



















Preview text:
  lOMoAR cPSD| 60776878
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KỸ THUẬT - CÔNG NGHỆ CẦN THƠ 
KHOA KHOA HỌC XÃ HỘI  -----   
BÁO CÁO CHUYÊN ĐỀ 
HỌC PHẦN KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁC - LÊNIN 
HỌC KỲ II, NĂM HỌC 2024 - 2025   ĐỀ TÀI: 
CÔNG NGHIỆP HÓA - HIỆN ĐẠI HOÁ Ở VIỆT NAM 
GIẢNG VIÊN GIẢNG DẠY:   Họ tên:  
Cần Thơ, tháng 4 năm 2025    lOMoAR cPSD| 60776878
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KỸ THUẬT - CÔNG NGHỆ CẦN THƠ 
KHOA KHOA HỌC XÃ HỘI 
BÁO CÁO CHUYÊN ĐỀ 
HỌC PHẦN KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁC - LÊNIN 
HỌC KỲ II, NĂM HỌC 2024 - 2025      ĐỀ TÀI: 
 CÔNG NGHIỆP HOÁ - HIỆN ĐẠI HOÁ Ở VIỆT NAM 
SINH VIÊN THỰC HIỆN (Nhóm 8): 
Cần Thơ, tháng 4 năm 2025    lOMoAR cPSD| 60776878
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KỸ THUẬT - CÔNG NGHỆ CẦN THƠ 
KHOA KHOA HỌC XÃ HỘI  -----    
 Cần Thơ, ngày … tháng 4 năm 2025  NHẬN XÉT  ĐIỂM 
NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN                            GIẢNG VIÊN II   GIẢNG VIÊN I       lOMoAR cPSD| 60776878   MỤC LỤC 
A. PHẦN MỞ ĐẦU.................................................................................................1 
B. PHẦN NỘI DUNG..............................................................................................4 
1. Khái niệm CNH, HDH, cách mạng công nghiệp ......................................... 6 
2. Đặc điểm của CNH, HDH ............................................................................ 7 
3. Vai trò của CNH, HDH ................................................................................. 8 
4. Sơ lược các cuộc cách mạng công nghiệp .................................................. 10 
5. CNH, HDH ở Việt Nam trước đổi mới ....................................................... 12 
6. CNH, HDH ở Việt Nam sau đổi mới .......................................................... 12 
7. Tính tất yếu ................................................................................................. 15 
8. Mục tiêu và phương hướng ......................................................................... 16 
9. Thành tựu của quá trình CNH, HDH .......................................................... 17 
10. Khó khăn ................................................................................................... 20   
11. Giải pháp.................................................................................................30 
C. KẾT LUẬN.......................................................................................................33      lOMoAR cPSD| 60776878 A PHẦN MỞ ĐẦU 
Do công nghiệp hóa, hiện đại hóa là một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng 
đầu vì nó chứa cả nền sản xuất vật chất và đời sống văn hóa – xã hội của đất nước lên 
trình độ mới. Đôi sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, công nghiệp hóa có vai trò 
tạo điều kiện làm tiền đề vật chất - kỹ thuật, công nghiệp hóa có nội dung, bước đi cụ 
thể, phù hợp. Đối với Việt Nam khi chính thức bước vào thời kì quá độ lên chủ nghĩa 
xã hội. Đó là một quả trình kinh tế, kỹ thuật - công nghệ và kinh tế xã hội toàn diện 
sâu rộng nhằm chuyển đổi nền sản xuất và xã hội Việt Nam từ trình độ nông nghiệp 
lạc hậu lên trình độ công nghiệp tiên tiến, hiện đại và văn minh... 
Với sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế trên thế giới, công nghiệp hoá, hiện 
đại hoá là một vấn đề tất yếu của tất cả các quốc gia, và đất nước ta cũng không ngoại 
lệ. Nói về sự cần thiết của công nghiệp hoá, hiện đại hoá chính là giúp cho nền khoa 
học và công nghệ có điều kiện được phát triển nhanh chóng và đạt tới trình độ hiện 
đại, tiên tiến. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là nền tảng để các ngành kinh tế có thể 
phát triển vượt trội. Tạo điều kiện bổ sung lực lượng vật chất và kỹ thuật cho hệ thống 
quốc phòng, an ninh, giúp đảm bảo về đời sống kinh tế, chính trị và xã hội trong đất 
nước ngày càng phát triển hơn.      lOMoAR cPSD| 60776878 B PHẦN NỘI DUNG 
1. Khái niệm CNH, HDH, cách mạng công nghiệp 
* Công nghiệp hóa là gì ? 
Công nghiệp hóa là quá trình chuyển đổi cơ bản và toàn diện hầu hết các hoạt 
động sản xuất từ việc sử dụng sức lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách 
phổ biến sức lao động phổ thông dựa trên sự phát triển của ngành công nghiệp cơ khí. 
Ngoài ra, công nghiệp hóa còn được hiểu là quá trình nâng cao tỷ trọng của công 
nghiệp trong toàn bộ các ngành kinh tế của một vùng kinh tế hay một nền kinh tế. Đó 
là tỷ trọng về lao động, về giá trị gia tăng, về năng suất lao động,.. 
Đây là quá trình chuyển biến kinh tế-xã hội ở một cộng đồng người từ nền kinh 
tế với mức độ tập trung tư bản nhỏ bé (xã hội tiền công nghiệp) sang nền kinh tế công 
nghiệp. Công nghiệp hóa là một phần của quá trình hiện đại hóa. Sự chuyển biến kinh 
tế-xã hội này đi đôi với tiến bộ công nghệ, đặc biệt là sự phát triển của sản xuất năng 
lượng và luyện kim quy mô lớn. Công nghiệp hóa còn gắn liền với thay đổi các hình 
thái triết học hoặc sự thay đổi thái độ trong nhận thức tự nhiên. Dầu vậy, những thay 
đổi về mặt triết học là nguyên nhân của công nghiệp hóa hay ngược lại thì vẫn còn  tranh cãi. 
- Công nghiệp hóa là quá trình nâng cao giá trị tuyệt đối sản lượng công 
nghiệp. - Công nghiệp hóa gắn với phát triển văn hóa và xã hội để đạt tới xã 
hội công nghiệp * Hiện đại hóa là gì ? 
Hiện đại hóa có thể được hiểu là việc sử dụng các trang thiết bị hiện đại, những 
thành tựu khoa học và công nghệ tiên tiến ứng dụng vào quá trình sản xuất và quản  lý kinh tế xã hội. 
Đó là việc từ sử dụng sức lao động thủ công của con người sang sử dụng sức 
lao động phổ thông được ứng dụng những trang thiết bị công nghệ hiện đại 
Đây là thuật ngữ tổng quan với mục đích thể hiện tiến trình cải biến khi khoa 
học công nghệ được con người phát triển và sử dụng thành thục. Từ đó, xã hội được 
phát triển với tốc độ nhanh chóng chưa từng thấy trong lịch sử. 
* Một số ví dụ về công nghiệp hóa và hiện đại hóa. 
