Hồng Đức nhờ chở đi
công chuyện, không biết việc mua bán ma tuý của Trần Hồng Đức; không phải là vật chứng
của vụ án nên cần hoàn trả chiếc xe lại cho anh Võ Quốc Cường theo quy định.
[7] Án phí hình sự sơ thẩm: Mỗi bị cáo Trần Hồng Đức, Lê Minh, Đỗ Văn Tùng và
Nguyễn Thị Hồng phải nộp án phí hình sự sơ thẩm số tiền là 200.000 (hai trăm nghìn) đồng.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
1 . Tuyên bố các bị o Minh, Trần Hồng Đức, Đỗ Văn Tùng và Nguyễn Thị Hồng phạm
tội “Mua bán trái phép chất ma tuý”.
- Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 251; điểm a khoản 1 Điều 51; điểm b khoản 1 Điều 52
BLHS năm 2015 sửa đổi, bổ sung năn 2017,
Xử phạt: Lê Minh 08 (tám) năm 06 (sáu) tháng tù giam. Thời hạn tù tính từ ngày bị bắt, tạm
giam 17/3/2018. Tiếp tục giam bị cáo để bảo đảm thi hành án, thời hạn tạm giam là 45 ( bốn
mươi lăm) ngày kể từ ngày tuyên án.
- Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm b khoản 1 Điều 52
BLHS năm 2015 sửa đổi, bổ sung năn 2017,
Xử phạt: Trần Hồng Đức 10 (mười) năm 06 (sáu) tháng tù giam. Thời hạn tù tính từ ngày bị
bắt, tạm giam 16/3/2018. Tiếp tục giam bị cáo để bảo đảm thi hành án, thời hạn tạm giam là
45 (bốn mươi lăm) ngày kể từ ngày tuyên án.
- Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm a khoản 1 Điều 52
BLHS năm 2015 sửa đổi, bổ sung năn 2017,
Xử phạt: Đỗ Văn Tùng 09 (chín) năm 06 (sáu) tháng giam. Thời hạn tính từ ngày bị
bắt, tạm giam 16/3/2018. Tiếp tục giam bị cáo để bảo đảm thi hành án, thời hạn tạm giam
45 (bốn mươi lăm) ngày kể từ ngày tuyên án.
- Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 251; điểm n, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm b khoản
1
Điều 52; điểm b khoản 1 Điều 67; khoản 1 Điều 101 BLHS năm 2015 sửa đổi bổ sung năn
2017 ,
Xử phạt: Nguyễn Thị Hồng 05 (năm) năm 06 (sáu) tháng tù giam. Thời hạn tù tính từ ngày
bị bắt, tạm giam 17/3/2018, được hoãn chấp hành hình phạt cho đến khi con bị cáo đủ 36
tháng tuổi.
- Căn cứ khoản 5 Điều 251 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017:
lOMoARcPSD| 59773091
12
+ Phạt tiền bổ sung đối với bị cáo Minh, Trần Hồng Đức, ĐVăn Tùng số tiền
20.000.000 ( hai mươi triệu) đồng.
Kể từ khi bản án hiệu lực pháp luật, hàng tháng người phải thi hành án còn phải chịu
thêm lãi suất theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự tương ứng với
số tiền và thời gian chậm thi hành án.
2 . Về xử lý vật chứng :
- Áp dụng điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm c khoản1 Điều 47
Bộ luật hình sự năm 2015,
Tịch thutiêu huỷ toàn bộ 20 gói ma tuý tổng hợp thu của bị cáo Đỗ Văn Tùng, 01 gói
ma tuý tổng hợp thu của bị cáo Trần Hồng Đức 01 gói ma tuý thu của bị cáo Nguyễn
Thị Hồng là tang vật của vụ án.
- Áp dụng điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 47
Bộ luật Hình sự năm 2015,
Tịch thu nộp o ngân sách nhà nước 01 máy điện thoại hiệu NOKIA X1 tạm giữ của bị
cáo Đỗ Văn Tùng, 01 máy điện thoại tạm giữ của bị cáo Trần Hồng Đức, 02 máy điện
thoại tam thu của bị cáo Nguyễn Thị Hồng hiệu Samsung và Nokia, và 01 máy điện thoại
hiệu NOKIA tạm thu của bị cáo Lê Minh là phương tiện để liên lạc phục vụ việc phạm tội.
- Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm b khoản 1 Điều 47
Bộ luật Hình sự năm 2015,
Tịch thu nộp cho ngân sách nhà nước số tiền mặt 3.500.000 đồng tạm giữ của bị cáo Đỗ
Văn Tùng, 300.000 đồng tạm giữ của bị cáo Trần Hồng Đức, và 600.000 đồng tạm giữ của
bị cáo Nguyễn Thị Hồng nguồn thu bất chính do hành vi mua bán trái phép chất ma tuý.
- Áp dụng điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự; khoản 2 Điều 47 Bộ luật
Hình sự năm 2015,
Hoàn trả chiếc xe gắn y tạm giữ của Đỗ Văn Tùng, hiệu Wave S màu đỏ, biển số 54
Z4-0098 cho bà Trương Thị Kim Sa là mẹ của bị cáo Đỗ Văn Tùng (đã xử lý); và hoàn trả
chiếc xe gắn máy hiệu NOUVO, tạm giữ của Trần Hồng Đức, biển số 54Z4-2723 cho anh
Võ Quốc Cường (đã xử lý).
Các đồ vật khác gồm một số dụng cụ sử dụng ma tuý tạm giữ của bị cáo Đỗ Văn Tùng t
tịch thu tiêu hutheo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự;
điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015.
3. Về án phí: Căn cứ vào Điều 135; Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Nghị
quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của y ban Thường vụ Quốc hội quy
định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản sử dụng án phí lệ phí Tòa án bị cáo
phải nộp án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 (hai trăm nghìn đồng).
4. Về kháng cáo, kháng nghị :
Căn cứ vào Điều 331, Điều 333 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015: Bị cáo được quyền
kháng cáo trong hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án. Đối với đương sự vắng mặt
lOMoARcPSD| 59773091
13
tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được
niêm yết theo quy định của pháp luật. Viện Kiểm sát có quyền kháng nghị theo quy định.
