lOMoARcPSD| 59773091
TÒA ÁN NHÂN DÂN TI CAO CNG HÒA XÃ HI CH NGHĨA VIỆT NAM
Độc lp - T do - Hnh phúc
S:39 /TANDTC-TK
Hà Nội, ngày 18 tháng 11 năm 2005
BÁO CÁO TR LI CHT VN CA ĐẠI BIU QUC HI
( Ti k hp th 8 Quc hi khoá XI )
- Kính thưa các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước và Mt trn T
quc Vit Nam,
- Kính thưa các vị Đại biu Quc hi,
- Kính thưa các vị khách quý,
Ti k hp này, Tán nhân dân ti cao nhận được cht vn ca 6 v Đại biu
Quc hi, đó là: Đại biu H' Luộc Ntơr - Đoàn đi biu Quc hi tỉnh Đắc Lc; Đại biu
Đặng Văn Xướng - Đoàn đại biu Quc hi tỉnh Long An; Đi biu Trần Thành Long Đoàn
đại biu Quc hi thành ph H Chí Minh; Đại biu Nguyn Xuân Thiết - Đoàn đại biu
Quc hi tỉnh Vĩnh Phúc; Đại biu Phm Ngc Thin- Đoàn đại biu Quc hi tnh Bc
Liêu Đại biu Hoàng Thanh Phú - Đoàn đại biu Quc hi tnh Thái Nguyên. Chánh
án Toà án nhân dân tối cao đã có văn bản tr li gi ti các v Đại biu Quc hi có cht
vn ngay trong k hp này.
Qua các ý kiến cht vn ca các v Đại biu Quc hi, Toà án nhân dân ti cao xin
đưc báo cáo Quc hi mt s vấn đ chính các v Đại biu Quc hi cht vn tp
trung vào các vấn đề ch yếu sau đây:
1. Vic chấp hành các quy định ca pháp lut t tng v thi hn xét
x đối vi các v án?
2. Vic gii quyết đơn đề ngh giám đốc thm, tái thm?
3. Vic thc hin Ngh quyết 388 v bồi thường thit hại cho người b
oan do người có thm quyn trong hoạt động t tng hình s gây ra?
4. Ti sao công dân ít khi kin v án hành chính?
Toà án nhân dân ti cao xin trân trng báo cáo Quc hi tng vấn đ c th như
sau:
1. Vic chấp hành các quy định ca pháp lut t tng v thi hn xét x đối
vi các v án?
Trong năm qua, tình hình ti phm, vi phm pháp lut và các tranh chấp trong lĩnh
vc dân s, khiếu kiện hành chính chưa chiều hướng gim din biến phc tp,
đặc bit là ni lên nhiu v án hình s ln, trọng điểm và các v tranh chp dân s, kinh
tế rt phc tạp; đồng thi, các Tòa án tiếp tc t chc xét x nhiu v án theo tinh
thn cải cách tư pháp và trên sở các quy định ca pháp lut t tng. Trong công tác
lOMoARcPSD| 59773091
2
xét xử, nhìn chung các Toà án đã chp hành tốt các quy định ca pháp lut t tng v
thi hn chun b xét xử; do đó, hầu hết các v án được đưa ra xét xử đúng thời hn do
pháp luật quy định.
Trong năm 2005, các Tán giải quyết được 171.588 v án (tăng gần 4000 v so
vi ng k năm ngoái) trong tổng s 208.229 v án đã thụ lý, đạt 82%, n li 36.641
v án đang được tiếp tc xem xét, gii quyết (trong đó 20.442 v án n s, 9.927 v án
hôn nhân và gia đình, 5.347 vụ án hình s, 925 v án kinh tế, lao động và hành chính).
Trong s 36.641 v án chưa được xét x thuc thm quyn gii quyết ca 739 đơn vị
Toà án các cp, hu hết mới được th trong c tháng 7 8/2005 nên các Toà án
chưa thể gii quyết ngay và hu hết các v án đó vn trong thi hn chun b xét x theo
quy đnh ca pháp lut. (Tính trung bình cho các loi v án thì thi hn chun b xét x
khong 2 - 3 tháng k t ngày th lý). Theo s liu thng kê thì trung bình mt tháng,
739 đơn vị Toà án trong c c th lý, gii quyết khong 15.000 v án các loi, nên v
cơ bản các v án nêu trên vẫn được các Toà án gii quyết trong thi hn luật định.
Trin khai thc hin Ngh quyết s 08 ca B chính tr v công tác tư pháp, trong
mấy năm gần đây số v án để quá thi hn xét x đã giảm xung rt, đặc bit ba
Toà phúc thm Toà án nhân dân tối cao đã bản thanh toán xong vic tồn đng án quá
thi hn xét x. Tuy nhiên, mt s Tòa án địa phương chưa chấp hành tốt quy định ca
pháp lut t tng v thi hn xét x nên dn tới để mt s v án quá thi hn xét x theo
luật định, c th trong s các v án chưa được đưa ra xét xử nêu trên, còn khong 1.200
v án đã quá thời hn xét x.
Việc để khong 1.200 v án quá thi hn xét x ch yếu tp trung nhiu các
Toà án cp tnh và cp huyn phía Nam như: Thành phố H Chí Minh, Đồng Nai, Bến
Tre, Long An, Sóc Trăng, Bình Dương, Đồng Tháp, Kiên Giang... Đây là khuyết điểm ca
Toà án, trước hết thuc trách nhim của lãnh đạo Toà án nơi để xy ra tình trng này và
trách nhim qun ca Tán cấp trên đối vi Tán cấp dưới. Tình trạng để các v
án quá thi hn xét x nhiu nguyên nhân ch quan khách quan, nhưng nguyên
nhân cơ bản là:
- Lãnh đạo mt s Toà án địa phương thiếu trách nhim trong công tác hoc
ng lc t chức, điều hành còn yếu kém nên chưa kịp thời đề ra được kế hoch, bin
pháp đủ mnh và kiên quyết, thiếu kim tra tiến độ gii quyết các loi v án.
- Trình độ, năng lực chuyên môn nghip v, tinh thn trách nhim công tác,
thái độ phc v nhân dân ca mt b phn cán b, công chức Toà án chưa đáp ứng đầy
đủ yêu cầu và đòi hỏi nhim v trong tình hin nay.
- Công tác t chc cán b nói chung mt s Tòa án địa phương, nhất
tuyn dng, quy hoch, to ngun b nhim Thẩm phán chưa được quan tâm thường
xuyên đúng mc dn ti s ng Thm phán cán b còn thiếu nhiu so vi yêu
cu ca công vic, nht là Toà án cp huyn.
- Bên cạnh đó, việc tuyn dng cán b vào các quan Tán mt s
tnh phía Nam hin nay còn rất khó khăn vì thiếu ngun để tuyn dng. Nhiu Toà án, k
c Toà án nhân dân thành ph H Chí Minh là nơi có số ng các loi v án phi th,
gii quyết ngày càng tăng, đc bit các v án dân sự, nhưng chưa đ Thẩm phán để
xét x.
lOMoARcPSD| 59773091
Để khc phc việc để các v án quá thi hn chun b xét x trong thi gian ti,
Toà án nhân n ti cao yêu cu Toà án các cp thc hiện đồng b các gii pháp ch
yếu sau đây:
- Đề cao trách nhim của đội ngũ cán bộ, công chc Toà án, nht trách
nhim nhân ca Th trưởng đơn vị, Chánh án Toà án nhân dân địa phương trong việc
thc hin nhim v đưc giao.
- Xác định mục tiêu, định mc c th ca từng đơn vị, tng Thm phán trong
công tác xét x hn chế đến mc thp nht vic phát sinh thêm các v án quá thi
hn chun b xét x.
