Bản sao của đề cương kinh tế chính trị | Đại học Sư Phạm Hà Nội

Bản sao của đề cương kinh tế chính trị | Đại học Sư Phạm Hà Nội với những kiến thức và thông tin bổ ích giúp sinh viên tham khảo, ôn luyện và phục vụ nhu cầu học tập của mình cụ thể là có định hướng, ôn tập, nắm vững kiến thức môn học và làm bài tốt trong những bài kiểm tra, bài tiểu luận, bài tập kết thúc học phần, từ đó học tập tốt và có kết quả cao cũng như có thể vận dụng tốt những kiến thức mình đã học vào thực tiễn cuộc sống.

lOMoARcPSD| 40439748
ĐỀ CƯƠNG KINH TẾ CHÍNH TRỊ Câu
1:ĐỀ CƯƠNG KINH TẾ CHÍNH TRỊ
Câu 1:
1)Điều kiện ra đời và tồn tại của sản xuất hàng hóa
Hàng hóa ra đời, tồn tại và phát triển dựa vào hai điều kiện:
a)Phân công lao động xã hội là sự phân chia lao động xã hội theo các ngành, nghề
khác nhau của nền sản xuất hội. Kéo theo sphân công lao động hội là sự chuyên môn
hóa sản xuất; mỗi người sản xuất chỉ tạo ra một vài loại sản phẩm nhất định, nhưng nhu cầu
của cuộc sống đòi hỏi phải có nhiều loại sản phẩm khác nhau, do đó họ cần đến sản phẩm của
nhau, buộc phải trao đổi với nhau để thỏa mãn nhu cầu của mỗi người. Phân công lao động
hội là cơ sở và tiền đề của sản xuất hàng hóa. Phân công lao động càng phát triển thì sản xuất
và trao đổi hàng hóa càng mở rộng và đa dạng hơn.
b)Sự tách biệt tương đối về mặt kinh tế của những người sản xuất. Trong lịch sử ra đời
của sản xuất hàng hóa, sự tách biệt này là do quan hệ sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất, mà
khởi thủy chế độ hữu nhỏ về liệu sản xuất, đã đưa người sở hữu liệu sản xuất
người sở hữu sản phẩm lao động. Như vậy, chính quan hệ sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất
đã làm cho những người sản xuất độc lập, đối lập với nhau, nhưng hộ lại nằm trong hệ thống
phân công lao dộng xã hội nên họ phụ thuộc lẫn nhau về sản xuất và tiêu dùng. Trong điều kiện
ấy người nà muốn tiêu dùng sản phẩm của người khác thông qua trao đổi mua – bán sản phẩm
của nhau.
Trên đây hai điều kiện cần đủ của sản xuất hàng hóa. Thiếu một trong hai điều
kiện này thì không có sản xuất hàng hóa sản phẩm lao động không mang hình thái hàng hóa.
2)Vì sao hàng hóa có hai thuộc tính?
Sở hàng hóa hai thuộc tính giá trị sử dụng giá trị lao động sản xuất hàng
hóa có tính hai mặt. Đó là lao động cụ thể và lao động trừu tượng
a)Lao động cụ thể là lao động có ích dưới một hình thức cụ thể của những nghề
nghiệp chuyên môn nhất định.
Mỗi một lao động cụ thể mục đích, phương pháp, công cụ lao động, đối tượng lao
động kết quả lao động riêng. Chính những cái riêng đó phân biệt các loại lao động cụ thể
khác nhau. Chẳng hạn, lao động của thợ may lao động của thợ mộc hai loại lao động cụ
thể khác nhau. Lao động cụ thể tạo ra giá trị sử dụng của hàng hóa.
b)Lao động trừu tượng lao động của người sản xuất hàng hóa đã gạt bỏ hình thức
biểu hiện cụ thể của nó để quy về các chung đồng nhất, đó là sự tiêu phí sức lao động, tiêu hao
sức bắp, thần kinh của con người. Nếu lao động cụ thể tạo ra giá trị sử dụng thì lao động
trừu tượng tạo ra giá trị của hàng hóa. thể nói, giá trị của hàng hóa là lao động trừu tượng
của người sản xuất hàng hóa, kết tinh trong hàng hóa. Đó cũng mặt chất của giá trị hàng hóa.
Câu 2:
Phân tích hai thuộc tính của hàng hóa
a)Định nghĩa hàng hóa: Hàng hóa là sản phẩm của lao động, có thể thỏa mãn nhu cầu
lOMoARcPSD| 40439748
nào đó của con người thông qua trao đổi, mua – bán
b)Hàng hóa có hai thuộc tính là giá trị sử dụng và giá trị:
-Giá trị sử dụng của hàng hóa: là công dụng của sản phẩm có thể thỏa mãn một nhu cầu
nào đó của con người, có thể làm nhu cầu cho tiêu dùng cá nhân, lương thực, thực phẩm… có
thể nhu cầu cho tiêu dùng sản xuất: máy móc, nguyên liệu, nhiên liệu… Bất cứ hàng a nào
cũng có một hoặc một số công dụng nhất định và chính công dụng đó làm cho hàng hóa có giá
trị sử dụng; giá trị sử dụng của hàng hóa được phát hiện dần trong quá trình của khoa học,
thuật lực lượng sản xuất. Giá trị sử dụng chỉ thể hiện việc sử dụng hay tiêu dùng, nội
dung vật chất của của cải. Giá trị sử dụng của hàng hóa là do thuộc tính tự nhiên của hàng hóa
quy định, một phạm trù vĩnh viễn. Giá trị sử dụng không phải cho bản thân người sản
xuất hàng hóa, mà là cho người khác, cho xã hội thông qua trao đổi mua bán. Trong nền kinh
tế hàng hóa, giá trị sử dụng là vật mang giá trị trao đổi.
-Giá trị của hàng hóa. Muốn hiểu được giá trị của hàng hóa phải bắt đầu nguyên cứu
giá trị trao đổi. Giá trị trao đổi là quan hệ tỉ lệ về lượng mà giá trị sử dụng này trao đổi với giá
trị sử dụng khác. dụ: 10 kg thóc đổi lấy 1 m vải. Vải thóc hai hàng hóa giá trị sử
dụng khác nhau về chất, nhưng chúng thể trao đổi với nhau theo tỉ lệ nào, chúng đều
sản phẩm của lao động, đều lao động kết tinh trong đó. Vì vậy, khi người ta trao đổi hàng
hóa cho nhau thực chất là trao đổi lao động của mình ẩn dấu trong những hàng hóa đấy.
Như vậy, giá trị của hàng hóa lao động xã hội của người sản xuất ra hàng hóa kết tinh
trong hàng hóa. Còn giá trị trao đổi chẳng qua là hình thức biểu hiện ra bên ngoài của giá trị,
giá trị là nội dụng , là cơ sở của giá trị trao đổi. Đồng thời, giá tri jbiểu hiện mối quan hệ giữa
những người sản xuất hàng hóa. Chính vì vậy, giá trị là phạm trù chỉ tồn tại trong kinh tế hàng
hóa
c)Mối quan hệ giữa hai thuộc tính của hàng hóa
Hai thuộc tính của hàng hóa quan hệ ràng buộc lẫn nhau, vừa thống nhất vừa mâu thuẫn
với nhau.
Sự thống nhất giữa hai thuộc tính của hàng hóa thể hiện chỗ cả hai thuộc tính này
cũng đồng thời tồn tại trong một hàng hóa; một vật phải đầy đủ hai thuộc tính này mới
hàng hóa. Nếu thiêu một trong hai thuộc tính đó thì vật phẩm sẽ không phải hàng hóa. Chẳng
hạn, một vật ích(tức có giá trị sử dụng), nhưng không do lao động tạo ra(tức không có kết
tinh lao động) như không khí tự nhiên thì không phải là hàng hóa.
Sự mâu thuẫn giữa hai thuộc tính của hàng hóa thể hiện ở chỗ: với tư cách là giá trị sử
dụng thì các hàng hóa không đồng nhất về chất. Nhưng ngược lại, với tư cách la giá trị thì các
loại hàng hóa lại đồng nhất về chất, tức đều có kết tinh lao động, hay lao động được vật hóa.
Tuy giá trị sử dụng và giá trị cũng tồn tại trong một hàng hóa, nhưng quá trình thực hiệ chúng
lại tách rời nhau về cả mặt không gian và thời gian; giá trị được thực hiện trước trong lĩnh vực
lưu thông còn giá trị sử dụng được thực hiệ sau, trng lĩnh vục tiêu dùng. Do đó nếu giá trị của
hàng hóa không đươc thực hiện thì sẽ dẫn dến khủng hoảng sản xuất
Câu 3: Phân tích khái niệm, ưu thế và khuyết tật của nền kinh tế thị trường (KTTT). Liên hệ
với thực tiễn nền KTTT định hướng XHCN của Việt Nam.
Bài làm:
lOMoARcPSD| 40439748
Khái niệm KTTT:
Kinh tế thị trường là trình độ phát triển cao của kinh tế hàng hóa, ở đó các quan hệ kinh tế đều
được thực hiện trên thị trường, thông qua quá trình trao đổi, chịu sự tác động, điều tiết của các
quy luật thị trường. Tất cả các quan hệ kinh tế trong qua trình tái sản xuất xã hội đều được tiền
tệ hóa, các yếu tố của sản xuất như: đất đai và tài nguyền, vốn bằng tiền vốn vật chất, sức
lao động, công nghệ và quản lý,... đều là đối tượng mua – bán và hàng hóa.
Ưu thế:
Nền KTTT luôn tạo ra động lực mạnh mcho sự hình thành ý tưởng của các chủ thể
kinh tế. Thông qua vai trò của thị trường nền KTTT trở thành phương thức hữu hiệu
kích thích sự sáng tạo trong hoạt động của các chủ thể kinh tế, tạo điều kiện thuận lợi
cho hoạt động tự do của họ, qua đó thúc đẩy tăng năng suất lao động, tăng hiệu quả sản
xuất, làm cho nền kinh tế hoạt động năng động và hiệu quả. Nền KTTT chấp nhận mọi
ý tưởng sáng tạo mới trong thực hiện sản xuất kinh doanh và quản lý, tạo môi trường
rộng mở cho các mô hình mới theo đà phát triển của xã hội.
Ví dụ: Công ty Grabbike đã tạo ra hình vận tải khách mới, sử dụng người có phương tiện
đi lại cá nhân và nền tảng công nghệ, làm sôi động mảng dịch vụ kinh doanh vận tải.
Nền KTTT luôn thực hiện phát huy tốt nhất tiềm năng của mọi chủ thể, các vùng miền
cũng như lợi thế quốc gia trong quan hệ với thế giới. Mọi tiềm năng, lợi thế đều có thể
được phát huy, đều có thể trở thành lợi ích đóng góp cho xã hội. Thông qua vai trò gắn
kết của thị trường nền KTTT trở thành phương thức hiệu quả hơn hẳn so với nền
kinh tế tự cung tự cấp hay nền kinh tế kế hoạch hóa để phát huy tiềm năng, lợi thế của
từng thành viên, từng vùng miền trong quốc gia, của từng quốc gia trong quan hệ kinh
tế với phần còn lại của thế giới.
Ví dụ: nhờ nền KTTT mà những tiềm năng về du lịch biển, than ở Quảng Ninh được phát huy
một cách hiệu quả, hay tiềm năng về sản xuất lúa ở đồng bằng sông Cửu Long.
Nền KTTT luôn tạo ra các phương thức để thỏa mãn tối đa nhu cầu của con người, từ
đó thúc đẩy tiến bộ, văn minh xã hội. Nền KTTT với sự tác động của các quy luật thị
trường luôn tạo ra sự phù hợp giữa khối lượng, cơ cấu sản xuất với khối lượng, cơ cấu
tiêu dùng của hội. Nhờ đó, nhu cầu tiêu dùng về các loại hàng hóa, dịch vụ khác
nhau được đáp ứng kịp thời; người tiêu dùng được thỏa mãn nhu cầu cũng như đáp ứng
đầy đủ mọi chủng loại hàng hóa, dịch vụ.
Ví dụ: nhu cầu về nhu yếu phẩm của người dân Việt Nam hiện nay được thỏa mãn thông qua
mua bán rất dễ dàng so với những năm nước ta thực hiện chính sách kinh tế kế hoạch hóa tập
trung.
Khuyết tật:
Xét trên phạm vi toàn bộ nền sản xuất hội, nền KTTT luôn tiềm ẩn những rủi ro
khủng hoảng. Khủng hoảng có thể xảy ra đối với mọi loại hình thị trường hay với mới
mọi nền KTTT, thể diễn ra cục bộ hoặc tổng thể. Nền KTTT không tự khắc phục
được những rủi ro tiềm ẩn này do sự vận động tự phát của các quy luật kinh tế. Do đó,
lOMoARcPSD| 40439748
các quốc gia rất khó dự báo chính xác thời điểm cách khắc phục các cuộc khủng
hoàng.
dụ: Cuộc Đại khủng hoảng Mỹ năm 1929 chính kết quả của sự tăng trưởng sản xuất
quá mức trong thập kỷ 1920 mà không có sự điều tiết hợp lý của chính phủ.
Liên hệ ở VN: Những tháng cuối năm 2019 dịch bệnh xuất phát từ một đất nước kinh tế hùng
mạnh như Mỹ, dịch lan nhanh, rất nguy hiểm, cứ thế là tràn ra khắp thế giới. Tác động bởi sự
suy thoái toàn cầu, đã đảo lộn ảnh hưởng đến các nước, nhất vẫn hthống tài chính,
ngân hàng của mỗi nước. Tại Việt nam, phần lớn hoạt động sản xuất phục vụ cho lĩnh vực xuất
khẩu gặp rất nhiều khó khăn. Trong đó các thị trường lớn như : Mỹ, EU, Nhật những thị
trường truyền thống nhập khẩu hàng sản xuất từ Việt nam đang bị khủng hoảng, do mức sinh
hoạt của người dân bị đảo lộn, đòi hỏi mọi người phải cắt giảm chi tiêu, thắt lưng buột bụng,
mức độ mua hàng giảm, nhu cầu thanh toán yếu …Việt nam một trong những nước ảnh
hưởng nặng trong hoạt động xuất khẩu hàng hóa.
Nền KTTT không tự khắc phục được xu hướng cạn kiệt tài nguyên không thể tái tạo,
suy thoái môi trường tự nhiên, môi trường hội. Do phần lớn các chủ thsản xuất
kinh doanh trong nền KTTT luôn đặt mục tiêu lợi nhuận tối đa nền luôn tạo ra ảnh
hưởng tiềm ẩn đối với nguồn lực tài nguyên, môi trường, nguyên tắc đạo đức, gây ra
sự cạn kiệt tài nguyên không thể tái tạo, ô nhiễm môi trường, xói mòn đạo đức kinh
doanh, thậm chí cả đạo đức hội. Cũng mục tiêu lợi nhuận các chủ thể hoạt
động sản xuất kinh doanh thể không tham gia vào các lĩnh vực thiết yếu cho nền
kinh tế. Tự nền KTTT không thể khắc phục được các khuyết tật này.
Ví dụ: Thời sự Chuyển động 24h đưa ra nhiều dẫn chứng, hình ảnh về các công ty đã cắt giảm
chi tiêu, đầu tư cho các công trình xử lý nước thải xả thải trực tiếp ra ng suối gây ô nhiễm
môi trường, cuộc sống của người dân vùng ven gặp nhiều khó khăn, gây ra những hệ lụy lâu
dài.
dụ: 1 vùng xảy ra dịch bệnh nên bị thiếu thuốc men, nếu Nhà nước không can thiệp (quy
định mức giá tối đa, cấm đầu cơ tích trữ) thì các nhà buôn thuốc sẽ lợi dụng tình trạng này để
đẩy giá bán thuốc chữa bệnh, khẩu trang, vật tư y tế lên cao, phần lớn dân nghèo sẽ không đủ
tiền mua thuốc và sẽ phải chết vì bệnh dịch.(liên hệ với dịch Covit-19)
Nền KTTT không tự khắc phục được hiện tượng phân hóa sâu sắc trong xã hội. Các
quy luật thị trường luôn phân bổ lợi ích theo mức độ loại hình hoạt động tham gia
thị trường, cộng với tác động của cạnh tranh mà dẫn đến sự phân hóa như một tất yếu.
Bản thân nền KTTT không thể tự khắc phục được khía cạnh phân hóa có xu hướng sâu
sắc.
Ví dụ: Mỹ mặc GDP bình quân đầu người rất cao nhưng sự phân hóa giàu nghèo, địa
vị xã hội sâu sắc gây ra sự bất công, tha hóa đạo đức.
Liên hệ ở VN: bất bình đẳng trong thu nhập ở nước ta ngày càng rõ nét và gay gắt hơn, tỷ lệ
hộ nghèo tập trung chủ yếu ở những vùng khó khăn, có nhiều yếu tố bất lợi như điều kiện tự
nhiên khắc nghiệt, kết cấu hạ tầng kém, trình độ dân trí thấp, trình độ sản xuất manh mún, sơ
khai
Câu 4: Phân tích nội dung, yêu cầutác động của quy luật giá trị trong nền kinh tế hàng
lOMoARcPSD| 40439748
hóa. Ý nghĩa của việc nghiên cứu vấn đề này.
Bài làm:
Quy luật giá trị là quy luật kinh tế cơ bản ca sản xuất hàng hóa. Ở đâu có sản xuất và trao đổi
hàng hóa thì ở đó có sự hoạt động của quy luật giá trị.
Nội dung và yêu cầu của Quy luật giá trị:
- Theo quy luật giá trị, sản xuất lưu thông hàng hóa phải dựa trên sở hao phí lao
động hội cần thiết. Mặc mỗi người sản xuất tự quyết định hao phí lao động
biệt của mình, nhưng giá trị hội của hàng hóa không phải được quyết định bởi hao
phí lao động cá biệt của từng chủ thể, mà bởi hao phí lao động xã hội cần thiết. Vì vậy,
muốn bán được hàng hóa, bù đắp được chi phí có lãi, người sản xuất phải điều chỉnh
làm cho chi phí lao động biệt của mình phù hợp với mức chi phí mà hội chấp
nhận được.
- Trao đổi hàng hóa cũng phải thực hiện trên cơ sở của hao phí lao động xã hội cần thiết,
nghĩa trao đổi theo nguyên tắc ngang giá. Nhìn bề ngoài, sản xuất trao đổi hàng
hóa đương nhiên việc riêng của từng người, họ độc lập và không chịu sự ràng buộc
nào, nhưng thực tế, mọi việc sản xuất và trao đổi hàng hóa đều chịu sự chi phối bởi quy
luật giá trị. Nếu ai có giá trị hàng hóa cá biệt thấp hơn so với giá trị hàng hóa xã hội thì
người đó sẽ tồn tại và phát triển, ngược lại họ sẽ thua lỗ và phá sản.