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án
về phần liên quan đến quyền lợi nghĩa vụ của mình trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày
tuyên án. Trường hợp vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án về phần liên
quan đến quyền lợi nghĩa vụ của mình trong thời hạn 15 ngày ktừ ngày nhận được
tống đạt hợp lệ bản án.
Bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi
hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu
cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các
điều 6, 7 9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định
tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Nơi nhận: TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
- TAND + VKSND Quận 7 THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
- Sở Tư pháp Quận 7;
- Công an Quận 7;
- Chi cục THADS;
- UBND Quận 7;
- Bị cáo;
- Người bào chữa;
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan; - Lưu hồ sơ vụ án; - Lưu văn phòng.

Preview text:

lOMoAR cPSD| 59773091
TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 7 CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
–––––––––––––––
–––––––––––––––––––––––––––––––
Bản án số:...../2018/HS-ST Ngày 12/01/2019 NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM TÒA
ÁN NHÂN DÂN QUẬN 7 – THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Bà Vũ Hoàng Hải My
Các Hội thẩm nhân dân:
1. Bà Nguyễn Bảo Ngọc - Hội thẩm nhân dân hoạt động trong công tác giáo dục.
2. Ông Lê Kiến Quân - hội thẩm nhân dân có chuyên môn trong công tác Đoàn thanh niên -
Thư ký phiên tòa: Bà Kiều Thị Phượng - Thư ký Tòa án nhân dân Quận 7, thành phố Hồ Chí Minh -
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận 7 tham gia phiên tòa: Bà Nguyễn Kiều
Nhung, bà Đỗ Gia Ly – Kiểm sát viên.
Ngày 12 tháng 1 năm 2019 tại Trụ sở Tòa án nhân dân Quận 7 xét xử sơ thẩm công
khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 99/2018/TLST-HS ngày 22 tháng 8 năm 2018 theo
Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 99/2018/QĐXXST-HS ngày 29 tháng 8 năm 2018 đối với các bị cáo: 1.
Lê Minh, sinh năm 1975 tại Cần Thơ; Nơi cư trú: Số 211D/7 Bến Ba Đinh, phường
8, quận 8, thành phố Hồ Chí Minh; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Không; Dân tộc: Kinh;
Nghề nghiệp: không; Trình độ văn hoá: 9/12; Con ông Lê Hy Cầu và con bà Nguyễn Thị
Hồng Lý; Tiền án, tiền sự: không.
Bị cáo bị bắt, tạm giữ, tạm giam từ ngày 17/3/2018, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam
Chí Hoà, Công an thành phố Hồ Chí Minh. 2.
Đỗ Văn Tùng, sinh năm 1998 tại thành phố Hồ Chí Minh; Nơi cư trú: Số 92/2 khu
phố 3, phường Tân Thuận Đông, quận 7, thành phố Hồ Chí Minh; Quốc tịch: Việt Nam;
tôn giáo: Không; Dân tộc: Kinh; Nghề nghiệp: Không; Trình độ văn hoá: 10/12;
Con ông Lê Quang Thái và con bà Trương Thị Kim Sa; Tiền án, tiền sự: có 01 tiền án
Bị cáo bị bắt, tạm giữ, tạm giam từ ngày 16/3/2018, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam
Chí Hoà, Công an thành phố Hồ Chí Minh. 1 lOMoAR cPSD| 59773091 3.
Trần Hồng Đức, sinh năm 1980 tại Thành phố Hồ Chí Minh; Nơi cư trú: Số 266/9
Tôn Đản, phường 4, quận 4, thành phố Hồ Chí Minh; Quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo:
Không; dân tộc: Kinh; Nghề nghiệp: Không; Trình độ văn hoá: 8/12; Con ông Nguyễn
Hữu Hạnh và con bà Tống Thị Nhung; Tiền án, tiền sự: có 02 tiền án. Nhân thân: -
Ngày 25/4/2012 bị Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 03 năm tù về
tội “Tổ chức đánh bạc” theo Bản án số 534/2012/HSST ngày 21/8/2012, Trần Hồng Đức
kháng cáo xin giảm án. Ngày 21/8/2012 Tòa án nhân dân cấp cao tại TP Hồ Chí Minh giữ
nguyên bản án sơ thẩm, xử phạt Trần Hồng Đức 03 năm tù về tội “Tổ chức đánh bạc” theo
Bản án 1168/2012/HSPT ngày 21/10/2012; -
Ngày 18/7/2012 Tòa án nhân dân Quận 4 xử phạt 02 năm tù về tội “Đánh bạc” theo
Bản án số 43/HSST ngày 18/7/2012.
Bị cáo bị bắt, tạm giữ, tạm giam từ ngày 16/3/2018, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam
Chí Hoà, Công an thành phố Hồ Chí Minh.
4. Nguyễn Thị Hồng, sinh năm 2001 tại Khánh Hoà; Nơi cư trú: thôn Tân Mỹ, xã Ninh
Xuân, huyện Ninh Hoà, tỉnh Khánh Hoà; Quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo:
không; Nghề nghiệp: không; trình độ văn hoá: 9/12; Con ông Nguyễn Tâm và con bà Trần
Thị Tuyết Mai; tiền án, tiền sự không.
Hiện bị cáo đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú. Các
bị cáo đều có mặt tại phiên tòa.
Người giám hộ của Bị cáo Nguyễn Thị Hồng: bà Phạm Thị Tuyết Mai (vắng mặt)
Người bào chữa cho các bị cáo:
+ Luật sư bào chữa theo yêu cầu của bị cáo Minh và bị cáo Tùng: Luật Sư Nguyễn Minh
Quyền – Văn phòng Luật sư Minh Quyền – Đoàn luật sư thành phố Hà Nội.
