



















Preview text:
  lOMoAR cPSD| 58968691
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI 
HỌC CÔNG NGHỆ TP. HCM  ---------------------------    BÁO CÁO  CHUYÊN ĐỀ:  
BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU - HẬU QUẢ XÂM NHẬP MẶN 
ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG      lOMoAR cPSD| 58968691
TP. Hồ Chí Minh, tháng 5 năm 2024  THÀNH VIÊN NHÓM  Họ và tên  MSSV  Đặng xuân Huyền  2286600322 
Huỳnh Trương Tiến Khải  2187602225  Trương Phan Hoàng Nam  2188503138  Bùi Văn Nam  2188503137  Trần Quốc Nam  2188503456  Trần Thị Ngọc Ngà  2282300667  Phan Ánh Ngọc  2188504034          lOMoAR cPSD| 58968691
1.Khái niệm ô nhiễm môi trường không khí 
Ô nhiễm không khí là sự thay đổi lớn trong thành phần của không khí, 
chủ yếu do khói, bụi, hơi hoặc các khí lạ được đưa vào không khí, có sự 
tỏa mùi, làm giảm tầm nhìn xa, gây biến đổi khí hậu, gây bệnh cho con 
người và cũng có thể gây hại cho các sinh vật khác như động vật và cây 
lương thực, và có thể làm hỏng môi trường tự nhiên hoặc xây dựng.   
Có 2 dạng ô nhiễm không khí 
Các dạng ô nhiễm không khí 
Có 2 dạng ô nhiễm không khí là trong nhà và ngoài trời 
Ô nhiễm không khí trong nhà (hộ gia đình): do hệ thống bếp nấu, sưởi ấm 
và ánh sáng. Hơn 3 tỷ người sử dụng phương tiện thô sơ (đốt lửa, bếp lò,  bếp củi…). 
- Ô nhiễm không khí ngoài trời (xung quanh): phát thải do các hoạt động 
sản xuất điện, giao thông, lò đốt công nghiệp, lò nung gạch, cháy rừng, 
nông nghiệp, các cơn bão bụi và bão cát. Tuy nhiên, có đến 90/193 quốc 
gia không có các tiêu chuẩn phát thải cho các phương tiện giao thông. 
Có 80% các quốc gia trên thế giới sử dụng phương pháp đối với rác thải 
sinh hoạt và rác thải công nghiệp. 
Mỗi năm trên thế giới có 6,5 triệu người chết sớm do chất lượng không 
khí kém. Trong đó, 4,3 triệu người chết do ô nhiễm không khí trong nhà 
bởi hệ thống bếp nấu. Thực trạng này thường xảy ra ở các nước có thu 
nhập trung bình và thấp. 2 triệu người chết bởi mắc các bệnh về hô hấp 
do ô nhiễm không khí trong nhà. Trong đó, có 800 trẻ em dưới 5 tuổi.      lOMoAR cPSD| 58968691
3,7 triệu người chết do ô nhiễm không khí ngoài trời. 
Những nguyên nhân dẫn đến ô nhiễm môi trường không khí 
Có hai nguyên nhân chính dẫn đến ô nhiễm môi trường không khí đó là 
yếu tố tự nhiên và tác động của con người. Cụ thể như sau: 
Ô nhiễm không khí tự nhiên 
- Ô nhiễm từ gió: Gió cũng là một trong những nguyên nhân gây ra ô 
nhiễm không khí. Bụi bẩn, các chất khí có thể được gió đẩy đi xa hàng 
trăm km khiến sự ô nhiễm lây lan ra theo diện rộng một cách nhanh  chóng 
- Bão: Sinh ra NOx là nguyên nhân chính khiến bão trở thành một 
nguyênnhân trong quá trình gây ô nhiễm môi trường. Bên cạnh đó bão 
cát mang theo bụi mịn (PM10, PM2.5) khiến cho tỷ lệ ô nhiễm bụi mịn 
tăng lên. Cháy rừng: Cháy rừng sẽ khiến cho lượng Nito Oxit trong 
không khí tăng lên khá nhiều vì quy mô đám cháy lớn và thời gian dập  tắt lâu. 
Núi lửa: Khi có sự phun trào núi lửa thì một lượng khí. 