- Sự vận động của Quy luật giá trị thông qua svận động của giá cả hàng hóa. Giá cả
hàng hóa kết quả của sthỏa thuận giữa người mua người bán hàng trên thị trường.
Giá trị sở của giá cả. Vì giá cả phụ thuộc vào giá trị. Hàng hóa nào nhiều g
trị thì giá cả của nó sẽ cao hơn và ngược lại. Tuy nhiên, trên thị trường, giá cả còn phụ
thuộc vào cung cầu, cạnh tranh, độc quyền, sức mua của đồng tiền,… Giá cả hàng hóa
biến động lên xuống xoay quanh giá trị, khi cao hơn hoặc thấp hơn giá trị. Trong các
nền kinh tế hiện đại, giá cả còn biến động bởi sự can thiệp của nhà nước vào nền kinh
tế.
Tác động của Quy luật giá trị:
- Thứ nhất, điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hoá.
Điều tiết sản xuất tức là điều hoà, phân bổ các yếu tố sản xuất giữa các ngành, các lĩnh
vực của nền kinh tế. Tác lộng này của quy luật giá trị thông qua sự biến động của giá
cả hàng hoá trên thị trường dưới tác động của quy luật cung – cầu.
* Nếu cung nhỏ hơn cầu, thì giá cả lớn hơn giá trị, nghĩa hàng hóa sản xuất ra lãi,bán
chạy. Giá cả cao hơn giá trị sẽ ch thích mở rộng đẩy mạnh sản xuất để tăng cung;
ngược lại cầu giảm vì giá tăng.
lOMoARcPSD| 40439748
* Nếu cung lớn hơn cầu, sản phẩm sản xuất ra quá nhiều so với nhu cầu, giá cả thấphơn
giá trị, hàng hóa khó n, sản xuất không lãi. Thực tế đó, tự người sản xuất ra quyết
định ngừng hoặc giảm sản xuất; ngược lại, giá giảm sẽ kích thích tăng cầu, tự nó nhân
tố làm cho cung tăng.
* Cung cầu tạm thời cân bằng; giá ctrùng hợp với giá trị. Bề mặt nền kinh tế người
tathường gọi là “bão hòa”.
Tuy nhiên nền kinh tế luôn luôn vận động, do đó quan hệ giá cả và cung cầu cũng thường
xuyên biến động liên tục.
Như vậy, sự tác động trên của quy luật giá trị đã dẫn đến sdi chuyển sức lao động
liệu sản xuất giữa các ngành sản xuất khác nhau. Đây là vai trò điều tiết sản xuất của quy
luật giá trị.
Điều tiết lưu thông của quy luật giá trị cũng thông qua diễn biến giá cả trên thị trường.
Sự biến động của giá cả thị trường cũng tác dụng thu hút luồng hàng từ nơi giá cả
thấp đến nơi giá cả cao, do đó làm cho lưu thông hàng hoá thông suốt.
Như vậy, sự biến động của giả cả trên thị trường không những chỉ rõ sự biến động về kinh
tế, mà còn có tác động điều tiết nền kinh tế hàng hoá.
- Thứ hai, kích thích cải tiến kỹ thuật, hợp lý hoá sản xuất, tăng năng suất lao động, thúc
đẩy lực lượng sản xuất xã hội phát triển.
Trong nền kinh tế hàng hoá, mỗi người sản xuất hàng hoá một chủ thể kinh tế độc lập,
tự quyết định hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Nhưng do điều kiện sản xuất khác
nhau nên hao phí lao động cá biệt của mỗi người khác nhau, người sản xuất nào có hao phí
lao động cá biệt nhỏ hơn hao phí lao động xã hội của hàng hoá ở thế có lợi sẽ thu được lãi
cao. Người sản xuất nào hao phí lao động biệt lớn hơn hao phí lao động hội cần
thiết sẽthế bất lợi, lỗ vốn. Để giành lợi thế trong cạnh tranh, và tránh nguy cơ vỡ nợ, phá
sản, họ phải hạ thấp hao phí lao động biệt của nh sao cho bằng hao plao động
hội cần thiết. Muốn vậy, họ phải luôn tìm cách cải tiến kỹ thuật, cải tiến tổ chức quản lý,
thực hiện tiết kiệm chặt chẽ, tăng năng suất lao động. Sự cạnh tranh quyết liệt càng thúc
đẩy quá trình này diễn ra mạnh mẽ hơn, mang tính xã hội. Kết quả lực lượng sản xuất xã
hội được thúc đẩy phát triển mạnh mẽ.
- Thứ ba, thực hiện sự lựa chọn tự nhiên phân hoá người sản xuất hàng hoá thành
người giàu, người nghèo.
Quá trình cạnh tranh theo đuổi giá trị tất yếu dẫn đến kết quả là: những người có điều kiện
sản xuất thuận lợi, có trình độ, kiến thức cao, trang bị kỹ thuật tốt nên có hao phí lao động
cá biệt thấp hơn hao phí lao động hội cần thiết, nhờ đó phát tài, giàu lên nhanh chóng.
Họ mua sắm thêm liệu sản xuất, mở rộng sản xuất kinh doanh. Ngược lại những người
không có điều kiện thuận lợi, làm ăn kém cỏi, hoặc gặp rủi ro trong kinh doanh nên bị thua
lỗ dẫn đến phá sản trở thành nghèo khó.
Ý nghĩa của việc nghiên cứu Quy luật giá trị:
- Cần nhận thức sự tồn tại khách quan phạm vi hoạt động rộng lớn, lâu dài của
quy luật giá trị trong nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần ở nước ta.
lOMoARcPSD| 40439748
- Cần vận dụng tốt cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước để phát huy vai trò
tích cực của cơ chế thị trường và hạn chế mặt tiêu cực của nó để thúc đẩy sản xuất
phát triển, đảm bảo sự công bằng xã hội.
Câu 5: Phân tích hàng hóa sức lao động. Ý nghĩa của việc nghiên cứu vấn đề này.
1. SLĐ và điều kiện để SLĐ trở thành hàng hóa:
*Khái niệm sức lao động:
Sức lao động hay năng lực lao động là toàn bộ những năng lực thể chất và tinh thần tồn tại
trong cơ thể, trong một con người đang sống, và được người đó đem ra vận dụng mỗi khi sản
xuất ra một giá trị sử dụng nào đó.
*Điều kiện để sức lao động trở thành hàng hóa.
Một, người lao động được tự do về thân thể
Vd: Trong xã hội nô lệ và chiếm hữu phong kiến, người nô lệ và người nông nô không được tự
do về mặt thân thể, khắc nghiệt nhất là trong xã hội chiếm hữu nô lệ, người nô lệ không được
quyền sở hữu chính bản thân nh, ngay cả quyền bản nhất của con người quyền được
sống, được tồn tại thì người nô lệ cũng không có quyền quyết định mà việc định đoạt đó là do
chủ nô của anh ta.
Hai, người lao động không có đủ các tư liệu sản xuất cần thiết để tự kết hợp với sức lao
động của mình tạo ra hàng hóa để bán, cho nên họ phải bán sức lao động.
Vd: Người nông nô và người nô lệ sau khi được giải phóng khỏi xã hội phong kiến và chế độ
chiếm hữu nô lệ thì họ đã có quyền tự do về mặt thân thể nhưng họ không có tư liệu sản xuất,
không có của cải để duy trì cuộc sống tối thiểu của mình nên họ phải bán sức lao động để duy
trì cuộc sống.
2. Thuộc tính của hàng hóa sức lao động.
Hàng hóa sức lao động cũng có hai thuộc tính: giá trị và giá trị sử dụng.
a) Giá trị của hàng hóa sức lao động
Giá trị của hàng hóa sức lao động cũng do thời gian lao động xã hội
cần thiết để sản xuất và tái sản xuất ra sức lao động quyết định. Sức
lao động chỉ tồn tại như năng lực con người sống, muốn tái sản xuất ra
năng lực đó người lao động phải tiêu dùng một lượng tư liệu sinh hoạt
nhất định.
Do vậy, thời gian lao động hội cần thiết để tái sản xuất ra sức lao động sẽ được quy thành
thời gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt ấy. Diễn đạt theo cách
khác, giá trị của hàng hóa sức lao động được đo ờng gián tiếp thông qua lượng giá trị của các
tư liệu sinh hoạt để tái sản xuất ra sức lao động.
Giá trị của hàng hóa sức lao động do các bộ phận sau đây hợp thành:
Một là, giá trị tư liệu sinh hoạt cần thiết (cả vật chất, tinh thần) để tái
sản xuất ra sức lao động;
Hai là, phí tổn đào tạo người lao động;
Ba là, giá trị những tư liệu sinh hoạt cần thiết (vật chất và tinh thần) nuôi
con của người lao động.
Nếu đúng theo nguyên tắc ngang giá trong nền kinh tế thị trường thì giá
cả của hàng hóa sức lao động phải phản ánh lượng giá trị nêu trên.
b) Giá trị sử dụng của hàng hóa sức lao động
Giá trị sử dụng của hàng hóa sức lao động cũng là để thỏa mãn nhu
cầu của người mua.
lOMoARcPSD| 40439748
Người mua hàng hóa sức lao động mong muốn thỏa mãn nhu cầu được giá trị lớn hơn,
giá trị tăng thêm. Giá trị sử dụng của hàng hóa sức lao động được thể hiện trong quá trình sử
dụng sức lao động.
3. Ý nghĩa của việc nghiên cứu hàng hóa sức lao động - Là
chìa khoá để giải quyết mâu thuẫn trong công thức chung của tư
bản;
- Vạch rõ nguồn gốc của giá trị thặng dư, đó lao động khôngcông của
người công nhân làm thuê tạo ra trong quá trình sản xuất và bị nhà
bản chiếm không;
- Vạch bản chất bản nhất của hội bản đó quan hệ bóclột
của tư bản đối với lao động làm thuê;
- Vạch rõ được các hình thức biểu hiện của giá trị thặng dư: Lợinhuận,
lợi nhuận bình quân, lợi tức, địa tô ...
- Vạch rõ được nguồn gốc, bản chất của tích lũy tư bản.
* Ý nghĩa của việc nghiên cứu vấn đề này ở nước ta hiện nay: Việc
nghiên cứu hàng hoá sức lao động có ý nghĩa quan trọng trong việc xây
dựng thị trường lao động ở Việt Nam. Đảng và Nhà nước ta đã thừa nhận
sức lao động là hàng hoá (khi có đủ các điều kiện trở thành hàng hoá)
cho nên việc xây dựng thị trường sức lao động là tất yếu. Phát triển nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là vấn đề cốt lõi, trọng
tâm của Đảng ta. Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở
nước ta đòi hỏi phải có sự phát triển đồng bộ các loại thị trường và Nghị
quyết Đại hội IX cũng đã nhấn mạnh phải tiếp tục tạo lập đồng bộ các
yếu tố thị trường, thị trường lao động từ chỗ không tồn tại đã bắt đầu
hình thành và phát triển.
Câu 6: Vì sao sức lao động là hàng hóa đặc biệt?
Sức lao động hàng hóa đặc biệt vì trong quá trình sử dụng nó không chỉ tạo ra một ợng
giá trị ngang bằng với giá trị của bản thân sức lao động còn tạo ra một ợng giá trị
mới lớn hơn giá trị của bản thân nó, phần lớn hơn đó được gọi là giá trị thặng dư; giá trị hàng
hoá sức lao động bao hàm cả yếu tố tinh thần và lịch sử. (phần còn lại: giống toàn bộ câu 5)
Câu 7: Phân tích các phương pháp sản xuất giá trị thặng dư, từ đó rút ra ý nghĩa của việc
nghiên cứu các phương pháp này.
Khái niệm: giá trị thặng dư là bộ phận giá trị mới dôi ra ngoài giá trị sức lao động do
người bán sức lao động (người lao động làm thuê) tạo ra thuộc về nhà bản (người mua
hàng hóa sức lao động).
Mục đích cuối cùng của nhà bản là luôn luôn tìm mọi cách để tăng giá trị thặng
(m) hay tỉ suất giá trị thặng dư (m’) đến mức tối đa nên nhà tư bản luôn tìm mọi phương pháp
để tạo ra giá trị thặng dư càng nhiều càng tốt. Để thu được nhiều gía trị thặng dư, nhà bản
đã nghĩ ra 2 phương pháp sản xuất GTTD: sản xuất GTTD tuyệt đối và sản xuất GTTD tương
đối.
- Sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối
Trong giai đoạn phát triển đầu tiên của sản xuất tư bản chủ nghĩa, khi kỹ thuật còn
thấp, tiến bộ chậm chạp thì phương pháp chủ yếu để tăng giá trị thặng dư là kéo dài ngày lao
động của công nhân.
lOMoARcPSD| 40439748
Sản xuất giá trị thặng tuyệt đối phương pháp sản xuất ra giá trị thặng được
thực hiện trên sở kéo dài tuyệt đối ngày lao động của công nhân trong điều kiện thời gian
lao động tất yếu không đổi giá trị thặng được sản xuất ra bằng phương pháp này được
gọi là giá trị thặng dư tuyệt đối.
Giả sử ngày lao động 8 giờ, trong đó 4 giờ là thời gian lao động tất yếu 4 giờ
thời gian lao động thặng dư. Điều đó có thể biểu diễn bằng sơ đồ sau đây:
Phương pháp sản xuất thông thường:
Phương pháp sản xuất GTTD tuyệt đối:
m’ đã tăng từ 100% lên thành 150%. Như vậy, khi kéo dài tuyệt đối ngày lao động trong
điều kiện thời gian lao động tất yếu không thay đổi, thì thời gian lao động thặng tăng lên,
nên tỷ suất giá trị thặng dư tăng lên. Trước đây, tỷ suất giá trị thặng dư là 100% thì bây giờ
150%.
Cách thức áp dụng: kéo dài ngày lao động (trong 1 ngày, 1 tuần, 1 tháng, 1 năm…)
Các nhà lao động luôn muốn kéo dài ngày lao động nhưng ngày lao động này một
giới hạn là luôn luôn lớn hơn thời gian lao động hội cần thiết, lại nhỏ hơn 24h, do gặp
phải một cái trở ngại chúng ta một hàng hóa đặc biệt, tồn tại trong một cơ thể sống
chính vì vậy chúng ta cần một thời gian để tái sản xuất sức lao động, do đó trong lịch sử ngày
lao động từng kéo dài đến 12h, thậm chí 16h. Do giới hạn về mặt thể lực của hàng hóa sức lao
động nên gặp phải sự phản kháng của công nhân dẫn đến đình công, bãi công của giai cấp
công nhân, Trong phạm vi giới hạn nói trên, độ dài của ngày lao động là một đại lượng không
cố định nhiều mức khác nhau. Độ dài cụ thể của ngày lao động do cuộc đấu tranh giữa
giai cấp công nhân và giai cấp sản trên sở tương quan lực lượng quyết định. Cuộc đấu
tranh của giai cấp công nhân đòi ngày lao động tiêu chuẩn, ngày làm 8 giờ đã kéo dài hàng thế
kỷ. Đó là lí do có ngày quốc tế lao động . Do vấp phải cuộc đình công bãi công của giai cấp
công nhân như vậy cho nên ngày lao động thay vì được kéo dài 12h, 14h thì giai cấp tư sản hay
nhà bản phải rút ngắn ngày lao động xuống như ban đầu 8h. Nếu rút ngắn thời gian lao
động xuống 8h thì m’ từ 150% lại rút xuống 100%. Nhà tư bản không bằng lòng với việc thỏa
lOMoARcPSD| 40439748
hiệp với giai cấp công nhân như vậy, do đó chúng ta có pp thứ hai là pp sản xuất giá trị thặng
dư tương đối.
- Sản xuất giá trị thặng dư tương đối
Không thể kéo dài ngày lao động đến 12h, 14h, sau ngày quốc tế lao động , ngày lao
động đã được rút ngắn còn đúng so với ban đầu, nếu vậy thì m’ = 100%, nhà bản tìm mọi
cách rút ngắn thời gian lao động tất yếu xuống còn 2h, thời gian lao động thặng sẽ dài ra
thành 6h, do vậy thay vì m’ = 100%, ngày lao động trở thành 167% thậm chí 300% hoặc nhiều
hơn nữa. Thay vì trở lại với cái m’ ban đầu thì m’ của nhà tư bản đã tăng lên rất nhiều. Vấn đ
là làm thế nào để chúng ta rút ngắn được thời gian lao động tất yếu. Thời gian lao động tất yếu
là thời gian mà người công nhân tạo ra giá trị bằng giá trị bản thân mình, là v = tiền lương mà
chúng ta nhận được. Muốn rút ngắn thời gian lao động tất yếu ta cần hạ thấp v, muốn hạ thấp
giá cả hay tiên lương ta cần làm giảm giá trị các liệu sinh hoạt tối thiểu để nuôi sống mình
và gia đình mình. Muốn giảm giá cả hay giá trị các tư liệu sinh hoạt tối thiểu ta cần cách thức
khác. Đó ta cần phải tăng năng suất lao động trong những ngày sản xuất ra những liệu
sinh hoạt ấy. Mặt khác, khi sản xuất tư bản chủ nghĩa phát triển đến giai đoạn đại công nghiệp
khí, kĩ thuật đã tiến bộ do đó ta cần áp dụng khoa học kĩ thuật vào sản xuất, đó chính cách
thức, con đường để chúng ta thực hiện được phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tương đối.
Phương pháp sản xuất thông thường:
Phương pháp sản xuất GTTD tương đối:
Nếu trong giai đoạn đầu của chủ nghĩa bản, sản xuất giá trị thặng tuyệt đối
phương pháp chủ yếu, thì đến giai đoạn tiếp sau, khi kỹ thuật phát triển, sản xuất giá trị thặng
tương đối phương pháp chủ yếu. Lịch sử phát triển của lực lượng sản xuất của năng
suất lao động hội dưới chủ nghĩa bản đã trải qua ba giai đoạn: hợp tác giản đơn, công
trường thủ công đại công nghiệp cơ khí, đó cũng là quá trình nâng cao trình độ bóc lột giá
trị thặng dư tương đối.
