-
Thông tin
-
Hỏi đáp
Bản chất của nền dân chủ Việt Nam môn Triết học Mác - Lênin | Trường Đại học Mở Hà Nội
Bản chất của nền dân chủ Việt Nam môn Triết học Mác - Lênin | Trường Đại học Mở Hà Nội được sưu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuẩn bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đọc đón xem!
Triết học Mác- Lênin (HK01) 56 tài liệu
Đại học Mở Hà Nội 405 tài liệu
Bản chất của nền dân chủ Việt Nam môn Triết học Mác - Lênin | Trường Đại học Mở Hà Nội
Bản chất của nền dân chủ Việt Nam môn Triết học Mác - Lênin | Trường Đại học Mở Hà Nội được sưu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuẩn bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đọc đón xem!
Môn: Triết học Mác- Lênin (HK01) 56 tài liệu
Trường: Đại học Mở Hà Nội 405 tài liệu
Thông tin:
Tác giả:
Tài liệu khác của Đại học Mở Hà Nội
Preview text:
1. Bản chất của nền dân chủ XHCN ở Việt Nam
Cũng như bản chất của nền dân chủ XHCN nói chung, ở Việt Nam, bản chất nền dân
chủ XHCN là dựa vào Nhà nước xã hội chủ nghĩa và sự ủng hộ giúp đỡ của nhân dân. Có
thể nói, đây là nền dân chủ mà con người là thành viên trong xã hội với tư cách là công
dân, tư cách của người làm chủ. Quyền làm chủ của nhân dân là tất cả quyền lực thuộc về
nhân dân, dân làm gốc, là chủ, dân làm chủ.
Sinh thời Hồ Chí Minh đã khẳng định: “nước ta là nước dân chủ” cho nên bao nhiêu
lợi ích, bao nhiêu quyền lực đều “vì dân”. Kế thừa tư tưởng dân chủ trong lịch sử, trực tiếp
là tư tưởng dân chủ của Hồ Chí Minh, từ khi ra đời cho tới nay, Đảng ta luôn xác định xây
dựng nền dân chủ XHCN ở nước ta vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển đất
nước tiến lên chủ nghĩa xã hội. Bản chất nền dân chủ XHCN Việt Nam vì nhân dân ngày
càng được khẳng định hơn trong các kỳ Đại hội của Đảng.
Tại Đại hội XII, Đảng ta tiếp tục khẳng định và diễn đạt chuẩn xác bài học về vai trò
của nhân dân và vai trò của dân chủ XHCN trong đổi mới, phát triển đất nước. Bài học thứ
2 (trong 5 bài học được rút ra từ thực tiễn 30 năm đổi mới) khẳng định: “đổi mới phải luôn
luôn quán triệt quan điểm “dân là gốc”, vì lợi ích của nhân dân, dựa vào nhân dân, phát
huy vai trò làm chủ, tinh thần trách nhiệm, sức sáng tạo và mọi nguồn lực của nhân dân;
phát huy sức mạnh đoàn kết toàn dân tộc”2.
Trên thực tế, bản chất nền dân chủ XHCN ở Việt Nam được thực hiện thông qua các
hình thức dân chủ trực tiếp và dân chủ gián tiếp. Hình thức dân chủ trực tiếp là hình thức
mà thông qua đó, nhân dân bằng hành động trực tiếp của mình thực hiện quyền làm chủ nhà
nước và xã hội. Hình thức dân chủ gián tiếp là hình thức dân chủ đại diện, được thực hiện
do nhân dân “ủy quyền”, giao quyền lực của mình cho tổ chức mà nhân dân bầu ra.
Trong quá trình xây dựng CNXH ở nước ta, một tất yếu là không ngừng củng cố,
hoàn thiện những điều kiện đảm bảo quyền làm chủ của nhân dân và chăm lo đời sống vật
chất, tinh thần của nhân dân.
Thực tiễn đã minh chứng bản chất tốt đẹp và tính ưu việt của nền dân chủ XHCN ở
Việt Nam ngày càng thể hiện giá trị lấy dân làm gốc. Thực hiện quyền dân chủ của nhân
dân trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, phát huy tính tích cực, sáng
tạo của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc XHCN.
2. Định hướng xây dựng chế độ dân chủ XHCN ở Việt Nam: -
Quan điểm về chủ nghĩa xã hội của Hồ Chí Minh còn được thể hiện cụ thể trên
những lĩnh vực, bình diện chủ yếu của đời sống xã hội như chính trị, kinh tế, văn
hóa, xã hội... và được kết tinh lại trong Di chúc thiêng liêng của Người. -
Định hướng về chính trị:
Chủ nghĩa xã hội là một xã hội do nhân dân lao động
làm chủ. Xã hội đó thiết lập được một tổ chức nhà nước của nhân dân, do nhân dân
và vì nhân dân. Muốn xây dựng được xã hội xã hội chủ nghĩa thì phải có Đảng
Cộng sản - đội tiên phong của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và cả dân tộc
Việt Nam lãnh đạo. Do đó, không phải ngẫu nhiên mà trong Di chúc, việc trước
hết Người viết là “nói về Đảng”.