+ Luật sư bào chữa cho bị cáo Nguyễn Thị Hồng theo quyết định cử của Trung Tâm trợ
giúp pháp lý nhà nước Tp. Hồ Chí Minh: Luật Sư Nguyễn Quỳnh Ngân – Văn phòng Luật
sư Quỳnh Ngân – Đoàn luật sư thành phố Hồ Chí Minh.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: 1.
Ông Võ Quốc Cường; sinh ngày 04/03/1985; HKTT: 450/110 Đoàn Văn Bơ, P14.
Quận 4, Tp Hồ Chí Minh; nơi ở hiện nay: tổ 15A, KP2, P Tân Phú, Quận 7, Tp Hồ Chí Minh. 2.
Bà Trương Thị Kim Sa; sinh năm 1959; HKTT và chỗ ở: 92/2 KP 3, P Tân Thuận
Đông, quận 7, Tp Hồ Chí Minh. 2 lOMoAR cPSD| 59773091
Người làm chứng: 1.
Ông Nguyễn Văn Hoa; tên gọi khác: Nhún; sinh ngày 19/05/1956; HKTT: 245 A/22,
phường 8, quận 8, Tp Hồ Chí Minh. 2.
Ông Huỳnh Văn Chính; tên gọi khác: Ty; sinh ngày: 03/05/1984; HKTT và chỗ ở:
ấp 2, thị trấn Cần Giuộc, tỉnh Long An. 3.
Ông Phạm Quốc Hiệp; sinh ngày: 23/11/1988; HKTT và chỗ ở: C84 Xóm Chiếu,
phường 14, quận 4, Tp Hồ Chí Minh. 4.
Ông Nguyễn Văn Lành; tên gọi khác: Năm; sinh năm 1967; HKTT: 946 W6 Đoàn
Văn Bơ, phường 10, quận 4, Tp Hồ Chí Minh; Chỗ ở hiện nay: 95 Lê Văn Lương, KP1, P.
Tân Kiểng, Quận 7, Tp Hồ Chí Minh. 5.
Ông Phan Ngọc Thành; sinh ngày: 21/06/1980; HKTT và chỗ ở hiện nay: 280/36
Nguyễn Tất Thành, phường 13, quận 4, Tp Hồ Chí Minh. 6.
Bà Võ Quý Hiếu; sinh ngày 30/04/1987; HKTT và nơi ở hiện nay: 160 Nguyễn Chế
Nghĩa, phường 12, quận 8, Tp Hồ Chí Minh 7.
Bà Nguyễn Thị Diễm, sinh năm 1989; HKTT: ấp Xa Mau, thị trấn Phú Lộc, huyện
Thanh Trị, Sóc Trăng; chỗ ở hiện nay: 24/38 Nguyễn Văn Cừ, phường Cầu Kho, quận 1, Tp Hồ Chí Minh. NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào khoảng 01 giờ ngày 16/03/2018, đội Cảnh sát điều tra tội phạm ma tuý Công
an Quận 7 kết hợp với Công an phường Bình Thuận, Quận 7 kiểm tra phòng số 101 khách
sạn Khánh Ngọc (địa chỉ số 30A, đường số 1, phường Bình Thuận, quận 7) phát hiện các
đối tượng Đỗ Văn Tùng, Phạm Ngọc Thành, Võ Quý Hiếu, Nguyễn Thị Diễm đang sử
dụng trái phép chất ma tuý tổng hợp. Vật chứng thu giữ gồm: 20 gói ma túy tổng hợp tên
gọi Methmphetamine (MA), trọng lượng: 4,0852 gram, một máy điện thoại hiệu NOKIA;
số tiền 3.500.000 đồng và một số dụng cụ để sử dụng ma túy tổng hợp.
Qua lời khai của Tùng, số ma túy tổng hợp trên Đỗ Văn Tùng mua của Lê Minh vào
các ngày 12/3/2018 và ngày 15/3/2018. Mỗi lần Tùng mua ½ hộp 5 về phân ra từng gói
nhỏ có giá từ 200.000 đồng đến 300.000 đồng để bán lẻ cho các đối tượng nghiện. Cùng
thời điểm, đội Cảnh sát điều tra phát hiện Lê Minh đang thuê phòng 303 khách sạn Khánh
Ngọc cùng địa chỉ và đã mời Minh về trụ sở làm rõ và mở rộng điều tra. Đến khoảng 16
giờ 45 ngày 16/03/2018, tại ngã ba đường Phan Huy Thực và đường Lê Văn Lương phường
Tân Kiểng, quận 7, đội ma túy phát hiện Trần Hồng Đức đang được Võ Quốc Cường dùng 3 lOMoAR cPSD| 59773091
xe NOUVO, biển số 54Z4- 2723 chở Đức mang ma túy đi bán cho đối tượng nghiện
(Cường không biết Đức đi bán ma túy). Sauk hi mời Đức và Cường về trụ sở Công an
phương làm việc, đội công tác thu giữ của Đức 01 gói ma túy tổng hợp (MA), trọng lượng
0,0852gram; 01 điện thoại di động; số tiền 300.000 đồng và 1 xe gắn máy NOUVO mang biển số 54Z4- 2723.
Tại trụ sở công an phường Tân Kiểng, quận 7, trong lúc lập hồ sơ bắt quả tang Trần Hồng
Đức thì có các đối tượng nghiện gọi điện cho Đức để mua ma túy nên bị đội công tác mời
về làm việc bao gồm Phạm Văn Chính (còn gọi là Ty) (sinh năm: 1984; HKTT: ấp 2, thị
trấn Cần Giuộc, Long An
); và Phạm Quốc Hiệp (sinh năm 1988, HKTT: C84 xóm Chiếu, phường 14, quận 4).
Mở rộng điều tra đến khoảng 00 giờ 30 ngày 17/03/2018 trước khách sạn Lan Anh
(địa chỉ A77 khu dân cư Kim Sơn, phường Tân Phong, Quận 7), Đội ma túy Công an quận
7 đã phát hiện Nguyễn Thị Hồng đi xe ôm của Nguyễn Văn Hoa (sinh năm 1956 HKTT:
245A/22 đến Ba Đình, phường 8, quận 8
) mang ma túy đi bán. Đội công tác thu giữ của
Hồng 01 gói ma túy tổng hợp tên gọi Methamphetaminne, trọng lượng 2,3947 gram, 02
điện thoại di động và 600.000 đồng. Nguyễn Thị Hồng được đưa về trụ sở Công an Quận 7 để điều tra làm rõ.