- Thc hin tt việc điều động, bit phái Thẩm phán trong ngành để tăng
cường cho công tác xét x của các đơn vị nhiều án, nhưng thiếu Thm phán so vi
yêu cu ca công vic; phi hp tốt hơn nữa vi cp u Đảng chính quyền các địa
phương để quy hoch, to ngun b nhim Thm phán, nht Thẩm phán Toà án đa
phương trên s đổi mi mnh m chế tuyn chn Thẩm phán theo hướng m
rng ngun xem xét, b nhim Thm phán c những người làm công c pháp lut ngoài
ngành Toà án nhưng đủ điu kin theo quy định ca pháp lut; đồng thi Chánh án
Toà án nhân dân ti cao thc hin u quyn cho Chánh án Toà án nhân dân cp tnh
bit phái Thm phán Toà án nhân dân cp huyn trong phm vi thuc tỉnh đ thc hin
tt nhim v xét x, chng tồn đọng án.
- Tăng cường công tác ch đạo, kim tra vic thc hin nhim v ca các
Toà án, qua đó kịp thi chn chnh nhng yếu kém trong công tác; đồng thi xem xét và
x đúng mc trách nhim của người đứng đầu quan, đơn vị nếu để xy ra tình
trng tồn đọng án quá thi hn luật định hoc chất lượng xét x yếu kém.
- Làm tốt công tác đng viên, khuyến khích cán b, công chc Tán làm
thêm gi, ngày ngh, góp phn khc phc việc để các v án quá hn luật định.
Chúng tôi tin rng vi vic thc hin tt các bin pháp này, thì tình trng tồn đọng
án do quá thi hn chun b xét x s từng bước được khc phc hiu qu; góp phn
nâng cao chất lượng xét x nói chung.
2. V vic gii quyết các đơn đề ngh giám đốc thm, tái thẩm, đặc bit là
khiếu ni bc xúc, kéo dài?
V vn đề này, trong báo cáo v công tác ca các Toà án báo cáo gii quyết
khiếu ni, t cáo của ngành Tòa án nhân dân năm 2005 đã trình Quc hi; do đó, trong
phn gii trình này, chúng tôi xin trình bày thêm mt s điểm sau đây:
Quán trit Ngh quyết s 08 ngày 02-01-2002 ca B Chính tr Ch th s 09
ngày 06-03-2002 của Ban thư về công tác gii quyết khiếu ni, t cáo, Tòa án nhân
dân tối cao xác định công tác gii quyết các đơn đề ngh giám đốc thm, tái thm là mt
trong nhng nhim v chính tr trng tâm của ngành nên đã tập trung ch đạo, đề ra nhiu
giải pháp đồng b để thc hin hiu qu ng tác này. Trên sở kết qu soát,
phân loại đơn thư khiếu ni thuc thm quyn, Toà án nhân dân tối cao đã t chc nghiên
cu toàn b để xem xét, x theo quy đnh ca pháp luật, trong đó đặc bit chú trng
và tp trung gii quyết các đơn khiếu ni, búc xúc kéo dài. Để gii quyết có hiu qu các
loại đơn này, hiện nay mỗi đơn vị nghip v ca Toà án nhân dân tối cao đều mt
b phn bao gm các cán b có trình đ năng lực và tinh thn trách nhiệm cao dưi s
ch đạo ca Th trưởng đơn v thc hin nhim v theo dõi, đề xuất, tham mưu cho lãnh
lOMoARcPSD| 59773091
4
đạo Toà án nhân dân n ti cao x các đơn bức xúc, kéo dài. Các đồng chí lãnh đạo
Toà án nhân n ti cao theo lĩnh vực được phân công ph trách đã quan tâm trực
tiếp gii quyết, ch đạo gii quyết trước các đơn này và các đơn đi vi các bn án sp
hết thi hạn giám đc thm. Trong mt s trưng hp, do v án rt phc tp nên Tòa án
nhân dân tối cao đã c lãnh đạo đơn vị nghip v xung tn địa phương nơi tranh
chấp để xem xét thc tế, xác minh mt s vn đề cn thiết, làm vic c th vi cp y
Đảng hoc chính quyền địa phương về các vấn đề liên quan đến v án, tiếp dân và lng
nghe ý kiến, nguyn vng của nhân dân; đồng thi, Tòa án nhân dân ti cao đã phi hp
cht ch với lãnh đạo Vin kim sát nhân dân ti cao hoặc quan chức năng đ gii
quyết mt s khiếu kin phc tp, gay gắt. Do đó, trong những năm qua công tác giải
quyết các đơn đ ngh giám đốc thm, tái thm ca Tòa án nhân dân ti cao có tiến b
rõ rt. So vi thời gian trước khi thc hin Ch th s 09 ngày 06-3-2003 của Ban Bí thư
v tăng cưng công tác gii quyết khiếu ni, t cáo, thì hin nay s ợng đơn mà ngành
Toà án nhân dân đã giải quyết được tăng gần gấp đôi. (Trước đây hàng năm giải quyết
khoảng 40% đơn đ ngh giám đốc thẩm, thì nay đã giải quyết được khoảng 75%). Đặc
bit hin nay nhiu v vic khiếu ni bc xúc, kéo dài của người dân đã được xem xét,
gii quyết kp thời, đúng pháp lut, bảo đảm quyn li ích hp pháp của Nhà nước,
các bên đương sự đã giảm đáng k các đơn khiếu kin bc xúc, gay gt so vi các
năm trước đây; các đơn khiếu ni phc tp, bc xúc còn lại đang được Toà án nhân dân
ti cao phi hp vi Vin kim sát nhân dân ti cao khẩn trương xem xét, giải quyết.
Trong thi gian qua, thc tin gii quyết các đơn đề ngh giám đc thm, tái thm
cho thy có mt s v án rt phc tp v đánh giá chứng c, xảy ra đã lâu, bản án phúc
thẩm đã có hiu lc pháp lut t trước năm 2000 , quan điểm gii quyết v án khác
nhau và Toà án các cấp đã căn cứ vào các tài liệu do đương sự xut trình và tài liệu điều
tra, xác minh thu thập được vào thời điểm trước đây để gii quyết v án. Sau khi xét x
phúc thẩm, đương s khiếu ni hoc quan, tổ chc hu quan kiến ngh, nh
đạo Tòa án nhân dân ti cao nhim k trước đây đã nghiên cứu và kết lun là không có
căn cứ kháng ngh giám đốc thẩm; nhưng sau này, Tán nhân dân tối cao, quan
hu quan hoặc đương s thu thp, cung cp mt s tình tiết mới, làm thay đổi ni dung
bn cht v án, nên Chánh án Tòa án nhân dân tối cao đã quyết định kháng ngh theo
th tc tái thẩm đ gii quyết li v án cho đúng pháp luật, bảo đảm quyn và li ích hp
pháp của Nhà nước và các đương sự.
Trong quá trình công tác, lãnh đạo ngành Toà án nhân dân luôn xác định đề
cao tinh thn trách nhiệm trước Đảng, Nhà nước nhân dân. Tuy nhiên, trong quá trình
x lý, ch đạo gii quyết hàng trăm ngàn vụ án xảy ra hàng năm, thì khó tránh khi nhng
sai sót và nhược điểm v chuyên môn nghip v do nhn thức, đánh giá chứng cứ... Đó
và bài hc kinh nghim sâu sc mà các Toà chuyên trách, b máy giúp việc và lãnh đạo
Toà án nhân dân ti cao cần nghiêm túc rút ra trong công tác đ thc hin tốt hơn chc
năng và nhiệm v của mình trước Đảng, Nhà nước và nhân dân.