- Ô nhiễm không khí do con người 
Bên cạnh yếu tố tự nhiên, con người là nguyên nhân chính dẫn đến ô 
nhiễm môi trường không khí. Những hoạt động của con người như sinh 
hoạt, sản xuất, xây dựng và giao thông… đã và ngày càng gây ảnh hưởng 
đến môi trường không khí, khiến tình trạng ô nhiễm ngày càng trầm trọng 
và bức thiết hơn. Dưới đây là một số nguyên nhân gây nên ô nhiễm 
không khí dưới sự tác động của con người: 
+ Khói, bụi từ các nhà máy: Chiếm tỷ lệ lớn nhất trong những nguyên 
nhân gây ra tình trạng ô nhiễm không những không khí mà còn cả nguồn 
nước, thức ăn. Trong khói bụi từ các nhà máy có một lượng lớn các khí 
CO2, CO, SO2, NOx, các chất hữu cơ chưa cháy hết: muội than, bụi) với 
nồng độ cực cao. Nếu trong quá trình xử lý khí thải không tốt sẽ ảnh 
hưởng rất xấu đến sức khỏe của người dân sống trong khu vực đó. Đây 
cũng là nguyên nhân chính gây ra hiện tượng mưa axit gây ra rất nhiều 
thiệt hại cho con người cũng như mùa màng. 
+ Giao thông: Lượng khói, bụi từ xe hơi, xe máy, các phương tiện nói 
chung sử dụng nhiên liệu khí đốt để hoạt động… cũng rất lớn bởi số 
người tham gia giao thông hàng ngày là cực cao. Đối với những đất nước 
chưa phát triển hoặc đang phát triển thì các phương tiện giao thông có thể 
gây ô nhiễm không khí hơn khi sử dụng các phương tiện lỗi thời cũng 
như cơ sở hạ tầng cho các dịch vụ di chuyển công còn chưa phát triển.      lOMoAR cPSD| 58968691
Bên cạnh đó, chiến tranh hay các cuộc tập trận quân sự: vũ khí hạt nhân, 
khí độc, chiến tranh hóa học và tên lửa cũng là một trong những nguyên 
nhân gây ra sự ô nhiễm không khí này.   
Nguyên nhân gây ô nhiễm môi trường không khí: 
1.Nguyên nhân tự nhiên: 
 Các dạng ô nhiễm tự nhiên là những dạng xuất phát từ các hiện tượng tự 
nhiên. Có nghĩa là chúng được gây ra bởi các hoạt động định kỳ không 
phải do con người tạo ra hoặc kết quả từ hoạt động của con người.  a. Bụi và cháy rừng: 
-Trong các khu vực rộng lớn có ít hoặc không có thảm thực vật và đặc 
biệt khô do thiếu mưa, gió có thể tự nhiên tạo ra các cơn bão bụi. Vật chất 
hạt này, khi được thêm vào không khí, có thể có tác dụng làm ấm tự nhiên 
và cũng có thể gây nguy hiểm cho sức khỏe của các sinh vật sống. Vật 
chất hạt, khi phân tán vào các khu vực có thảm thực vật tự nhiên, cũng có 
thể là một trở ngại tự nhiên cho quang hợp.      lOMoAR cPSD| 58968691  
-Cháy rừng là hiện tượng tự nhiên xảy ra ở những khu vực nhiều cây cối 
khi thời gian khô hạn kéo dài, thường là do thay đổi mùa và thiếu lượng 
mưa. Khói và carbon monoxide gây ra bởi các đám cháy này góp phần 
vào mức độ carbon trong khí quyển, làm tăng sự nóng lên của trái đất hơn 
bằng cách gây ra Hiệu ứng nhà kính.   
b. Động vật và thực vật: 
Sự phân hủy tự nhiên các chất hữu cơ, các xác động thực vật (đặc biệt là 
gia súc) là một nguyên nhân khác gây ô nhiễm không khí tự nhiên, dẫn 
đến việc giải phóng khí mê-tan, một loại khí nhà kính khác.      lOMoAR cPSD| 58968691
 c.Hoạt động của núi lửa: 
Các vụ phun trào núi lửa là một nguồn ô nhiễm không khí tự nhiên 
chính. Khi một vụ phun trào xảy ra, nó tạo ra một lượng lớn các sản 
phẩm lưu huỳnh, clo và tro, được thải vào khí quyển và có thể bị gió 
thổi lên để phát tán trên các khu vực rộng lớn.   d. Các dạng khác: 
Sự phát tán phấn hoa, bụi muối biển, bụi phóng xạ trong tự nhiên... đều 
là các tác nhân không có lợi cho cuộc sống của con người và sinh vật.        lOMoAR cPSD| 58968691
2 .Nguồn ô nhiễm nhân tạo:   
a. Đốt nhiên liệu hóa thạch Sulfur dioxide (SO2) phát ra từ quá trìn h 
đốt cháy nhiên liệu hóa thạch như than, dầu mỏ và các chất dễ cháy 
khác trong nhà máy là một trong những nguyên nhân chính gây ô nhi ễm 
không khí. Ô nhiễ m phát ra từ các phương tiện giao thông gây ra một  lượng ô nhiễm lớn. 