Vật chứng của vụ án và vật đang bị tạm giữ:
Tạm giữ của Đỗ Văn Tùng:
- 20 gói nylon chứa tinh thể không màu (Qua giám định tại phòng PC 54
– Công an TP. Hồ Chí Minh là ma túy tổng hợp, chứa thành phần MA, cân nặng: 4,0852 gram).
- 01 máy điện thoại di động hiệu NOKIA X1 – 01, số Imel
358603/04/00/08277/ 9 đã qua sử dụng, là phương tiện trong việc liên lạc dùng để buôn bán ma túy.
- Số tiền 3.500.000 đồng (ba triệu năm trăm nghìn đồng) và một số dụng
cụ dùng để sử dụng ma túy.
- 01 xe gắn máy biển số 5426 – 0098, số máy 1512399, số khung:
5055490 do chị Phạn Thị Hoa (ngụ tại: 92/2 khu phố 3, phường Tân Thuận Đông,
quận 7
) đứng tên đăng ký. Chị Hoa khai nhận đã bán chiếc xe trên cho bà Trương
Thị Kim Sa (mẹ bị can Đỗ Văn Tùng) nhưng chưa làm thủ tục sang tên đổi chủ.
Lời khai của bà Trương Thị Kim Sa cũng phù hợp với lời khai của chị Phạm Thị
Hoa. Trong thời gian nói trên bà đưa chiếc xe nói trên cho con bà là bị can Đỗ
Văn Tùng dùng làm phương tiện chạy xe ôm, còn Tùng dùng chiếc xe này làm
phương tiện buôn bán ma túy mà bà Sa không biết.
Tạm giữ của Trần Hồng Đức: 4 lOMoAR cPSD| 59773091
- 01 gói nylon chứa tinh thể không màu (Qua giám định tại phòng PC 54
- Công an TP. Hồ Chí Minh là ma túy tổng hợp, chứa thành phần MA, cân nặng: 4,0852 gram).
- 01 máy điện thoại di động Mobel M520I màu đen trắng, số Imel:
357443043675785 đã qua sử dụng, là phương tiện trong việc liên lạc dùng để buôn bán ma túy.
- Số tiền 300.000 đồng.
- 01 xe gắn máy biển số 5424 – 2723 do anh Nguyễn Đỗ Tuấn Kiệt (sinh năm
1988 , ngụ tại 570/59/5 Đoàn Văn Bơ, phường 16, quận 4; Chỗ ở: 502/45/11 Huỳnh Tấn
Phát, phường Bình Thuận, quận 7
) đứng tên đăng ký xe. Anh Nguyễn Đỗ Tuấn Kiệt khai
nhận, anh đã bán chiếc xe trên cho người bạn là Võ Quốc Cường, sinh năm 1985, ngụ tại
450/110 Đoàn Văn Bơ, phường 14, quận 4, nhưng chưa làm thủ tục sang tên đổi chủ cũng như giấy tờ mua bán.
Thu giữ của Nguyễn Thị Hồng:
- 01 gói nylon chứa tỉnh thể không màu (Qua giám định tại phòng PC 54
- Công an TP. Hồ Chí Minh là ma túy tổng hợp, chứa thành phần MA, cân nặng: 2,3947 gram).
- 01 máy điện thoại di động, là phương tiện trong việc liên lạc dùng để buôn bán ma túy.
- 600.000 đồng là tiền thu lợi bất chính trong việc buôn bán trái phép chất ma tuý.
Tạm giữ của Lê Minh:
- 01 điện thoại di động hiệu Nokia 2730 màu trắng đen, số Imel
:354076046949200 đã qua sử dụng.
Tại bản kết luận giám định số 475/KLGĐ ngày 4/4/2018 của Phòng kỹ thuật
hình sự Công an Quận 7 xác định:
- Gói 01: tinh thể không màu trong một gói nilon thu giữ của Trần Hồng
Đức là Methamphetamine (MA) có trọng lượng 0,0852g
- Gói 2: tinh thể không màu trong một gói nilon thu giữ của Nguyễn Thị
Hồng là Methamphetamine (MA) có trọng lượng 2, 3947g.
Tại bản kết luận giám định số 473/KLGĐ ngày 4/4/2018 của Phòng kỹ thuật
hình sự Công an Quận 7 xác định:
- 01 Gói nilon chứa tinh thể không màu là Methamphetamine (MA) có trọng lượng 4 ,0852g. 5 lOMoAR cPSD| 59773091
Tại Bản cáo trạng số …./CT-VKS ngày 22/8/2018 của Viện kiểm sát nhân dân
Quận 7 truy tố các bị cáo Lê minh, Đỗ Văn Tùng, Trần Hồng Đức và Nguyễn Thị Hồng
về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” quy định tại điểm b, khoản 2 điều 251 Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa:
- Lê Minh và Luật sư của bị cáo Lê Minh không đồng tình với tội danh
mà VKS đã trình bày, và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét lại tội danh của bị cáo
Lê Minh là tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo Điều 249 Bộ luật hình sự,
xem xét giảm nhẹ mức hình phạt để các bị cáo sớm về đoàn tụ với gia đình và đề
nghị không áp dụng hình phạt bổ sung vì hoàn cảnh kinh tế khó khăn.
- Các bị cáo Trần Hồng Đức và Đỗ Văn Tùng đồng tình với tội danh mà
VKS đã trình bày, và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ mức hình phạt
để các bị cáo sớm về đoàn tụ với gia đình và đề nghị không áp dụng hình phạt bổ
sung vì hoàn cảnh kinh tế khó khăn.