Nước ta đã thực hiện quá trình công nghiệp hóa và hiện đại hóa trong một 
khoảng thời gian dài, đạt được nhiều thành tựu đáng kể. Dưới đây là một số ví dụ cụ 
thể về những lĩnh vực đã áp dụng công nghệ hiện đại để thúc đẩy phát triển kinh tế và 
cải thiện chất lượng cuộc sống của người dân:  - 
Trong lĩnh vực nông nghiệp, các loại giống lúa, cây trồng và vật nuôi 
mớiđã được tạo ra nhờ sự ứng dụng của khoa học và công nghệ. Những loại giống 
này có năng suất và chất lượng cao hơn so với giống thông thường và được áp dụng 
rộng rãi. Công nghệ tưới phun mưa, nuôi trồng trong nhà và các phương pháp canh 
tác khác cũng đã giúp tăng năng suất và giảm thiểu tác động của các yếu tố thời tiết.  - 
Trong lĩnh vực công nghệ thông tin, nhiều loại máy móc, thiết bị và 
phươngtiện đã được phát triển để hỗ trợ cho việc tiếp nhận thông tin, truyền thông và    lOMoAR cPSD| 60776878
giải trí. Internet và các thiết bị di động đã thay đổi cách mà chúng ta liên lạc và trao 
đổi thông tin, mang lại lợi ích đáng kể cho người dân và doanh nghiệp.  - 
Trong lĩnh vực y tế, các thiết bị và máy móc đã giúp nâng cao khả 
năngchữa trị bệnh cho con người. Máy siêu âm, máy chụp X-quang và các công nghệ 
chuẩn đoán khác đã giúp đưa ra các phương pháp điều trị chính xác và hiệu quả hơn, 
giúp cứu sống hàng ngàn người mỗi năm.  - 
Trong lĩnh vực xây dựng, nhiều loại máy móc và phương tiện đã được 
sửdụng để giúp tăng năng suất và giảm thiểu thời gian thi công. Cần cẩu, máy vận 
chuyển vật liệu và các loại máy khác đã giúp giảm thiểu công sức lao động và đạt 
được kết quả xây dựng nhanh chóng và hiệu quả.  - 
Trong lĩnh vực năng lượng tái tạo, công nghệ năng lượng tái tạo như 
điệnmặt trời, gió và thủy điện đã phát triển nhanh chóng trong những năm qua và đã 
trở thành một phần quan trọng của nền kinh tế quốc dân. Sử dụng các nguồn năng 
lượng tái tạo giúp giảm thiểu lượng khí thải gây ô nhiễm và giảm thiểu sự phụ thuộc 
vào các nguồn năng lượng hóa thạch.  - 
Ngoài ra, nhiều loại máy móc như máy điều hòa nhiệt độ, máy lọc 
khôngkhí, máy sưởi cũng đã được phát triển để nâng cao chất lượng đời sống con  người. 
* Cách mạng công nghiệp là gì? 
Cách mạng công nghiệp diễn ra đầu tiên ở Anh vào những năm 60 của thế kỉ 
18 bắt đầu từ những phát minh máy móc trong ngành dệt, sau đó lan sang các nước 
khác như Mỹ, Pháp, Đức,... 
* Khái niệm cách mạng công nghiệp là gì? 
Cách mạng công nghiệp là cuộc cách mạng trong lĩnh vực sản xuất, là sự thay 
thế lao động thủ công (còn gọi là lao động tay chân) của con người bằng lao động 
máy móc, chuyển đổi từ sản xuất thủ công sang nền sản xuất cơ khí. 
Việc thay thế lao động thủ công bằng máy móc; nền kinh tế giản đơn, quy mô 
nhỏ, dựa trên lao động chân tay được thay thế bằng công nghiệp và chế tạo máy móc 
quy mô lớn chính là ý nghĩa lớn nhất của cách mạng công nghiệp. 
Cuộc cách mạng công nghiệp đã làm thay đổi cơ bản điều kiện về:  - Kinh tế - xã hội  - Văn hóa 
- Khoa học kĩ thuật của xã hội loài người. 
2. Đặc điểm của CNH, HDH 
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng 
đầu vì nó đứa cả nễ sản xuất vật chất và đời sống văn hóa – xã hội của đất nước lên 
trình độ mới. Đôi sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, công nghiệp hóa có vai trò 
tạo điều kiện làm tiền đề vật chất - kỹ thuật, công nghiệp hóa có nội dung, bước đi cụ 
thể, phù hợp. Đối với Việt Nam khi chính thức bước vào thời kì quá độ lên chủ nghĩa 
xã hội. Đang chủ trương tiễn hành công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa và tử cuối thế kỉ 
XX đến nay quá trình này được xác định đầy đủ là công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Đó    lOMoAR cPSD| 60776878
là một quả trình kinh tế, kĩ thuật – công nghệ và kinh tế - xã hội toàn diện sâu rộng 
nhằm chuyển đổi nền sản xuất và xã hội Việt Nam từ trình độ nông nghiệp lạc hậu lên 
trình độ công nghiệp tiên tiến, hiện đại và văn minh. Trên cơ sở tổng kết công cuộc 
công nghiệp hỏa, hiện đại hóa tử đầu thập kỉ 90 của thế kỉ XX đến nay bảm sát bối 
cảnh, yêu cầu, nhiệm vụ mới, Đại hội XIII của Đảng nêu rõ chủ trương: “Tiếp tục đẩy 
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa trên tiền tảng của tiến bộ khoa học, công nghệ 
và đôi mới sáng tạo". Nhận thấy sự cấp thiết và thực tế của vấn đề nên em đã quyết 
định chọn đề tài Công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam trong bối cảnh cách mạng 
công nghiệp lần thứ tư – thực trang và giải pháp phát triển” nhằm nâng cao kiến thức 
và trình độ hiểu biết để theo kịp thời đại và góp phần phát triển đất nước. 
Vậy nên sự cần thiết của CNH, HĐH Với sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh 
tế trên thế giới, công nghiệp hoá, hiện đại hoá là một vấn đề tất yếu của tất cả các 
quốc gia, và đất nước ta cũng không ngoại lệ. Nói về sự cần thiết của công nghiệp 
hoá, hiện đại hoá chính là giúp cho nền khoa học và công nghệ có điều kiện được phát 
triển nhanh chóng và đạt tới trình độ hiện đại, tiên tiến. Công nghiệp hoá, hiện đại 
hoá là nền tảng để các ngành kinh tế có thể phát triển vượt trội. Tạo điều kiện bổ sung 
lực lượng vật chất và kỹ thuật cho hệ thống quốc phòng, an ninh, giúp đảm bảo về đời 
sống kinh tế, chính trị và xã hội trong đất nước ngày càng phát triển hơn. 
3. Vai trò của CNH, HDH 
* Thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất. 
Các cuộc cách mạng công nghiệp có những tác động vô cùng to lớn đến sự phát 
triển lực lượng sản xuất của các quốc gia và đồng thời tác động mạnh mẽ tới quá trình 
điều chỉnh cấu trúc và vai trò của các nhân tố trong lực lượng sản xuất xã hội, về tư 
liệu lao động, từ chỗ máy móc ra đời thay thế cho lao động chân tay cho đến sự ra đời 
của máy tính điện tử, chuyển nền sản xuất sang giai đoạn tự động hóa tài sản cố định 
thường xuyên được đổi mới quá trình tập trung hóa sản xuất được đẩy nhanh. 
Cách mạng công nghiệp có vai trò to lớn trong phát triển nguồn nhân lực. Nó 
vừa đặt ra những đòi hỏi về chất lượng nguồn nhân lực ngày càng cao, nhưng mặt 
khác lại tạo điều kiện để phát triển nguồn nhân lực. Cuộc cách mạng công nghiệp lần 
thứ nhất đã thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, nâng cao sản xuất lao động gia tăng của cải 
vật chất dẫn đến những thay đổi to lớn về kinh tế, xã hội, văn hóa và kỹ thuật. 
Thành tựu của các cuộc cách mạng công nghiệp, tạo điều kiện cho khoa học 
công nghệ tiên tiến vào sản xuất đời sống. Đồng thời tạo cơ hội cho các nước đang và 
kém phát triển, tiếp cận với những thành tựu mới của khoa học công nghệ, tận dụng 
lợi thế của những nước đi sau, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa để bứt phá, 
rút ngắn khoảng cách và trình độ phát triển với các nước đi trước. 
Cách mạng công nghiệp, tạo cơ hội cho các nước phát triển nhiều ngành kinh 
tế và và những ngành mới thông qua mở rộng ứng dụng những thành tựu về công 
nghệ thông tin, công nghệ số, công nghệ điều khiển, công nghệ sinh học, cách mạng 
công nghiệp, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, hình thành cơ cấu kinh tế mới theo 
hướng hiện đại, hội nhập quốc tế và hiệu quả cao. Các thành tựu mới của khoa học 
công nghệ được ứng dụng để tối ưu hóa quá trình sản xuất, phân phối, trao đổi tiêu 
dùng và quản lý quản trị.    lOMoAR cPSD| 60776878
* Thúc đẩy hoàn thiện quan hệ sản xuất. 
Các cuộc cách mạng công nghiệp, tạo sự phát triển nhảy vọt về chất trong lực 
lượng sản xuất và sự phát triển này tất yếu dẫn đến quá trình điều tiết, phát triển và 
hoàn thiện quan hệ sản xuất xã hội và quản trị phát triển. 
Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ hai đã đẩy nhanh quá trình xã hội hóa sản 
xuất, thúc đẩy chủ nghĩa tư bản chuyển biến từ giai đoạn tự do cạnh tranh sang giai 
đoạn độc quyền làm gia tăng mâu thuẫn của chủ nghĩa tư bản trong giai đoạn này. 