Trên sở tiếp thu ý kiến đóng góp, kiến ngh ca c tri, Đại biu Quc hội,
quan ca Quc hi, ban ngành hữu quan và đ nâng cao hiu qu, chất lượng công tác
gii quyết các đơn đề ngh giám đốc thm, tái thm, Toà án nhân dân tối cao đề ra và
tiếp tc thc hin nhiu gii pháp c th, đng b v công tác t chc cán b và chuyên
môn nghip v, trong đó đặc bit chú trọng đến nhóm gii pháp nâng cao chất lượng xét
x c loi v án nhm hn chế các khiếu nại. Đề cao tinh thn trách nhiệm, trình độ
chuyên môn nghip v và phm chất đạo đc của đội ngũ cán bộ làm ng c gii quyết
đơn khiếu ni của nhân dân, đặc bit cán b các Tchuyên trách b máy giúp
lOMoARcPSD| 59773091
vic ca Toà án nhân dân ti cao trong vic giúp Chánh án Toà án nhân dân ti cao gii
quyết tốt các đơn khiếu ni. Vi s ng gn chục ngàn đơn khiếu nại hàng năm như
đã nêu ở trên thì không th gii quyết ngay tt c trong cùng mt thời gian được, do đó
phải thường xuyên soát, phân loại để kế hoch gii quyết phù hp tp trung
nghiên cu, gii quyết trước nhng khiếu ni phc tp, kéo dài du hiu oan sai, kiến
ngh của các cơ quan, tổ chc hữu quan, đơn khiếu nại đối vi các bn án sp hết thi
hạn giám đốc thm, tái thm, bảo đảm kháng ngh giám đốc thẩm đúng thi hn theo quy
định ca pháp lut; hn chế đến mc thp nht vic phát sinh thêm các khiếu ni bc
xúc, kéo dài mới. Tăng cường k lut trong công tác này, x lý nghiêm minh nhng cán
b, công chc, nhất người thm quyn vi phm quy chế công tác thiếu trách
nhim trong vic xem xét, gii quyết khiếu ni ca công dân.
3. V vic thc hin Ngh quyên s 388 ngày 07-3-2003 ca Ủy ban thường v
Quc hội (sau đây gọi tt là Ngh quyết s 388), Tòa án nhân dân tối cao đã có Báo cáo
Ủy ban thường v Quc hội; do đó, chúng tôi xin tr li trc tiếp vào vấn đề có cht vn
liên quan đến vic thc hin Ngh quyết này.
Trước hết phi khẳng định rng Ngh quyết s 388 đã c động tích cc, to s
chuyn biến mnh m trong nhn thức, hành động của các cơ quan tiến hành t tng và
người tiến hành t tng hình sự, trong đó có cán bộ, công chc ngành Toà án nhân dân.
T khi thc hin Ngh quyết đến nay, tinh thn trách nhim công tác ca ca nhng
người tiến hành t tụng như Điều tra viên, Kim sát viên và Thẩm phán đều được nâng
cao hơn; do đó, việc khi t, truy t và xét x oan đã giảm nhiu so với trước đây.
- V biu hiện "chùm tay" trong đấu tranh phòng, chng ti phm?
Trong quá trình trin khai, thc hin Ngh quyết s 388 Ngh quyết 08-NQ/TW
ngày 02- 01-2002 ca B Chính tr v mt s nhim v trng tâm công tác trong thi gian
ti, Toà án nhân dân tối cao đã quán triệt yêu cu cán b, Thm phán trong toàn
ngành phi nâng cao tinh thn trách nhim, tránh kết án oan, nhưng không s trách
nhim, s bồi thường b lt ti phạm. Các Toà đã thc hin tt ch đo ca Toà án
nhân dân tối cao tăng cường công tác phi hp với các quan tiến hành t tng
trong vic kiên quyết đấu tranh phòng, chng ti phm, nên v bản đã xét xử đúng
người, đúng tội, đúng pháp lut; góp phn gi vng an ninh chính tr trt t an toàn
hi, phc v hiu qu yêu cu chính tr của các địa phương, cả c phc v
công cuộc đổi mi của đất nước.
Trong thc tin xét x, mt s v án phc tạp, khó khăn trong việc đánh giá
chng c, nhn thc pháp lut v mt s vấn đ c th chưa sự thng nht hoc trình
độ, năng lực ca các thành viên Hi đng xét x còn hn chế, nên đã tuyên b cáo không
phm tội, nhưng sau khi kháng cáo, kháng ngh, thì Tán cấp trên đã huỷ bn án
ca Toà án cấp dưới để xét x lại theo hướng xác định b cáo có ti. Mc dù, trong thi
gian vừa qua ng chưa phát hin chứng minh được trường hp nào do thiếu bn
lĩnh ngh nghip và s bồi thưng mà Hội đng xét x đã có biểu hin "chùm tay" b lt
ti phạm; nhưng Toà án nhân dân tối cao cũng thy rng thông qua các v án nêu trên
cn nghiên cu rút kinh nghim, có bin pháp x lý phù hp để tiếp tc thc hin tốt hơn
na yêu cu chống oan sai, đồng thi chng b lt ti phm trong tình hình hin nay.
- V biu hin né tránh s trách nhiệm nên đã xác định không đúng,
không đủ mc bồi thường?
lOMoARcPSD| 59773091
6
T khi thc hin Ngh quyết s 388 đến nay, các Tòa án đã nhận và th 64 đơn
đòi bồi thường thit hi của người b kết án oan thuc trách nhim bồi thường ca các
Tòa án. Sau khi nhn được đơn yêu cầu, các Tòa án đã tiến hành thương lượng vi
người b oan theo đúng quy đnh ca Ngh quyết s 388 và hướng dn tại Thông tư liên
tch s 01/2004/TTLT- VKSNDTC-TANDTC-BTP-BQP-BTC ngày 25-3-2004 đã
thương lượng thành được 33 trường hợp. Các trường hp còn li mt s đang đưc tiếp
tục thương lượng, mt s đơn mới yêu cu, mt s trường hợp người b oan đưa ra
mc bồi thường quá ln, không có căn cứ pháp lut nên hai bên không thng nhất được
mc bi thường người b oan làm đơn khởi kin yêu cu Tòa án gii quyết theo th
tc t tng dân sự. Các trường hp không thng nhất được mc bồi thường, ch yếu là
do người b oan nhn thc không đầy đủ v các quy đnh ca Ngh quyết s 388 và các
văn bản hướng dn áp dng Ngh quyết nên đã đưa ra các khoản, mc bi thường không
phù hp vời các quy định ca pháp lut; thậm chí có trường hp thiếu tinh thn hp tác,
không cung cấp đầy đủ c chng c hp pháp chng minh thit hi xảy ra để Tòa
án tiến hành việc thương lượng bồi thường.
Nhìn chung, thời gian qua các Toà án đã quán trit, t chc thc hin nghiêm
chnh Ngh quyết s 388; vic bồi thường thit hi và khôi phc danh d cho người b kết
án oan được thc hin kp thời, đúng trình tự, th tục theo quy đnh ca Ngh quyết s
388, th hin ý thc cu th, thng thn nhn trách nhiệm đi vi nhng sai sót ca mình.
Hu hết các trường hợp đã và đang được Tòa án có trách nhim gii quyết đều ghi nhn
thái độ nghiêm túc, cu th ca Toà án, thm chí có trường hp, sau khi Toà án t chc
xin lỗi công khai, đương sự đã không yêu cầu bồi thường v vt chất. Qua hơn hai năm
thc hin Ngh quyết s 388 chưa phát hiện được trường hp nào có biu hin né tránh
s trách nhiệm nên đã xác định không đúng hoặc không đầy đủ mc bồi thường cho
người b oan...
Để tiếp tc thc hin tt Ngh quyết s 388, lãnh đạo Toà án nhân dân tối cao đã
yêu cầu lãnh đạo Toà án các cp coi trng vic quán trit, t chc thc hiện đầy đ các
yêu cu, ni dung ca Ngh quyết các văn bản ng dn áp dng Ngh quyết này
đến cán b, công chức trong ngành, đc bit nâng cao tinh thn trách nhim thn
trọng hơn trong công tác; đảm bo chất lượng xét x, chng vic kết án oan không
đưc b lt ti phạm. Đối với trường hp thiếu bản lĩnh nghề nghip, "chùm tay" b lt
ti phm hoc s trách nhiệm mà xác định không đúng, không đầy đ các khon, mc
bồi thường cho người b oan, thì trưc hết lãnh đạo đơn vị đó phải chu trách nhim v
mt qun lý; Thm phán gii quyết v việc cũng phải b xem xét trách nhim theo quy
định ca Pháp lnh cán b, công chc còn b xem xét v cách Thẩm phán
th b cách chc hoặc không được b nhim li khi hết nhim k Thẩm phán; đồng thi,
Tòa án nhân dân ti cao s phi hp với các cơ quan có trách nhiệm Trung ương tiếp
tc nghiên cứu, ng dn hơn để áp dng thng nht mt s quy đnh trong Ngh
quyết 388 nhm tháo g các vướng mc trong thc tin thi hành Ngh quyết này.