Hai phương pháp sản xuất giá trị thặng dư nói trên được các nhà tư bản sử dụng kết hợp
với nhau để nâng cao trình độ bóc lột công nhân làm thuê trong quá trình phát triển của chủ
nghĩa tư bản. Dưới chủ nghĩa tư bản, việc áp dụng máy móc không phải là để giảm nhẹ cường
độ lao động của công nhân, mà trái lại tạo điều kiện để tăng cường độ lao động. Ngày nay, việc
lOMoARcPSD| 40439748
tự động hóa sản xuất làm cho cường độ lao động tăng lên, nhưng dưới hình thức mới, sự căng
thẳng của thần kinh thay thế cho cường độ lao động cơ bắp.
Giá trị thặng dư siêu ngạch
Cạnh tranh giữa các nhà tư bản buộc họ phải áp dụng phương pháp sản xuất tốt nhất để
tăng năng suất lao động trong xí nghiệp của mình nhằm giám giá trị cá biệt của hàng hóa thấp
hơn giá trị xã hội của hàng hóa, nhờ đó thu được giá trị thặng dư siêu ngạch.
Giá trị thặng dư siêu ngạch phần giá trị thặng dư thu được do tăng năng suất lao động
cá biệt, làm cho giá trị cá biệt của hàng hóa thấp hơn giá trị thị trường của nó.
Xét từng trường hợp thì giá trị thặng dư siêu ngạch là hiện tượng tạm thời, nhanh chóng
xuất hiện rồi cũng lại nhanh chóng mất đi. Nhưng xét toàn bộ xã hội tư bản thì giá trị thặng dư
siêu ngạch hiện tượng tồn tại thường xuyên. Theo đuổi giá trị thặng siêu ngạch khát
vọng của nhà tư bản và là động lực mạnh nhất thúc đẩy các nhà tư bản cải tiến kỹ thuật, hợp lý
hóa sản xuất, tăng năng suất lao động, làm cho năng suất lao động xã hội tăng lên nhanh chóng.
Mác gọi giá trị thặng siêu ngạch là hình thức biến tướng của giá trị thặng tương đối,
giá trị thặng dư siêu ngạch và giá trị thặng dư tương đối đều dựa trên cơ sở tăng năng suất lao
động (mặc một bên dựa vào tăng năng suất lao động biệt, còn một bên dựa vào tăng
năng suất lao động xã hội).
Sự khác nhau giữa giá trị thặng siêu ngạch và giá trị thặng dư tương đối còn thể hiện
chỗ giá trị thặng ơng đối do toàn bộ giai cấp các nhà bản thu được. Xét về mặt đó,
thể hiện quan hệ bóc lột của toàn bộ giai cấp các nhà bản đối với toàn bộ giai cấp công
nhân làm thuê. Giá trị thặng siêu ngạch chỉ do một số nhà bản kỹ thuật tiên tiến thu
được. Xét về mặt đó, không chỉ biểu hiện mối quan hệ giữa bản lao động làm thuê,
mà còn trực tiếp biểu hiện mối quan hệ cạnh tranh giữa các nhà tư bản.
Từ đó, ta thấy rằng giá trị thặng siêu ngạch là động lực trực tiếp, mạnh nhất thúc đẩy
các nhà bản cải tiến kthuật, áp dụng công nghệ mới vào sản xuất, hoàn thiện tổ chức lao
động và tổ chức sản xuất để tăng năng suất lao động, giảm giá trị của hàng hóa.
Ý nghĩa của việc nghiên cứu các phương pháp này
Ta tạm gạt bỏ những mục đích và tính chất tư bản chủ nghĩa thì phương pháp sản xuất
giá trị thặng dư, nhất là phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tương đối và siêu ngạch có tác
lOMoARcPSD| 40439748
dụng mạnh mẽ, kích thích các cá nhân tập thể người lao động ra sức cải tiến kĩ thuật, cải tiến
quản lí sản xuất, tăng cường sức lao động, lực lượng sản xuất phát triển nhanh.
*** đoạn ý nghĩa t k biết viết ntn, mong các bạn đóng góp ***
Bài 8: Căn cứ, nội dung và ý nghĩa của việc phân chia tư bản thành các cặp phạm trù (Tư bản
bất biến và tư bản khả biến, tư bản cố định và tư bản lưu động)
Bài làm
Tư bản bất biến Tư bản khả biến
Căn cứ Dựa vào vai trò khác nhau của c bộ phận
của tư bản trong quá trình sản xuất
Tư bản cố định Tư bản lưu động
Phương thức chuyển dịch giá trị khác nhau của từng
bộ phận tư bản trong quá trình sản xuất
ra giá trị thặng dư
Nội - Bộ phận tư bản dung tồn
tại dưới hình thái TLSX giá
trị được lao động cụ th của
công nhân làm thuê bảo tồn và
chuyển nguyên vẹn vào sản
phẩm, tức là giá trị không biến
đổi trong quá trình sản xuất.
- Không tạo ra giá
trị thặng nhưng
điều kiện cần
thiết để quá trình tạo
ra giá trị thặng
được diễn ra -
hiệu: C, trong đó:
C = C1 + C2 C1:
máy móc, thiết bị,
nhà xưởng C2:
nguyên/nhiên - Bộ
phận bản tồn tại
dưới hình thái sức
lao động không tái
hiện ra, nhưng
thông qua lao động
trừu tượng của công
nhân tăng lên,
tức biến đổi về số
lượng trong quá
trình sản
xuất. -
nguồn
gốc tạo
ra giá trị
thặng
(m). -
hiệu: V -
dụ:
Nhà
bản bỏ
ra 10
USD để
thuê
công
nhân lao
động
trong 8
giờ
nhưng
chỉ cần
4 giờ
đồng hồ,
nhà
bản đã
thu về
10
USD từ sản
phẩm người
công nhân -
Bộ phận
bản sản xuất
tồn tại dưới
hình thái
liệu lao động
tham gia
toàn bộ vào
quá trình sản
xuất nhưng
giá trị của
chỉ chuyển
dần dần,
từng phần
vào sản
phẩm theo
mức độ khấu
hao.
- Dẫn tới hao
mòn: +Hao mòn hữu
hình: sự mất dần về GT
GTSD do c động
tự nhiên gây ra.
+ Hao mòn hình: sự
mất giá đơn thuần do
sựu tăng lên NSLD đ
sản xuất TLLĐ. - hiệu:
C1 - dụ: Để sản xuất ra
đồ gỗ mỹ nghệ, nhà bản
phải mua máy -Bộ phận
bản sản xuất, tồn tại dưới
hình thái sức lao động,
nguyên vật liệu, vật liệu
phụ, giá trị của được
chuyển một lần, toàn phần
vào trong sản phẩm khi kết
thúc từng quá trình sản
xuất.
- Việc tăng tốc độ
chuchuyển của bản lưu
động làm cho tỉ suất
khối lượng giá trị thặng
hàng năm tăng lên. -
hiệu: C2 + V - dụ: Trong
xưởng sản xuất sợi, nhà
bản bỏ ra 100 USD mua
bông và 20 USD thuê công
nhân dệt sợi làm 8 giờ.
Bình thường, người công
nhân làm trong 4 giờ, nhà
bản đã thu vđủ tiền vốn
tỉ suất giá trị thặng dư
vật liệu làm ra.Vượt qua móc, thiết bị nhà 100%. Nhưng khi áp dụng
- dụ: Để sản xuất điểm bù lại giá trị xưởng (máy cưa, máy tiến bộ khí thuật, đẩy sợi, nhà tư bản phải
sức lao động này, xẻ, máy cắt, bào, nhanh quá trình chu ứng ra số tiền 50 người công nhân đục…) chuyển,
nhà tư bản có thể USD để mua 50 kg bắt đầu tạo ra giá thu hồi được vốn sau 3 giờ bông, 3 USD hao trị thặng
lOMoARcPSD| 40439748
cho làm việc của công nhân mòn máy móc để nhà bản tỉ suất giá trị thặng lúc kéo 50 kg bông
này là 167 %. thành sợi. Tư bản này gọi là tư bản bất biến
Ý nghĩa Trong quá trình sản xuất, tư bản bất biến Việc phân chia tuw bản cố định và tư bản lưu động chỉ là
điều kiện để sinh ra giá trị thặng dư có ý nghĩa quan trọng trong việc quản kinh tế. Nó còn
bản khả biến mới nguồn gốc tạo cơ sở để quản lý, sử dụng vốn cố định và vốn lưu ra giá trị
thặng dư. Việc phân chia này động một cách hiệu quả. Việc nghiên cứu 2 phạm trù phản ánh nguồn
gốc sinh ra của giá trị này giúp ta hiểu được tăng tốc độ chu chuyển của tư thặng dư, vạch rõ bản
chất bóc lột của bản cố định một biện pháp quan trọng để tăng quỹ chủ nghĩa bản, chỉ lao
động của công khấu hao tài sản cố định làm cho lượng tư bản sử nhân làm thuê mới tạo ra giá trị
thặng dư dụng tăng lên, tránh được thiệt hại hao mòn. Nhờ đó cho nhà tư bản. mà có điều kiện đổi
mới và nâng cấp thiết bị nhanh chóng hơn
Câu 9: Phân tích tính tất yếu khách quan của việc phát triển kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là phù hợp với tính
quy luật phát triển khách quan
Các điều kiện phát triển KTTT ở Việt Nam đang tồn tại khách quan
KTTT không phải là một mô hình kinh tế mới, mà chính là một giai đoạn cao
hơn của KTHH. Để sản xuất hàng hóa ra đời thì cần hai điều kiện. Thứ nhất là
phân công lao động xã hội, thứ hai là sự tách biệt tương đối về kinh tế giữa người
sản xuất hàng hóa. Trong thời kì hiện nay của VN thì hai điều kiện đó đang tồn tại
một cách khách quan: phân công lao động thì càng ngày càng sâu sắc, chuyên môn
hóa hơn; về sự tách biệt tương đối về kinh tế giữa người sản xuất hàng hóa càng
ngày càng đa dạng hóa các hình thức sở hữu. Vì vậy các điều kiện đó cứ phát triển,
đến một giai đoạn nhất định sẽ dẫn đến sự phát triển của nền KTHH tất yếu phát
triển thành nên KTTT ở VN.
Sự lựa chọn mô hình KTTT định hướng XHCN là phù hợp với xu thế của thời
đại và đặc điểm của sự phát triển dân tộc.
Trong sự tồn tại hiện thực sẽ không thể có một nền KTTT trừu tượng, chung
chung cho mọi hình thái kinh tế - xã hội, mọi quốc gia, dân tộc.
Ngay như trong một chế độ TBCN, kinh tế thị trường của mỗi quốc gia, dân tộc
cũng khác nhau, mang đặc tính khác nhau. Tuy nhiên, nước ta chọn mô hình KTTT
định hướng XHCN mà không theo con đường KTTT tư bản chủ nghĩa, vì trong
lOMoARcPSD| 40439748
quá trình phát triển, mô hình KTTT TBCN mặc dù có nhiều mặt tích cực nhưng
cũng nhiều mặt hạn chế, tiêu cực (phân hóa giàu nghèo quá sâu sắc,…). Cho nên
nước ta chọn mô hình KTTT định hướng XHCN này để khắc phục giải quyết
những mặt khuyết tật mà mô hình KTTT TBCN đã để lại.
Xã hội loài người phát triển theo 5 hình thái kinh tế xã hội, nhận thấy
HTKTXH CSCN có giai đoạn đầu là XHCN nó cao hơn phương thức sản xuất
TBCN. Cho nên VN theo mô hình này nó đúng với xu hướng của thời đại, đúng
với nấc thang phát triển của HTKTXH.
Do tính ưu việt của KTTT định hướng XHCN trong thúc đẩy phát triển đối với
VN.
KTTT là phương thức phân bổ nguồn lực hiệu quả, là động lực thúc đẩy LLSX phát
triển
Dưới tác động của các quy luật thị trường nền kinh tế luôn phát triển theo
hướng năng động, kích thích tiến bộ kĩ thuật – công nghê, nâng cao năng suất lao
động, chất lượng sản phẩm và hạ giá thành. Vì vậy, sự phát triển của KTTT không
hề mâu thuẫn với mục tiêu của CNXH.
KTTT có khuyết tật nên cần sự điều tiết của nhà nước pháp quyền XHCN
Tuy nhiên, trong quá trình phát triển KTTT cần chú ý tới những thất bại và
khuyết tật để có sự can thiệp, điều tiết kịp thời của nhà nước pháp quyền XHCN.
KTTT định hướng XHCN phù hợp với nguyện vọng của nhân dân, mong muốn
dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Phát triển KTTT là sự tất yếu khách quan để hướng tới các giá trị đó.
Trên thế giới có nhiều mô hình KTTT, nhưng việc phát triển ở các quốc gia
khác nhau là khác nhau. Có nước phát triển được dân giàu, nước mạnh, nhưng
không dân chủ, kém văn minh. Cho nên, phấn đấu vì dân giàu, nước mạnh, xã hội
dân chủ, công bằng, văn minh là khát vọng của nhân dân VN. Vì vậy, phát triển
KTTT là sự tất yếu khách quan để hướng tới các giá trị đó.
Mặt khác, KTTT sẽ còn tồn tại lâu dài ở nước ta là một tất yếu khách quan, cần thiết cho
công cuộc xây dựng và phát triển.
lOMoARcPSD| 40439748
Bởi lẽ, phát triển KTTT định hướng XHCN sẽ phá vỡ tính chất tự cấp, tự túc
của nền kinh tế; đẩy mạnh phân công lao động xã hội, phát triển ngành nghề; tạo
việc làm cho người lao động; thúc đẩy LLSX phát triển mạnh mẽ, khuyến khích
ứng dụng kĩ thuật công nghệ mới đảm bảo tăng năng suất lao động, tăng số lượng,
chất lượng, chủng loại hàng hóa, dịch vụ góp phàn từng bước cải thiện và nâng cao
đời sống củ nhân dân; mở rộng giao lưu kinh tế; phân bổ và sử dụng các nguồn lực
xã hội một cách tiết kiệm và hợp lí,…
Câu 10: Phân tích các đặc trưng cơ bản của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt
Nam.
Trả lời:
- Khái niệm : Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là nền kinh tế vận hành theo các quy
luật của thị trường, đồng thời góp phần hướng tới từng bước xác lập một xã hội mà ở đó dân giàu
nước manh, dân chủ , công bằng, văn minh, có sự điều tiết của Nhà nước do Đảng Cộng sản Việt
Nam lãnh đạo.
- Các đặc trưng cơ bản của nền KTTT định hướng XHCN ở VN:
+ Về hệ thống mục tiêu phát triển nền kinh tế thị trường định hướng hội chủ nghĩa
nước ta: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI đã chỉ rõ: phát triển nền kinh tế thị
trường định hướng hội chủ nghĩa nước ta nhằm mục tiêu phát triển kinh tế - hội của
đất nước, thực hiện: “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Để thực hiện được
mục tiêu đó trong phát triển nền kinh tế thị trường, phải tạo điều kiện để giải phóng mạnh mẽ
sức sản xuất và không ngừng phát triển lực lượng sản xuất; phát triển lực lượng sản xuất hiện
đại gắn với xây dựng quan hệ sản xuất mới XHCN phù hợp trên cả ba mặt: sở hữu, quản lý và
phân phối; phát triển kinh tế thị trường để từng bước xây dựng hạ tầng kinh tế cho chủ nghĩa
xã hội; cải thiện và nâng cao đời sống nhân dân.
Mục tiêu kinh tế - hội - văn hóa nền kinh tế thị trường định hướng hội chủ
nghĩa ở nước ta phải đạt là:
- Làm cho dân giàu: Nội dung căn bản của dân giàu là mức bình quân GDP đầu người
tăng nhanh trong một thời gian ngắn và khoảng cách giàu, nghèo trong xã hội ngày càng
được thu hẹp.
- Làm cho nước mạnh : Thể hiện ở mức đóng góp to lớn của nền kinh tế thị trường cho
ngân sách quốc gia; sự gia tăng ngành kinh tế mũi nhọn; ở sự sử dụng tiết kiệm, có hiệu
quả các nguồn tài nguyên quốc gia; ở sự bảo vệ môi trường sinh thái, bảo vệ các bí mật
quốc gia về tiềm lực kinh tế, khoa học, công nghệ và an ninh quốc phòng. - Làm cho xã
hội công bằng, văn minh: Thể hiện ở việc xử lý các quan hệ lợi ích ngay trong nội bộ nền
kinh tế thị trường, ở đó việc góp phần to lớn vào giải quyết các vấn đề hội, ở việc cung
ứng các hàng hóa và dịch vụ có giá trị không chỉ về kinh tế mà còn có giá trị cao về văn
hóa, xã hội.
Về mục tiêu chính trị : Làm cho xã hội dân chủ, biểu hiện ở chỗ dân chủ hóa nền kinh
tế, mọi người, mọi thành phần kinh tế quyền tham gia vào hoạt động kinh tế, vào
sản xuất kinh doanh, có quyền sở hữu hợp pháp về tài sản của mình; quyền của người
sản xuất và người tiêu dùng được bảo vệ trên cơ sở pháp luật của nhà nước.
lOMoARcPSD| 40439748
Về chế độ sở hữu các thành phần kinh tế: Nền kinh tế nhiều thành phần, với
nhiều hình thức sở hữu. Các thành phần kinh tế đều bộ phận cấu thành quan trọng
của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, cùng phát triển lâu dài, hợp tác
và cạnh tranh lành mạnh với nhau trên sở pháp luật của nhà nước, trong đó kinh tế
nhà nước giữ vai trò chủ đạo kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng
trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân; chế độ công hữu về tư liệu sản
xuất chủ yếu, từng bước được xác lập và sẽ chiếm ưu thế tuyệt đối khi chủ nghĩa xã hội
về cơ bản được xây dựng xong.
Về chế độ phân phối: Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước
ta, thực hiện phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế là chủ yếu; đồng thời
các hình thức phân phối khác nữa (phân phối theo vốn, theo tài năng cùng các nguồn
lực khác đóng góp vào sản xuất kinh doanh), vừa khuyến khích lao động, vừa bảo đảm
phúc lợi xã hội cơ bản, bảo đảm sự phân phối công bằng, hợp lý và hạn chế sự bất bình
đẳng trong xã hội.