Cách mạng công nghiệp cũng đặt ra những yêu cầu hoàn thiện thể chế kinh tế 
thị trường, tạo điều kiện thuận lợi cho hội nhập kinh tế quốc tế và trao đổi thành tựu 
khoa học công nghệ giữa các nước. Cách mạng công nghiệp làm cho lĩnh vực tổ chức 
quản lý kinh doanh cũng có sự thay đổi to lớn. Việc quản lý quá trình sản xuất của 
các doanh nghiệp trở nên dễ dàng hơn thông qua ứng dụng các công nghệ như Internet, 
trí tuệ nhân tạo, mô phỏng, robot,...từ đó tạo điều kiện cho doanh nghiệp sử dụng 
nguồn nguyên liệu và năng lượng mới hiệu quả, giúp nâng cao năng suất lao động và 
định hướng lại tiêu dùng. 
Trong lĩnh vực phân phối, cách mạng công nghiệp mà nhất là cách mạng công 
nghiệp 4.0 đã thúc đẩy nâng cao năng suất lao động, làm giảm chi phí sản xuất, nâng 
cao thu nhập và cải thiện đời sống của người dân. Cách mạng công nghiệp 4.0 giúp 
cho việc phân phối và tiêu dùng trở nên dễ dàng và nhanh chóng làm thay đổi đời 
sống xã hội của con người. Tuy nhiên, nó lại có tác động tiêu cực đến việc làm và thu 
nhập. Nạn thất nghiệp và phân hóa thu nhập gay gắt hơn là nguyên nhân chính dẫn 
đến gia tăng bất bình đẳng của các nước phải điều chỉnh chính sách phân phối thu 
nhập và an sinh xã hội, nhằm giải quyết những mâu thuẫn cổ hủ trong phân phối của 
nền kinh tế thị trường. 
Cách mạng công nghiệp tạo điều kiện để tiếp thu, trao đổi kinh nghiệm, tổ chức 
quản lý kinh tế - xã hội giữa các nước. Thông qua đó, các nước lạc hậu có thể rút ra 
những bài học kinh nghiệm của các nước đi trước để hạn chế những sai lầm thất bại 
trong quá trình phát triển. Cách mạng công nghiệp cũng tạo điều kiện cho các nước 
mở rộng quan hệ đối ngoại cho phát triển từng bước tham gia vào chuỗi giá trị toàn 
cầu, tạo khả năng biến đổi các hệ thống sản xuất, quản lý, quản trị kinh tế và doanh 
nghiệp, phát triển những mô hình kinh doanh mới, nâng cao sức cạnh tranh. Của nền 
kinh tế và các doanh nghiệp. 
* Thúc đẩy đổi mới phương thức quản trị phát triển. 
Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ ba làm cho sản xuất xã hội có những bước 
phát triển nhảy vọt. Công nghệ kỹ thuật số và internet đã kết nối giữa doanh nghiệp 
với doanh nghiệp, giữa doanh nghiệp, với cá nhân và giữa các cá nhân với nhau trên 
phạm vi toàn cầu. Thị trường được mở rộng, đồng thời dần hình thành một "thế giới 
phẳng". Thành tựu khoa học mang tính đột phá của cách mạng công nghiệp lần thứ 
ba là sáng chế và áp dụng máy tính điện tử, hoàn thiện quá trình tự động hóa có tính 
hệ thống để đưa tất cả các lĩnh vực trong nền kinh tế chuyển sang một trạng thái công 
nghệ hoàn toàn mới. Cuộc cách mạng này đã tạo điều kiện chuyển biến các nền kinh 
tế công nghiệp sang nền kinh tế tri thức. Hàm lượng tri thức tăng lên trong sản phẩm    lOMoAR cPSD| 60776878
và dịch vụ, khoảng cách thời gian tự phát, minh khoa học đến ứng dụng vào thực tiễn 
ngày càng được rút ngắn. 
Cách mạng công nghiệp 4.0 cũng tác động mạnh mẽ đến phương thức quản trị 
và điều hành của doanh nghiệp. Sự thay đổi của công nghệ sản xuất dựa trên ứng dụng 
công nghệ cao vào sản xuất, làm cho các doanh nghiệp phải thay đổi cách thức thiết 
kế, tiếp thị và cung ứng hàng hóa, dịch vụ theo cách mới bắt nhịp với không gian số. 
Các doanh nghiệp cần phải xây dựng chiến lược kinh doanh xuất phát từ nguồn lực, 
trong đó nguồn lực chủ yếu là công nghệ trí tuệ, đổi mới sáng tạo. Trên cơ sở đó, xây 
dựng định hướng chiến lược và hoạch định kế hoạch phát triển một cách hiệu quả 
nhất, nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh và hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh  nghiệp. 
* Vai trò của công nghiệp hóa, hiện đại hóa đối với Việt Nam 
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa mang tới nhiều tác dụng to lớn đối với sự phát 
triển của nền kinh tế – xã hội Việt Nam. Cụ thể: 
+ Giúp đảm bảo và tạo điều kiện cho sự thay đổi về nền sản xuất xã hội, làm 
tăng năng suất lao động và tăng sức chế ngự của con người với thiên nhiên. Từ đó sẽ 
góp phần phát triển nền kinh tế, cải thiện được đời sống của nhân dân và một phần 
quyết định tới sự thắng lợi của chủ nghĩa xã hội. 
+ Công nghiệp hóa, hiện đại hóa tạo các điều kiện vật chất đối việc củng cố và 
tăng cường vai trò của nền kinh tế Nhà nước. Nhờ đó con người sẽ được phát triển 
một cách toàn diện nhất trong mọi hoạt động kinh tế và xã hội. 
+ Giúp cho nền khoa học và công nghệ có điều kiện được phát triển nhanh 
chóng và đạt tới trình độ hiện đại, tiên tiến. Tạo điều kiện bồ sung lực lượng vật chất 
và kỹ thuật cho hệ thống quốc phòng, an ninh, giúp đảm bảo về đời sống kinh tế, 
chính trị và xã hội trong đất nước ngày càng phát triển hơn. Công nghiệp hóa hiện đại 
hóa được xem là một nhiệm vụ trọng tâm trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã  hội. 
4. Sơ lược các cuộc cách mạng công nghiệp 
* Cách mạng công nghiệp lần thứ nhất: 
Cách mạng công nghiệp lần thứ nhất là cuộc cách mạng trong lĩnh vực sản xuất; 
là sự thay đổi cơ bản các điều kiện kinh tế xã hội, văn hóa và kỹ thuật, xuất phát từ 
nước Anh sau đó lan tỏa ra toàn thế giới. Trong thời kỳ này, nền kinh tế giản đơn, quy 
mô nhỏ, dựa trên lao động chân tay được thay thế bằng công nghiệp và chế tạo máy 
móc quy mô lớn. Tên gọi "Cách mạng công nghiệp" thường dùng để chỉ giai đoạn thứ 
nhất của nó diễn ra ở cuối thế kỷ 18 và đầu thế kỷ 19. Giai đoạn hai hay còn gọi là 
Cách mạng công nghiệp lần thứ hai tiếp tục ngay sau đó từ nửa sau thế kỷ 19 đến đầu 
thế kỷ 20. Ảnh hưởng của nó diễn ra ở Tây Âu và Bắc Mỹ trong suốt thế kỷ 19 và sau  đó là toàn thế giới. 
Ý kiến về thời gian diễn ra Cách mạng công nghiệp lần thứ nhất không thống 
nhất, nhưng nói chung là ở nửa cuối thế kỷ 18 đến nửa đầu thế kỷ 19. Cuộc cách mạng 
công nghiệp lần thứ nhất bắt đầu với sự phát triển sản xuất hàng hóa của ngành công 
nghiệp dệt. Sau đó, với nhu cầu cung cấp máy móc và năng lượng cho công nghiệp    lOMoAR cPSD| 60776878
dệt, các kỹ thuật gia công sắt thép được cải thiện và than đá sử dụng với khối lượng 
lớn. Thương mại mở rộng tạo điều kiện cho sự ra đời của kênh đào giao thông và 
đường sắt. Bên cạnh đó, đường giao thông được nâng cấp lớn cho hoạt động giao 
thương nhộn nhịp. Động cơ hơi nước sử dụng nhiên liệu than và máy móc dẫn động 
bằng cơ khí đã đưa đến gia tăng năng suất lao động đột biến. Sự phát triển các máy 
công cụ trong hai thập kỷ đầu của thế kỷ 19 tạo thuận lợi cho lĩnh vực chế tạo máy, 
phục vụ những ngành sản xuất khác. 