4. V vic ti sao công dân ít khi kin các v án hành chính?
a. Thc tin gii quyết khiếu ni của các quan hành chính Nhà c
gii quyết các v án hành chính ca Toà án nhân dân các cp trong mấy năm gần đây
cho thy mt thc trng là s ợng đơn thư khiếu ni ca công dân, ca quan Nhà
c, t chức các quan hành chính Nhà c t địa phương đến trung ương
phi th để gii quyết hàng năm rất lớn, nhưng ngược li, s đơn khởi kin v án
hành chính Toà án nhân dân c cp phi th lý hàng năm đ gii quyết theo thm
lOMoARcPSD| 59773091
quyền chưa nhiều; "công dân thưng la chn, mong muốn quan hành chính đã
ra quyết định quan hành chính cấp trên xem xét, gii quyết các khiếu ni ca h
đảm bo nhanh chóng hiu qu mà ít khi kin v án hành chính". Theo nhn thc
ca chúng tôi thì s công dân ít khi kin v án nh chính ti Toà án là các lý do
ch yếu sau đây:
Mt là, công c tuyên truyn, ph biến hướng dn vic thc hin Lut khiếu
ni, t cáo, Pháp lnh th tc gii quyết c v án hành chính chưa sâu rộng nên nhn
thc, hiu biết ca các tng lớp nhân dân đối với các quy định ca pháp lut v quyn
khiếu ni, khi kin hành chính và th tc gii quyết các khiếu ni, khi kin hành chính
còn rt hn chế, dn ti nhiều người dân chưa thực hin quyn khi kin v án hành
chính để yêu cu Toà án bo v quyn, li ích hp pháp ca mình.
Hai là, vic khiếu nại đến các cơ quan hành chính Nhà nước được thc hiện đơn
gin, thun tiện hơn: công dân ch cn khiếu nại đến đúng người thm quyn gii
quyết không phi np mt khon phí nào; thi gian gii quyết khiếu ni của các
quan hành chính Nhà nước theo quy định ca pháp luật là không dài; theo quy đnh ca
pháp lut hiện hành, người khiếu ni có quyn khiếu ni nhiu lần cho đến khi có quyết
định gii quyết khiếu ni cui cùng của cơ quan Nhà nước có thm quyn; vic thi hành
quyết định hành chính b khiếu nại thường nhanh chóng, thun li. Còn nếu khi kin v
án hành chính ti Toà án thì th tc phc tạp hơn. Theo quy đnh ca pháp lut t tng
thì khi khi kiện, người khi kin phải đứng tên đơn khởi kin, phi gi kèm theo
đơn kiện các tài liu, chng c để chng minh cho yêu cu khi kin ca mình; phi np
tin tm ng án phí; phi tham gia vào quá trình t tng ti Toà án cấp sơ thẩm, phúc
thm, thm chí phải tham gia phiên a giám đc thm, tái thm nếu Tòa án thy cn
thiết; đồng thi quá trình t tng ti Toà án mi cấp thường phc tp phi mt nhiu
thời gian hơn quá trình giải quyết khiếu ni của cơ quan hành chính...
Ba là, người dân nước ta chưa thói quen hoặc ngi kiện các quan hành
chính Nhà nước người thm quyền trong quan hành chính Nhà c ti T
án; mặt khác, không ít người vẫn còn tâm lý chưa tht s tin tưởng vào kh năng, hiệu
qu gii quyết v án hành chính ca Thm phán bởi do địa v, quyn hn ca Thm phán
so với địa v, quyn hn của người b kiện (thường là Ch tch U ban nhân dân các cp,
th trưởng các s, ban, b, ngành...). Ngoài ra, Toà án hành chính không có thm quyn
ra quyết đnh thay thế quyết đnh hành chính trái pháp lut b khiếu kin và vic thi hành
quyết định ca Toà án s không d dàng nếu như quyết định ca Tán trái vi quyết
định hành chính của người b kin có chc v, quyn hn địa phương.
b. Để tạo điều kin thun li cho công dân khi kin v án hành chính ti Toà
án theo đúng quy định ca pháp lut, nâng cao vai trò, trách nhim của Toà án trong lĩnh
vc gii quyết án hành chính, chúng tôi cho rng cn phi thc hiện đồng b mt s gii
pháp cơ bản sau đây:
- Khẩn trương nghiên cứu sửa đổi, b sung các qui định ca Pháp lnh th
tc gii quyết các v án hành chính v trình t, th tc khi kin v án hành chính ti
Toà án theo hướng đơn giản, tạo điều kin d dàng cho công dân thc hin quyn
khi kin v án hành chính và tham gia quá trình gii quyết v án hành chính, đề cao
vai trò, trách nhim của Toà án cũng như bên bị kin - là người có chc v, quyn
hn trong b máy quản lý hành chính Nhà nước trong vic tham gia gii quyết các
khiếu kin hành chính.
lOMoARcPSD| 59773091
8
- Tăng cường công tác tuyên truyn, ph biến và giáo dc pháp lut, nht
là Lut khiếu ni, t cáo, Pháp lnh th tc gii quyết các v án hành chính để nâng
cao trình độ, nhn thc pháp lut cho các tng lớp nhân dân, cũng như cán bộ, công
chc, tạo điều kin cho mọi người thc hiện đúng quyền khiếu ni, khi kin theo qui
định ca pháp lut.
- Đẩy mạnh công tác đào tạo, bồi dưỡng k năng giải quyết các v án hành
chính và nâng cao tinh thn trách nhim của đội ngũ Thẩm phán, Thư ký Toà án, Hội
thm Toà án nhân dân; thc hin nghiêm chnh nguyên tc Thm phán và Hi thm
xét x độc lp và ch tuân theo pháp lut; kin toàn t chc, b máy và tăng cường
cơ sở vt cht cho các Tòa án; coi trng công tác kiểm tra để kp thi chn chnh các
yếu kém trong công tác và xem xét, x lý đúng mức các trường hp thiếu trách
nhim, không kiên quyết bo v pháp lut, "e ngi hoc né tránh" vic th lý, chm
th lý đơn khởi kin, tr lại đơn khởi kin thiếu căn cứ hoc gii quyết v án không
đúng pháp luật nhằm nâng cao hơn nữa chất lượng và hiu qu công tác gii quyết
các v án hành chính, đáp ứng yêu cu từng bước tăng thẩm quyn gii quyết các
v án hành chính cho Tòa án nhân dân.
Kính thưa Quốc hi,
Trên đây là báo cáo ca Toà án nhân dân ti cao v mt s vấn đề mà các v Đại
biu Quc hi cht vn. Xin chân thành cm ơn sự quan tâm ca Quc hi và c tri
c ớc đối vi công tác ca ngành Toà án nhân dân.
Nơi nhận:
CHÁNH ÁN
- U ban Thường v Quc hôi;
- Ch tịch nước; ( đã ký )
- Các v đại biu Quc hi;
Nguyễn Văn Hiện
- Văn phòng Quốc hi;
- Lưu: VP, BTK (TANDTC ).

Preview text:

lOMoAR cPSD| 59773091
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc Số:39 /TANDTC-TK
Hà Nội, ngày 18 tháng 11 năm 2005
BÁO CÁO TRẢ LỜI CHẤT VẤN CỦA ĐẠI BIỂU QUỐC HỘI
( Tại kỳ họp thứ 8 Quốc hội khoá XI ) -
Kính thưa các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước và Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, -
Kính thưa các vị Đại biểu Quốc hội, -
Kính thưa các vị khách quý,
Tại kỳ họp này, Toà án nhân dân tối cao nhận được chất vấn của 6 vị Đại biểu
Quốc hội, đó là: Đại biểu H' Luộc Ntơr - Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Đắc Lắc; Đại biểu
Đặng Văn Xướng - Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Long An; Đại biểu Trần Thành Long Đoàn
đại biểu Quốc hội thành phố Hồ Chí Minh; Đại biểu Nguyễn Xuân Thiết - Đoàn đại biểu
Quốc hội tỉnh Vĩnh Phúc; Đại biểu Phạm Ngọc Thiện- Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Bạc
Liêu và Đại biểu Hoàng Thanh Phú - Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Thái Nguyên. Chánh
án Toà án nhân dân tối cao đã có văn bản trả lời gửi tới các vị Đại biểu Quốc hội có chất
vấn ngay trong kỳ họp này.