Bác đã nhấn mạnh đến sự đoàn kết là yếu tố quyết định cho mọi thắng lợi của cách
mạng Việt Nam, Người yêu cầu: “Các đồng chí từ Trung ương đến các chi bộ cần
phải giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình”.
Đồng thời, Hồ Chí Minh còn yêu cầu: “Trong Đảng thực hành dân chủ rộng rãi,
thường xuyên và nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình là cách tốt nhất để củng cố
và phát triển sự đoàn kết và thống nhất của Đảng”. -
Định hướng về kinh tế:
trong Di chúc, Người đã căn dặn rằng, cần có kế hoạch
xây dựng lại thành phố và làng mạc đẹp đẽ, đàng hoàng hơn sau chiến tranh;
“Đảng cần phải có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế”, khôi phục và mở rộng
các ngành kinh tế để thực sự đưa đất nước thành một nước Việt Nam hòa bình,
thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh.
Về văn hóa, theo Người, chủ nghĩa xã hội gắn liền với văn hóa và văn hóa phải soi
đường cho quốc dân đi. Hồ Chí Minh thấy được vai trò to lớn của văn hóa đối với
sự phát triển kinh tế, chính trị, xã hội và chính vì vậy, Người đòi hỏi trong công
cuộc kiến thiết nước nhà có 4 vấn đề cần phải chú ý, phải coi trọng đó là chính trị,
kinh tế, văn hóa và xã hội...
Do đó, trong Di chúc, Người đã căn dặn “Đảng cần phải có kế hoạch thật tốt để
phát triển kinh tế và văn hóa, nhằm không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân”. -
Định hướng về con người - xã hội:
Người luôn có niềm tin sắt đá, tuyệt đối vào
thắng lợi cuối cùng của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân ta. Vì
vậy, bản Di chúc còn cho chúng ta thấy những dự cảm, tầm nhìn xa đến kỳ lạ của
Người. Theo Người, nếu đánh Mỹ và thắng Mỹ đã đòi hỏi nhiều gian khổ, hy sinh
thì công cuộc xây dựng đất nước, hàn gắn vết thương chiến tranh còn là một công
việc cực kỳ to lớn, phức tạp và khó khăn.
Chúng ta phải có kế hoạch sẵn sàng, rõ ràng, chu đáo, để tránh khỏi bị động, thiếu
sót và sai lầm. Do vậy, trước khi đi xa, Người căn dặn Đảng và Nhà nước ta phải
quan tâm và thực hiện tốt chính sách xã hội đối với cán bộ, đảng viên, đoàn viên,
thanh niên, bộ đội, thanh niên xung phong, phụ nữ, nông dân và mọi tầng lớp trong
xã hội, thậm chí đến cả những nạn nhân của chế độ xã hội cũ, ngay sau khi cuộc
kháng chiến chống Mỹ, cứu nước giành thắng lợi hoàn toàn.
3. Quan niệm và đặc điểm của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
Hiện nay có nhiều cách tiếp cận khác nhau trong quan niệm về nhà nước pháp quyền.
Song về cơ bản, nhà nước pháp quyền là nhà nước đề cao vai trò của pháp luật, hướng tới
các vấn đề phúc lợi cho mọi người, tạo điều kiện cho nhân dân được tự do, bình đẳng, phát
huy hết năng lực của chính mình. Trong hoạt động của nhà nước pháp quyền, các cơ quan
nhà nước được phân công rõ ràng và được mọi người chấp nhận trên nguyên tắc bình đẳng
của các thế lực, giai cấp, tầng lớp trong xã hội.
Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH của Đảng
Cộng sản Việt Nam đã đưa ra khái quát liên quan đến nhà nước pháp quyền trên một số nét
sau: Đề cao vai trò tối thượng của Hiến pháp và pháp luật; Đề cao quyền và nghĩa vụ của
công dân; tổ chức bộ máy vừa đảm bảo tập trung, thống nhất, vừa có sự phân công giữa
các nhánh quyền lực, phân cấp quyền hạn và trách nhiệm giữa các cấp chính quyền nhằm
đảm bảo quyền dân chủ thuộc về nhân dân…
Từ thực tiễn nhận thức và xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN ở Việt Nam trong
thời kỳ đổi mới, có thể thấy Nhà nước pháp quyền XHCN ở nước ta có những đặc điểm
sau: Một là, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước của nhân dân,
do nhân dân, vì nhân dân; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Đây là đặc trưng
cơ bản, được ghi nhận trong Hiến pháp của nước ta và được thể hiện trong các quy định về
nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước từ trung ương đến địa phương của
các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp.