* Cách mạng công nghiệp lần thứ hai: 
Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ hai diễn ra từ những năm 1870 đến khi 
chiến tranh thế giới thứ nhất nổ ra. Thời gian này gắn liền với sự phát triển của các 
cường quốc công nghiệp như nước Anh, Đức và Hoa Kỳ. 
Cuộc cách mạng này là một cuộc cách mạng về khoa học và kỹ thuật. Chuyển 
sang sản xuất trên cơ sở điện cơ khí và giai đoạn tự động hóa cục bộ. Sử dụng năng 
lượng điện và sản xuất ra dây chuyên sản xuất hàng loạt quy mô lớn. Được đánh dấu 
bằng những thành tựu to lớn: Ô tô, máy bay, đèn sợi đốt, điện thoại, tua bin hơi,… 
Bên cạnh đó còn có sự phát triển của các ngành vận tải, sản xuất thép, điện, hóa học 
và đặc biệt nhất là sản xuất và tiêu dùng. Phát minh cốt yếu nhất trong lĩnh vực truyền 
thông đầu tiên là kỹ thuật in ấn tang quay dẫn động bằng năng lượng hơi nước. Tiếp 
của sự thành công máy sản xuất giấy cuộn dựa trên kỹ thuật in ấn mà ra đời. Quy trình 
làm giấy từ những nguồn hạn chế như bông, lanh được thay thế bằng bột gỗ. Năm 
1870 với sự truyền bá kiến thức của nước Anh thuế giấy bị xóa bỏ kích thích sự phát 
triển của báo chí và tạp chí. Thời gian này máy công cụ có khả năng chế tạo các thiết 
bị chính xác trong máy khác tại Mỹ có sự tăng trưởng. Dây chuyền sản xuất hàng tiêu  dùng ra đời. 
Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 2 ra đời đã mở ra kỷ nguyên của sản xuất 
hàng loạt, thúc đẩy bởi sự ra đời của điện và dây chuyền lắp ráp. Công nghiệp hóa 
được lan rộng ra nhiều nước như Nhật Bản, Nga,… Cuộc cách mạng đã tạo ra những 
tiền đề thắng lợi cho chủ nghĩa xã hội có quy mô thế giới. 
* Cách mạng công nghiệp lần thứ ba: 
Cách mạng công nghiệp lần thứ ba bắt đầu khoảng 1960, khi có các tiến bộ về 
hạ tầng điện tử, máy tính và công nghệ kĩ thuật số trên nền tảng là sự phát triển của 
chất bán dẫn, siêu máy tính (thập niên 1960), máy tính cá nhân (thập niên 1970 và 
1980) và Internet (thập niên 1990). Cho đến cuối thế kỷ 20, quá trình này cơ bản hoàn 
thành nhờ những thành tựu khoa học công nghệ cao. Năm 1997, khi cuộc khủng hoảng 
tài chính Châu Á nổ ra là bước đánh dấu giai đoạn thứ ba kết thúc. 
* Cách mạng công nghiệp lần thứ tư: 
Cách mạng công nghiệp lần thứ tư bắt đầu vào đầu thế kỷ 21, tiếp sau những 
thành tựu lớn từ lần thứ 3 để lại, được hình thành trên nền tảng cải tiến của cuộc cách 
mạng số, với những công nghệ mới như in 3D, robot, trí tuệ nhân tạo, Internet of 
Things, S.M.A.C, công nghệ nano, sinh học, vật liệu mới,... Hiện tại cả thế giới đang 
ở trong giai đoạn đầu của cuộc cách mạng này và là chiến lược bản lề cho các nước 
đang phát triển tiến đến để theo kịp với xu hướng thế giới và mở ra bước ngoặt mới 
cho sự phát triển của con người.    lOMoAR cPSD| 60776878
Tác động của cách mạng công nghiệp là vô cùng sâu rộng. Không chỉ làm thay 
đổi đời sống con người, các cuộc cách mạng công nghiệp còn dẫn tới sự thay đổi toàn 
diện hình thái kinh tế – xã hội. Sau cách mạng công nghiệp lần thứ nhất, giai cấp tư 
sản đã tích lũy đủ tài sản và quyền lực, dẫn tới việc chủ nghĩa tư bản đã thắng thế chế 
độ phong kiến. Sau cách mạng công nghiệp lần thứ hai, các nhà máy lớn sản xuất theo 
dây chuyền đã thay thế các xưởng sản xuất nhỏ, dẫn tới việc chủ nghĩa tư bản độc 
quyền đã thay thế chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh, đồng thời giai cấp công nhân và 
một số phong trào chính trị đi theo chủ nghĩa xã hội đã hình thành. Cách mạng công 
nghiệp lần thứ ba dẫn tới sự ra đời của chủ nghĩa tư bản hiện đại. Cách mạng công 
nghiệp lần thứ tư hứa hẹn sẽ làm thay đổi hình thái kinh tế - xã hội của nhân loại thêm  một lần nữa. 
5. CNH, HĐH ở Việt Nam trước đổi mới 
Công nghiệp hóa thời kỳ trước đổi mới (từ năm 1960 đến năm 1986) Công 
nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa, bắt đầu được hình thành từ Đại hội Đảng toàn quốc lần 
thứ III (năm 1960), với nhiệm vụ trung tâm của thời kỳ quá độ ở miền Bắc nước ta, 
là công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa. Chủ trương chính của thời kỳ này là: “Xây dựng 
một nền kinh tế xã hội chủ nghĩa cân đối và hiện đại, kết hợp công nghiệp với nông 
nghiệp và lấy công nghiệp nặng làm nền tảng, ưu tiên phát triển công nghiệp nặng 
một cách hợp lý, đồng thời ra sức phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ, nhằm 
biến nước ta từ một nước nông nghiệp lạc hậu thành một nước có công nghiệp hiện 
đại và nông nghiệp hiện đại". Do đó, trước thời kỳ đổi mới, nước ta có khoảng 25 
năm tiến hành công nghiệp hóa, đáng chú ý quá trình này được chia ra làm 02 giai 
đoạn: Từ năm 1960 đến năm 1975 tiến hành công nghiệp hóa ở miền Bắc, và từ năm 
1975 đến năm 1985, tiến hành công nghiệp hóa trên phạm vi cả nước. Đặc trưng chủ 
yếu của thời kỳ này là tiến hành công nghiệp hóa, trên cơ sở phát triển công nghiệp 
nặng, kết hợp chặt chẽ giữa phát triển công nghiệp với nông nghiệp; phát triển chủ 
yếu dựa vào lợi thế về lao động, tài nguyên đất đai, nguồn viện trợ của các nước xã 
hội chủ nghĩa, và Nhà nước cùng doanh nghiệp nhà nước đóng vai trò chủ lực, trong 
việc thực hiện công nghiệp hóa đất nước. 