Qua các ý kiến chất vấn của các vị Đại biểu Quốc hội, Toà án nhân dân tối cao xin
được báo cáo Quốc hội một số vấn đề chính mà các vị Đại biểu Quốc hội chất vấn tập
trung vào các vấn đề chủ yếu sau đây: 1.
Việc chấp hành các quy định của pháp luật tố tụng về thời hạn xét
xứ đối với các vụ án? 2.
Việc giải quyết đơn đề nghị giám đốc thẩm, tái thẩm? 3.
Việc thực hiện Nghị quyết 388 về bồi thường thiệt hại cho người bị
oan do người có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự gây ra? 4.
Tại sao công dân ít khởi kiện vụ án hành chính?
Toà án nhân dân tối cao xin trân trọng báo cáo Quốc hội từng vấn đề cụ thể như sau:
1. Việc chấp hành các quy định của pháp luật tố tụng về thời hạn xét xử đối với các vụ án?
Trong năm qua, tình hình tội phạm, vi phạm pháp luật và các tranh chấp trong lĩnh
vực dân sự, khiếu kiện hành chính chưa có chiều hướng giảm và diễn biến phức tạp,
đặc biệt là nổi lên nhiều vụ án hình sự lớn, trọng điểm và các vụ tranh chấp dân sự, kinh
tế rất phức tạp; đồng thời, các Tòa án tiếp tục tổ chức và xét xử nhiều vụ án theo tinh
thần cải cách tư pháp và trên cơ sở các quy định của pháp luật tố tụng. Trong công tác lOMoAR cPSD| 59773091
xét xử, nhìn chung các Toà án đã chấp hành tốt các quy định của pháp luật tố tụng về
thời hạn chuẩn bị xét xử; do đó, hầu hết các vụ án được đưa ra xét xử đúng thời hạn do pháp luật quy định.
Trong năm 2005, các Toà án giải quyết được 171.588 vụ án (tăng gần 4000 vụ so
với cùng kỳ năm ngoái) trong tổng số 208.229 vụ án đã thụ lý, đạt 82%, còn lại 36.641
vụ án đang được tiếp tục xem xét, giải quyết (trong đó 20.442 vụ án dân sự, 9.927 vụ án
hôn nhân và gia đình, 5.347 vụ án hình sự, 925 vụ án kinh tế, lao động và hành chính).
Trong số 36.641 vụ án chưa được xét xử thuộc thẩm quyền giải quyết của 739 đơn vị
Toà án các cấp, hầu hết mới được thụ lý trong các tháng 7 và 8/2005 nên các Toà án
chưa thể giải quyết ngay và hầu hết các vụ án đó vẫn trong thời hạn chuẩn bị xét xử theo
quy định của pháp luật. (Tính trung bình cho các loại vụ án thì thời hạn chuẩn bị xét xử
là khoảng 2 - 3 tháng kể từ ngày thụ lý). Theo số liệu thống kê thì trung bình một tháng,
739 đơn vị Toà án trong cả nước thụ lý, giải quyết khoảng 15.000 vụ án các loại, nên về
cơ bản các vụ án nêu trên vẫn được các Toà án giải quyết trong thời hạn luật định.
Triển khai thực hiện Nghị quyết số 08 của Bộ chính trị về công tác tư pháp, trong
mấy năm gần đây số vụ án để quá thời hạn xét xử đã giảm xuống rõ rệt, đặc biệt là ba
Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao đã cơ bản thanh toán xong việc tồn đọng án quá
thời hạn xét xử. Tuy nhiên, một số Tòa án địa phương chưa chấp hành tốt quy định của
pháp luật tố tụng về thời hạn xét xử nên dẫn tới để một số vụ án quá thời hạn xét xử theo
luật định, cụ thể trong số các vụ án chưa được đưa ra xét xử nêu trên, còn khoảng 1.200
vụ án đã quá thời hạn xét xử.
Việc để khoảng 1.200 vụ án quá thời hạn xét xử chủ yếu tập trung nhiều ở các
Toà án cấp tỉnh và cấp huyện ở phía Nam như: Thành phố Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Bến
Tre, Long An, Sóc Trăng, Bình Dương, Đồng Tháp, Kiên Giang... Đây là khuyết điểm của
Toà án, trước hết thuộc trách nhiệm của lãnh đạo Toà án nơi để xảy ra tình trạng này và
trách nhiệm quản lý của Toà án cấp trên đối với Toà án cấp dưới. Tình trạng để các vụ
án quá thời hạn xét xử có nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan, nhưng nguyên nhân cơ bản là: -
Lãnh đạo một số Toà án địa phương thiếu trách nhiệm trong công tác hoặc
năng lực tổ chức, điều hành còn yếu kém nên chưa kịp thời đề ra được kế hoạch, biện
pháp đủ mạnh và kiên quyết, thiếu kiểm tra tiến độ giải quyết các loại vụ án. -
Trình độ, năng lực chuyên môn nghiệp vụ, tinh thần trách nhiệm công tác,
thái độ phục vụ nhân dân của một bộ phận cán bộ, công chức Toà án chưa đáp ứng đầy
đủ yêu cầu và đòi hỏi nhiệm vụ trong tình hiện nay. -
Công tác tổ chức cán bộ nói chung ở một số Tòa án địa phương, nhất là
tuyển dụng, quy hoạch, tạo nguồn bổ nhiệm Thẩm phán chưa được quan tâm thường
xuyên và đúng mức dẫn tới số lượng Thẩm phán và cán bộ còn thiếu nhiều so với yêu
cầu của công việc, nhất là ở Toà án cấp huyện. -
Bên cạnh đó, việc tuyển dụng cán bộ vào các cơ quan Toà án ở một số
tỉnh phía Nam hiện nay còn rất khó khăn vì thiếu nguồn để tuyển dụng. Nhiều Toà án, kể
cả Toà án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh là nơi có số lượng các loại vụ án phải thụ lý,
giải quyết ngày càng tăng, đặc biệt là các vụ án dân sự, nhưng chưa đủ Thẩm phán để xét xử. 2 lOMoAR cPSD| 59773091
Để khắc phục việc để các vụ án quá thời hạn chuẩn bị xét xử trong thời gian tới,
Toà án nhân dân tối cao yêu cầu Toà án các cấp thực hiện đồng bộ các giải pháp chủ yếu sau đây: -
Đề cao trách nhiệm của đội ngũ cán bộ, công chức Toà án, nhất là trách
nhiệm cá nhân của Thủ trưởng đơn vị, Chánh án Toà án nhân dân địa phương trong việc
thực hiện nhiệm vụ được giao. -
Xác định mục tiêu, định mức cụ thể của từng đơn vị, từng Thẩm phán trong
công tác xét xử và hạn chế đến mức thấp nhất việc phát sinh thêm các vụ án quá thời hạn chuẩn bị xét xử. -
Thực hiện tốt việc điều động, biệt phái Thẩm phán trong ngành để tăng
cường cho công tác xét xử của các đơn vị có nhiều án, nhưng thiếu Thẩm phán so với
yêu cầu của công việc; phối hợp tốt hơn nữa với cấp uỷ Đảng và chính quyền các địa
phương để quy hoạch, tạo nguồn bổ nhiệm Thẩm phán, nhất là Thẩm phán Toà án địa
phương trên cơ sở đổi mới mạnh mẽ cơ chế tuyển chọn Thẩm phán theo hướng mở
rộng nguồn xem xét, bổ nhiệm Thẩm phán cả những người làm công tác pháp luật ngoài
ngành Toà án nhưng có đủ điều kiện theo quy định của pháp luật; đồng thời Chánh án
Toà án nhân dân tối cao thực hiện uỷ quyền cho Chánh án Toà án nhân dân cấp tỉnh
biệt phái Thẩm phán Toà án nhân dân cấp huyện trong phạm vi thuộc tỉnh để thực hiện
tốt nhiệm vụ xét xử, chống tồn đọng án. -
Tăng cường công tác chỉ đạo, kiểm tra việc thực hiện nhiệm vụ của các
Toà án, qua đó kịp thời chấn chỉnh những yếu kém trong công tác; đồng thời xem xét và
xử lý đúng mức trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, đơn vị nếu để xảy ra tình
trạng tồn đọng án quá thời hạn luật định hoặc chất lượng xét xử yếu kém. -
Làm tốt công tác động viên, khuyến khích cán bộ, công chức Toà án làm
thêm giờ, ngày nghỉ, góp phần khắc phục việc để các vụ án quá hạn luật định.