- Luật sư bào chữa cho bị cáo Nguyễn Thị Hồng trình bày sự thông cảm
với bị cáo Hồng tuổi đời non trẻ đã vướng vào đường dây mua bán trái phép chất
ma tuý, và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét hoàn cảnh đáng thương và khó khăn
của gia đình: cha mẹ ly dị, bị cáo sống xa gia đình, không nơi cư trú ổn định tại
thành phố Hồ Chí Minh, không nhận được sự giúp đỡ tài chính của gia đình và xã
hội. Trước sự cám dỗ của đồng tiền và nghe theo lời xúi giục của đối tượng Dũng,
bị cáo Hồng đã trở thành tay sai để đi giao ma tuý, rồi trở thành đối tượng mua
bán trái phép chất ma tuý làm nguồn sống cho mình khi chưa đủ 18 tuổi. Ngoài
ra, trong tình hình bị cáo Hồng vừa sinh con và nuôi con nhỏ dưới 01 tuổi, Luật
sư đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng các tình tiết giảm nhẹ quy định ở các điểm n,
s khoản 1, khoản 2 Điều 51 ; và căn cứ khoản 2 và Điều 54 Bộ luật Hình sự năm
2015 để tuyên một mức hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được
áp dụng; đồng thời đề nghị HĐXX không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo Hồng.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Võ Quốc Cường, ông Nguyễn Văn
Hoa và bà Lê Thị Dung tại phiên toà đều có lời khai thống nhất với lời khai trong quá
trình điều tra và nội dung bản Cáo trạng.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh giữ nguyên
quan điểm truy tố đối với các bị cáo như hai bản Cáo trạng phạm tội “Mua bán trái phép
chất ma tuý” và đề nghị Hội đồng xét xử: - Về hình phạt :
- Áp dụng khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51 điểm h khoản 1 Điều
52; 50; 38 Bộ luật Hình sự xử phạt: Trần Hồng Đức từ 10 năm 6 tháng đến 11 năm 6 tháng năm tù. 6 lOMoAR cPSD| 59773091
- Áp dụng khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51; 50; 58; 38 Bộ luật
Hình sự xử phạt: Đỗ Văn Tùng từ 9 năm 6 tháng đến 10 năm tù.
- Áp dụng khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1,2 Điều 51; 50; 58; 38 Bộ
luật Hình sự xử phạt Lê Minh từ 7 năm 6 tháng đến 8 năm 6 tháng tù về tội “Mua
bán trái phép chất ma tuý”.
- Áp dụng khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1,2 Điều 51; 50; 58; 38; 101
Bộ luật hình sự xử phạt: Nguyễn Thị Hồng từ 5 năm 6 tháng đến 6 năm tù.
* Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng đối với bị cáo,
- Tịch thu tiêu huỷ: 22 gói nilon đều chứa tinh thể không màu và các
dụng cụ cho việc sử dụng chất ma tuý.
- Tịch thu sung quỹ Nhà nước: Số tiền 4.400.000 đồng (trong đó
3.600.000 đồng của Đỗ Văn Tùng; 300.000 đồng của Trần Hồng Đức; 600.000
đồng của Nguyễn Thị Hồng);
- 01 máy điện thoại di động của Trần Hồng Đức; 01 máy điện thoại di
động NOKIA của Đỗ Văn Tùng; 01 máy điện thoại di động của Nguyễn Thị Hồng;
01 điện thoại NOKIA của Lê Minh, đây là phương tiện trong việc liên lạc dùng
để mua bán ma túy cần tiến hành tịch thu phát mại sung công.
- Trả lại: 01 xe gắn máy biến số 54Z6 - 0098, số máy 1512399, số khung
5055490 đứng tên đăng ký Phạm Thị Hoa cho bà Trương Thị Kim Sa; 01 xe gắn
máy biển số 54Z4 – 2723 đăng ký xe tên Nguyễn Đỗ Tuấn Kiệt cho Nguyễn Quốc Cường.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh
tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau: [1]
Về hành vi, Quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an Quận 7, Điều
tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Quận 7, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã
thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá
trình điều tra và tại phiên tòa, các Bị cáo Đỗ Văn Tùng, Trần Hồng Đức, Nguyễn Thị Hồng
không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người
tiến hành tố tụng. Riêng Bị cáo Lê Minh có lời khai bị bức cung, dùng nhục hình trong quá
trình lấy lời khai. Tuy nhiên, Bị cáo không đưa ra được tài liệu, chứng cứ chứng minh về
việc mình bị bức cung, dùng nhục hình, Bị cáo cũng không nói rõ được Bị cáo bị ai bức
cung. Mặt khác, việc lấy lời khai, cho Bị cáo tiến hành đối chất đều được thực hiện đúng
quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan
tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng theo quy định của pháp luật. [2]
Lời khai nhận tội của các bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai tại Cơ quan
điều tra, phù hợp với lời khai của người làm chứng, phù hợp với biên bản bắt người phạm
tội quả tang, biên bản tạm giữ đồ vật tài liệu, phù hợp với bản Kết luận giám định số 475
/KLGĐ ngày 4/4/2018, bản kết luận giám định số 473/KLGĐ ngày 4/4/2018 của Phòng kỹ 7 lOMoAR cPSD| 59773091
thuật hình sự Công an Quận 7 và các biên bản, tài liệu khác mà Cơ quan điều tra đã thu thập được có trong hồ sơ. [3]
Những chứng cứ trên đây đủ cơ sở xác định: Vào các ngày 12/3/2018 và 15
/3/2018, Lê Minh có hành vi bán ma túy cho Đỗ Văn Tùng 02 lần, mỗi lần ½ hộp 5, cả hai
lần Minh đều đưa cho Tùng tại khách sạn Khánh Ngọc vào ban đêm. Tùng mua ma túy của
Minh về chia nhỏ ra bán cho các đối tượng nghiện. Vào 01h ngày 16/3/2018, Đỗ Văn Tùng
cùng các bạn là Phạm Ngọc Thành, Võ Quí Hiếu, Nguyễn Thị Diễm đang sử dụng trái phép
chất ma túy tổng hợp thì bị Công an Quận 7 bắt quả tang. Ngoài việc bán ma túy cho Đỗ
Văn Tùng, Lê Minh còn bán ma túy tổng cộng 03 lần cho Trần Hồng Đức, cụ thể: Lần 1:
Ngày 02/3/2018, Lê Minh bán cho Trần Hồng Đức ½ hộp 5 ma túy tổng hợp giá 3.500.000
đồng, Trần Hồng Đức trả trước 1.000.000 đồng và thiếu 2.500.000 đồng. Lần 2:
Ngày 10/3/2018, Lê Minh bán cho Trần Hồng Đức 01 hộp 10 ma túy tổng hợp, giá 2.200.000
đồng (Đức khai mua hộ người bạn tên là Tuấn – không rõ nhân thân, lai lịch), Tùng là người
lấy tiền bán ma túy đem về cho Minh. Lần 3: Ngày 12/3/2018, Lê Minh bán cho Trần Hồng
Đức ½ hộp 5 ma túy tổng hợp giá 3.500.000 đồng. Ngoài ra, Trần Hồng Đức còn mua ma
túy của Dũng (không xác định được nhân thân, lai lịch) được 02 lần. Lần 01 cách ngày Đức
bị bắt khoảng 01 tháng và lần 02 là ngày 17/03/2018. Mỗi lần Trần Hồng Đức mua của Dũng
thì Dũng không trực tiếp mang đi bán, mà Dũng nhờ Nguyễn Thị Hồng đem đi bán cho
Dũng. Trong thời gian thực hiện hành vi mua bán trái phép chất ma túy, tổng số tiền Trần
Hồng Đức thu lợi bất chính là 6.000.000 đồng, số tiền này Đức đã ăn xài và mua ma túy sử dụng hết.