6. CNH, HDH ở Việt Nam sau đổi mới  * 
Những nội dung cơ bản của công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong thời 
kỳquá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam a) Thực hiện cuộc cách mạng khoa học – 
công nghệ để xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội, phát triển mạnh 
mẽ lực lượng sản xuất Nước ta đang định hướng đi lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế 
độ tư bản chủ nghĩa, quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa tất yếu phải được tiến 
hành bằng cách mạng khoa học và công nghệ. Cố nhiên, trong điều kiện thế giới đã 
trải qua hai cuộc cách mạng khoa học và công nghệ và điều kiện cơ cấu kinh tế mở, 
cuộc cách mạng khoa học và công nghệ ở nước ta có thể và cần phải bao hàm các 
cuộc cách mạng khoa học và công nghệ mà thế giới đã, đang trải qua. Từ bối cảnh 
đó, vị trí của cuộc cách mạng này phải được xác định là “then chốt” và khoa học và 
công nghệ phải được xác định là một “quốc sách”, một “động lực” cần đem toàn lực 
lượng để nắm lấy và phát triển nó. Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ ở nước ta 
hiện nay có thể khái quát gồm hai nội dung chủ yếu sau: Một là, xây dựng thành công    lOMoAR cPSD| 60776878
cơ sở vật chất – kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội để dựa vào đó mà trang bị công nghệ 
hiện đại cho các ngành kinh tế quốc dân. Hai là, tổ chức nghiên cứu, thu thập thông 
tin, phổ biến ứng dụng những thành tựu mới của khoa học và công nghệ hiện đại vào 
sản xuất, đời sống với những hình thức, bước đi, quy mô thích hợp. Trong quá trình 
thực hiện cách mạng khoa học và công nghệ, chúng ta cần chú ý: ứng dụng những 
thành tựu mới, tiên tiến về khoa học và công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin, 
công nghệ sinh học, phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và từng bước phát triển 
nền kinh tế tri thức. Sử dụng công nghệ mới gắn với yêu cầu tạo nhiều việc làm, tốn 
ít vốn, quay vòng nhanh, giữ được nghề truyền thống; kết hợp công nghệ cũ, công 
nghệ truyền thống với công nghệ hiện đại. Tăng đầu tư ngân sách và huy động các 
nguồn lực khác cho khoa học và công nghệ; kết hợp phát triển cả bề rộng lẫn chiều 
sâu, xây dựng mới, cải tạo cũ, thực hiện tiết kiệm, hiệu quả. Kết hợp các loại quy mô 
lớn, vừa và nhỏ cho thích hợp; ưu tiên quy mô vừa và nhỏ, coi trọng hiệu quả sản xuất 
kinh doanh và hiệu quả kinh tế – xã hội.  * 
Xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý và phân công lại lao động xã hội * 
Xâydựng cơ cấu kinh tế hợp lý Cơ cấu kinh tế là tổng thể các bộ phận hợp thành, 
cùng với vị trí, tỷ trọng và quan hệ tương tác phù hợp giữa các bộ phận trong hệ thống 
kinh tế quốc dân. Cơ cấu kinh tế được xem xét dưới góc độ: cơ cấu ngành (như công 
nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ…); cơ cấu vùng (các vùng kinh tế theo lãnh thổ) và cơ 
cấu thành phần kinh tế. Trong cơ cấu kinh tế thì cơ cấu ngành là bộ phận có tầm quan 
trọng đặc biệt, là bộ xương của cơ cấu kinh tế. Xây dựng cơ cấu kinh tế là yêu cầu 
cần thiết khách quan của mỗi nước trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Vấn 
đề quan trọng là tạo ra một cơ cấu kinh tế tối ưu (hợp lý). Xây dựng một cơ cấu kinh 
tế được gọi là tối ưu khi nó đáp ứng được các yêu cầu sau: Phản ánh được và đúng 
các quy luật khách quan, nhất là các quy luật kinh tế và xu hướng vận động phát triển 
kinh tế – xã hội của đất nước. Nông nghiệp phải giảm dần về tỷ trọng, công nghiệp 
và dịch vụ phải tăng dần về tỷ trọng. Phù hợp với xu hướng tiến bộ của khoa học và 
công nghệ đã và đang diễn ra như vũ bão trên thế giới. Cho phép khai thác tối đa mọi 
tiềm năng của đất nước, của các ngành, các địa phương, các thành phần kinh tế. Thực 
hiện tốt sự phân công và hợp tác quốc tế theo xu hướng toàn cầu hoá kinh tế, do vậy, 
cơ cấu kinh tế được tạo dựng phải là “cơ cấu mở”. Xây dựng cơ cấu kinh tế là một 
quá trình, trải qua những chặng đường nhất định, do vậy xây dựng cơ cấu kinh tế của 
chặng đường trước phải sao cho tạo được “đà” cho chặng đường sau và phải được bổ 
sung và hoàn thiện dần trong quá trình phát triển. ở nước ta hiện nay, Đảng ta đã xác 
định cần tập trung xây dựng một cơ cấu kinh tế hợp lý, mà “bộ xương” của nó là “cơ 
cấu kinh tế công – nông nghiệp – dịch vụ gắn với phân công và hợp tác quốc tế sâu 
rộng”1, và khi hình thành cơ cấu kinh tế đó, sẽ cho phép nước ta kết thúc thời kỳ quá 
độ lên chủ nghĩa xã hội. Cơ cấu nói trên ở nước ta trong thời kỳ quá độ được thực 
hiện theo phương châm là: 
Kết hợp công nghệ với nhiều trình độ, tranh thủ công nghệ mũi nhọn, tiên tiến 
vừa tận dụng được nguồn lao động dồi dào, vừa cho phép rút ngắn khoảng cách lạc 
hậu, vừa phù hợp với nguồn vốn có hạn ở nước ta; lấy quy mô vừa và nhỏ là chủ yếu, 
có tính đến quy mô lớn nhưng phải là quy mô hợp lý và có điều kiện; giữ được nhịp    lOMoAR cPSD| 60776878
độ (tốc độ) phát triển hợp lý, tạo ra sự cân đối giữa các ngành, các lĩnh vực kinh tế và 
các vùng trong nền kinh tế…  * 
Tiến hành phân công lại lao động xã hội Từ sản xuất nhỏ lên sản xuất 
lớnxã hội chủ nghĩa bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa trong quá trình công 
nghiệp hoá tất yếu phải phân công lại lao động xã hội. Phân công lao động xã hội là 
sự chuyên môn hóa lao động, tức là chuyên môn hóa sản xuất giữa các ngành, trong 
nội bộ từng ngành và giữa các vùng trong nền kinh tế quốc dân. Phân công lao động 
xã hội có tác dụng rất to lớn. Nó là đòn bẩy của sự phát triển công nghệ và năng suất 
lao động; cùng với cách mạng khoa học và công nghệ, nó góp phần hình thành và 
phát triển cơ cấu kinh tế hợp lý. Trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, sự 
phân công lại lao động xã hội phải tuân thủ các quá trình có tính quy luật sau: Tỷ 
trọng và số tuyệt đối lao động nông nghiệp giảm dần, tỷ trọng và sốtuyệt đối lao động 
công nghiệp ngày một tăng lên. Tỷ trọng lao động trí tuệ ngày một tăng và chiếm ưu 
thế so với lao động giản đơn trong tổng lao động xã hội. Tốc độ tăng lao động trong 
các ngành sản xuất phi vật chất (dịch vụ) tăng nhanh hơn tốc độ tăng lao động trong 
các ngành sản xuất vật chất. ở nước ta, phương hướng phân công lại lao động xã hội 
hiện nay cần triển khai trên cả hai địa bàn: tại chỗ và nơi khác để phát triển về chiều 
rộng kết hợp phát triển theo chiều sâu. 2. Những nội dung cụ thể của công nghiệp 
hoá, hiện đại hoá ở nước ta trong những năm trước mắt a) Đẩy mạnh công nghiệp 
hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn, giải quyết đồng bộ các vấn đề nông 
nghiệp, nông thôn và nông dân. 