b. Hoạt động nông nghiệp: 
Amoniac là sản phẩm phụ rất phổ biến từ các hoạt động liên quan đến 
nông nghiệp và là một trong những loại khí độc hại nhất trong khí 
quyển. Sử dụng thuốc trừ sâu, thuốc bảo vệ thực vật và phần bón trong 
các hoạt động nông nghiệp đã phát triển khá nhiều. Chúng phát ra các      lOMoAR cPSD| 58968691
hóa chất độc hại vào không khí và cũng có thể gây ô nhiễm nước. 
c. Hoạt động công nghiệp: 
Các ngành công nghiệp sản xuất phát thải một lượng lớn carbon 
monoxide, hydrocarbon, các hợp chất hữu cơ và hóa chất vào không khí 
do đó làm suy giảm chất lượng không khí. Các ngành công nghiệp sản 
xuất có ở mọi nơi trên trái đất và không có khu vực nào không bị ảnh  hưởng bởi nó.  - 
Nhà máy nhiệt điện: thường dùng than và dầu để chuyển nhiệt 
năng thành điện năng nên trong quá trình cháy thường sinh ra nhiều khí 
độc và tạo ra một lượng tro bụi lớn. Các bãi than hay băng tải của nhà 
máy đều là các nguồn sinh thành ô nhiễm.  - 
Nhà máy hóa chất: thường sinh ra nhiều loại chất độc hại ở thể khí 
và rắn. Các chất này khi phát tán trong môi trường có thể phản ứng với 
nhau tạo thành các chất ô nhiễm thứ cấp nguy hại với môi trường. - Nhà 
máy luyện kim: các chất ô nhiễm sinh ra gồm nhiều khí độc (CO2, NOx, 
SO2, H2S, HF...) và bụi với các kích cỡ khác nhau do quá trình cháy 
nhiên liệu, quá trình tuyển quặng, đập, nghiên...  - 
Nhà máy vật liệu xây dựng: các nhà máy sản xuất xi măng, gạch, 
vôi, bê tông.... thường sinh thành nhiều khói, bụi, đất đá và các khí CO,  SO2, NOx...      lOMoAR cPSD| 58968691
d. Hoạt động khai khoáng: 
Khai khoáng là một quá trình trong đó các khoáng chất dưới trái đất 
được khai thác bằng thiết bị lớn. Trong quá trình này bụi và hóa chất 
được thải ra trong không khí gây ô nhiễm không khí lớn. 
e. Từ hoạt động sinh hoạt: 
Hằng ngày con người đã sử dụng một khối lượng khá lớn các nhiên liệu 
đốt như than, củi, dầu, khí đốt để đun nấu và phục vụ cho các mục đí ch 
khác. Các khí này, trong quá trình cháy đã tiêu thụ oxy và tạo ra khói 
bụi, khí CO, CO 2 , SO2... tập trung trong không gian nhỏ hẹp (nhà bếp )  với nồng độ lớn.        lOMoAR cPSD| 58968691 f. Từ chất thải: 
Đốt cháy chất thải hữu cơ trong các bãi chôn lấp thải ra các chất độ c 
hại, furan, metan và các hạt nhỏ như bụi than vào khí quyển. Trên t oà n 
cầu, ước tính 40% chất thải được đốt công khai. Vấn đề nghiêm trọn g 
nhất ở các khu vực đô thị hóa và các nước đang phát triển. Đốt cháy 
chất thải nông nghiệp và đô thị được thực hiện ở 166 trên 193 quốc gia.      lOMoAR cPSD| 58968691  
2. Hiện trạng giao thông TP.HCM 
 a. Hiện trạng phương tiện giao thông 
Là đô thị loại đặc biệt, trung tâm kinh tế, văn hoá, xã hội, dịch vụ, 
du lịch của cả nước và là đầu mối giao thông lớn, giao lưu quốc tế quan 
trọng của vùng kinh tế trọng điếm phía Nam, TPHCM có mật độ dân số 
và phương tiện giao thông tập trung đông đúc. Có thể thấy lượng phương 
tiện tham gia giao thông tăng lên là do nhóm đối tượng được di chuyển 
ngoài đường ngày một đông hơn. Phương tiện tham gia giao thông chủ 
yếu là mô tô và xe gắn máy, chiếm tỉ lệ trên 90%; còn lại là các phương 
tiện khác như ô tô, xe buýt.      lOMoAR cPSD| 58968691   Nguồn ảnh (sưu tầm) -
Phương tiện tăng quá mạnh:      lOMoAR cPSD| 58968691 +Trong vòng 14 năm (năm  2009 đến năm 2023), số 
lượng phương tiện giao thông 
đường bộ tại TPHCM đã tăng 
thêm gần 5 triệu chiếc, nâng 
tổng số phương tiện lên hơn 
9,2 triệu chiếc tính đến cuối  năm 2023, bao gồm 940.126 
ôtô và gần 8,3 triệu môtô. 