Đối với Nguyễn Thị Hồng, Hồng đã có hành vi bán ma túy của đối tượng Dũng cho
Trần Hồng Đức 02 lần. Ngoài việc bán cho Trần Hồng Đức, Hồng còn 02 lần bán ma túy
cho đối tượng khác (không rõ nhân thân, lai lịch) trên địa bàn Quận 7. Việc Nguyễn Thị
Hồng bán ma túy cho Dũng, Hồng được Dũng cho tiền 02 lần, tổng cộng 3.000.000 đồng.
Số tiền này Hồng đã tiêu xài cá nhân và mua ma túy sử dụng hết.
Hành vi của các Bị cáo Lê Minh, Trần Hồng Đức, Đỗ Văn Tùng, Nguyễn Thị Hồng
đã phạm vào tội “Mua bán trái phép chất ma túy” quy định tại điểm b, khoản 2 điều 251 Bộ luật Hình sự:
“Điều 251. Tội mua bán trái phép chất ma túy
2 . Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm :
…b) Phạm tội 02 lần trở lên;…”
[4] Hành vi phạm tội của các bị cáo gây nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm
đến quyền kiểm soát các chất ma túy của Nhà nước, gây mất trật tự trị an cho xã hội. Các bị
cáo đều có đủ năng lực nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật nhưng vẫn
phạm tội do vậy cần phải xử lý nghiêm, cách ly các bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời
gian mới có tính giáo dục để cải tạo các bị cáo trở thành người tốt cho xã hội, tuy nhiên xét
tại phiên tòa các bị cáo Đỗ Văn Tùng, Trần Hồng Đức, Nguyễn Thị Hồng thành khẩn khai 8 lOMoAR cPSD| 59773091
báo, ăn năn hối cải nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật
Hình sự. Bị cáo Hồng thực hiện hành vi phạm tội khi chưa thành niên nên được áp dụng
Điều 101 BLHS cho Bị cáo được hưởng mức phạt bằng ¾ mức phạt điều luật quy định. Đối
với Bị cáo Lê Minh, Bị cáo Minh có các lời khai trước và sau mâu thuẫn, do vậy, Bị cáo
Minh không được hưởng tình tiết giảm nhẹ tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật
Hình sự. Đối với Bị cáo Đức, bị cáo là người có nhân thân xấu, đã có 02 tiền án về tội “Đánh
bạc” và tội “Tổ chức đánh bạc” hiện nay chưa được xóa án tích, do vậy, Hành vi của bị cáo
thoả mãn tình tiết tăng nặng tái phạm theo quy định tại điểm h Khoản 1 Điều 52 BLHS 2015.
Xét về vai trò của các Bị cáo, Bị cáo Lê Minh là người cầm đầu đường dây mua bán
ma túy. Là đối tượng nghiện ma túy, không có nghề nghiệp ổn định. Lê Minh đã mua ma
túy của người khác để bán lại ma túy cho Đỗ Văn Tùng 02 lần vào các ngày 12/3/2018 và
15 /3/2018 tại khách sạn Khánh Ngọc và bán ma túy tổng cộng 03 lần cho Trần Hồng Đức
nhằm thu lợi bất chính.
Vai trò của bị cáo Tùng trong vụ án: Bị cáo Tùng là đối tượng nghiện chất ma túy và
không có nghề nghiệp ổn định. Do không có tiền để sử dụng trái phép chất ma túy nên Đỗ
Văn Tùng đã 2 lần mua ma túy của Lê Minh về phân ra thành từng gói nhỏ bán cho đối
tượng nghiện. Ngoài việc mua ma túy của Lê Minh mang về bán thì Tùng còn đi lấy tiền do
Minh bán ma túy cho Trần Hồng Đức để thu lợi bất chính.
Vai trò của Bị cáo Đức trong vụ án: Do quen biết Minh, Trần Hồng Đức là đối tượng
nghiện chất ma túy và đã có 02 tiền án về tội “đánh bạc”. Sau khi ra tù, Đức không lo làm
ăn lương thiện mà thực hiện hành vi mua ma túy của Minh bán đi kiếm lời. Trong thời gian
từ 16/2/2018 đến 16/3/2018, Đức nhiều lần mua ma túy từ Lê Minh và Nguyễn Thị Hồng
phân nhỏ ra bán cho các đối tượng nghiện.