Chúng tôi tin rằng với việc thực hiện tốt các biện pháp này, thì tình trạng tồn đọng
án do quá thời hạn chuẩn bị xét xử sẽ từng bước được khắc phục có hiệu quả; góp phần
nâng cao chất lượng xét xử nói chung.
2. Về việc giải quyết các đơn đề nghị giám đốc thẩm, tái thẩm, đặc biệt là
khiếu nại bức xúc, kéo dài?
Về vấn đề này, trong báo cáo về công tác của các Toà án và báo cáo giải quyết
khiếu nại, tố cáo của ngành Tòa án nhân dân năm 2005 đã trình Quốc hội; do đó, trong
phần giải trình này, chúng tôi xin trình bày thêm một số điểm sau đây:
Quán triệt Nghị quyết số 08 ngày 02-01-2002 của Bộ Chính trị và Chỉ thị số 09
ngày 06-03-2002 của Ban Bí thư về công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo, Tòa án nhân
dân tối cao xác định công tác giải quyết các đơn đề nghị giám đốc thẩm, tái thẩm là một
trong những nhiệm vụ chính trị trọng tâm của ngành nên đã tập trung chỉ đạo, đề ra nhiều
giải pháp đồng bộ để thực hiện có hiệu quả công tác này. Trên cơ sở kết quả rà soát,
phân loại đơn thư khiếu nại thuộc thẩm quyền, Toà án nhân dân tối cao đã tổ chức nghiên
cứu toàn bộ để xem xét, xử lý theo quy định của pháp luật, trong đó đặc biệt chú trọng
và tập trung giải quyết các đơn khiếu nại, búc xúc kéo dài
. Để giải quyết có hiệu quả các
loại đơn này, hiện nay ở mỗi đơn vị nghiệp vụ của Toà án nhân dân tối cao đều có một
bộ phận bao gồm các cán bộ có trình độ năng lực và tinh thần trách nhiệm cao dưới sự
chỉ đạo của Thủ trưởng đơn vị thực hiện nhiệm vụ theo dõi, đề xuất, tham mưu cho lãnh lOMoAR cPSD| 59773091
đạo Toà án nhân dân dân tối cao xử lý các đơn bức xúc, kéo dài. Các đồng chí lãnh đạo
Toà án nhân dân tối cao theo lĩnh vực được phân công phụ trách đã quan tâm và trực
tiếp giải quyết, chỉ đạo giải quyết trước các đơn này và các đơn đối với các bản án sắp
hết thời hạn giám đốc thẩm. Trong một số trường hợp, do vụ án rất phức tạp nên Tòa án
nhân dân tối cao đã cử lãnh đạo đơn vị nghiệp vụ xuống tận địa phương nơi có tranh
chấp để xem xét thực tế, xác minh một số vấn đề cần thiết, làm việc cụ thể với cấp ủy
Đảng hoặc chính quyền địa phương về các vấn đề liên quan đến vụ án, tiếp dân và lắng
nghe ý kiến, nguyện vọng của nhân dân; đồng thời, Tòa án nhân dân tối cao đã phối hợp
chặt chẽ với lãnh đạo Viện kiểm sát nhân dân tối cao hoặc cơ quan chức năng để giải
quyết một số khiếu kiện phức tạp, gay gắt. Do đó, trong những năm qua công tác giải
quyết các đơn đề nghị giám đốc thẩm, tái thẩm của Tòa án nhân dân tối cao có tiến bộ
rõ rệt. So với thời gian trước khi thực hiện Chỉ thị số 09 ngày 06-3-2003 của Ban Bí thư
về tăng cường công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo, thì hiện nay số lượng đơn mà ngành
Toà án nhân dân đã giải quyết được tăng gần gấp đôi. (Trước đây hàng năm giải quyết
khoảng 40% đơn đề nghị giám đốc thẩm, thì nay đã giải quyết được khoảng 75%). Đặc
biệt là hiện nay nhiều vụ việc khiếu nại bức xúc, kéo dài của người dân đã được xem xét,
giải quyết kịp thời, đúng pháp luật, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước,
các bên đương sự và đã giảm đáng kể các đơn khiếu kiện bức xúc, gay gắt so với các
năm trước đây; các đơn khiếu nại phức tạp, bức xúc còn lại đang được Toà án nhân dân
tối cao phối hợp với Viện kiểm sát nhân dân tối cao khẩn trương xem xét, giải quyết.
Trong thời gian qua, thực tiễn giải quyết các đơn đề nghị giám đốc thẩm, tái thẩm
cho thấy có một số vụ án rất phức tạp về đánh giá chứng cứ, xảy ra đã lâu, bản án phúc
thẩm đã có hiệu lực pháp luật từ trước năm 2000 , quan điểm giải quyết vụ án có khác
nhau và Toà án các cấp đã căn cứ vào các tài liệu do đương sự xuất trình và tài liệu điều
tra, xác minh thu thập được vào thời điểm trước đây để giải quyết vụ án. Sau khi xét xử
phúc thẩm, đương sự có khiếu nại hoặc cơ quan, tổ chức hữu quan có kiến nghị, lãnh
đạo Tòa án nhân dân tối cao nhiệm kỳ trước đây đã nghiên cứu và kết luận là không có
căn cứ kháng nghị giám đốc thẩm; nhưng sau này, Toà án nhân dân tối cao, cơ quan
hữu quan hoặc đương sự thu thập, cung cấp một số tình tiết mới, làm thay đổi nội dung
và bản chất vụ án, nên Chánh án Tòa án nhân dân tối cao đã quyết định kháng nghị theo
thủ tục tái thẩm để giải quyết lại vụ án cho đúng pháp luật, bảo đảm quyền và lợi ích hợp
pháp của Nhà nước và các đương sự.
Trong quá trình công tác, lãnh đạo ngành Toà án nhân dân luôn xác định và đề
cao tinh thần trách nhiệm trước Đảng, Nhà nước và nhân dân. Tuy nhiên, trong quá trình
xử lý, chỉ đạo giải quyết hàng trăm ngàn vụ án xảy ra hàng năm, thì khó tránh khỏi những
sai sót và nhược điểm về chuyên môn nghiệp vụ do nhận thức, đánh giá chứng cứ... Đó
và bài học kinh nghiệm sâu sắc mà các Toà chuyên trách, bộ máy giúp việc và lãnh đạo
Toà án nhân dân tối cao cần nghiêm túc rút ra trong công tác để thực hiện tốt hơn chức
năng và nhiệm vụ của mình trước Đảng, Nhà nước và nhân dân.