+Trong giai đoạn 2009 - 2023, bình quân mỗi năm tổng số phương tiện 
tăng 7,2%/năm, ôtô tăng 8,9%/năm, môtô tăng 7%/năm.        lOMoAR cPSD| 58968691   Nguồn ảnh (sưu tầm) 
+ Theo Sở Giao thông Vận tải TPHCM, tính đến tháng 11.2023, mật độ 
đường giao thông trên địa bàn TPHCM là 2,34 km/km2 (theo quy định      lOMoAR cPSD| 58968691
phải đạt 10 - 13,3 km/km2); diện tích đất dành cho giao thông đạt 13,04% 
(theo quy định phải đạt 24% - 26%). 
+ Để hạn chế xe cá nhân, tháng 10-2020, UBND TP đã ban hành quyết 
định phê duyệt đề án tăng cường vận tải hành khách công cộng kết hợp 
kiểm soát sử dụng phương tiện cơ giới cá nhân trên địa bàn. 
 • Về giải pháp thứ nhất: từ năm 2020, Sở GTVT đã xây dựng đề án về 
thu phí ô tô vào nội đô dựa trên nghiên cứu trước đây của Công ty CP 
Công Nghệ Tiên Phong (nghiên cứu từ năm 2009). Tuy nhiên, sau nhiều 
năm, số phận đề án này vẫn chỉ nằm trên giấy, chưa có tiến triển. 
•Về giải pháp thứ hai: đầu năm 2021, Viện Môi trường - Viện Khoa học 
và Công nghệ GTVT phối hợp cùng Sở GTVT TP xây dựng phương án 
kiểm soát khí thải hỗn hợp theo khu vực và năm sử dụng của xe. Hiện tại, 
đề án này cũng chưa được thực hiện. 
=> Với tốc độ tăng trưởng phương tiện giao thông như hiện nay, kết cấu 
hạ tầng giao thông TPHCM bị quá tải, vượt năng lực thông hành- Sở 
GTVT thẳng thắn nhìn nhận. Số lượng xe máy và ô tô ngày càng tăng đã 
tạo ra lượng lớn khí thải, góp phần làm giảm chất lượng không khí. Đặc 
biệt, việc phương tiện giao thông công cộng chưa được phát triển mạnh 
mẽ đã khiến người dân phụ thuộc nhiều vào xe cá nhân. Điều này không 
chỉ gây ra tình trạng ùn tắc giao thông mà còn làm tăng lượng khí thải, 
gây ô nhiễm không khí. Việc tìm giải pháp hiệu quả để kiểm soát và giảm 
thiểu ô nhiễm không khí từ giao thông là một nhiệm vụ cấp bách. 
b. Hiện trạng cơ sở hạ tầng giao thông 
Quá trình phát triển đô thị tại TP.HCM ghi nhận mức tăng trưởng 
cực nhanh. Tuy nhiên, tốc độ phát triển hạ tầng giao thông của thành phố 
đang chưa đáp ứng kịp thời. Các tuyến đường, cửa ngõ của thành phố 
luôn đặt trong tình trạng quá tải trong giờ cao điểm. Thậm chí nhiều 
tuyến đường nội đô luôn xảy ra xung đột giao thông dù không phải trong  giờ cao điểm      lOMoAR cPSD| 58968691  
Hình ảnh hạ tầng giao thông TP.HCM chưa theo kịp tốc độ phát triển đô  thị 
Ghi nhận cho thấy, như tại khu Đông TP.HCM, vào giờ cao điểm, 
các phương tiện tham gia giao thông phải di chuyển khó khăn trên tuyến 
Võ Nguyên Giáp, cầu Rạch Chiếc vào trung tâm thành phố. Tương tự là 
những tuyến đường nằm trên địa bàn TP. Thủ Đức như Võ Văn Ngân, 
Nguyễn Trinh, Đỗ Xuân Hợp, Lê Văn Việt... 