Về vai trò quản lý của nhà nước xã hội chủ nghĩa: Nền kinh tế thị trường định hướng
hội chủ nghĩa, sự quản điều tiết nền kinh tế của nhà nước pháp quyền hội
chủ nghĩa đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Vì vậy, sự quản của
nhà nước trong nền kinh tế thị trường phải định hướng cho nền kinh tế phát triển
hiệu quả trên cơ sở đảm bảo lợi ích quốc gia, lợi ích của nhân dân lao động thông qua
hệ thống pháp luật, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách phát triển kinh tế,
hội. Đồng thời, có sử dụng cơ chế thị trường (vận dụng các quy luật kinh tế thị trường
để đưa ra những công cụ tác động vào thị trường) kích thích sản xuất, giải phóng sức
sản xuất, phát huy mặt tích cực và hạn chế mặt tiêu cực ca cơ chế thị trường. Sự
quản của nhà nước hội chủ nghĩa trong nền kinh tế thị trường nhằm giải quyết
mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ công bằng hội, cải thiện đời
sống nhân dân. Nhà nước thực hiện chính sách xã hội, một mặt, khuyến khích làm giàu
hợp pháp, mặt khác phải thực hiện xóa đói, giảm nghèo.
Về nguyên tắc giải quyết các mối quan hệ chủ yếu : Kết hợp ngay từ đầu giữa lực lượng
sản xuất với quan hệ sản xuất, bảo đảm giải phóng sức sản xuất; xây dựng lực lượng
sản xuất kết hợp với củng cố hoàn thiện quan hệ sản xuất mới XHCN, nhằm phục
vụ cho phát triển sản xuất công nghiệp hóa, hiện đại a đất nước; giữa phát triển
sản xuất với từng bước cải thiện và nâng cao đời sống nhân dân; giải quyết tốt các vấn
đề xã hội và công bằng xã hội, ngăn chặn các tnạn xã hội; giải quyết tốt các nhiệm vụ
chính trị, xã hội, văn hóa, môi trường và an ninh, quốc phòng.
Về tính cộng đồng và tính dân tộc : Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở
nước ta mang tính cộng đồng cao theo truyền thống của hội Việt Nam, phát triển
kinh tế thị trường có sự tham gia của cộng đồng và vì lợi ích của cộng đồng, hướng tới
xây dựng một cộng đồng hội Việt Nam giàu có, đầy đủ về vật chất, phong phú về
tinh thần, dân chủ, công bằng, văn minh, đảm bảo cuộc sống ấm no hạnh phúc cho
nhân dân.
Về quan hệ quốc tế : Kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta dựa vào sự phát
huy tối đa nguồn lực trong nước triệt để tranh thnguồn lực nước ngoài theo phương
châm “Kết hợp sức mạnh của dân tộc và sức mạnh của thời đại” và sử dụng các nguồn
lực đó một cách hợp lý, đạt hiệu quả cao, để phát triển nền kinh tế đất nước với tốc độ
nhanh, hiện đại và bền vững.
lOMoARcPSD| 40439748
🡪 Như vậy, nền kinh tế thị trường định hướng hội chủ nghĩa nước ta vừa mang
tính phổ biến (đặc trưng chung) của mọi nền kinh tế thị trường; vừa có đặc trưng riêng
của tính định hướng xã hội chủ nghĩa. Hai nhóm nhân tố này cùng tồn tại, kết hợp
bổ sung cho nhau. Trong đó, nhóm đặc trưng chung đóng vai trò là động lực thúc đẩy
nền kinh tế phát triển, nhóm đặc trưng riêng đóng vai trò hướng dẫn nền kinh tế phát
triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
**** Mình thấy câu trả lời này rất hay, rất phù hợp với thời gian 60 phút 1 câu. Đây là
tài liệu nh thấy ở trên mạng nên đã coppy về. Các bạn có thể học các ý như trên (lấy
thêm ví dụ càng tốt), tuy nhiên có 1 số ý không giống trong giáo trình lắm thì các bạn
có thể xem lại giáo trình và sửa sao cho phù hợp với mình nhất.
Câu 11: Phân tích vai trò của cách mạng công nghiệp đối với tiến trình công nghiệp hóa, hiện
đại hóa ở nước ta; từ đó rút ra ý nghĩa của việc nghiên cứu vấn đề này.
1. Khái niệm Cách mạng công nghiệp:
Cách mạng công nghiệp là những bước phát triển nhảy vọt về chất trình độ của tư liệu lao
động trên cơ sở những phát minh đột phá về kỹ thuật và công nghệ trong quá trình phát triển
của nhân loại kéo theo sự thay đổi căn bản về phân công lao động xã hội cũng như tạo bước
phát triển năng suất lao động cao hơn hẳn nhờ áp dụng một cách phổ biến những tính năng
mới trong kỹ thuật – công nghệ đó vào đời sống xã hội.
2. Khái niệm công nghiệp hóa, hiện đại hóa:
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động
sản xuất kinh doanh, dịch vụ và quản kinh tế - xã hội, từ sử dụng sức lao động thù công
chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động với công nghệ, phương tiện, phương pháp
tiên tiến hiện đại; dựa trên phát triển của công nghiệp tiến bộ khoa học công nghệ, nhằm
tạo ra năng suất lao động xã hội cao.
3. Vai trò của cách mạng công nghiệp đối với tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta.
a. Thúc đẩy sự phát triển lực lượng sản xuất
Trước hết, phải khẳng định cách mạng công nghiệp đóng một vai trò vô cùng to lớn trong
tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại a cụ thể Việt Nam. Bởi lẽ, cách mạng công
nghiệp thúc đẩy phát triển lực lượng sản xuất, là yếu tố quan trọng nhất trong qtrình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa. Trong ch mạng công nghiệp, đòi hỏi chất lượng nguồn nhân lực
cao, do đó, là một cơ hội cho quốc gia đẩy mạnh nâng cao đào tạo nguồn nhân công. Điều
đó tạo điều kiện cho nước ta, một nước vẫn còn lạc hậu, tiếp cận đến với những phát minh tiên
tiến, đến những thành tựu khoa học kỹ thuật hiện đại của thế giới, cùng với đó áp dụng những
thành tựu đó vào tiến trình nâng cao liệu sản xuất nói riêng, cũng như mọi mặt trong quá
trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Ngoài ra, cách mạng công nghiệp tạo hội cho c nước phát triển nhiều ngành kinh tế
những ngành mới thông qua mở rộng ứng dụng những thành tựu về công nghệ thông tin,
công nghệ số, công nghệ điều khiển, công nghệ sinh học. Cách mạng công nghiệp chuyển dịch
cấu kinh tế mới theo hướng hiện đại, hội nhập quốc tế và hiệu quả cao, điều này mang lại
cơ hội lớn cho nước ta học hỏi các nước phát triển trên thế giới.
lOMoARcPSD| 40439748
b. Thúc đẩy hoàn thiện quan hệ sản xuất
Các cuộc cách mạng công nghiệp tạo ra sự phát triển nhảy vọt về chất trong lực lượng sản
xuất và sự phát triển này tất yếu dẫn đến quá trình điều chỉnh, phát triển và hoàn thiện quan hệ
sản xuất xã hội và quản trị phát triển.
Cụ thể Việt Nam, Chúng ta đang trên con đường xác lập quan hệ sản xuất của XHCN,
cùng với đó đang trên tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, với lực lượng sản xuất đang
trên con đường tiến bộ và phát triển hơn thì mục tiêu ở nước tac lập một quan hệ sản xuất
phù hợp với lực lượng sản xuất đang và sẽ rất phát triển. Cùng với đó, ta xây dụng quan hệ sản
xuất công hữu về liệu sản xuất, phân phối theo lao động phúc lợi hội. Và cách mạng
công nghiệp là động lực thúc đẩy nước ta hoàn thiện quan hệ sản xuất ở nước ta trên cả ba mặt:
quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất, quan hệ tổ chức quản lý và quan hệ phân phối, trao đổi.
c. Thúc đẩy đổi mới phương thức quản trị phát triển
Điều này thể hiện khá rõ trong nền cách mạng công nghiệp 4.0 bao gồm IOT, Data Science
(Khoa học dữ liệu), (AI) trí tuệ nhân tạo,… Điều này tạo động lực cho nước ta thay đổi trong
phương thức quản trị phát triển. Ví du như phương thức quản trị điều hành nhà nước được
thực hiện bằng hạ tầng số internet. Đồng thời, các quan công quyền thể dựa trên hạ
tầng công nghệ số để tối ưu hóa hệ thống giám sát điều hành hội theo hình “Chính
phủ điện tử”, “đô thị thông minh”,… Bmáy hành chính nhà nước vậy phải cải tổ theo
hướng minh bạch hiệu quả. Cách mạng công nghiệp 4.0 cũng tác động mạnh mẽ đến phương
thức quản trị và điều hành doanh nghiệp. Sự ứng dụng của công nghệ khiến doanh nghiệp phải
thay đổi cách thức thiết kế, tiếp thị và cung ứng ng hóa dịch vụ theo cách mới, bắt nhịp với
không gian số.
Việc này yêu cầu nước ta phải có hệ thống thúc đẩy sáng tạo trong các phương thức quản lý,
nguồn nhân lực tri thức hơn có khả năng thích ứng cao đối với những sự thay đổi trong nền cách
mạng công nghiệp.
4. Ý nghĩa của việc nghiên cứu vấn đề này
Việc nghiên cứu vấn đề cách mạng công nghiệp mang một ý nghĩa vô cùng quan trọng đối
với tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nước ta. Nước ta đang trên con đường quá độ
lên chủ nghĩa xã hội, nước ta cũng đang từng bước tiếp cận đến những thành tựu khoa học kỹ
thuật của thế giới qua các cuộc cách mạng công nghiệp và tích cực áp dụng và học hỏi để phát
triển lực lượng sản xuất bao gồm liệu sản xuất và nguồn nhân lực nhất trong kỷ nguyên
4.0, một kỷ nguyên vẫn còn khá mới với Việt Nam thì việc nghiên cứu vấn đề này là vô cùng
cần thiết.
Cùng với đó, để xác lập một quan hệ sản xuất phù hợp nhất không chỉ cho XHCN mà còn
cho lực lượng sản xuất đang tiến bộ của Việt Nam trong thời kỳ cách mạng công nghiệp 4.0,
Chúng ta càng phải đẩy mạnh việc hiểu về kỷ nguyên công nghệ số này. Và chúng ta cũng
đang cố gắng phát huy lợi thế của công nghệ trong việc quản trị của Nhà Nước, doanh nghiệp
hay tổ chức xã hội,…
Câu 12. Phân tích những tác động của hội nhập kinh tế quốc tế đến sự phát triển kinh tế của
Việt Nam.
lOMoARcPSD| 40439748
a) Khái niệm: Hội nhập kinh tế quốc tế của một quốc gia là quá trình quốc gia đó thực hiện gắn
kết nền kinh tế của mình với nên kinh tế thế giới dựa trên sự chia sẻ lợi ích đồng thời tuân thủ
các chuẩn mực quốc tế chung.
b) Nội dung:
- Chuẩn bị các điều kiện để hội nhập hiệu thành công
- Thực hiện đa dạng các hình thức, mức độ hội nhập kinh tế quốc tế
c) Tác động của hội nhập kinh tế quốc tế đến phát triển của Việt Nam:
1. Tác động tích cực:
Hội nhập kinh tế quốc tế không chỉ là tất yếu mà còn đem lại những lợi ích to lớn
trong phát triển của các nước và những lợi ích kinh tế khác nhau cho cả người sản
xuất và người tiêu dùng.
- Tạo điều kiện mở rộng thị trường, tiếp thu khoa học công nghệ, vốn, chuyển dịch
cơ cấu kinh tế trong nước.
- Tạo điều kiện để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực
- Tạo điều kiện thúc đẩy hội nhập văn hóa, chính trị, củng cố quốc phòng an ninh.
2. Tác động tiêu cực:
- Làm gia tăng sự cạnh tranh gay gắt
- Làm gia tăng sự phụ thuộc của nền kinh tế
- Phân phối không công bằng lợi ích và rủi ro
- Chuyển dịch cơ cấu kinh tế bất lợi
- Thách thức đối với quyền lực nhà nước
- Bản sắc dân tộc và văn hóa bị xói mòn
- Gia tăng nguy cơ khủng bố, buôn lậu, dịch bệnh.
Đầy đủ phần c (trong giáo trình, t k cắt đc)
· Tác động tích tực
Hội nhập kinh tế quốc tế không chỉ tất yếu còn đem lại những lợi ích to lớn trong
phát triển của các nước và những lợi ích kinh tế khác nhau cho cả người sản xuất và ngưòi tiêu
dùng. Cụ thể là:
- Hội nhập kinh tế quốc tế thực chất mở rộng thị trường để thúc đẩy thương mạiphát
triển, tạo điều kiện cho sản xuất trong nước, tận dụng cảc lợi thế kinh tế của nước ta trong phân
lOMoARcPSD| 40439748
công lao động quốc tế, phục vụ cho mục tiêu tăng trưởng kinh tế nhanh, bền vững và chuyển
đổi mô hình tăng trưởng sang chiều sâu với hiệu quả cao.
- Hội nhập kinh tế quốc tế tạo động lực thúc đẩy chuyển dịch cấu kinh tế
theohướng hợp lý, hiện đại và hiệu quả hơn, qua đó hình thành các lĩnh vực kinh tế mũi nhọn
để nâng cao hiệu quả và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế, của các sản phẩm doanh nghiệp
trong nước; góp phần cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, làm tăng khả năng thu hút khoa
học công nghệ hiện đại và đầu tư bên ngoài vào nên kinh tế.
- Hội nhập kinh tế quốc tế giúp nâng cao trình độ của nguồn nhân lực tiềm lựckhoa
học công nghệ quốc gia. Nhờ đẩy mạnh hợp tác giáo dục - đào tạo và nghiên cứu khoa học với
các nước nâng cao khả năng hấp thụ khoa học công nghệ hiện đại tiếp thu công nghệ
mới thông qua đầu trực tiếp nước ngoài và chuyển giao công nghệ nhằm nâng cao chất lượng
nên kinh tế.
- Hội nhập kinh tế quốc tế làm tăng hội cho các doanh nghiệp trong nước tiếp
cậnthị trường quốc tế, nguồn tín dụng các đối tác quốc tế để thay đổi công nghệ sản xuất,
tiếp cận với phương thức quản trị phát triển để nâng cao năng lực cạnh tranh quốc tế.
- Hội nhập kinh tế quốc tế tạo hội để cải thiện tiêu dùng trong nước, người dânđược
thụ hưởng các sản phẩm hàng hóa, dịch vụ đa dạng về chủng loại, mẫu chất lượng với
giá cạnh tranh; được tiếp cận giao lưu nhiều hơn với thế giới bên ngoài, từ đó thêm
hội tìm kiếm việc làm.
- Hội nhập kinh tế quốc tế tạo đỉều kiện để các nhà hoạch định chính ch nắm bắttốt
hơn tình hình và xu thế phát triển của thế giới, từ đó xây dựng điều chỉnh chiến lược phát
triển hợp lý, đề ra chính sách phát triển phù hợp cho đất nước.
- Hội nhập kinh tế quốc tế là tiền đề cho hội nhập về văn hóa, tạo điều kiện để tiếpthu
những giá trị tinh hoa của thế giới, bổ sung những giá trị và tiến bộ của văn hóa, văn minh của
thế giới để làm giàu thêm văn hóa dân tộc và thúc đẩy tiến bộ xã hội.
- Hội nhập kinh tế quốc tế còn tác động mạnh mẽ đến hội nhập chính trị, tạo điềukiện
cho cải cách toàn diện hướng tới xây dựng một nhà nước pháp quyền hội chủ nghĩa, xây
dựng một xã hội mở, dân chủ, văn minh.
- Hội nhập tạo điều kiện đmỗi nước tìm cho mình một vị trí thích hợp trong trật
tựquốc tế, nâng cao vai trò, uy tín vị thế quốc tế của nước ta trong các tổ chức chính trị, kinh
tế toàn cầu.
- Hội nhập kinh tế quốc tế giúp đảm bảo an ninh quốc gia, duy trì hòa bình, ổn địnhở
khu vực quốc tế để tập trung cho phát triển kinh tế hội; đồng thời mở ra khả năng phối
hợp các nỗ lực và nguồn lực của các nước để gỉải quyết những vấn đề quan tâm chung như môi
trường, biến đối khí hậu, phòng chống tội phạm và buôn lậu quốc tế.
· Tác động tiêu cực
- Hội nhập kinh tế quốc tế không chỉ đưa lại những lợi ích, trái lại, cũng đặt ranhiều
rủi ro, bất lợi và thách thức, đó là:
lOMoARcPSD| 40439748
- Hội nhập kinh tế quốc tế làm gia tăng sự cạnh tranh gay gắt khiến nhiều
doanhnghiệp và ngành kinh tế nước ta gặp khó khăn trong phát triển, thậm chí là phá sản, gây
nhiều hậu quả bất lợi vê mặt kinh tế - xã hội.
- Hội nhập kinh tế quốc tế thể làm gia tăng sự phụ thuộc của nền kinh tế quốc
giavào thị trường bên ngoài, khiến nền kinh tế dễ bị tổn thương trước những biến động khôn
lường về chính trị, kinh tế và thị trường quốc tế.
- Hội nhập kinh tế quốc tế có thể dẫn đến phân phối không công bằng lợi ích và rủiro
cho các nước các nhóm khác nhau trong hội, do vậy nguy làm tăng khoảng cách
giàu nghèo và bất bình đẳng xã hội.
- Trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, các nước đang phát triển như nước ta
phảiđối mặt với nguy cơ chuyển dịch cơ cấu kinh tế tự nhiên bất lợi, do thiên hướng tập trung
vào các ngành sử dụng nhiều tài nguyên nhiều sức lao động, nhưng có giá trị gia tăng thấp.
vị trí bất lợi thua thiệt trong chuỗi giá trị toàn cầu. Do vậy, dễ trở thành bãi thải công nghiệp
và công nghệ thấp, bị cạn kiệt nguồn tài nguyên thiên nhiên và hủy hoại môi trường ở mức độ
cao.
- Hội nhập kinh tế quốc tế thể tạo ra một số thách thức đối với quyền lực Nhànước,
chủ quyền quốc gia và phát sình nhiều vấn đề phức tạp đối với việc duy trì an ninh và ổn định
trật tự, an toàn xã hội.
- Hội nhập thể làm gia tăng nguy bản sắc dân tộc và văn hóa truyền thống
ViệtNam bị xói mòn trước sự “xâm lăng” của văn hóa nuớc ngoài.