Vai trò của Bị cáo Hồng trong vụ án: Bị cáo Hồng là đối tượng nghiện chất ma túy,
không có nghề nghiệp ổn định. Từ 16/2/2018 đến 16/3/2018, Nguyễn Thị Hồng nhiều lần
lấy ma túy của Dũng đem bán cho Trần Hồng Đức thu lợi bất chính.
Về nguồn gốc ma túy, quá trình điều tra các Bị cáo khai lấy ma túy từ các đối tượng
Dũng, Minh Bê đê, Thúng. Các đối tượng này hiện Cơ quan Công an chưa xác định nhân
thân, lai lịch, địa chỉ nên Cơ quan điều tra chưa có điều kiện xác minh làm rõ để xử lý.
Đối với Nguyễn Văn Lành, Võ Quốc Cường, Phạm Quốc Hiệp, Huỳnh Văn Chính,
Võ Quý Hiếu, Nguyễn Thị Diễm và Phạm Ngọc Thành có hành vi mua ma túy về sử dụng.
Hành vi của các đối tượng này đã bị Công an Quận 7 xử lý hành chính theo quy định. [5]
Về hình phạt bổ sung: Ngoài ra, Hội đồng xét xử quyết định phạt tiền bổ sung
đối với các bị cáo Lê Minh, Trần Hồng Đức, Đỗ Văn Tùng số tiền là 20.000.000 (hai mươi
triệu) đồng theo quy định tại khoản 5 Điều 251 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung
năm 2017. Xét thấy bị cáo Nguyễn Thị Hồng có hoàn cảnh khó khăn nên Hội đồng xét xử
miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật
Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 9 lOMoAR cPSD| 59773091 [6]
Về xử lý vật chứng của vụ án: Căn cứ điều 47 Bộ luật Hình sự, Điều 106 BLTTHS:
- Tịch thu tiêu hủy:
01 gói được niêm phong bên ngoài có chữ ký ghi tên Đỗ Văn Tùng và hình dấu
Công an phường Tân Kiểng, Quận 7, bên trong có ghi 01 gói nilon chứa tinh thể không
màu, trọng lượng 4,0852g, là Methaphetamine (sau khi giám định còn lại 3,9643g được
niêm phong có chữ ký giám định viên và cán bộ điều tra); một số dụng cụ để sử dụng ma túy.
01 gói được niêm phong bên ngoài có chữ ký ghi tên Trần Hồng Đức và hình dấu
Công an phường Tân Kiểng, Quận 7, bên trong có ghi 01 gói nilon chứa tinh thể không
màu, trọng lượng 0,0852g, là Methaphetamine (sau khi giám định còn lại 0,0500g được
niêm phong có chữ ký giám định viên và cán bộ điều tra).
01 gói được niêm phong bên ngoài có chữ ký ghi tên Nguyễn Thị Hồng và hình dấu
Công an phường Tân Kiểng, Quận 7, bên trong có ghi 01 gói nilon chứa tinh thể không
màu, trọng lượng 2,3947g, là Methaphetamine (sau khi giám định còn lại 2,1820g được
niêm phong có chữ ký giám định viên và cán bộ điều tra).
- Tịch thu sung nộp vào ngân sách nhà nước:
01 máy điện thoại di động hiệu Nokia model X1 màu đen, có số điện thoại
01269918567 được sử dụng để liên lạc để buôn bán ma túy.
01 máy điện thoại di động hiệu Nokia model X1 màu đen, có 2 sim với số điện thoại
0935252261 và 0918623677 là phương tiện trong việc liên lạc dùng để mua bán trái phép chất ma túy.
01 máy điện thoại di động hiệu Mobell màu đen, có số điện thoại 0903536313 là
phương tiện trong việc liên lạc dùng để mua bán trái phép chất ma túy; 300.000 đồng tiền
mặt là số tiền bị cáo Trần Hồng Đức có được do bán ma túy cho Nguyễn Văn Lành;
01 điện thoại di động hiệu Sáung màu tím đen, có sim card với số điện thoại
01664456039, 01 điện thoại di động hiệu Nokia màu đen cùng sim card với số điện thoại
là 0903027803 là phương tiện trong việc liên lạc dùng để mua bán trái phép chất ma túy. - Trả lại:
Trả lại cho bị cáo Đỗ Văn Tùng số tiền 3.500.000 đồng là số tiền do cầm xe mà có,
không liên quan đến hành vi phạm tội
Đối với chiếc xe gắn máy tạm giữ của Đỗ Văn Tùng, hiệu Wave S màu đỏ, biển số
54 Z4-0098, số máy 1512399, số khung 5055490 do chị Phạm Thị Hoa đứng tên đăng ký,
đã bán cho bà Trương Thị Kim Sa (mẹ của Đỗ Văn Tùng) nhưng chưa sang tên đổi chủ,
đưa Tùng để chạy xe ôm. Bà kim Sa không biết việc bị cáo Tùng dùng xe để mua bán ma
tuý; không phải là vật chứng của vụ án nên cần hoàn trả lại cho bà Trương Thị Kim Sa theo quy định. 10 lOMoAR cPSD| 59773091
Đối với chiếc xe gắn máy hiệu NOUVO, tạm giữ của Trần Hồng Đức, biển số 54 Z4-
2723 do anh Nguyễn Đỗ Tuấn Kiệt đứng tên đăng ký xe, đã bán cho anh Võ Quốc Cường
nhưng chưa làm thủ tục sang tên đổi chủ. Võ Quốc Cường được Trần Hồng Đức nhờ chở đi
công chuyện, không biết việc mua bán ma tuý của Trần Hồng Đức; không phải là vật chứng
của vụ án nên cần hoàn trả chiếc xe lại cho anh Võ Quốc Cường theo quy định.