Hai là, quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ
quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Đây vừa là
nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước ta, vừa là quan điểm chỉ đạo quá
trình tiếp tục thực hiện việc cải cách bộ máy nhà nước.
Ba là, Hiến pháp và các đạo luật giữ vị trí tối thượng trong điều chỉnh các quan hệ
thuộc tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Hệ thống pháp luật thể hiện đầy đủ, đúng đắn
ý chí của nhân dân, phù hợp với hiện thực khách quan, thúc đẩy tiến bộ xã hội. Nghĩa vụ
tuân theo Hiến pháp, pháp luật là của tất cả công dân, không loại trừ đối với bất cứ ai.
Bốn là, Nhà nước ta tôn trọng và bảo đảm quyền con người, quyền công dân; nâng
cao trách nhiệm pháp lý giữa Nhà nước và công dân, thực hành dân chủ, đồng thời tăng
cường kỷ cương, kỷ luật. Mục tiêu cao cả của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ
Chí Minh về bảo đảm quyền con người, quyền công dân được thể chế hoá thành luật và
được Nhà nước ta tổ chức thực hiện có kết quả.
Năm là, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam tôn trọng và thực hiện đầy
đủ các điều ước quốc tế mà Nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã ký kết hoặc tham gia.
Sáu là, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam được tổ chức và hoạt động
dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đây là đặc trưng cơ bản để phân biệt nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và nhà nước pháp quyền tư sản chủ nghĩa.
4. Định hướng xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN ở Việt Nam:
Quá trình xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN ở nước ta tập trung
vào một số vấn đề chính như sau:
Một là, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Nhà nước pháp quyền XHCN ở Việt Nam mang bản chất của giai cấp công nhân,
đồng thời gắn bó chặt chẽ với dân tộc, với nhân dân. Đảm bảo quyền lực nhà nước thống
nhất, có sự phân công phối hợp giữa các cơ quan nhà nước.
Hai là, cải cách thể chế và phương thức hoạt động của Nhà nước.
Kiện toàn bộ tổ chức, đổi mới phương thức và nâng cao hiệu quả hoạt động của
Quốc hội để đảm bảo đây là cơ quan quyền lực cao nhất của nhân dân. Xây dựng nền hành
chính nhà nước dân chủ, trong sạch, vững mạnh, từng bước hiện đại hóa, bỏ các thủ tục
hành chính gây phiền hà cho tổ chức và công dân.
Ba là, xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức trong sạch có năng lực.
Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức về bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo
đức, năng lực lãnh đạo, điều hành quản lý nhà nước. Đồng thời có chính sách đãi ngộ,
khuyến khích các cán bộ, công chức hoàn thành tốt nhiệm vụ. Xây dựng cơ chế xử lý
nghiêm với những người không hoàn thành nhiệm vụ, vi phạm kỷ luật.
Bốn là, đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, thực hành tiết kiệm.
Đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, thực hành tiết kiệm được coi là nhiệm
vụ cấp bách, lâu dài của quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN ở nước ta. Nhà
nước ta đang tích cực đẩy mạnh cải cách hành chính phục vụ nhiệm vụ phòng chống tham
nhũng, lãng phí xây dựng dựng và hoàn thiện cơ chế khuyến khích và bảo vệ người đấu
tranh chống tham nhũng. Khuyến khích toàn Đảng, toàn dân thực hành tiết kiệm.
Bên cạnh đó, Nhà nước tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa trên cả ba lĩnh vực:
Xây dựng pháp luật, chấp hành pháp luật và bảo vệ pháp luật. Tập trung xây dựng, hoàn thiện hệ
1 Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập I, NXb CTQGST, H. 2021, tr 175
thống pháp luật đồng bộ, hiện đại với tính công khai, minh bạch cao, phù hợp với điều kiện
phát triển kinh tế - xã hội của đất nước và yêu cầu hội nhập quốc tế sâu rộng. Tăng cường
tổng kết thực tiễn, bổ sung và hoàn thiện lý luận, rút ra những bài học kinh nghiệm về cơ
chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ. Trên cơ sở đó, cung cấp những
luận cứ khoa học để tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà
nước và xã hội; Nhà nước hoạt động ngày càng hiệu lực, hiệu quả; nhân dân ngày càng tham
gia nhiều hơn vào các công việc của Nhà nước.