- Hội nhập thể làm tăng nguy gia tăng của tình trạng khủng bố quốc tế, buônlậu,
tội phạm xuyên quốc gia, dịch bệnh, nhập cư bất hợp pháp…
- Tóm lại, hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay vừa khả năng tạo ra những hộithuận
lợi cho sự phát triển kinh tế, vừa thế dẫn đến những nguy to lớn hậu quả của chúng
rất khó lường. Vì vậy, tranh thủ thời cơ, vượt qua thách thức trong hội nhập kinh tế vấn
đề cần phải đặc biệt coi trọng.
| 1/21

Preview text:

lOMoAR cPSD| 40439748
ĐỀ CƯƠNG KINH TẾ CHÍNH TRỊ Câu
1:ĐỀ CƯƠNG KINH TẾ CHÍNH TRỊ Câu 1:
1)Điều kiện ra đời và tồn tại của sản xuất hàng hóa
Hàng hóa ra đời, tồn tại và phát triển dựa vào hai điều kiện:
a)Phân công lao động xã hội là sự phân chia lao động xã hội theo các ngành, nghề
khác nhau của nền sản xuất xã hội. Kéo theo sự phân công lao động xã hội là sự chuyên môn
hóa sản xuất; mỗi người sản xuất chỉ tạo ra một vài loại sản phẩm nhất định, nhưng nhu cầu
của cuộc sống đòi hỏi phải có nhiều loại sản phẩm khác nhau, do đó họ cần đến sản phẩm của
nhau, buộc phải trao đổi với nhau để thỏa mãn nhu cầu của mỗi người. Phân công lao động xã
hội là cơ sở và tiền đề của sản xuất hàng hóa. Phân công lao động càng phát triển thì sản xuất
và trao đổi hàng hóa càng mở rộng và đa dạng hơn.
b)Sự tách biệt tương đối về mặt kinh tế của những người sản xuất. Trong lịch sử ra đời
của sản xuất hàng hóa, sự tách biệt này là do quan hệ sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất, mà
khởi thủy là chế độ tư hữu nhỏ về tư liệu sản xuất, đã đưa người sở hữu tư liệu sản xuất là
người sở hữu sản phẩm lao động. Như vậy, chính quan hệ sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất
đã làm cho những người sản xuất độc lập, đối lập với nhau, nhưng hộ lại nằm trong hệ thống
phân công lao dộng xã hội nên họ phụ thuộc lẫn nhau về sản xuất và tiêu dùng. Trong điều kiện
ấy người nà muốn tiêu dùng sản phẩm của người khác thông qua trao đổi mua – bán sản phẩm của nhau.
Trên đây là hai điều kiện cần và đủ của sản xuất hàng hóa. Thiếu một trong hai điều
kiện này thì không có sản xuất hàng hóa và sản phẩm lao động không mang hình thái hàng hóa.
2)Vì sao hàng hóa có hai thuộc tính?
Sở dĩ hàng hóa có hai thuộc tính là giá trị sử dụng và giá trị vì lao động sản xuất hàng
hóa có tính hai mặt. Đó là lao động cụ thể và lao động trừu tượng
a)Lao động cụ thể là lao động có ích dưới một hình thức cụ thể của những nghề
nghiệp chuyên môn nhất định.
Mỗi một lao động cụ thể có mục đích, phương pháp, công cụ lao động, đối tượng lao
động và kết quả lao động riêng. Chính những cái riêng đó phân biệt các loại lao động cụ thể
khác nhau. Chẳng hạn, lao động của thợ may và lao động của thợ mộc là hai loại lao động cụ
thể khác nhau. Lao động cụ thể tạo ra giá trị sử dụng của hàng hóa.
b)Lao động trừu tượng là lao động của người sản xuất hàng hóa đã gạt bỏ hình thức
biểu hiện cụ thể của nó để quy về các chung đồng nhất, đó là sự tiêu phí sức lao động, tiêu hao
sức cơ bắp, thần kinh của con người. Nếu lao động cụ thể tạo ra giá trị sử dụng thì lao động
trừu tượng tạo ra giá trị của hàng hóa. Có thể nói, giá trị của hàng hóa là lao động trừu tượng
của người sản xuất hàng hóa, kết tinh trong hàng hóa. Đó cũng là mặt chất của giá trị hàng hóa. Câu 2:
Phân tích hai thuộc tính của hàng hóa
a)Định nghĩa hàng hóa: Hàng hóa là sản phẩm của lao động, có thể thỏa mãn nhu cầu lOMoAR cPSD| 40439748
nào đó của con người thông qua trao đổi, mua – bán
b)Hàng hóa có hai thuộc tính là giá trị sử dụng và giá trị:
-Giá trị sử dụng của hàng hóa: là công dụng của sản phẩm có thể thỏa mãn một nhu cầu
nào đó của con người, có thể làm nhu cầu cho tiêu dùng cá nhân, lương thực, thực phẩm… có
thể là nhu cầu cho tiêu dùng sản xuất: máy móc, nguyên liệu, nhiên liệu… Bất cứ hàng hóa nào
cũng có một hoặc một số công dụng nhất định và chính công dụng đó làm cho hàng hóa có giá
trị sử dụng; giá trị sử dụng của hàng hóa được phát hiện dần trong quá trình của khoa học, kĩ
thuật và lực lượng sản xuất. Giá trị sử dụng chỉ thể hiện ở việc sử dụng hay tiêu dùng, là nội
dung vật chất của của cải. Giá trị sử dụng của hàng hóa là do thuộc tính tự nhiên của hàng hóa
quy định, nó là một phạm trù vĩnh viễn. Giá trị sử dụng không phải cho bản thân người sản
xuất hàng hóa, mà là cho người khác, cho xã hội thông qua trao đổi mua bán. Trong nền kinh
tế hàng hóa, giá trị sử dụng là vật mang giá trị trao đổi.
-Giá trị của hàng hóa. Muốn hiểu được giá trị của hàng hóa phải bắt đầu nguyên cứu
giá trị trao đổi. Giá trị trao đổi là quan hệ tỉ lệ về lượng mà giá trị sử dụng này trao đổi với giá
trị sử dụng khác. Ví dụ: 10 kg thóc đổi lấy 1 m vải. Vải và thóc là hai hàng hóa có giá trị sử
dụng khác nhau về chất, nhưng chúng có thể trao đổi với nhau theo tỉ lệ nào, vì chúng đều là
sản phẩm của lao động, đều có lao động kết tinh trong đó. Vì vậy, khi người ta trao đổi hàng
hóa cho nhau thực chất là trao đổi lao động của mình ẩn dấu trong những hàng hóa đấy.
Như vậy, giá trị của hàng hóa là lao động xã hội của người sản xuất ra hàng hóa kết tinh
trong hàng hóa. Còn giá trị trao đổi chẳng qua là hình thức biểu hiện ra bên ngoài của giá trị,
giá trị là nội dụng , là cơ sở của giá trị trao đổi. Đồng thời, giá tri jbiểu hiện mối quan hệ giữa
những người sản xuất hàng hóa. Chính vì vậy, giá trị là phạm trù chỉ tồn tại trong kinh tế hàng hóa
c)Mối quan hệ giữa hai thuộc tính của hàng hóa
Hai thuộc tính của hàng hóa quan hệ ràng buộc lẫn nhau, vừa thống nhất vừa mâu thuẫn với nhau.
Sự thống nhất giữa hai thuộc tính của hàng hóa thể hiện ở chỗ cả hai thuộc tính này
cũng đồng thời tồn tại trong một hàng hóa; một vật phải có đầy đủ hai thuộc tính này mới là
hàng hóa. Nếu thiêu một trong hai thuộc tính đó thì vật phẩm sẽ không phải hàng hóa. Chẳng
hạn, một vật có ích(tức có giá trị sử dụng), nhưng không do lao động tạo ra(tức không có kết
tinh lao động) như không khí tự nhiên thì không phải là hàng hóa.
Sự mâu thuẫn giữa hai thuộc tính của hàng hóa thể hiện ở chỗ: với tư cách là giá trị sử
dụng thì các hàng hóa không đồng nhất về chất. Nhưng ngược lại, với tư cách la giá trị thì các
loại hàng hóa lại đồng nhất về chất, tức đều có kết tinh lao động, hay là lao động được vật hóa.
Tuy giá trị sử dụng và giá trị cũng tồn tại trong một hàng hóa, nhưng quá trình thực hiệ chúng
lại tách rời nhau về cả mặt không gian và thời gian; giá trị được thực hiện trước trong lĩnh vực
lưu thông còn giá trị sử dụng được thực hiệ sau, trng lĩnh vục tiêu dùng. Do đó nếu giá trị của
hàng hóa không đươc thực hiện thì sẽ dẫn dến khủng hoảng sản xuất
Câu 3: Phân tích khái niệm, ưu thế và khuyết tật của nền kinh tế thị trường (KTTT). Liên hệ
với thực tiễn nền KTTT định hướng XHCN của Việt Nam. Bài làm: lOMoAR cPSD| 40439748 Khái niệm KTTT:
Kinh tế thị trường là trình độ phát triển cao của kinh tế hàng hóa, ở đó các quan hệ kinh tế đều
được thực hiện trên thị trường, thông qua quá trình trao đổi, chịu sự tác động, điều tiết của các
quy luật thị trường. Tất cả các quan hệ kinh tế trong qua trình tái sản xuất xã hội đều được tiền
tệ hóa, các yếu tố của sản xuất như: đất đai và tài nguyền, vốn bằng tiền và vốn vật chất, sức
lao động, công nghệ và quản lý,... đều là đối tượng mua – bán và hàng hóa. Ưu thế:
● Nền KTTT luôn tạo ra động lực mạnh mẽ cho sự hình thành ý tưởng của các chủ thể
kinh tế. Thông qua vai trò của thị trường mà nền KTTT trở thành phương thức hữu hiệu
kích thích sự sáng tạo trong hoạt động của các chủ thể kinh tế, tạo điều kiện thuận lợi
cho hoạt động tự do của họ, qua đó thúc đẩy tăng năng suất lao động, tăng hiệu quả sản
xuất, làm cho nền kinh tế hoạt động năng động và hiệu quả. Nền KTTT chấp nhận mọi
ý tưởng sáng tạo mới trong thực hiện sản xuất kinh doanh và quản lý, tạo môi trường
rộng mở cho các mô hình mới theo đà phát triển của xã hội.
Ví dụ: Công ty Grabbike đã tạo ra mô hình vận tải khách mới, sử dụng người có phương tiện
đi lại cá nhân và nền tảng công nghệ, làm sôi động mảng dịch vụ kinh doanh vận tải.
● Nền KTTT luôn thực hiện phát huy tốt nhất tiềm năng của mọi chủ thể, các vùng miền
cũng như lợi thế quốc gia trong quan hệ với thế giới. Mọi tiềm năng, lợi thế đều có thể
được phát huy, đều có thể trở thành lợi ích đóng góp cho xã hội. Thông qua vai trò gắn
kết của thị trường mà nền KTTT trở thành phương thức hiệu quả hơn hẳn so với nền
kinh tế tự cung tự cấp hay nền kinh tế kế hoạch hóa để phát huy tiềm năng, lợi thế của
từng thành viên, từng vùng miền trong quốc gia, của từng quốc gia trong quan hệ kinh
tế với phần còn lại của thế giới.
Ví dụ: nhờ nền KTTT mà những tiềm năng về du lịch biển, than ở Quảng Ninh được phát huy
một cách hiệu quả, hay tiềm năng về sản xuất lúa ở đồng bằng sông Cửu Long.
● Nền KTTT luôn tạo ra các phương thức để thỏa mãn tối đa nhu cầu của con người, từ
đó thúc đẩy tiến bộ, văn minh xã hội. Nền KTTT với sự tác động của các quy luật thị
trường luôn tạo ra sự phù hợp giữa khối lượng, cơ cấu sản xuất với khối lượng, cơ cấu
tiêu dùng của xã hội. Nhờ đó, nhu cầu tiêu dùng về các loại hàng hóa, dịch vụ khác
nhau được đáp ứng kịp thời; người tiêu dùng được thỏa mãn nhu cầu cũng như đáp ứng
đầy đủ mọi chủng loại hàng hóa, dịch vụ.
Ví dụ: nhu cầu về nhu yếu phẩm của người dân Việt Nam hiện nay được thỏa mãn thông qua
mua bán rất dễ dàng so với những năm nước ta thực hiện chính sách kinh tế kế hoạch hóa tập trung. Khuyết tật:
● Xét trên phạm vi toàn bộ nền sản xuất xã hội, nền KTTT luôn tiềm ẩn những rủi ro
khủng hoảng. Khủng hoảng có thể xảy ra đối với mọi loại hình thị trường hay với mới
mọi nền KTTT, có thể diễn ra cục bộ hoặc tổng thể. Nền KTTT không tự khắc phục
được những rủi ro tiềm ẩn này do sự vận động tự phát của các quy luật kinh tế. Do đó, lOMoAR cPSD| 40439748
các quốc gia rất khó dự báo chính xác thời điểm và cách khắc phục các cuộc khủng hoàng.
Ví dụ: Cuộc Đại khủng hoảng ở Mỹ năm 1929 chính là kết quả của sự tăng trưởng sản xuất
quá mức trong thập kỷ 1920 mà không có sự điều tiết hợp lý của chính phủ.
Liên hệ ở VN: Những tháng cuối năm 2019 dịch bệnh xuất phát từ một đất nước kinh tế hùng
mạnh như Mỹ, dịch lan nhanh, rất nguy hiểm, cứ thế là tràn ra khắp thế giới. Tác động bởi sự
suy thoái toàn cầu, đã đảo lộn và ảnh hưởng đến các nước, rõ nhất vẫn là hệ thống tài chính,
ngân hàng của mỗi nước. Tại Việt nam, phần lớn hoạt động sản xuất phục vụ cho lĩnh vực xuất
khẩu gặp rất nhiều khó khăn. Trong đó các thị trường lớn như : Mỹ, EU, Nhật là những thị
trường truyền thống nhập khẩu hàng sản xuất từ Việt nam đang bị khủng hoảng, do mức sinh
hoạt của người dân bị đảo lộn, đòi hỏi mọi người phải cắt giảm chi tiêu, thắt lưng buột bụng,
mức độ mua hàng giảm, nhu cầu thanh toán yếu …Việt nam là một trong những nước ảnh
hưởng nặng trong hoạt động xuất khẩu hàng hóa.
● Nền KTTT không tự khắc phục được xu hướng cạn kiệt tài nguyên không thể tái tạo,
suy thoái môi trường tự nhiên, môi trường xã hội. Do phần lớn các chủ thể sản xuất
kinh doanh trong nền KTTT luôn đặt mục tiêu lợi nhuận tối đa nền luôn tạo ra ảnh
hưởng tiềm ẩn đối với nguồn lực tài nguyên, môi trường, nguyên tắc đạo đức, gây ra
sự cạn kiệt tài nguyên không thể tái tạo, ô nhiễm môi trường, xói mòn đạo đức kinh
doanh, thậm chí cả đạo đức xã hội. Cũng vì mục tiêu lợi nhuận mà các chủ thể hoạt
động sản xuất kinh doanh có thể không tham gia vào các lĩnh vực thiết yếu cho nền
kinh tế. Tự nền KTTT không thể khắc phục được các khuyết tật này.
Ví dụ: Thời sự Chuyển động 24h đưa ra nhiều dẫn chứng, hình ảnh về các công ty đã cắt giảm
chi tiêu, đầu tư cho các công trình xử lý nước thải mà xả thải trực tiếp ra sông suối gây ô nhiễm
môi trường, cuộc sống của người dân vùng ven gặp nhiều khó khăn, gây ra những hệ lụy lâu dài.
Ví dụ: 1 vùng xảy ra dịch bệnh nên bị thiếu thuốc men, nếu Nhà nước không can thiệp (quy
định mức giá tối đa, cấm đầu cơ tích trữ) thì các nhà buôn thuốc sẽ lợi dụng tình trạng này để
đẩy giá bán thuốc chữa bệnh, khẩu trang, vật tư y tế lên cao, phần lớn dân nghèo sẽ không đủ
tiền mua thuốc và sẽ phải chết vì bệnh dịch.(liên hệ với dịch Covit-19)
● Nền KTTT không tự khắc phục được hiện tượng phân hóa sâu sắc trong xã hội. Các
quy luật thị trường luôn phân bổ lợi ích theo mức độ và loại hình hoạt động tham gia
thị trường, cộng với tác động của cạnh tranh mà dẫn đến sự phân hóa như một tất yếu.
Bản thân nền KTTT không thể tự khắc phục được khía cạnh phân hóa có xu hướng sâu sắc.
Ví dụ: ở Mỹ mặc dù GDP bình quân đầu người rất cao nhưng có sự phân hóa giàu nghèo, địa
vị xã hội sâu sắc gây ra sự bất công, tha hóa đạo đức.
Liên hệ ở VN: bất bình đẳng trong thu nhập ở nước ta ngày càng rõ nét và gay gắt hơn, tỷ lệ
hộ nghèo tập trung chủ yếu ở những vùng khó khăn, có nhiều yếu tố bất lợi như điều kiện tự
nhiên khắc nghiệt, kết cấu hạ tầng kém, trình độ dân trí thấp, trình độ sản xuất manh mún, sơ khai
Câu 4: Phân tích nội dung, yêu cầutác động của quy luật giá trị trong nền kinh tế hàng lOMoAR cPSD| 40439748
hóa. Ý nghĩa của việc nghiên cứu vấn đề này. Bài làm:
Quy luật giá trị là quy luật kinh tế cơ bản của sản xuất hàng hóa. Ở đâu có sản xuất và trao đổi
hàng hóa thì ở đó có sự hoạt động của quy luật giá trị.
Nội dung và yêu cầu của Quy luật giá trị:
- Theo quy luật giá trị, sản xuất và lưu thông hàng hóa phải dựa trên cơ sở hao phí lao
động xã hội cần thiết. Mặc dù mỗi người sản xuất tự quyết định hao phí lao động cá
biệt của mình, nhưng giá trị xã hội của hàng hóa không phải được quyết định bởi hao
phí lao động cá biệt của từng chủ thể, mà bởi hao phí lao động xã hội cần thiết. Vì vậy,
muốn bán được hàng hóa, bù đắp được chi phí và có lãi, người sản xuất phải điều chỉnh
làm cho chi phí lao động cá biệt của mình phù hợp với mức chi phí mà xã hội chấp nhận được.
- Trao đổi hàng hóa cũng phải thực hiện trên cơ sở của hao phí lao động xã hội cần thiết,
nghĩa là trao đổi theo nguyên tắc ngang giá. Nhìn bề ngoài, sản xuất và trao đổi hàng
hóa đương nhiên là việc riêng của từng người, họ độc lập và không chịu sự ràng buộc
nào, nhưng thực tế, mọi việc sản xuất và trao đổi hàng hóa đều chịu sự chi phối bởi quy
luật giá trị. Nếu ai có giá trị hàng hóa cá biệt thấp hơn so với giá trị hàng hóa xã hội thì
người đó sẽ tồn tại và phát triển, ngược lại họ sẽ thua lỗ và phá sản.