[7] Án phí hình sự sơ thẩm: Mỗi bị cáo Trần Hồng Đức, Lê Minh, Đỗ Văn Tùng và
Nguyễn Thị Hồng phải nộp án phí hình sự sơ thẩm số tiền là 200.000 (hai trăm nghìn) đồng. Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
1 . Tuyên bố các bị cáo Lê Minh, Trần Hồng Đức, Đỗ Văn Tùng và Nguyễn Thị Hồng phạm
tội “Mua bán trái phép chất ma tuý”. -
Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 251; điểm a khoản 1 Điều 51; điểm b khoản 1 Điều 52
BLHS năm 2015 sửa đổi, bổ sung năn 2017,
Xử phạt: Lê Minh 08 (tám) năm 06 (sáu) tháng tù giam. Thời hạn tù tính từ ngày bị bắt, tạm
giam 17/3/2018. Tiếp tục giam bị cáo để bảo đảm thi hành án, thời hạn tạm giam là 45 ( bốn
mươi lăm) ngày kể từ ngày tuyên án. -
Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm b khoản 1 Điều 52
BLHS năm 2015 sửa đổi, bổ sung năn 2017,
Xử phạt: Trần Hồng Đức 10 (mười) năm 06 (sáu) tháng tù giam. Thời hạn tù tính từ ngày bị
bắt, tạm giam 16/3/2018. Tiếp tục giam bị cáo để bảo đảm thi hành án, thời hạn tạm giam là
45 (bốn mươi lăm) ngày kể từ ngày tuyên án. -
Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm a khoản 1 Điều 52
BLHS năm 2015 sửa đổi, bổ sung năn 2017,
Xử phạt: Đỗ Văn Tùng 09 (chín) năm 06 (sáu) tháng tù giam. Thời hạn tù tính từ ngày bị
bắt, tạm giam 16/3/2018. Tiếp tục giam bị cáo để bảo đảm thi hành án, thời hạn tạm giam là
45 (bốn mươi lăm) ngày kể từ ngày tuyên án. -
Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 251; điểm n, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm b khoản 1
Điều 52; điểm b khoản 1 Điều 67; khoản 1 Điều 101 BLHS năm 2015 sửa đổi bổ sung năn 2017 ,
Xử phạt: Nguyễn Thị Hồng 05 (năm) năm 06 (sáu) tháng tù giam. Thời hạn tù tính từ ngày
bị bắt, tạm giam 17/3/2018, được hoãn chấp hành hình phạt cho đến khi con bị cáo đủ 36 tháng tuổi. -
Căn cứ khoản 5 Điều 251 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017: 11 lOMoAR cPSD| 59773091
+ Phạt tiền bổ sung đối với bị cáo Lê Minh, Trần Hồng Đức, Đỗ Văn Tùng số tiền là
20.000.000 ( hai mươi triệu) đồng.
Kể từ khi bản án có hiệu lực pháp luật, hàng tháng người phải thi hành án còn phải chịu
thêm lãi suất theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự tương ứng với
số tiền và thời gian chậm thi hành án.
2 . Về xử lý vật chứng : -
Áp dụng điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm c khoản1 Điều 47
Bộ luật hình sự năm 2015,
Tịch thu và tiêu huỷ toàn bộ 20 gói ma tuý tổng hợp thu của bị cáo Đỗ Văn Tùng, 01 gói
ma tuý tổng hợp thu của bị cáo Trần Hồng Đức và 01 gói ma tuý thu của bị cáo Nguyễn
Thị Hồng là tang vật của vụ án. -
Áp dụng điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 47
Bộ luật Hình sự năm 2015,
Tịch thu nộp vào ngân sách nhà nước 01 máy điện thoại hiệu NOKIA X1 tạm giữ của bị
cáo Đỗ Văn Tùng, 01 máy điện thoại tạm giữ của bị cáo Trần Hồng Đức, 02 máy điện
thoại tam thu của bị cáo Nguyễn Thị Hồng hiệu Samsung và Nokia, và 01 máy điện thoại
hiệu NOKIA tạm thu của bị cáo Lê Minh là phương tiện để liên lạc phục vụ việc phạm tội. -
Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm b khoản 1 Điều 47
Bộ luật Hình sự năm 2015,
Tịch thu nộp cho ngân sách nhà nước số tiền mặt 3.500.000 đồng tạm giữ của bị cáo Đỗ
Văn Tùng, 300.000 đồng tạm giữ của bị cáo Trần Hồng Đức, và 600.000 đồng tạm giữ của
bị cáo Nguyễn Thị Hồng là nguồn thu bất chính do hành vi mua bán trái phép chất ma tuý. -
Áp dụng điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự; khoản 2 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015,
Hoàn trả chiếc xe gắn máy tạm giữ của Đỗ Văn Tùng, hiệu Wave S màu đỏ, biển số 54
Z4-0098 cho bà Trương Thị Kim Sa là mẹ của bị cáo Đỗ Văn Tùng (đã xử lý); và hoàn trả
chiếc xe gắn máy hiệu NOUVO, tạm giữ của Trần Hồng Đức, biển số 54Z4-2723 cho anh
Võ Quốc Cường (đã xử lý).
Các đồ vật khác gồm một số dụng cụ sử dụng ma tuý tạm giữ của bị cáo Đỗ Văn Tùng thì
tịch thu và tiêu huỷ theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự;
điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015. 3.
Về án phí: Căn cứ vào Điều 135; Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Nghị
quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy
định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án bị cáo
phải nộp án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 (hai trăm nghìn đồng). 4.
Về kháng cáo, kháng nghị :
Căn cứ vào Điều 331, Điều 333 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015: Bị cáo được quyền
kháng cáo trong hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án. Đối với đương sự vắng mặt 12 lOMoAR cPSD| 59773091
tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được
niêm yết theo quy định của pháp luật. Viện Kiểm sát có quyền kháng nghị theo quy định.
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án
về phần liên quan đến quyền lợi và nghĩa vụ của mình trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày
tuyên án. Trường hợp vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án về phần liên
quan đến quyền lợi và nghĩa vụ của mình trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được
tống đạt hợp lệ bản án.
Bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi
hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu
cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các
điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định
tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Nơi nhận: TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
- TAND + VKSND Quận 7 THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA - Sở Tư pháp Quận 7; - Công an Quận 7; - Chi cục THADS; - UBND Quận 7; - Bị cáo; - Người bào chữa;
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan; - Lưu hồ sơ vụ án; - Lưu văn phòng. 13