Chuyển dịch mạnh cơ cấu nông nghiệp và kinh tế nông thôn theo hướng tạo ra 
giá trị gia tăng ngày càng cao, gắn với công nghiệp chế biến và thị trường; thực hiện 
cơ khí hoá, điện khí hoá, thuỷ lợi hoá, đưa nhanh tiến bộ khoa học – kỹ thuật và công 
nghệ sinh học vào sản xuất; nâng cao năng suất, chất lượng và sức cạnh tranh phù hợp 
với từng vùng, từng địa phương; phát triển các khu nông nghiệp công nghệ cao, vùng 
trồng trọt và chăn nuôi tập trung, doanh nghiệp công nghiệp và dịch vụ gắn với hình 
thành các ngành nghề, làng nghề, hợp tác xã, trang trại, tạo ra những sản phẩm có thị 
trường và hiệu quả kinh tế cao. Thực hiện chương trình xây dựng nông thôn mới. b) 
Phát triển nhanh hơn công nghiệp, xây dựng và dịch vụ Khuyến khích phát triển công 
nghiệp công nghệ cao, công nghiệp chế tác, công nghiệp phần mềm và công nghiệp 
hỗ trợ có lợi thế cạnh tranh, tạo nhiều sản phẩm xuất khẩu và thu hút nhiều lao động; 
phát triển một số khu kinh tế mở và đặc khu kinh tế. Phát triển mạnh mẽ các ngành 
công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu, sản xuất tư liệu sản xuất quan 
trọng theo hướng hiện đại. Xây dựng đồng bộ kết cấu hạ tầng kinh tế – xã hội. Tạo 
bước phát triển vượt bậc của các ngành dịch vụ, nhất là những ngành có chất lượng 
cao, tiềm năng lớn và có sức cạnh tranh, đưa tốc độ tăng trưởng của ngành dịch vụ 
cao hơn tốc độ tăng trưởng GDP.  * 
Phát triển kinh tế vùng Phát triển các vùng trong cả nước và tạo sự liên 
kết giữa các vùng và nội vùng; thúc đẩy phát triển các vùng kinh tế trọng điểm, tạo 
động lực, tác động lan toả đến các vùng khác; đồng thời tạo điều kiện phát triển nhanh 
hơn cho các vùng kinh tế đang còn nhiều khó khăn. d) Phát triển kinh tế biển Xây 
dựng và thực hiện chiến lược phát triển kinh tế biển toàn diện, có trọng tâm, trọng    lOMoAR cPSD| 60776878
điểm; sớm đưa nước ta trở thành quốc gia mạnh về kinh tế biển trong khu vực, gắn 
với bảo đảm quốc phòng, an ninh và hợp tác quốc tế.  7. Tính tất yếu 
Mỗi phương thức sản xuất xã hội nhất định có một cơ sở vật chất – kỹ thuật 
tương ứng. Cơ sở vật chất – kỹ thuật của một xã hội là toàn bộ hệ thống các yếu tố 
vật chất của lực lượng sản xuất xã hội, phù hợp với trình độ kỹ thuật (công nghệ) 
tương ứng mà lực lượng lao động xã hội sử dụng để sản xuất ra của cải vật chất đáp  ứng nhu cầu xã hội.  - 
Chỗ dựa để xem xét sự biến đổi của cơ sở vật chất – kỹ thuật của một xã 
hộilà sự biến đổi và phát triển của lực lượng sản xuất; sự phát triển khoa học – kỹ 
thuật; tính chất và trình độ của các quan hệ xã hội; đặc biệt là quan hệ sản xuất thống  trị. 
Nói cơ sở vật chất – kỹ thuật của một phương thức sản xuất nào đó là nói cơ sở vật 
chất – kỹ thuật đó đã đạt đến một trình độ nhất định làm đặc trưng cho phương thức  sản xuất đó.  - 
Đặc trưng của cơ sở vật chất – kỹ thuật của các phương thức sản xuất 
trướcchủ nghĩa tư bản là dựa vào công cụ thủ công, nhỏ bé, lạc hậu. Đặc trưng của cơ 
sở vật chất – kỹ thuật của chủ nghĩa tư bản là nền đại công nghiệp cơ khí hóa.  - 
Chủ nghĩa xã hội – giai đoạn thấp của phương thức sản xuất mới cao 
hơnchủ nghĩa tư bản – đòi hỏi một cơ sở vật chất – kỹ thuật cao hơn trên cả hai mặt: 
trình độ kỹ thuật và cơ cấu sản xuất, gắn với thành tựu của cách mạng khoa học và  công nghệ hiện đại. 
Do vậy, có thể hiểu, cơ sở vật chất – kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội là nền công 
nghiệp lớn hiện đại, có cơ cấu kinh tế hợp lý, có trình độ xã hội hóa cao dựa trên trình 
độ khoa học và công nghệ hiện đại được hình thành một cách có kế hoạch và thống 
trị trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân. 
Từ chủ nghĩa tư bản hay từ trước chủ nghĩa tư bản quá độ lên chủ nghĩa xã hội, xây 
dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội là một tất yếu khách quan, một 
quy luật kinh tế mang tính phổ biến và được thực hiện thông qua công nghiệp hóa,  hiện đại hóa. 
Đối với các nước quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội, dù đã có 
công nghiệp, có cơ sở vật chất – kỹ thuật của chủ nghĩa tư bản tiến bộ đến đâu cũng 
chỉ là những tiền đề vật chất chứ chưa phải là cơ sở vật chất – kỹ thuật của chủ nghĩa 
xã hội. Muốn có cơ sở vật chất – kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, các nước này phải 
thực hiện quy luật nói trên bằng cách tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa về quan 
hệ sản xuất; tiếp thu vận dụng và phát triển cao hơn những thành tựu khoa học và 
công nghệ vào sản xuất; hình thành cơ cấu kinh tế mới xã hội chủ nghĩa có trình độ 
cao và tổ chức, sắp xếp lại nền đại công nghiệp tư bản chủ nghĩa một cách hợp lý,  hiệu quả hơn. 
Đối với các nước có nền kinh tế kém phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội như 
nước ta, xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội phải thực hiện từ 
đầu, từ không đến có, từ gốc đến ngọn thông qua công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Mỗi    lOMoAR cPSD| 60776878
bước tiến của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa là một bước tăng cường cơ sở 
vật chất – kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội, phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất và 
góp phần hoàn thiện quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa. 
8. Mục tiêu và phương hướng 
Mục tiêu và phương hướng công nghiệp hóa 
Đường lối công nghiệp hóa đất nước đã được hình thành từ Đại hội III của 
Đảng (tháng 9-1960). Trước thời kỳ đổi mới, nước ta đã có khoảng 25 năm tiến hành 
công nghiệp hóa qua hai giai đoạn: từ năm 1960 đến năm 1975 triển khai ở miền Bắc 
và từ năm 1975 đến năm 1985 thực hiện trên phạm vi cả nước. 
Đường lối công nghiệp hóa đất nước đã được hình thành từ Đại hội III của 
Đảng (tháng 9-1960). Trước thời kỳ đổi mới, nước ta đã có khoảng 25 năm tiến hành 
công nghiệp hóa qua hai giai đoạn: từ năm 1960 đến năm 1975 triển khai ở miền Bắc 
và từ năm 1975 đến năm 1985 thực hiện trên phạm vi cả nước. 
Ở miền Bắc: Trên cơ sở phân tích một cách sâu sắc đặc điểm kinh tế miền Bắc, 
trong đó đặc điểm lớn nhất là từ một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên 
chủ nghĩa xã hội không trải qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa, Đại hội III của 
Đảng khẳng định: muốn cải biến tình trạng kinh tế lạc hậu của nước ta, không có con 
đường nào khác, ngoài con đường công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa. Tức là khẳng 
định tính tất yếu của công nghiệp hóa đối với công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở  nước ta. 
Ngay từ đầu quá trình công nghiệp hóa, Đảng ta đã xác định công nghiệp hóa 
xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ trung tâm trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội 
ở nước ta. Quan điểm đúng đắn này được khẳng định nhiều làn trong tất cả các Đại  hội của Đảng. 
Mục tiêu cơ bản của công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa được Đại hội III của 
Đảng xác định là xây dựng một nền kinh tế xã hội chủ nghĩa cân đối và hiện đại; bước 
đầu xây dựng cơ sở vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội. Đó là mục tiêu cơ bản, 
lâu dài, phải thực hiện qua nhiều giai đoạn. 
Để chỉ đạo thực hiện công nghiệp hóa, Hội nghị Trung ương lần thứ bảy khóa 
III nêu phương hướng chỉ đạo xây dựng và phát triển công nghiệp là: 
- Ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý; 
- Kết hợp chặt chẽ phát triển công nghiệp với phát triển nông nghiệp; 
- Ra sức phát triển công nghiệp nhẹ song song với việc ưu tiên phát triển  côngnghiệp nặng; 
- Ra sức phát triển công nghiệp trung ương, đồng thời đẩy mạnh phát 
triểncông nghiệp địa phương, 
Trên phạm vi cả nước: Sau Đại thắng Mùa Xuân năm 1975, cả nước độc lập, 
thống nhất và quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Trên cơ sở phân tích một cách toàn diện 
đặc điểm, tình hình trong nước và quốc tế, Đại hội IV của Đảng (tháng-1976) đề ra 
đường lối công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa là: "Đẩy mạnh công nghiệp hóa xã hội 
chủ nghĩa, xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, đưa nền kinh tế 
nước ta từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa. Ưu tiên phát triển công    lOMoAR cPSD| 60776878
nghiệp nặng một cách hợp lý trên cơ sở phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ, 
kêt hợp xây dựng công, nghiệp và nông nghiệp cả nước thành một cơ cấu kinh tế 
công - nông nghiệp; vừa xây dựng kinh tế trung ương vừa phát triển kinh tế địa 
phương, kết hợp kinh tế trung ương với kinh tế địa phương trong một cơ cấu kinh tế 
quốc dân thống nhất". Đường lối này nhất trí với những nhận thức cơ bản về công 
nghiệp hóa ở miền Bắc trước đây, đồng thời có sự phát triển thêm. Từ thực tiễn chỉ 
đạo công nghiệp hóa 5 năm (1976-1981), Đảng ta rút ra kết luận; từ một nền sản 
xuất nhỏ đi lên, điều quan trọng là phải xác định đúng bước đi của công nghiệp hóa 
cho phù hợp với mục tiêu và khả năng của mỗi chặng đường. Với cách đặt vấn đề 
như trên, Đại hội lần thứ V của Đảng (tháng 3-1982) đã xác định trong chặng đường 
đầu tiên của thời kỳ quá độ ở nước ta phải lấy nông nghiệp làm mặt trận hàng đầu, 
ra sức phát triển công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng; việc xây dựng và phát triển 
công nghiệp nặng trong giai đoạn này cần làm có mức độ, vừa sức, nhằm phục vụ 
thiết thực, có hiệu quả cho nông nghiệp và công nghiệp nhẹ. Đại hội V coi đó là nội 
dung chính của công nghiệp hóa trong chặng đường trước mắt. Đây là sự điều chỉnh 
rất đúng đắn mục tiêu và bước đi của công nghiệp hóa, phù hợp với thực tiễn Việt 
Nam. Tiếc rằng, trên thực tế chúng ta đã không làm đúng sự điều chỉnh chiến lược 
quan trọng này, gây hậu quả nghiêm trọng. 