- Sự vận động của Quy luật giá trị thông qua sự vận động của giá cả hàng hóa. Giá cả
hàng hóa là kết quả của sự thỏa thuận giữa người mua và người bán hàng trên thị trường.
Giá trị là cơ sở của giá cả. Vì giá cả phụ thuộc vào giá trị. Hàng hóa nào có nhiều giá
trị thì giá cả của nó sẽ cao hơn và ngược lại. Tuy nhiên, trên thị trường, giá cả còn phụ
thuộc vào cung cầu, cạnh tranh, độc quyền, sức mua của đồng tiền,… Giá cả hàng hóa
biến động lên xuống xoay quanh giá trị, có khi cao hơn hoặc thấp hơn giá trị. Trong các
nền kinh tế hiện đại, giá cả còn biến động bởi sự can thiệp của nhà nước vào nền kinh tế.
● Tác động của Quy luật giá trị:
- Thứ nhất, điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hoá.
⮚ Điều tiết sản xuất tức là điều hoà, phân bổ các yếu tố sản xuất giữa các ngành, các lĩnh
vực của nền kinh tế. Tác lộng này của quy luật giá trị thông qua sự biến động của giá
cả hàng hoá trên thị trường dưới tác động của quy luật cung – cầu.
* Nếu cung nhỏ hơn cầu, thì giá cả lớn hơn giá trị, nghĩa là hàng hóa sản xuất ra có lãi,bán
chạy. Giá cả cao hơn giá trị sẽ kích thích mở rộng và đẩy mạnh sản xuất để tăng cung;
ngược lại cầu giảm vì giá tăng. lOMoAR cPSD| 40439748
* Nếu cung lớn hơn cầu, sản phẩm sản xuất ra quá nhiều so với nhu cầu, giá cả thấphơn
giá trị, hàng hóa khó bán, sản xuất không có lãi. Thực tế đó, tự người sản xuất ra quyết
định ngừng hoặc giảm sản xuất; ngược lại, giá giảm sẽ kích thích tăng cầu, tự nó là nhân tố làm cho cung tăng.
* Cung cầu tạm thời cân bằng; giá cả trùng hợp với giá trị. Bề mặt nền kinh tế người
tathường gọi là “bão hòa”.
Tuy nhiên nền kinh tế luôn luôn vận động, do đó quan hệ giá cả và cung cầu cũng thường
xuyên biến động liên tục.
Như vậy, sự tác động trên của quy luật giá trị đã dẫn đến sự di chuyển sức lao động và tư
liệu sản xuất giữa các ngành sản xuất khác nhau. Đây là vai trò điều tiết sản xuất của quy luật giá trị.
⮚ Điều tiết lưu thông của quy luật giá trị cũng thông qua diễn biến giá cả trên thị trường.
Sự biến động của giá cả thị trường cũng có tác dụng thu hút luồng hàng từ nơi giá cả
thấp đến nơi giá cả cao, do đó làm cho lưu thông hàng hoá thông suốt.
Như vậy, sự biến động của giả cả trên thị trường không những chỉ rõ sự biến động về kinh
tế, mà còn có tác động điều tiết nền kinh tế hàng hoá.
- Thứ hai, kích thích cải tiến kỹ thuật, hợp lý hoá sản xuất, tăng năng suất lao động, thúc
đẩy lực lượng sản xuất xã hội phát triển.
Trong nền kinh tế hàng hoá, mỗi người sản xuất hàng hoá là một chủ thể kinh tế độc lập,
tự quyết định hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Nhưng do điều kiện sản xuất khác
nhau nên hao phí lao động cá biệt của mỗi người khác nhau, người sản xuất nào có hao phí
lao động cá biệt nhỏ hơn hao phí lao động xã hội của hàng hoá ở thế có lợi sẽ thu được lãi
cao. Người sản xuất nào có hao phí lao động cá biệt lớn hơn hao phí lao động xã hội cần
thiết sẽ ở thế bất lợi, lỗ vốn. Để giành lợi thế trong cạnh tranh, và tránh nguy cơ vỡ nợ, phá
sản, họ phải hạ thấp hao phí lao động cá biệt của mình sao cho bằng hao phí lao động xã
hội cần thiết. Muốn vậy, họ phải luôn tìm cách cải tiến kỹ thuật, cải tiến tổ chức quản lý,
thực hiện tiết kiệm chặt chẽ, tăng năng suất lao động. Sự cạnh tranh quyết liệt càng thúc
đẩy quá trình này diễn ra mạnh mẽ hơn, mang tính xã hội. Kết quả là lực lượng sản xuất xã
hội được thúc đẩy phát triển mạnh mẽ.
- Thứ ba, thực hiện sự lựa chọn tự nhiên và phân hoá người sản xuất hàng hoá thành
người giàu, người nghèo.
Quá trình cạnh tranh theo đuổi giá trị tất yếu dẫn đến kết quả là: những người có điều kiện
sản xuất thuận lợi, có trình độ, kiến thức cao, trang bị kỹ thuật tốt nên có hao phí lao động
cá biệt thấp hơn hao phí lao động xã hội cần thiết, nhờ đó phát tài, giàu lên nhanh chóng.
Họ mua sắm thêm tư liệu sản xuất, mở rộng sản xuất kinh doanh. Ngược lại những người
không có điều kiện thuận lợi, làm ăn kém cỏi, hoặc gặp rủi ro trong kinh doanh nên bị thua
lỗ dẫn đến phá sản trở thành nghèo khó.
● Ý nghĩa của việc nghiên cứu Quy luật giá trị:
- Cần nhận thức sự tồn tại khách quan và phạm vi hoạt động rộng lớn, lâu dài của
quy luật giá trị trong nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần ở nước ta. lOMoAR cPSD| 40439748
- Cần vận dụng tốt cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước để phát huy vai trò
tích cực của cơ chế thị trường và hạn chế mặt tiêu cực của nó để thúc đẩy sản xuất
phát triển, đảm bảo sự công bằng xã hội.
Câu 5: Phân tích hàng hóa sức lao động. Ý nghĩa của việc nghiên cứu vấn đề này.
1. SLĐ và điều kiện để SLĐ trở thành hàng hóa:
*Khái niệm sức lao động:
Sức lao động hay năng lực lao động là toàn bộ những năng lực thể chất và tinh thần tồn tại
trong cơ thể, trong một con người đang sống, và được người đó đem ra vận dụng mỗi khi sản
xuất ra một giá trị sử dụng nào đó.
*Điều kiện để sức lao động trở thành hàng hóa.
Một, người lao động được tự do về thân thể
Vd: Trong xã hội nô lệ và chiếm hữu phong kiến, người nô lệ và người nông nô không được tự
do về mặt thân thể, khắc nghiệt nhất là trong xã hội chiếm hữu nô lệ, người nô lệ không được
quyền sở hữu chính bản thân mình, ngay cả quyền cơ bản nhất của con người là quyền được
sống, được tồn tại thì người nô lệ cũng không có quyền quyết định mà việc định đoạt đó là do chủ nô của anh ta.
Hai, người lao động không có đủ các tư liệu sản xuất cần thiết để tự kết hợp với sức lao
động của mình tạo ra hàng hóa để bán, cho nên họ phải bán sức lao động.
Vd: Người nông nô và người nô lệ sau khi được giải phóng khỏi xã hội phong kiến và chế độ
chiếm hữu nô lệ thì họ đã có quyền tự do về mặt thân thể nhưng họ không có tư liệu sản xuất,
không có của cải để duy trì cuộc sống tối thiểu của mình nên họ phải bán sức lao động để duy trì cuộc sống.
2. Thuộc tính của hàng hóa sức lao động.
Hàng hóa sức lao động cũng có hai thuộc tính: giá trị và giá trị sử dụng.
a) Giá trị của hàng hóa sức lao động
Giá trị của hàng hóa sức lao động cũng do thời gian lao động xã hội
cần thiết để sản xuất và tái sản xuất ra sức lao động quyết định. Sức
lao động chỉ tồn tại như năng lực con người sống, muốn tái sản xuất ra
năng lực đó người lao động phải tiêu dùng một lượng tư liệu sinh hoạt nhất định.
Do vậy, thời gian lao động xã hội cần thiết để tái sản xuất ra sức lao động sẽ được quy thành
thời gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt ấy. Diễn đạt theo cách
khác, giá trị của hàng hóa sức lao động được đo lường gián tiếp thông qua lượng giá trị của các
tư liệu sinh hoạt để tái sản xuất ra sức lao động.
Giá trị của hàng hóa sức lao động do các bộ phận sau đây hợp thành:
Một là, giá trị tư liệu sinh hoạt cần thiết (cả vật chất, tinh thần) để tái
sản xuất ra sức lao động;
Hai là, phí tổn đào tạo người lao động;
Ba là, giá trị những tư liệu sinh hoạt cần thiết (vật chất và tinh thần) nuôi
con của người lao động.
Nếu đúng theo nguyên tắc ngang giá trong nền kinh tế thị trường thì giá
cả của hàng hóa sức lao động phải phản ánh lượng giá trị nêu trên.
b) Giá trị sử dụng của hàng hóa sức lao động
Giá trị sử dụng của hàng hóa sức lao động cũng là để thỏa mãn nhu
cầu của người mua. lOMoAR cPSD| 40439748
Người mua hàng hóa sức lao động mong muốn thỏa mãn nhu cầu có được giá trị lớn hơn,
giá trị tăng thêm. Giá trị sử dụng của hàng hóa sức lao động được thể hiện trong quá trình sử dụng sức lao động.
3. Ý nghĩa của việc nghiên cứu hàng hóa sức lao động - Là
chìa khoá để giải quyết mâu thuẫn trong công thức chung của tư bản;
- Vạch rõ nguồn gốc của giá trị thặng dư, đó là lao động khôngcông của
người công nhân làm thuê tạo ra trong quá trình sản xuất và bị nhà tư bản chiếm không;
- Vạch rõ bản chất cơ bản nhất của xã hội tư bản đó là quan hệ bóclột
của tư bản đối với lao động làm thuê;
- Vạch rõ được các hình thức biểu hiện của giá trị thặng dư: Lợinhuận,
lợi nhuận bình quân, lợi tức, địa tô ...
- Vạch rõ được nguồn gốc, bản chất của tích lũy tư bản.
* Ý nghĩa của việc nghiên cứu vấn đề này ở nước ta hiện nay: Việc
nghiên cứu hàng hoá sức lao động có ý nghĩa quan trọng trong việc xây
dựng thị trường lao động ở Việt Nam. Đảng và Nhà nước ta đã thừa nhận
sức lao động là hàng hoá (khi có đủ các điều kiện trở thành hàng hoá)
cho nên việc xây dựng thị trường sức lao động là tất yếu. Phát triển nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là vấn đề cốt lõi, trọng
tâm của Đảng ta. Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở
nước ta đòi hỏi phải có sự phát triển đồng bộ các loại thị trường và Nghị
quyết Đại hội IX cũng đã nhấn mạnh phải tiếp tục tạo lập đồng bộ các
yếu tố thị trường, thị trường lao động từ chỗ không tồn tại đã bắt đầu
hình thành và phát triển.
Câu 6: Vì sao sức lao động là hàng hóa đặc biệt?
Sức lao động là hàng hóa đặc biệt vì trong quá trình sử dụng nó không chỉ tạo ra một lượng
giá trị ngang bằng với giá trị của bản thân sức lao động mà nó còn tạo ra một lượng giá trị
mới lớn hơn giá trị của bản thân nó, phần lớn hơn đó được gọi là giá trị thặng dư; giá trị hàng
hoá sức lao động bao hàm cả yếu tố tinh thần và lịch sử.
(phần còn lại: giống toàn bộ câu 5)
Câu 7: Phân tích các phương pháp sản xuất giá trị thặng dư, từ đó rút ra ý nghĩa của việc
nghiên cứu các phương pháp này.
Khái niệm: giá trị thặng dư là bộ phận giá trị mới dôi ra ngoài giá trị sức lao động do
người bán sức lao động (người lao động làm thuê) tạo ra và thuộc về nhà tư bản (người mua
hàng hóa sức lao động).
Mục đích cuối cùng của nhà tư bản là luôn luôn tìm mọi cách để tăng giá trị thặng dư
(m) hay tỉ suất giá trị thặng dư (m’) đến mức tối đa nên nhà tư bản luôn tìm mọi phương pháp
để tạo ra giá trị thặng dư càng nhiều càng tốt. Để thu được nhiều gía trị thặng dư, nhà tư bản
đã nghĩ ra 2 phương pháp sản xuất GTTD: sản xuất GTTD tuyệt đối và sản xuất GTTD tương đối.
- Sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối
Trong giai đoạn phát triển đầu tiên của sản xuất tư bản chủ nghĩa, khi kỹ thuật còn
thấp, tiến bộ chậm chạp thì phương pháp chủ yếu để tăng giá trị thặng dư là kéo dài ngày lao động của công nhân. lOMoAR cPSD| 40439748
Sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối là phương pháp sản xuất ra giá trị thặng dư được
thực hiện trên cơ sở kéo dài tuyệt đối ngày lao động của công nhân trong điều kiện thời gian
lao động tất yếu không đổi và giá trị thặng dư được sản xuất ra bằng phương pháp này được
gọi là giá trị thặng dư tuyệt đối.
Giả sử ngày lao động là 8 giờ, trong đó 4 giờ là thời gian lao động tất yếu và 4 giờ là
thời gian lao động thặng dư. Điều đó có thể biểu diễn bằng sơ đồ sau đây:
Phương pháp sản xuất thông thường:
Phương pháp sản xuất GTTD tuyệt đối:
m’ đã tăng từ 100% lên thành 150%. Như vậy, khi kéo dài tuyệt đối ngày lao động trong
điều kiện thời gian lao động tất yếu không thay đổi, thì thời gian lao động thặng dư tăng lên,
nên tỷ suất giá trị thặng dư tăng lên. Trước đây, tỷ suất giá trị thặng dư là 100% thì bây giờ là 150%.
Cách thức áp dụng: kéo dài ngày lao động (trong 1 ngày, 1 tuần, 1 tháng, 1 năm…)
Các nhà lao động luôn muốn kéo dài ngày lao động nhưng ngày lao động này có một
giới hạn là luôn luôn lớn hơn thời gian lao động xã hội cần thiết, lại nhỏ hơn 24h, do nó gặp
phải một cái trở ngại là vì chúng ta là một hàng hóa đặc biệt, tồn tại trong một cơ thể sống
chính vì vậy chúng ta cần một thời gian để tái sản xuất sức lao động, do đó trong lịch sử ngày
lao động từng kéo dài đến 12h, thậm chí 16h. Do giới hạn về mặt thể lực của hàng hóa sức lao
động nên nó gặp phải sự phản kháng của công nhân dẫn đến đình công, bãi công của giai cấp
công nhân, Trong phạm vi giới hạn nói trên, độ dài của ngày lao động là một đại lượng không
cố định và có nhiều mức khác nhau. Độ dài cụ thể của ngày lao động do cuộc đấu tranh giữa
giai cấp công nhân và giai cấp tư sản trên cơ sở tương quan lực lượng quyết định. Cuộc đấu
tranh của giai cấp công nhân đòi ngày lao động tiêu chuẩn, ngày làm 8 giờ đã kéo dài hàng thế
kỷ. Đó là lí do có ngày quốc tế lao động ⅕. Do vấp phải cuộc đình công bãi công của giai cấp
công nhân như vậy cho nên ngày lao động thay vì được kéo dài 12h, 14h thì giai cấp tư sản hay
nhà tư bản phải rút ngắn ngày lao động xuống như ban đầu là 8h. Nếu rút ngắn thời gian lao
động xuống 8h thì m’ từ 150% lại rút xuống 100%. Nhà tư bản không bằng lòng với việc thỏa lOMoAR cPSD| 40439748
hiệp với giai cấp công nhân như vậy, do đó chúng ta có pp thứ hai là pp sản xuất giá trị thặng dư tương đối.
- Sản xuất giá trị thặng dư tương đối
Không thể kéo dài ngày lao động đến 12h, 14h, sau ngày quốc tế lao động ⅕, ngày lao
động đã được rút ngắn còn đúng so với ban đầu, nếu vậy thì m’ = 100%, nhà tư bản tìm mọi
cách rút ngắn thời gian lao động tất yếu xuống còn 2h, thời gian lao động thặng dư sẽ dài ra
thành 6h, do vậy thay vì m’ = 100%, ngày lao động trở thành 167% thậm chí 300% hoặc nhiều
hơn nữa. Thay vì trở lại với cái m’ ban đầu thì m’ của nhà tư bản đã tăng lên rất nhiều. Vấn đề
là làm thế nào để chúng ta rút ngắn được thời gian lao động tất yếu. Thời gian lao động tất yếu
là thời gian mà người công nhân tạo ra giá trị bằng giá trị bản thân mình, là v = tiền lương mà
chúng ta nhận được. Muốn rút ngắn thời gian lao động tất yếu ta cần hạ thấp v, muốn hạ thấp
giá cả hay tiên lương ta cần làm giảm giá trị các tư liệu sinh hoạt tối thiểu để nuôi sống mình
và gia đình mình. Muốn giảm giá cả hay giá trị các tư liệu sinh hoạt tối thiểu ta cần cách thức
khác. Đó là ta cần phải tăng năng suất lao động trong những ngày sản xuất ra những tư liệu
sinh hoạt ấy. Mặt khác, khi sản xuất tư bản chủ nghĩa phát triển đến giai đoạn đại công nghiệp
cơ khí, kĩ thuật đã tiến bộ do đó ta cần áp dụng khoa học kĩ thuật vào sản xuất, đó chính là cách
thức, con đường để chúng ta thực hiện được phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tương đối.
Phương pháp sản xuất thông thường:
Phương pháp sản xuất GTTD tương đối:
Nếu trong giai đoạn đầu của chủ nghĩa tư bản, sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối là
phương pháp chủ yếu, thì đến giai đoạn tiếp sau, khi kỹ thuật phát triển, sản xuất giá trị thặng
dư tương đối là phương pháp chủ yếu. Lịch sử phát triển của lực lượng sản xuất và của năng
suất lao động xã hội dưới chủ nghĩa tư bản đã trải qua ba giai đoạn: hợp tác giản đơn, công
trường thủ công và đại công nghiệp cơ khí, đó cũng là quá trình nâng cao trình độ bóc lột giá
trị thặng dư tương đối.