Trên cơ sở tiếp thu ý kiến đóng góp, kiến nghị của cử tri, Đại biểu Quốc hội, cơ
quan của Quốc hội, ban ngành hữu quan và để nâng cao hiệu quả, chất lượng công tác
giải quyết các đơn đề nghị giám đốc thẩm, tái thẩm, Toà án nhân dân tối cao đề ra và
tiếp tục thực hiện nhiều giải pháp cụ thể, đồng bộ về công tác tổ chức cán bộ và chuyên
môn nghiệp vụ
, trong đó đặc biệt chú trọng đến nhóm giải pháp nâng cao chất lượng xét
xử các loại vụ án nhằm hạn chế các khiếu nại. Đề cao tinh thần trách nhiệm, trình độ
chuyên môn nghiệp vụ và phẩm chất đạo đức của đội ngũ cán bộ làm công tác giải quyết
đơn khiếu nại của nhân dân, đặc biệt là cán bộ các Toà chuyên trách và bộ máy giúp 4 lOMoAR cPSD| 59773091
việc của Toà án nhân dân tối cao trong việc giúp Chánh án Toà án nhân dân tối cao giải
quyết tốt các đơn khiếu nại. Với số lượng gần chục ngàn đơn khiếu nại hàng năm như
đã nêu ở trên thì không thể giải quyết ngay tất cả trong cùng một thời gian được, do đó
phải thường xuyên rà soát, phân loại để có kế hoạch giải quyết phù hợp và tập trung
nghiên cứu, giải quyết trước những khiếu nại phức tạp, kéo dài có dấu hiệu oan sai, kiến
nghị của các cơ quan, tổ chức hữu quan, đơn khiếu nại đối với các bản án sắp hết thời
hạn giám đốc thẩm, tái thấm, bảo đảm kháng nghị giám đốc thẩm đúng thời hạn theo quy
định của pháp luật; hạn chế đến mức thấp nhất việc phát sinh thêm các khiếu nại bức
xúc, kéo dài mới. Tăng cường kỷ luật trong công tác này, xử lý nghiêm minh những cán
bộ, công chức, nhất là người có thẩm quyền vi phạm quy chế công tác và thiếu trách
nhiệm trong việc xem xét, giải quyết khiếu nại của công dân.
3. Về việc thực hiện Nghị quyên số 388 ngày 07-3-2003 của Ủy ban thường vụ
Quốc hội (sau đây gọi tắt là Nghị quyết số 388), Tòa án nhân dân tối cao đã có Báo cáo
Ủy ban thường vụ Quốc hội; do đó, chúng tôi xin trả lời trực tiếp vào vấn đề có chất vấn
liên quan đến việc thực hiện Nghị quyết này.
Trước hết phải khẳng định rằng Nghị quyết số 388 đã có tác động tích cực, tạo sự
chuyển biến mạnh mẽ trong nhận thức, hành động của các cơ quan tiến hành tố tụng và
người tiến hành tố tụng hình sự, trong đó có cán bộ, công chức ngành Toà án nhân dân.
Từ khi thực hiện Nghị quyết đến nay, tinh thần trách nhiệm công tác của của những
người tiến hành tố tụng như Điều tra viên, Kiểm sát viên và Thẩm phán đều được nâng
cao hơn; do đó, việc khởi tố, truy tố và xét xử oan đã giảm nhiều so với trước đây. -
Về biểu hiện "chùm tay" trong đấu tranh phòng, chống tội phạm?
Trong quá trình triển khai, thực hiện Nghị quyết số 388 và Nghị quyết 08-NQ/TW
ngày 02- 01-2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác trong thời gian
tới, Toà án nhân dân tối cao đã quán triệt và yêu cầu cán bộ, Thẩm phán trong toàn
ngành phải nâng cao tinh thần trách nhiệm, tránh kết án oan, nhưng không vì sợ trách
nhiệm, sợ bồi thường mà bỏ lọt tội phạm. Các Toà đã thực hiện tốt chỉ đạo của Toà án
nhân dân tối cao và tăng cường công tác phối hợp với các cơ quan tiến hành tố tụng
trong việc kiên quyết đấu tranh phòng, chống tội phạm, nên về cơ bản đã xét xử đúng
người, đúng tội, đúng pháp luật; góp phần giữ vững an ninh chính trị và trật tự an toàn
xã hội, phục vụ có hiệu quả yêu cầu chính trị của các địa phương, cả nước và phục vụ
công cuộc đổi mới của đất nước.
Trong thực tiễn xét xử, có một số vụ án phức tạp, khó khăn trong việc đánh giá
chứng cứ, nhận thức pháp luật về một số vấn đề cụ thể chưa có sự thống nhất hoặc trình
độ, năng lực của các thành viên Hội đồng xét xử còn hạn chế, nên đã tuyên bị cáo không
phạm tội, nhưng sau khi có kháng cáo, kháng nghị, thì Toà án cấp trên đã huỷ bản án
của Toà án cấp dưới để xét xử lại theo hướng xác định bị cáo có tội. Mặc dù, trong thời
gian vừa qua cũng chưa phát hiện và chứng minh được trường hợp nào do thiếu bản
lĩnh nghề nghiệp và sợ bồi thường mà Hội đồng xét xử đã có biểu hiện "chùm tay" bỏ lọt
tội phạm; nhưng Toà án nhân dân tối cao cũng thấy rằng thông qua các vụ án nêu trên
cần nghiên cứu rút kinh nghiệm, có biện pháp xử lý phù hợp để tiếp tục thực hiện tốt hơn
nữa yêu cầu chống oan sai, đồng thời chống bỏ lọt tội phạm trong tình hình hiện nay. -
Về biểu hiện né tránh sợ trách nhiệm nên đã xác định không đúng,
không đủ mức bồi thường? lOMoAR cPSD| 59773091
Từ khi thực hiện Nghị quyết số 388 đến nay, các Tòa án đã nhận và thụ lý 64 đơn
đòi bồi thường thiệt hại của người bị kết án oan thuộc trách nhiệm bồi thường của các
Tòa án. Sau khi nhận được đơn yêu cầu, các Tòa án đã tiến hành thương lượng với
người bị oan theo đúng quy định của Nghị quyết số 388 và hướng dẫn tại Thông tư liên
tịch số 01/2004/TTLT- VKSNDTC-TANDTC-BTP-BQP-BTC ngày 25-3-2004 và đã
thương lượng thành được 33 trường hợp. Các trường hợp còn lại một số đang được tiếp
tục thương lượng, một số là đơn mới yêu cầu, một số trường hợp người bị oan đưa ra
mức bồi thường quá lớn, không có căn cứ pháp luật nên hai bên không thống nhất được
mức bồi thường và người bị oan làm đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết theo thủ
tục tố tụng dân sự. Các trường hợp không thống nhất được mức bồi thường, chủ yếu là
do người bị oan nhận thức không đầy đủ về các quy định của Nghị quyết số 388 và các
văn bản hướng dẫn áp dụng Nghị quyết nên đã đưa ra các khoản, mức bồi thường không
phù hợp vời các quy định của pháp luật; thậm chí có trường hợp thiếu tinh thần hợp tác,
không cung cấp đầy đủ các chứng cứ hợp pháp chứng minh có thiệt hại xảy ra để Tòa
án tiến hành việc thương lượng bồi thường.
Nhìn chung, thời gian qua các Toà án đã quán triệt, tổ chức thực hiện nghiêm
chỉnh Nghị quyết số 388; việc bồi thường thiệt hại và khôi phục danh dự cho người bị kết
án oan được thực hiện kịp thời, đúng trình tự, thủ tục theo quy định của Nghị quyết số
388, thể hiện ý thức cầu thị, thẳng thắn nhận trách nhiệm đối với những sai sót của mình.
Hầu hết các trường hợp đã và đang được Tòa án có trách nhiệm giải quyết đều ghi nhận
thái độ nghiêm túc, cầu thị của Toà án, thậm chí có trường hợp, sau khi Toà án tổ chức
xin lỗi công khai, đương sự đã không yêu cầu bồi thường về vật chất. Qua hơn hai năm
thực hiện Nghị quyết số 388 chưa phát hiện được trường hợp nào có biểu hiện né tránh
sợ trách nhiệm nên đã xác định không đúng hoặc không đầy đủ mức bồi thường cho người bị oan...
Để tiếp tục thực hiện tốt Nghị quyết số 388, lãnh đạo Toà án nhân dân tối cao đã
yêu cầu lãnh đạo Toà án các cấp coi trọng việc quán triệt, tổ chức thực hiện đầy đủ các
yêu cầu, nội dung của Nghị quyết và các văn bản hướng dẫn áp dụng Nghị quyết này
đến cán bộ, công chức trong ngành, đặc biệt là nâng cao tinh thần trách nhiệm và thận
trọng hơn trong công tác; đảm bảo chất lượng xét xử, chống việc kết án oan và không
được bỏ lọt tội phạm. Đối với trường hợp thiếu bản lĩnh nghề nghiệp, "chùm tay" bỏ lọt
tội phạm hoặc sợ trách nhiệm mà xác định không đúng, không đầy đủ các khoản, mức
bồi thường cho người bị oan, thì trước hết lãnh đạo đơn vị đó phải chịu trách nhiệm về
mặt quản lý; Thẩm phán giải quyết vụ việc cũng phải bị xem xét trách nhiệm theo quy
định của Pháp lệnh cán bộ, công chức và còn bị xem xét về tư cách Thẩm phán và có
thể bị cách chức hoặc không được bổ nhiệm lại khi hết nhiệm kỳ Thẩm phán; đồng thời,
Tòa án nhân dân tối cao sẽ phối hợp với các cơ quan có trách nhiệm ở Trung ương tiếp
tục nghiên cứu, hướng dẫn rõ hơn để áp dụng thống nhất một số quy định trong Nghị
quyết 388 nhằm tháo gỡ các vướng mắc trong thực tiễn thi hành Nghị quyết này.