9. Thành tựu của quá trình CNH, HDH 
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng (1960) đã xác định: “Công 
nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ trung tâm của thời kỳ quá độ ở nước ta”. 
Trong 20 năm đầu, công nghiệp hóa nước ta diễn ra trong điều kiện có chiến tranh. 
Những năm sau, công nghiệp hóa diễn ra trong điều kiện vừa khủng hoảng kinh tế xã 
hội, vừa tìm tòi đổi mới nền kinh tế. 
Công nghiệp hóa trước đổi mới diễn ra theo mô hình của Liên Xô, chỉ đến khi 
khởi đầu là đổi mới tư duy kinh tế và nhất là từ Đại hội VIII (1996), công cuộc công 
nghiệp hóa, hiện đại hóa của nước ta mới được xác định một cách đầy đủ. Trong 35 
năm đổi mới, đặc biệt sau 10 năm thực hiện Cương lĩnh 2011, nhận thức của Đảng 
trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đã có những bước phát triển mới về cả 
nội dung và phương thức thực hiện. 
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội (bổ 
sung, phát triển năm 2011) đã xác định: “Coi trọng phát triển các ngành công nghiệp 
nặng, công nghiệp chế tạo có tính nền tảng và các ngành công nghiệp có lợi thế”. Đại 
hội Đảng XI (năm 2011) đã bổ sung thêm Cơ cấu lại nền công nghiệp theo hướng 
phát triển nhanh, hiệu quả, bền vững, nâng cao tính độc lập, tự chủ của nền kinh tế, 
từng bước có khả năng tham gia sâu, có hiệu quả vào mạng sản xuất và phân phối 
toàn cầu; Ưu tiên phát triển công nghiệp phục vụ nông nghiệp và nông thôn; Phát 
triển hợp lý công nghiệp sử dụng nhiều lao động, góp phần chuyển dịch nhanh cơ cấu  lao động”. 
Sau 35 năm đổi mới, Việt Nam đã đạt được những thành tựu quan trọng trong 
công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, đưa nước ta từ một trong những 
quốc gia nghèo nhất thế giới trở thành quốc gia có thu nhập trung bình thấp và ngày 
càng hội nhập sâu rộng với khu vực và thế giới; đời sống của người dân ngày càng 
được cải thiện, vị thế và uy tín của đất nước ta trên trường quốc tế ngày càng được    lOMoAR cPSD| 60776878
nâng cao. Đóng góp vào những thành quả to lớn này của phát triển đất nước có vai 
trò hết sức quan trọng của ngành Công Thương với việc Việt Nam đã và đang dần 
khẳng định được vị thế là một trong những trung tâm sản xuất công nghiệp của khu  vực và của thế giới. 
Việt Nam đã vươn lên trở thành một trong những quốc gia có nền công nghiệp 
có năng lực cạnh tranh toàn cầu (CIP) ở mức khá cao, thuộc vào nhóm các quốc gia 
có năng lực cạnh tranh công nghiệp trung bình cao với vị trí thứ 44 trên thế giới vào 
năm 2018 theo đánh giá của UNIDO. Theo đó, trong giai đoạn 1990-2018 đã tăng 50 
bậc và giai đoạn 2010-2018 tăng 23 bậc, tăng nhanh nhất trong các nước thuộc khu 
vực ASEAN và đã tiệm cận vị trí thứ 5 của Philipphin (chỉ thua 0.001 điểm), tiến gần 
hơn với nhóm 4 nước có năng lực cạnh tranh mạnh nhất trong khối. 
Công nghiệp là ngành có tốc độ tăng trưởng cao nhất trong các ngành kinh tế 
quốc dân với đóng góp xấp xỉ 30% GDP và trở thành ngành xuất khẩu chủ lực của 
đất nước, góp phần đưa Việt Nam lên vị trí thứ 22 quốc gia xuất khẩu lớn nhất thế 
giới vào năm 2018. Một số ngành công nghiệp ưu tiên, công nghiệp mũi nhọn theo 
định hướng chiến lược của ta đã trở thành các ngành công nghiệp lớn nhất đất nước, 
qua đó đưa nước ta cơ bản đã hội nhập thành công vào chuỗi giá trị toàn cầu với sự 
dẫn dắt của một số doanh nghiệp công nghiệp lớn như điện tử, dệt may, da giày… 
Trong tổng số 32 mặt hàng xuất khẩu có kim ngạch trên 1 tỷ USD vào năm 
2019 hàng công nghiệp chiếm 29/32 mặt hàng và 5/5 mặt hàng có kim ngạch xuất 
khẩu trên 10 tỷ USD (điện tử, dệt may, da giày, đồ gỗ, máy móc, thiết bị). Một số 
ngành công nghiệp hiện có vị trí vững chắc trên thị trường thế giới hiện nay như dệt 
may (đứng thứ 7 về xuất khẩu), da giày (thứ 3 về sản xuất và thứ 2 về xuất khẩu), điện 
tử (đứng thứ 12 về xuất khẩu, trong đó mặt hàng điện thoại di động đứng thứ 2 về 
xuất khẩu), đồ gỗ (đứng thứ 5 về xuất khẩu). 
Theo xếp hạng doanh nghiệp lớn nhất Việt Nam năm 2019, trong số 10 doanh 
nghiệp lớn nhất thì có tới 8/10 doanh nghiệp trong lĩnh vực công nghiệp, trong đó 
7/10 doanh nghiệp nội địa ; chiếm 5/10 doanh nghiệp tư nhân lớn nhất cả nước . Các 
doanh nghiệp công nghiệp lớn của Việt Nam chủ yếu tập trung vào lĩnh vực dầu khí, 
điện, khoáng sản, ô tô, thép, sữa và thực phẩm. 
Bên cạnh đó, quá trình tái cơ cấu ngành công nghiệp gắn với đổi mới mô hình 
tăng trưởng, nâng cao năng suất lao động đã đi vào thực chất hơn, ngày càng hướng 
vào lõi công nghiệp hóa. Theo đó, công nghiệp tiếp tục duy trì là ngành có năng suất 
lao động cao nhất trong các ngành kinh tế quốc dân với tỷ trọng trong GDP tăng từ 
26,63% năm 2011 lên 27,81% năm 2015 và 28,55% năm 2019. 
Cơ cấu nội ngành công nghiệp đã chuyển dịch theo hướng giảm dần tỷ trọng 
công nghiệp khai khoáng (từ 36,47% năm 2011 xuống còn 25,61% năm 2019) và tăng 
tỷ trọng công nghiệp chế biến chế tạo (từ 49,82% năm 2011 lên 54,57% năm 2019) 
và trở thành động lực tăng trưởng chính của ngành công nghiệp (ước VA tăng 10,99% 
giai đoạn 2011-2020 và 12,64% giai đoạn 2016-2020). 
Cơ cấu công nghệ trong ngành công nghiệp đã có nhiều thay đổi theo hướng 
tiếp cận công nghệ tiên tiến, hiện đại hơn với sự dịch chuyển mạnh từ các ngành thâm    lOMoAR cPSD| 60776878
dụng lao động như dệt may, da giày sang các ngành công nghiệp công nghệ cao như 
máy vi tính, sản phẩm điện tử, điện thoại. 