Hai phương pháp sản xuất giá trị thặng dư nói trên được các nhà tư bản sử dụng kết hợp
với nhau để nâng cao trình độ bóc lột công nhân làm thuê trong quá trình phát triển của chủ
nghĩa tư bản. Dưới chủ nghĩa tư bản, việc áp dụng máy móc không phải là để giảm nhẹ cường
độ lao động của công nhân, mà trái lại tạo điều kiện để tăng cường độ lao động. Ngày nay, việc lOMoAR cPSD| 40439748
tự động hóa sản xuất làm cho cường độ lao động tăng lên, nhưng dưới hình thức mới, sự căng
thẳng của thần kinh thay thế cho cường độ lao động cơ bắp.
Giá trị thặng dư siêu ngạch
Cạnh tranh giữa các nhà tư bản buộc họ phải áp dụng phương pháp sản xuất tốt nhất để
tăng năng suất lao động trong xí nghiệp của mình nhằm giám giá trị cá biệt của hàng hóa thấp
hơn giá trị xã hội của hàng hóa, nhờ đó thu được giá trị thặng dư siêu ngạch.
Giá trị thặng dư siêu ngạch là phần giá trị thặng dư thu được do tăng năng suất lao động
cá biệt, làm cho giá trị cá biệt của hàng hóa thấp hơn giá trị thị trường của nó.
Xét từng trường hợp thì giá trị thặng dư siêu ngạch là hiện tượng tạm thời, nhanh chóng
xuất hiện rồi cũng lại nhanh chóng mất đi. Nhưng xét toàn bộ xã hội tư bản thì giá trị thặng dư
siêu ngạch là hiện tượng tồn tại thường xuyên. Theo đuổi giá trị thặng dư siêu ngạch là khát
vọng của nhà tư bản và là động lực mạnh nhất thúc đẩy các nhà tư bản cải tiến kỹ thuật, hợp lý
hóa sản xuất, tăng năng suất lao động, làm cho năng suất lao động xã hội tăng lên nhanh chóng.
Mác gọi giá trị thặng dư siêu ngạch là hình thức biến tướng của giá trị thặng dư tương đối, vì
giá trị thặng dư siêu ngạch và giá trị thặng dư tương đối đều dựa trên cơ sở tăng năng suất lao
động (mặc dù một bên là dựa vào tăng năng suất lao động cá biệt, còn một bên dựa vào tăng
năng suất lao động xã hội).
Sự khác nhau giữa giá trị thặng dư siêu ngạch và giá trị thặng dư tương đối còn thể hiện
ở chỗ giá trị thặng dư tương đối do toàn bộ giai cấp các nhà tư bản thu được. Xét về mặt đó,
nó thể hiện quan hệ bóc lột của toàn bộ giai cấp các nhà tư bản đối với toàn bộ giai cấp công
nhân làm thuê. Giá trị thặng dư siêu ngạch chỉ do một số nhà tư bản có kỹ thuật tiên tiến thu
được. Xét về mặt đó, nó không chỉ biểu hiện mối quan hệ giữa tư bản và lao động làm thuê,
mà còn trực tiếp biểu hiện mối quan hệ cạnh tranh giữa các nhà tư bản.
Từ đó, ta thấy rằng giá trị thặng dư siêu ngạch là động lực trực tiếp, mạnh nhất thúc đẩy
các nhà tư bản cải tiến kỹ thuật, áp dụng công nghệ mới vào sản xuất, hoàn thiện tổ chức lao
động và tổ chức sản xuất để tăng năng suất lao động, giảm giá trị của hàng hóa.
● Ý nghĩa của việc nghiên cứu các phương pháp này
Ta tạm gạt bỏ những mục đích và tính chất tư bản chủ nghĩa thì phương pháp sản xuất
giá trị thặng dư, nhất là phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tương đối và siêu ngạch có tác lOMoAR cPSD| 40439748
dụng mạnh mẽ, kích thích các cá nhân tập thể người lao động ra sức cải tiến kĩ thuật, cải tiến
quản lí sản xuất, tăng cường sức lao động, lực lượng sản xuất phát triển nhanh.
*** đoạn ý nghĩa t k biết viết ntn, mong các bạn đóng góp ***
Bài 8: Căn cứ, nội dung và ý nghĩa của việc phân chia tư bản thành các cặp phạm trù (Tư bản
bất biến và tư bản khả biến, tư bản cố định và tư bản lưu động) Bài làm Tư bản cố định Tư bản lưu động Tư bản bất biến Tư bản khả biến
Phương thức chuyển dịch giá trị khác nhau của từng
Căn cứ Dựa vào vai trò khác nhau của các bộ phận bộ phận tư bản trong quá trình sản xuất
của tư bản trong quá trình sản xuất ra giá trị thặng dư trình sản
USD từ sản sản xuất TLLĐ. - Kí hiệu:
Nội - Bộ phận tư bản dung tồn xuất. -
phẩm người C1 - Ví dụ: Để sản xuất ra
tại dưới hình thái TLSX mà giá Là
công nhân - đồ gỗ mỹ nghệ, nhà tư bản
trị được lao động cụ thể của nguồn
Bộ phận tư phải mua máy -Bộ phận tư
công nhân làm thuê bảo tồn và gốc tạo
bản sản xuất bản sản xuất, tồn tại dưới
chuyển nguyên vẹn vào sản ra giá trị
tồn tại dưới hình thái sức lao động,
phẩm, tức là giá trị không biến thặng dư
hình thái tư nguyên vật liệu, vật liệu
đổi trong quá trình sản xuất. (m). - Kí
liệu lao động phụ, giá trị của nó được - Không tạo ra giá hiệu: V - tham
gia chuyển một lần, toàn phần trị thặng dư nhưng Ví dụ:
toàn bộ vào vào trong sản phẩm khi kết là điều kiện cần Nhà tư
quá trình sản thúc từng quá trình sản
thiết để quá trình tạo bản bỏ xuất nhưng xuất. ra giá trị thặng dư ra 10 giá trị của nó - Việc tăng tốc độ được diễn ra - Kí USD để
chỉ chuyển chuchuyển của tư bản lưu hiệu: C, trong đó: thuê dần
dần, động làm cho tỉ suất và C = C1 + C2 C1: công
từng phần khối lượng giá trị thặng máy móc, thiết bị, nhân lao vào
sản hàng năm tăng lên. - Kí nhà xưởng C2: động
phẩm theo hiệu: C2 + V - Ví dụ: Trong nguyên/nhiên - Bộ trong 8
mức độ khấu xưởng sản xuất sợi, nhà tư phận tư bản tồn tại giờ hao. bản bỏ ra 100 USD mua dưới hình thái sức nhưng -
Dẫn tới hao bông và 20 USD thuê công lao động không tái
chỉ cần mòn: +Hao mòn hữu nhân dệt sợi làm 8 giờ. hiện ra, nhưng 4
giờ hình: sự mất dần về GT Bình thường, người công thông qua lao động
đồng hồ, và GTSD do tác động nhân làm trong 4 giờ, nhà trừu tượng của công nhà tư tự nhiên gây ra.
tư bản đã thu về đủ tiền vốn nhân mà tăng lên,
bản đã + Hao mòn vô hình: sự và tỉ suất giá trị thặng dư là tức biến đổi về số
thu về mất giá đơn thuần do lượng trong quá 10 sựu tăng lên NSLD để vật liệu làm ra.Vượt qua móc, thiết bị nhà 100%. Nhưng khi áp dụng -
Ví dụ: Để sản xuất điểm bù lại giá trị xưởng (máy cưa, máy tiến bộ khí thuật, đẩy sợi, nhà tư bản phải
sức lao động này, xẻ, máy cắt, bào, nhanh quá trình chu ứng ra số tiền là 50 người công nhân đục…) chuyển,
nhà tư bản có thể USD để mua 50 kg bắt đầu tạo ra giá thu hồi được vốn sau 3 giờ bông, 3 USD hao trị thặng lOMoAR cPSD| 40439748
dư cho làm việc của công nhân và mòn máy móc để nhà tư bản tỉ suất giá trị thặng dư lúc kéo 50 kg bông
này là 167 %. thành sợi. Tư bản này gọi là tư bản bất biến
Ý nghĩa Trong quá trình sản xuất, tư bản bất biến Việc phân chia tuw bản cố định và tư bản lưu động chỉ là
điều kiện để sinh ra giá trị thặng dư có ý nghĩa quan trọng trong việc quản ký kinh tế. Nó còn tư
bản khả biến mới là nguồn gốc tạo là cơ sở để quản lý, sử dụng vốn cố định và vốn lưu ra giá trị
thặng dư. Việc phân chia này động một cách hiệu quả. Việc nghiên cứu 2 phạm trù phản ánh nguồn
gốc sinh ra của giá trị này giúp ta hiểu được tăng tốc độ chu chuyển của tư thặng dư, vạch rõ bản
chất bóc lột của bản cố định là một biện pháp quan trọng để tăng quỹ chủ nghĩa tư bản, chỉ lao
động của công khấu hao tài sản cố định làm cho lượng tư bản sử nhân làm thuê mới tạo ra giá trị
thặng dư dụng tăng lên, tránh được thiệt hại hao mòn. Nhờ đó cho nhà tư bản. mà có điều kiện đổi
mới và nâng cấp thiết bị nhanh chóng hơn
Câu 9: Phân tích tính tất yếu khách quan của việc phát triển kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là phù hợp với tính
quy luật phát triển khách quan
Các điều kiện phát triển KTTT ở Việt Nam đang tồn tại khách quan
KTTT không phải là một mô hình kinh tế mới, mà chính là một giai đoạn cao
hơn của KTHH. Để sản xuất hàng hóa ra đời thì cần hai điều kiện. Thứ nhất là
phân công lao động xã hội, thứ hai là sự tách biệt tương đối về kinh tế giữa người
sản xuất hàng hóa. Trong thời kì hiện nay của VN thì hai điều kiện đó đang tồn tại
một cách khách quan: phân công lao động thì càng ngày càng sâu sắc, chuyên môn
hóa hơn; về sự tách biệt tương đối về kinh tế giữa người sản xuất hàng hóa càng
ngày càng đa dạng hóa các hình thức sở hữu. Vì vậy các điều kiện đó cứ phát triển,
đến một giai đoạn nhất định sẽ dẫn đến sự phát triển của nền KTHH tất yếu phát
triển thành nên KTTT ở VN.
Sự lựa chọn mô hình KTTT định hướng XHCN là phù hợp với xu thế của thời
đại và đặc điểm của sự phát triển dân tộc.
Trong sự tồn tại hiện thực sẽ không thể có một nền KTTT trừu tượng, chung
chung cho mọi hình thái kinh tế - xã hội, mọi quốc gia, dân tộc.
Ngay như trong một chế độ TBCN, kinh tế thị trường của mỗi quốc gia, dân tộc
cũng khác nhau, mang đặc tính khác nhau. Tuy nhiên, nước ta chọn mô hình KTTT
định hướng XHCN mà không theo con đường KTTT tư bản chủ nghĩa, vì trong lOMoAR cPSD| 40439748
quá trình phát triển, mô hình KTTT TBCN mặc dù có nhiều mặt tích cực nhưng
cũng nhiều mặt hạn chế, tiêu cực (phân hóa giàu nghèo quá sâu sắc,…). Cho nên
nước ta chọn mô hình KTTT định hướng XHCN này để khắc phục giải quyết
những mặt khuyết tật mà mô hình KTTT TBCN đã để lại.
Xã hội loài người phát triển theo 5 hình thái kinh tế xã hội, nhận thấy
HTKTXH CSCN có giai đoạn đầu là XHCN nó cao hơn phương thức sản xuất
TBCN. Cho nên VN theo mô hình này nó đúng với xu hướng của thời đại, đúng
với nấc thang phát triển của HTKTXH.
Do tính ưu việt của KTTT định hướng XHCN trong thúc đẩy phát triển đối với VN.
KTTT là phương thức phân bổ nguồn lực hiệu quả, là động lực thúc đẩy LLSX phát triển
Dưới tác động của các quy luật thị trường nền kinh tế luôn phát triển theo
hướng năng động, kích thích tiến bộ kĩ thuật – công nghê, nâng cao năng suất lao
động, chất lượng sản phẩm và hạ giá thành. Vì vậy, sự phát triển của KTTT không
hề mâu thuẫn với mục tiêu của CNXH.
KTTT có khuyết tật nên cần sự điều tiết của nhà nước pháp quyền XHCN
Tuy nhiên, trong quá trình phát triển KTTT cần chú ý tới những thất bại và
khuyết tật để có sự can thiệp, điều tiết kịp thời của nhà nước pháp quyền XHCN.
KTTT định hướng XHCN phù hợp với nguyện vọng của nhân dân, mong muốn
dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Phát triển KTTT là sự tất yếu khách quan để hướng tới các giá trị đó.
Trên thế giới có nhiều mô hình KTTT, nhưng việc phát triển ở các quốc gia
khác nhau là khác nhau. Có nước phát triển được dân giàu, nước mạnh, nhưng
không dân chủ, kém văn minh. Cho nên, phấn đấu vì dân giàu, nước mạnh, xã hội
dân chủ, công bằng, văn minh là khát vọng của nhân dân VN. Vì vậy, phát triển
KTTT là sự tất yếu khách quan để hướng tới các giá trị đó.
Mặt khác, KTTT sẽ còn tồn tại lâu dài ở nước ta là một tất yếu khách quan, cần thiết cho
công cuộc xây dựng và phát triển. lOMoAR cPSD| 40439748
Bởi lẽ, phát triển KTTT định hướng XHCN sẽ phá vỡ tính chất tự cấp, tự túc
của nền kinh tế; đẩy mạnh phân công lao động xã hội, phát triển ngành nghề; tạo
việc làm cho người lao động; thúc đẩy LLSX phát triển mạnh mẽ, khuyến khích
ứng dụng kĩ thuật công nghệ mới đảm bảo tăng năng suất lao động, tăng số lượng,
chất lượng, chủng loại hàng hóa, dịch vụ góp phàn từng bước cải thiện và nâng cao
đời sống củ nhân dân; mở rộng giao lưu kinh tế; phân bổ và sử dụng các nguồn lực
xã hội một cách tiết kiệm và hợp lí,…
Câu 10: Phân tích các đặc trưng cơ bản của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam. Trả lời:
- Khái niệm : Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là nền kinh tế vận hành theo các quy
luật của thị trường, đồng thời góp phần hướng tới từng bước xác lập một xã hội mà ở đó dân giàu
nước manh, dân chủ , công bằng, văn minh, có sự điều tiết của Nhà nước do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo.
- Các đặc trưng cơ bản của nền KTTT định hướng XHCN ở VN:
+ Về hệ thống mục tiêu phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở
nước ta: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI đã chỉ rõ: phát triển nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta nhằm mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của
đất nước, thực hiện: “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Để thực hiện được
mục tiêu đó trong phát triển nền kinh tế thị trường, phải tạo điều kiện để giải phóng mạnh mẽ
sức sản xuất và không ngừng phát triển lực lượng sản xuất; phát triển lực lượng sản xuất hiện
đại gắn với xây dựng quan hệ sản xuất mới XHCN phù hợp trên cả ba mặt: sở hữu, quản lý và
phân phối; phát triển kinh tế thị trường để từng bước xây dựng hạ tầng kinh tế cho chủ nghĩa
xã hội; cải thiện và nâng cao đời sống nhân dân.
Mục tiêu kinh tế - xã hội - văn hóa mà nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở nước ta phải đạt là:
- Làm cho dân giàu: Nội dung căn bản của dân giàu là mức bình quân GDP đầu người
tăng nhanh trong một thời gian ngắn và khoảng cách giàu, nghèo trong xã hội ngày càng được thu hẹp.
- Làm cho nước mạnh : Thể hiện ở mức đóng góp to lớn của nền kinh tế thị trường cho
ngân sách quốc gia; ở sự gia tăng ngành kinh tế mũi nhọn; ở sự sử dụng tiết kiệm, có hiệu
quả các nguồn tài nguyên quốc gia; ở sự bảo vệ môi trường sinh thái, bảo vệ các bí mật
quốc gia về tiềm lực kinh tế, khoa học, công nghệ và an ninh quốc phòng. - Làm cho xã
hội công bằng, văn minh: Thể hiện ở việc xử lý các quan hệ lợi ích ngay trong nội bộ nền
kinh tế thị trường, ở đó việc góp phần to lớn vào giải quyết các vấn đề xã hội, ở việc cung
ứng các hàng hóa và dịch vụ có giá trị không chỉ về kinh tế mà còn có giá trị cao về văn hóa, xã hội.
Về mục tiêu chính trị : Làm cho xã hội dân chủ, biểu hiện ở chỗ dân chủ hóa nền kinh
tế, mọi người, mọi thành phần kinh tế có quyền tham gia vào hoạt động kinh tế, vào
sản xuất kinh doanh, có quyền sở hữu hợp pháp về tài sản của mình; quyền của người
sản xuất và người tiêu dùng được bảo vệ trên cơ sở pháp luật của nhà nước. lOMoAR cPSD| 40439748
Về chế độ sở hữu và các thành phần kinh tế: Nền kinh tế có nhiều thành phần, với
nhiều hình thức sở hữu. Các thành phần kinh tế đều là bộ phận cấu thành quan trọng
của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, cùng phát triển lâu dài, hợp tác
và cạnh tranh lành mạnh với nhau trên cơ sở pháp luật của nhà nước, trong đó kinh tế
nhà nước giữ vai trò chủ đạo và kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng
trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân; chế độ công hữu về tư liệu sản
xuất chủ yếu, từng bước được xác lập và sẽ chiếm ưu thế tuyệt đối khi chủ nghĩa xã hội
về cơ bản được xây dựng xong.
● Về chế độ phân phối: Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước
ta, thực hiện phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế là chủ yếu; đồng thời
có các hình thức phân phối khác nữa (phân phối theo vốn, theo tài năng cùng các nguồn
lực khác đóng góp vào sản xuất kinh doanh), vừa khuyến khích lao động, vừa bảo đảm
phúc lợi xã hội cơ bản, bảo đảm sự phân phối công bằng, hợp lý và hạn chế sự bất bình đẳng trong xã hội.