4. Về việc tại sao công dân ít khởi kiện các vụ án hành chính? a.
Thực tiễn giải quyết khiếu nại của các cơ quan hành chính Nhà nước và
giải quyết các vụ án hành chính của Toà án nhân dân các cấp trong mấy năm gần đây
cho thấy một thực trạng là số lượng đơn thư khiếu nại của công dân, của cơ quan Nhà
nước, tổ chức mà các cơ quan hành chính Nhà nước từ địa phương đến trung ương
phải thụ lý để giải quyết hàng năm là rất lớn, nhưng ngược lại, số đơn khởi kiện vụ án
hành chính mà Toà án nhân dân các cấp phải thụ lý hàng năm để giải quyết theo thẩm 6 lOMoAR cPSD| 59773091
quyền là chưa nhiều; "công dân thường lựa chọn, mong muốn cơ quan hành chính đã
ra quyết định và cơ quan hành chính cấp trên xem xét, giải quyết các khiếu nại của họ
đảm bảo nhanh chóng và hiệu quả mà ít khởi kiện vụ án hành chính". Theo nhận thức
của chúng tôi thì sở dĩ công dân ít khởi kiện vụ án hành chính tại Toà án là vì các lý do chủ yếu sau đây:
Một là, công tác tuyên truyền, phổ biến và hướng dẫn việc thực hiện Luật khiếu
nại, tố cáo, Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính chưa sâu rộng nên nhận
thức, hiểu biết của các tầng lớp nhân dân đối với các quy định của pháp luật về quyền
khiếu nại, khởi kiện hành chính và thủ tục giải quyết các khiếu nại, khởi kiện hành chính
còn rất hạn chế, dẫn tới nhiều người dân chưa thực hiện quyền khởi kiện vụ án hành
chính để yêu cầu Toà án bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình.
Hai là, việc khiếu nại đến các cơ quan hành chính Nhà nước được thực hiện đơn
giản, thuận tiện hơn: công dân chỉ cần khiếu nại đến đúng người có thẩm quyền giải
quyết mà không phải nộp một khoản phí nào; thời gian giải quyết khiếu nại của các cơ
quan hành chính Nhà nước theo quy định của pháp luật là không dài; theo quy định của
pháp luật hiện hành, người khiếu nại có quyền khiếu nại nhiều lần cho đến khi có quyết
định giải quyết khiếu nại cuối cùng của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền; việc thi hành
quyết định hành chính bị khiếu nại thường nhanh chóng, thuận lợi. Còn nếu khởi kiện vụ
án hành chính tại Toà án thì thủ tục phức tạp hơn. Theo quy định của pháp luật tố tụng
thì khi khởi kiện, người khởi kiện phải đứng tên và ký đơn khởi kiện, phải gửi kèm theo
đơn kiện các tài liệu, chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu khởi kiện của mình; phải nộp
tiền tạm ứng án phí; phải tham gia vào quá trình tố tụng tại Toà án ở cấp sơ thẩm, phúc
thẩm, thậm chí phải tham gia phiên tòa giám đốc thẩm, tái thẩm nếu Tòa án thấy cần
thiết; đồng thời quá trình tố tụng tại Toà án mỗi cấp thường phức tạp và phải mất nhiều
thời gian hơn quá trình giải quyết khiếu nại của cơ quan hành chính...
Ba là, người dân nước ta chưa có thói quen hoặc ngại kiện các cơ quan hành
chính Nhà nước và người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính Nhà nước tại Toà
án; mặt khác, không ít người vẫn còn tâm lý chưa thật sự tin tưởng vào khả năng, hiệu
quả giải quyết vụ án hành chính của Thẩm phán bởi do địa vị, quyền hạn của Thẩm phán
so với địa vị, quyền hạn của người bị kiện (thường là Chủ tịch Uỷ ban nhân dân các cấp,
thủ trưởng các sở, ban, bộ, ngành...). Ngoài ra, Toà án hành chính không có thẩm quyền
ra quyết định thay thế quyết định hành chính trái pháp luật bị khiếu kiện và việc thi hành
quyết định của Toà án sẽ không dễ dàng nếu như quyết định của Toà án trái với quyết
định hành chính của người bị kiện có chức vụ, quyền hạn ở địa phương. b.
Để tạo điều kiện thuận lợi cho công dân khởi kiện vụ án hành chính tại Toà
án theo đúng quy định của pháp luật, nâng cao vai trò, trách nhiệm của Toà án trong lĩnh
vực giải quyết án hành chính, chúng tôi cho rằng cần phải thực hiện đồng bộ một số giải pháp cơ bản sau đây: -
Khẩn trương nghiên cứu sửa đổi, bổ sung các qui định của Pháp lệnh thủ
tục giải quyết các vụ án hành chính về trình tự, thủ tục khởi kiện vụ án hành chính tại
Toà án theo hướng đơn giản, tạo điều kiện dễ dàng cho công dân thực hiện quyền
khởi kiện vụ án hành chính và tham gia quá trình giải quyết vụ án hành chính, đề cao
vai trò, trách nhiệm của Toà án cũng như bên bị kiện - là người có chức vụ, quyền
hạn trong bộ máy quản lý hành chính Nhà nước trong việc tham gia giải quyết các khiếu kiện hành chính. lOMoAR cPSD| 59773091 -
Tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến và giáo dục pháp luật, nhất
là Luật khiếu nại, tố cáo, Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính để nâng
cao trình độ, nhận thức pháp luật cho các tầng lớp nhân dân, cũng như cán bộ, công
chức, tạo điều kiện cho mọi người thực hiện đúng quyền khiếu nại, khởi kiện theo qui định của pháp luật. -
Đẩy mạnh công tác đào tạo, bồi dưỡng kỹ năng giải quyết các vụ án hành
chính và nâng cao tinh thần trách nhiệm của đội ngũ Thẩm phán, Thư ký Toà án, Hội
thẩm Toà án nhân dân; thực hiện nghiêm chỉnh nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm
xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; kiện toàn tổ chức, bộ máy và tăng cường
cơ sở vật chất cho các Tòa án; coi trọng công tác kiểm tra để kịp thời chấn chỉnh các
yếu kém trong công tác và xem xét, xử lý đúng mức các trường hợp thiếu trách
nhiệm, không kiên quyết bảo vệ pháp luật, "e ngại hoặc né tránh" việc thụ lý, chậm
thụ lý đơn khởi kiện, trả lại đơn khởi kiện thiếu căn cứ hoặc giải quyết vụ án không
đúng pháp luật nhằm nâng cao hơn nữa chất lượng và hiệu quả công tác giải quyết
các vụ án hành chính, đáp ứng yêu cầu từng bước tăng thẩm quyền giải quyết các
vụ án hành chính cho Tòa án nhân dân.
Kính thưa Quốc hội,
Trên đây là báo cáo của Toà án nhân dân tối cao về một số vấn đề mà các vị Đại
biểu Quốc hội có chất vấn. Xin chân thành cảm ơn sự quan tâm của Quốc hội và cử tri
cả nước đối với công tác của ngành Toà án nhân dân. Nơi nhận: CHÁNH ÁN -
Uỷ ban Thường vụ Quốc hôi; -
Chủ tịch nước; ( đã ký ) -
Các vị đại biểu Quốc hội; Nguyễn Văn Hiện - Văn phòng Quốc hội; - Lưu: VP, BTK (TANDTC ). 8