Đầu tư cho phát triển công nghiệp ngày càng được mở rộng, trong đó, đầu tư 
FDI trở thành động lực chính của phát triển công nghiệp và chuyển dịch cơ cấu phát 
triển các ngành công nghiệp nước ta theo hướng hiện đại (chiếm tỷ trọng xấp xỉ 70% 
tổng vốn đầu tư FDI vào các ngành kinh tế, trong đó, đầu tư vào công nghiệp chế 
biến, chế tạo chiếm tỷ trọng lớn nhất với xấp xỉ 60%). 
Đầu tư FDI có vai trò to lớn trong việc hình thành một số ngành công nghiệp 
chủ lực của nền kinh tế như viễn thông; khai thác, chế biến dầu khí; điện tử, công 
nghệ thông tin, thép, xi măng, dệt may, da giày... tạo nền tảng quan trọng cho tăng 
trưởng dài hạn, cũng như thúc đẩy quá trình hiện đại hóa, công nghiệp hóa đất nước. 
Chẳng hạn, các dự án đầu tư quan trọng của một số công ty đa quốc gia hàng đầu bao 
gồm Tập đoàn Samsung, Tập đoàn Intel, LG… đã chọn Việt Nam làm nơi sản xuất 
các sản phẩm điện tử như điện thoại di động và máy tính bảng để xuất khẩu trên toàn 
thế giới đã đưa ngành điện tử Việt Nam với xuất phát điểm gần như bằng 0 vào những 
năm trước 2010 lên thành ngành xuất khẩu lớn nhất của đất nước trong giai đoạn hiện 
nay (đứng thứ 2 thế giới về xuất khẩu điện thoại di động). Trong vài năm trở lại đây, 
dòng vốn FDI đang dịch chuyển sang các ngành, nghề có giá trị gia tăng cao hơn trong 
các ngành, lĩnh vực ưu tiên là công nghệ cao, công nghệ thông tin và truyền thông 
(ICT), chế tạo, chế biến, công nghiệp hỗ trợ và nông nghiệp... và giảm dần trong một 
số ngành thâm dụng lao động. 
Để tiếp tục đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, với 
mục tiêu đến năm 2030 Việt Nam cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện 
đại, thuộc nhóm 3 nước dẫn đầu khu vực ASEAN về công nghiệp, trong đó một số 
ngành công nghiệp có sức cạnh tranh quốc tế và tham gia sâu vào chuỗi giá trị toàn 
cầu; tầm nhìn đến năm 2045, Việt Nam trở thành nước công nghiệp phát triển hiện 
đại, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 23-NQ/TW ngày 22/3/2018 về định 
hướng xây dựng chính sách phát triển công nghiệp quốc gia đến năm 2030, tầm nhìn  đến năm 2045. 
Trong đó, quan điểm chỉ đạo xuyên suốt của Đảng đối với chính sách công 
nghiệp quốc gia là phải gắn liền với chính sách phát triển các ngành kinh tế khác, đặc 
biệt là chính sách thương mại quốc gia, tài chính - tiền tệ, khoa học, công nghệ, đào 
tạo, bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu. Bảo đảm gắn kết chặt chẽ 
giữa quy hoạch phát triển các ngành công nghiệp với chiến lược tổng thể phát triển 
công nghiệp, giữa chiến lược, quy hoạch phát triển các ngành công nghiệp với chiến 
lược, quy hoạch phát triển các ngành kinh tế khác để hình thành các vùng công nghiệp, 
cụm liên kết ngành công nghiệp, khu công nghiệp, các mạng sản xuất, chuỗi giá trị 
công nghiệp, trong đó cụm liên kết ngành công nghiệp là trọng tâm. Kết hợp hài hoà 
giữa phát triển công nghiệp theo cả chiều rộng và chiều sâu, chú trọng phát triển theo 
chiều sâu, tạo bước đột phá trong nâng cao năng suất, chất lượng, sức cạnh tranh của 
sản phẩm công nghiệp. Tận dụng tối đa lợi thế của nước đang trong thời kỳ cơ cấu 
dân số vàng, khai thác triệt để thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ 4, 
lợi thế thương mại để phát triển nhanh, chuyên sâu một số ngành công nghiệp nền    lOMoAR cPSD| 60776878
tảng, chiến lược, có lợi thế cạnh tranh. Phát triển công nghiệp công nghệ thông tin, 
công nghiệp điện tử là con đường chủ đạo; phát triển công nghiệp chế biến, chế tạo là 
trung tâm; phát triển công nghiệp chế tạo thông minh là bước đột phá; chú trọng phát  triển công nghiệp xanh. 
Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước, trong thời gian tới ngành Công 
Thương sẽ tiếp tục tích cực triển khai thực hiện, cụ thể hóa các đường lối, chủ trương, 
quan điểm của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước về công nghiệp hóa, hiện 
đại hóa đất nước, tạo môi trường pháp lý bình đẳng và minh bạch cho các doanh 
nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế cạnh tranh, phát triển, khơi thông các nguồn lực 
trong nước và thu hút đầu tư nước ngoài, quyết tâm sớm đưa nước ta trở thành nước 
công nghiệp theo hướng hiện đại.  10. Khó khăn 
Một số khó khăn và thách thức đặt ra với quá trình công nghiệp hóa ở nước ta  hiện nay 
Đẩy mạnh phát triển một số ngành, lĩnh vực kinh tế trọng điểm, có tiềm năng, 
lợi thế và còn dư địa lớn để làm động lực cho tăng trưởng theo tinh thần bắt kịp, tiến 
cùng và vượt lên ở một số lĩnh vực so với khu vực, thế giới. Tuy vậy, ở Việt Nam, quá 
trình công nghiệp hóa cũng gặp một số khó khăn, thách thức. 
Các quốc gia công nghiệp phát triển và các quốc gia công nghiệp hóa mới đều 
thành công trên con đường công nghiệp hóa nhờ biết xác định kịp thời mô hình công 
nghiệp hóa phù hợp với bối cảnh thế giới và điều kiện cụ thể của đất nước. Chỉ tính 
từ giữa thế kỷ XX đến nay, đã có 2 mô hình công nghiệp hóa rất thành công. Mô hình 
thay thế nhập khẩu đã biến các quốc gia Braxin, Mêhicô, Áchentina và Chilê thành 
các “con hổ” Mỹ La tinh. Sau đó, mô hình hướng xuất khẩu đã đem lại sự phát triển 
thần kỳ cho các “con hổ” Đông Á: Xinhgapo, Hàn Quốc, Hồng Công, Đài Loan. Đến 
đầu thập kỷ 90 của thế kỷ XX, Việt Nam đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa 
theo phương châm hướng xuất khẩu, đồng thời thay thế nhập khẩu ở những lĩnh vực,  mặt hàng có lợi thế. 
Quá trình này đã góp phần đem lại cho đất nước những thành tựu to lớn, có ý 
nghĩa lịch sử; tuy nhiên, như Đại hội XIII kiểm điểm: “công nghiệp hóa, hiện đại hóa 
chưa đạt được mục tiêu đề ra”. 
Với tính cách thị trường thương mại, thế giới ngày nay đã bị các hiệp định 
thương mại tự do, nhất là các hiệp định thế hệ mới biến thành một thị trường liên 
hoàn, thống nhất. Ở đó, đã và sẽ nhanh chóng mất đi sự phân biệt giữa thị trường quốc 
nội và thị trường quốc tế. Trong bối cảnh mới như vậy, các mô hình công nghiệp hóa 
nêu trên hiển nhiên là không còn chỗ đứng. Việt Nam cũng như các quốc gia khác, rất 
cần xác định mới mô hình công nghiệp hóa, vừa thích ứng với chuỗi giá trị toàn cầu, 
cách mạng công nghiệp lần thứ tư…, vừa phù hợp với điều kiện, mục tiêu, yêu cầu 
của nước nhà. Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021-2030 được thông 
qua tại Đại hội XIII nêu rõ mô hình công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong thời kỳ mới: 
“Tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa dựa trên nền tảng của khoa học, 
công nghệ, đổi mới sáng tạo và những thành tựu công nghệ của cách mạng công 
nghiệp lần thứ tư. Đẩy mạnh phát triển một số ngành, lĩnh vực kinh tế trọng điểm, có