Tương tự là câu chuyện ở khu Nam, các tuyến đường như Nguyễn 
Hữu Thọ, Nguyễn Văn Linh (quận 7), Lê Văn Lương (huyện Nhà Bè)... 
cũng đang oằn mình do ngày càng nhiều cao ốc, chung cư đua nhau mọc  lên. 
Hay như tại quận Bình Thạnh, các tuyến đường như Ung Văn 
Khiêm, Xô Viết Nghệ Tĩnh... cũng đặt trong tình trạng báo động. Còn 
đường Trường Chinh đoạn qua quận Tân Bình cùng với các tuyến giao 
thông của khu vực này là nỗi ám ảnh với nhiều người, tình trạng kẹt xe 
xảy trong nhiều năm qua vì đường nhỏ hẹp, trong khi lưu lượng lại rất  đông.      lOMoAR cPSD| 58968691  
Hình ảnh kẹt xe triền miên tại đường Xô Viết Nghệ Tĩnh 
Dân số quá đông, phương tiện cá nhân nhiều, diện tích dành cho hạ 
tầng giao thông ít, các dự án thi công chậm, ý thức tham gia giao thông 
kém, tỷ lệ người dân sử dụng phương tiện giao thông công cộng thấp 
(5%)...tất cả đã làm cho hệ thống giao thông trở nên hết sức lộn xộn và 
bất cập. Điều này là không thể tránh khỏi, khi quá trình đô thị hóa diễn ra 
nhanh chóng, sự quản lý của nhà nước không theo kịp sự phát triển của  thành phố. 
Đại đa số đường phố ở Tp HCM đều hẹp nhưng lại được lưu thông 
hai chiều, có đường tuy đã qui định ô tô chỉ lưu thông một chiều nhưng 
lại cho phép xe bus được phép hoạt động hai chiều, mà xe bus có loại đến  45 chỗ ngồi. 
Việc lấn chiếm vỉa hè, lòng đường để bán hàng của một số đông 
người bán lẻ, chủ yếu là người bán hàng rong, hàng ăn uống, phụ huynh 
chờ đón con trước cổng các trường học, xe ôm, bến trông giữ phương tiện  giao thông tự phát. 
Mặc dù đã có sự phát triển của hệ thống giao thông công cộng như 
tuyến xe buýt và hệ thống metro (đang trong quá trình xây dựng), nhưng 
vẫn còn thiếu hụt so với nhu cầu thực tế. Điều này khiến nhiều người dân 
vẫn phụ thuộc vào việc sử dụng xe máy và ô tô cá nhân.      lOMoAR cPSD| 58968691  
Hình ảnh xe máy và ô tô làm chủ đường phố 
TP.HCM đang nỗ lực cải thiện cơ sở hạ tầng giao thông để đáp ứng 
nhu cầu phát triển kinh tế và dân số ngày càng tăng. Tuy nhiên, cần có sự 
đồng bộ trong quy hoạch, đầu tư, và thay đổi nhận thức của người dân để 
đạt được hiệu quả tối đa trong việc giải quyết các vấn đề giao thông hiện  tại. 
3. Ô nhiễm không khí do giao thông   
Trong những năm gần đây, ô nhiễm không khí đã trở thành vấn đề nóng 
và nhận được sự quan tâm lớn của cộng đồng. Ở Việt Nam, mỗi năm có 
khoảng 60.000 người chết có liên quan đến ô nhiễm không khí. Khí thải ô 
nhiễm môi trường ở đô thị có tới 70% bắt nguồn từ các phương tiện giao 
thông. Ở các đô thị, giao thông vận tải là nguồn gây ô nhiễm không khí 
lớn nhất, đặc biệt là sự phát thải vào khí quyển như bụi, các khí CO, VOC      lOMoAR cPSD| 58968691
và NO2 từ ô tô, xe máy và các phương tiện sử dụng nhiên liệu hóa thạch 
để hoạt động. Khi các phương tiện này sử dụng nhiên liệu để vận hành, 
động cơ sẽ phát thải một lượng lớn các chất khí có thành phần độc hại 
gây ô nhiễm môi trường và ảnh hưởng trực tiếp tới sức khỏe người tham 
gia giao thông và những người dân sinh sống dọc các tuyến đường giao 
thông.Đặc biệt, khi xảy ra tình trạng ùn ứ giao thông, mức độ ô nhiễm hơi 
xăng dầu có thể tăng lên 4 - 5 lần so với lúc bình thường. Nguồn khí thải 
từ giao thông vận tải đang trở thành một nguồn gây ô nhiễm chính đối với 
môi trường không khí ở đô thị, nhất là ở các đô thị lớn như Hà Nội,  TP.HCM.