● Về vai trò quản lý của nhà nước xã hội chủ nghĩa: Nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa, sự quản lý và điều tiết nền kinh tế của nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Vì vậy, sự quản lý của
nhà nước trong nền kinh tế thị trường phải định hướng cho nền kinh tế phát triển có
hiệu quả trên cơ sở đảm bảo lợi ích quốc gia, lợi ích của nhân dân lao động thông qua
hệ thống pháp luật, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách phát triển kinh tế, xã
hội. Đồng thời, có sử dụng cơ chế thị trường (vận dụng các quy luật kinh tế thị trường
để đưa ra những công cụ tác động vào thị trường) kích thích sản xuất, giải phóng sức
sản xuất, phát huy mặt tích cực và hạn chế mặt tiêu cực của cơ chế thị trường. Sự
quản lý của nhà nước xã hội chủ nghĩa trong nền kinh tế thị trường nhằm giải quyết
mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội, cải thiện đời
sống nhân dân. Nhà nước thực hiện chính sách xã hội, một mặt, khuyến khích làm giàu
hợp pháp, mặt khác phải thực hiện xóa đói, giảm nghèo.
Về nguyên tắc giải quyết các mối quan hệ chủ yếu : Kết hợp ngay từ đầu giữa lực lượng
sản xuất với quan hệ sản xuất, bảo đảm giải phóng sức sản xuất; xây dựng lực lượng
sản xuất kết hợp với củng cố và hoàn thiện quan hệ sản xuất mới XHCN, nhằm phục
vụ cho phát triển sản xuất và công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; giữa phát triển
sản xuất với từng bước cải thiện và nâng cao đời sống nhân dân; giải quyết tốt các vấn
đề xã hội và công bằng xã hội, ngăn chặn các tệ nạn xã hội; giải quyết tốt các nhiệm vụ
chính trị, xã hội, văn hóa, môi trường và an ninh, quốc phòng.
Về tính cộng đồng và tính dân tộc : Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở
nước ta mang tính cộng đồng cao theo truyền thống của xã hội Việt Nam, phát triển
kinh tế thị trường có sự tham gia của cộng đồng và vì lợi ích của cộng đồng, hướng tới
xây dựng một cộng đồng xã hội Việt Nam giàu có, đầy đủ về vật chất, phong phú về
tinh thần, dân chủ, công bằng, văn minh, đảm bảo cuộc sống ấm no và hạnh phúc cho nhân dân.
Về quan hệ quốc tế : Kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta dựa vào sự phát
huy tối đa nguồn lực trong nước và triệt để tranh thủ nguồn lực nước ngoài theo phương
châm “Kết hợp sức mạnh của dân tộc và sức mạnh của thời đại” và sử dụng các nguồn
lực đó một cách hợp lý, đạt hiệu quả cao, để phát triển nền kinh tế đất nước với tốc độ
nhanh, hiện đại và bền vững. lOMoAR cPSD| 40439748
🡪 Như vậy, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta vừa mang
tính phổ biến (đặc trưng chung) của mọi nền kinh tế thị trường; vừa có đặc trưng riêng
của tính định hướng xã hội chủ nghĩa. Hai nhóm nhân tố này cùng tồn tại, kết hợp và
bổ sung cho nhau. Trong đó, nhóm đặc trưng chung đóng vai trò là động lực thúc đẩy
nền kinh tế phát triển, nhóm đặc trưng riêng đóng vai trò hướng dẫn nền kinh tế phát
triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
**** Mình thấy câu trả lời này rất hay, rất phù hợp với thời gian 60 phút 1 câu. Đây là
tài liệu mình thấy ở trên mạng nên đã coppy về. Các bạn có thể học các ý như trên (lấy
thêm ví dụ càng tốt), tuy nhiên có 1 số ý không giống trong giáo trình lắm thì các bạn
có thể xem lại giáo trình và sửa sao cho phù hợp với mình nhất.
Câu 11: Phân tích vai trò của cách mạng công nghiệp đối với tiến trình công nghiệp hóa, hiện
đại hóa ở nước ta; từ đó rút ra ý nghĩa của việc nghiên cứu vấn đề này.
1. Khái niệm Cách mạng công nghiệp:
Cách mạng công nghiệp là những bước phát triển nhảy vọt về chất trình độ của tư liệu lao
động trên cơ sở những phát minh đột phá về kỹ thuật và công nghệ trong quá trình phát triển
của nhân loại kéo theo sự thay đổi căn bản về phân công lao động xã hội cũng như tạo bước
phát triển năng suất lao động cao hơn hẳn nhờ áp dụng một cách phổ biến những tính năng
mới trong kỹ thuật – công nghệ đó vào đời sống xã hội.

2. Khái niệm công nghiệp hóa, hiện đại hóa:
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động
sản xuất kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế - xã hội, từ sử dụng sức lao động thù công là
chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động với công nghệ, phương tiện, phương pháp
tiên tiến hiện đại; dựa trên sư phát triển của công nghiệp và tiến bộ khoa học công nghệ, nhằm
tạo ra năng suất lao động xã hội cao.

3. Vai trò của cách mạng công nghiệp đối với tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta.
a. Thúc đẩy sự phát triển lực lượng sản xuất
Trước hết, phải khẳng định cách mạng công nghiệp đóng một vai trò vô cùng to lớn trong
tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa mà cụ thể là ở Việt Nam. Bởi lẽ, cách mạng công
nghiệp thúc đẩy phát triển lực lượng sản xuất, là yếu tố quan trọng nhất trong quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa. Trong cách mạng công nghiệp, đòi hỏi chất lượng nguồn nhân lực
cao, do đó, nó là một cơ hội cho quốc gia đẩy mạnh nâng cao đào tạo nguồn nhân công. Điều
đó tạo điều kiện cho nước ta, một nước vẫn còn lạc hậu, tiếp cận đến với những phát minh tiên
tiến, đến những thành tựu khoa học kỹ thuật hiện đại của thế giới, cùng với đó là áp dụng những
thành tựu đó vào tiến trình nâng cao tư liệu sản xuất nói riêng, cũng như mọi mặt trong quá
trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Ngoài ra, cách mạng công nghiệp tạo cơ hội cho các nước phát triển nhiều ngành kinh tế
và những ngành mới thông qua mở rộng ứng dụng những thành tựu về công nghệ thông tin,
công nghệ số, công nghệ điều khiển, công nghệ sinh học. Cách mạng công nghiệp chuyển dịch
cơ cấu kinh tế mới theo hướng hiện đại, hội nhập quốc tế và hiệu quả cao, điều này mang lại
cơ hội lớn cho nước ta học hỏi các nước phát triển trên thế giới. lOMoAR cPSD| 40439748
b. Thúc đẩy hoàn thiện quan hệ sản xuất
Các cuộc cách mạng công nghiệp tạo ra sự phát triển nhảy vọt về chất trong lực lượng sản
xuất và sự phát triển này tất yếu dẫn đến quá trình điều chỉnh, phát triển và hoàn thiện quan hệ
sản xuất xã hội và quản trị phát triển.
Cụ thể ở Việt Nam, Chúng ta đang trên con đường xác lập quan hệ sản xuất của XHCN,
cùng với đó đang trên tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, với lực lượng sản xuất đang
trên con đường tiến bộ và phát triển hơn thì mục tiêu ở nước ta là xác lập một quan hệ sản xuất
phù hợp với lực lượng sản xuất đang và sẽ rất phát triển. Cùng với đó, ta xây dụng quan hệ sản
xuất công hữu về tư liệu sản xuất, phân phối theo lao động và phúc lợi xã hội. Và cách mạng
công nghiệp là động lực thúc đẩy nước ta hoàn thiện quan hệ sản xuất ở nước ta trên cả ba mặt:
quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất, quan hệ tổ chức quản lý và quan hệ phân phối, trao đổi.
c. Thúc đẩy đổi mới phương thức quản trị phát triển
Điều này thể hiện khá rõ trong nền cách mạng công nghiệp 4.0 bao gồm IOT, Data Science
(Khoa học dữ liệu), (AI) trí tuệ nhân tạo,… Điều này tạo động lực cho nước ta thay đổi trong
phương thức quản trị phát triển. Ví du như phương thức quản trị và điều hành nhà nước được
thực hiện bằng hạ tầng số và internet. Đồng thời, các cơ quan công quyền có thể dựa trên hạ
tầng công nghệ số để tối ưu hóa hệ thống giám sát và điều hành xã hội theo mô hình “Chính
phủ điện tử”, “đô thị thông minh”,… Bộ máy hành chính nhà nước vì vậy phải cải tổ theo
hướng minh bạch hiệu quả. Cách mạng công nghiệp 4.0 cũng tác động mạnh mẽ đến phương
thức quản trị và điều hành doanh nghiệp. Sự ứng dụng của công nghệ khiến doanh nghiệp phải
thay đổi cách thức thiết kế, tiếp thị và cung ứng hàng hóa dịch vụ theo cách mới, bắt nhịp với không gian số.
Việc này yêu cầu nước ta phải có hệ thống thúc đẩy sáng tạo trong các phương thức quản lý,
nguồn nhân lực tri thức hơn có khả năng thích ứng cao đối với những sự thay đổi trong nền cách mạng công nghiệp.
4. Ý nghĩa của việc nghiên cứu vấn đề này
Việc nghiên cứu vấn đề cách mạng công nghiệp mang một ý nghĩa vô cùng quan trọng đối
với tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta. Nước ta đang trên con đường quá độ
lên chủ nghĩa xã hội, nước ta cũng đang từng bước tiếp cận đến những thành tựu khoa học kỹ
thuật của thế giới qua các cuộc cách mạng công nghiệp và tích cực áp dụng và học hỏi để phát
triển lực lượng sản xuất bao gồm tư liệu sản xuất và nguồn nhân lực nhất là trong kỷ nguyên
4.0, một kỷ nguyên vẫn còn khá mới với Việt Nam thì việc nghiên cứu vấn đề này là vô cùng cần thiết.
Cùng với đó, để xác lập một quan hệ sản xuất phù hợp nhất không chỉ cho XHCN mà còn
cho lực lượng sản xuất đang tiến bộ của Việt Nam trong thời kỳ cách mạng công nghiệp 4.0,
Chúng ta càng phải đẩy mạnh việc hiểu rõ về kỷ nguyên công nghệ số này. Và chúng ta cũng
đang cố gắng phát huy lợi thế của công nghệ trong việc quản trị của Nhà Nước, doanh nghiệp hay tổ chức xã hội,…
Câu 12. Phân tích những tác động của hội nhập kinh tế quốc tế đến sự phát triển kinh tế của Việt Nam. lOMoAR cPSD| 40439748
a) Khái niệm: Hội nhập kinh tế quốc tế của một quốc gia là quá trình quốc gia đó thực hiện gắn
kết nền kinh tế của mình với nên kinh tế thế giới dựa trên sự chia sẻ lợi ích đồng thời tuân thủ
các chuẩn mực quốc tế chung. b) Nội dung: -
Chuẩn bị các điều kiện để hội nhập hiệu thành công -
Thực hiện đa dạng các hình thức, mức độ hội nhập kinh tế quốc tế
c) Tác động của hội nhập kinh tế quốc tế đến phát triển của Việt Nam:
1. Tác động tích cực:
Hội nhập kinh tế quốc tế không chỉ là tất yếu mà còn đem lại những lợi ích to lớn
trong phát triển của các nước và những lợi ích kinh tế khác nhau cho cả người sản
xuất và người tiêu dùng.
- Tạo điều kiện mở rộng thị trường, tiếp thu khoa học công nghệ, vốn, chuyển dịch
cơ cấu kinh tế trong nước.
- Tạo điều kiện để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực
- Tạo điều kiện thúc đẩy hội nhập văn hóa, chính trị, củng cố quốc phòng an ninh.
2. Tác động tiêu cực: -
Làm gia tăng sự cạnh tranh gay gắt -
Làm gia tăng sự phụ thuộc của nền kinh tế -
Phân phối không công bằng lợi ích và rủi ro -
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế bất lợi -
Thách thức đối với quyền lực nhà nước -
Bản sắc dân tộc và văn hóa bị xói mòn -
Gia tăng nguy cơ khủng bố, buôn lậu, dịch bệnh.
Đầy đủ phần c (trong giáo trình, t k cắt đc)
· Tác động tích tực
Hội nhập kinh tế quốc tế không chỉ là tất yếu mà còn đem lại những lợi ích to lớn trong
phát triển của các nước và những lợi ích kinh tế khác nhau cho cả người sản xuất và ngưòi tiêu dùng. Cụ thể là: -
Hội nhập kinh tế quốc tế thực chất là mở rộng thị trường để thúc đẩy thương mạiphát
triển, tạo điều kiện cho sản xuất trong nước, tận dụng cảc lợi thế kinh tế của nước ta trong phân lOMoAR cPSD| 40439748
công lao động quốc tế, phục vụ cho mục tiêu tăng trưởng kinh tế nhanh, bền vững và chuyển
đổi mô hình tăng trưởng sang chiều sâu với hiệu quả cao. -
Hội nhập kinh tế quốc tế tạo động lực thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế
theohướng hợp lý, hiện đại và hiệu quả hơn, qua đó hình thành các lĩnh vực kinh tế mũi nhọn
để nâng cao hiệu quả và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế, của các sản phẩm và doanh nghiệp
trong nước; góp phần cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, làm tăng khả năng thu hút khoa
học công nghệ hiện đại và đầu tư bên ngoài vào nên kinh tế. -
Hội nhập kinh tế quốc tế giúp nâng cao trình độ của nguồn nhân lực và tiềm lựckhoa
học công nghệ quốc gia. Nhờ đẩy mạnh hợp tác giáo dục - đào tạo và nghiên cứu khoa học với
các nước mà nâng cao khả năng hấp thụ khoa học công nghệ hiện đại và tiếp thu công nghệ
mới thông qua đầu tư trực tiếp nước ngoài và chuyển giao công nghệ nhằm nâng cao chất lượng nên kinh tế. -
Hội nhập kinh tế quốc tế làm tăng cơ hội cho các doanh nghiệp trong nước tiếp
cậnthị trường quốc tế, nguồn tín dụng và các đối tác quốc tế để thay đổi công nghệ sản xuất,
tiếp cận với phương thức quản trị phát triển để nâng cao năng lực cạnh tranh quốc tế. -
Hội nhập kinh tế quốc tế tạo cơ hội để cải thiện tiêu dùng trong nước, người dânđược
thụ hưởng các sản phẩm hàng hóa, dịch vụ đa dạng về chủng loại, mẫu mã và chất lượng với
giá cạnh tranh; được tiếp cận và giao lưu nhiều hơn với thế giới bên ngoài, từ đó có thêm cơ
hội tìm kiếm việc làm. -
Hội nhập kinh tế quốc tế tạo đỉều kiện để các nhà hoạch định chính sách nắm bắttốt
hơn tình hình và xu thế phát triển của thế giới, từ đó xây dựng và điều chỉnh chiến lược phát
triển hợp lý, đề ra chính sách phát triển phù hợp cho đất nước. -
Hội nhập kinh tế quốc tế là tiền đề cho hội nhập về văn hóa, tạo điều kiện để tiếpthu
những giá trị tinh hoa của thế giới, bổ sung những giá trị và tiến bộ của văn hóa, văn minh của
thế giới để làm giàu thêm văn hóa dân tộc và thúc đẩy tiến bộ xã hội. -
Hội nhập kinh tế quốc tế còn tác động mạnh mẽ đến hội nhập chính trị, tạo điềukiện
cho cải cách toàn diện hướng tới xây dựng một nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, xây
dựng một xã hội mở, dân chủ, văn minh. -
Hội nhập tạo điều kiện để mỗi nước tìm cho mình một vị trí thích hợp trong trật
tựquốc tế, nâng cao vai trò, uy tín và vị thế quốc tế của nước ta trong các tổ chức chính trị, kinh tế toàn cầu. -
Hội nhập kinh tế quốc tế giúp đảm bảo an ninh quốc gia, duy trì hòa bình, ổn địnhở
khu vực và quốc tế để tập trung cho phát triển kinh tế xã hội; đồng thời mở ra khả năng phối
hợp các nỗ lực và nguồn lực của các nước để gỉải quyết những vấn đề quan tâm chung như môi
trường, biến đối khí hậu, phòng chống tội phạm và buôn lậu quốc tế.
· Tác động tiêu cực -
Hội nhập kinh tế quốc tế không chỉ đưa lại những lợi ích, trái lại, nó cũng đặt ranhiều
rủi ro, bất lợi và thách thức, đó là: lOMoAR cPSD| 40439748 -
Hội nhập kinh tế quốc tế làm gia tăng sự cạnh tranh gay gắt khiến nhiều
doanhnghiệp và ngành kinh tế nước ta gặp khó khăn trong phát triển, thậm chí là phá sản, gây
nhiều hậu quả bất lợi vê mặt kinh tế - xã hội. -
Hội nhập kinh tế quốc tế có thể làm gia tăng sự phụ thuộc của nền kinh tế quốc
giavào thị trường bên ngoài, khiến nền kinh tế dễ bị tổn thương trước những biến động khôn
lường về chính trị, kinh tế và thị trường quốc tế. -
Hội nhập kinh tế quốc tế có thể dẫn đến phân phối không công bằng lợi ích và rủiro
cho các nước và các nhóm khác nhau trong xã hội, do vậy có nguy cơ làm tăng khoảng cách
giàu nghèo và bất bình đẳng xã hội. -
Trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, các nước đang phát triển như nước ta
phảiđối mặt với nguy cơ chuyển dịch cơ cấu kinh tế tự nhiên bất lợi, do thiên hướng tập trung
vào các ngành sử dụng nhiều tài nguyên nhiều sức lao động, nhưng có giá trị gia tăng thấp. Có
vị trí bất lợi và thua thiệt trong chuỗi giá trị toàn cầu. Do vậy, dễ trở thành bãi thải công nghiệp
và công nghệ thấp, bị cạn kiệt nguồn tài nguyên thiên nhiên và hủy hoại môi trường ở mức độ cao. -
Hội nhập kinh tế quốc tế có thể tạo ra một số thách thức đối với quyền lực Nhànước,
chủ quyền quốc gia và phát sình nhiều vấn đề phức tạp đối với việc duy trì an ninh và ổn định
trật tự, an toàn xã hội. -
Hội nhập có thể làm gia tăng nguy cơ bản sắc dân tộc và văn hóa truyền thống
ViệtNam bị xói mòn trước sự “xâm lăng” của văn hóa nuớc ngoài. -
Hội nhập có thể làm tăng nguy cơ gia tăng của tình trạng khủng bố quốc tế, buônlậu,
tội phạm xuyên quốc gia, dịch bệnh, nhập cư bất hợp pháp… -
Tóm lại, hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay vừa có khả năng tạo ra những cơ hộithuận
lợi cho sự phát triển kinh tế, vừa có thế dẫn đến những nguy cơ to lớn mà hậu quả của chúng
là rất khó lường. Vì vậy, tranh thủ thời cơ, vượt qua thách thức trong hội nhập kinh tế là vấn
đề cần phải đặc biệt coi trọng.