lOMoARcPSD| 60776878
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KỸ THUẬT - CÔNG NGHỆ CẦN THƠ
KHOA KHOA HỌC XÃ HỘI
-----
BÁO CÁO CHUYÊN ĐỀ
HỌC PHẦN KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁC - LÊNIN
HỌC KỲ II, NĂM HỌC 2024 - 2025
ĐỀ TÀI:
CÔNG NGHIỆP HÓA - HIỆN ĐẠI HOÁ Ở VIỆT NAM
GIẢNG VIÊN GIẢNG DẠY:
Họ tên:
Cần Thơ, tháng 4 năm 2025
lOMoARcPSD| 60776878
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KỸ THUẬT - CÔNG NGHỆ CẦN THƠ
KHOA KHOA HỌC XÃ HỘI
BÁO CÁO CHUYÊN ĐỀ
HỌC PHẦN KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁC - LÊNIN
HỌC KỲ II, NĂM HỌC 2024 - 2025
ĐỀ TÀI:
CÔNG NGHIỆP HOÁ - HIỆN ĐẠI HOÁ Ở VIỆT NAM
SINH VIÊN THỰC HIỆN (Nhóm 8):
Cần Thơ, tháng 4 năm 2025
lOMoARcPSD| 60776878
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KỸ THUẬT - CÔNG NGHỆ CẦN THƠ
KHOA KHOA HỌC XÃ HỘI
-----
Cần Thơ, ngày … tháng 4 năm 2025
NHẬN XÉT
ĐIỂM
NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN
GIẢNG VIÊN II GIẢNG VIÊN I
lOMoARcPSD| 60776878
MỤC LỤC
A. PHẦN MỞ ĐẦU.................................................................................................1
B. PHẦN NỘI DUNG..............................................................................................4
1. Khái niệm CNH, HDH, cách mạng công nghiệp ......................................... 6
2. Đặc điểm của CNH, HDH ............................................................................ 7
3. Vai trò của CNH, HDH ................................................................................. 8
4. Sơ lược các cuộc cách mạng công nghiệp .................................................. 10
5. CNH, HDH ở Việt Nam trước đổi mới ....................................................... 12
6. CNH, HDH ở Việt Nam sau đổi mới .......................................................... 12
7. Tính tất yếu ................................................................................................. 15
8. Mục tiêu và phương hướng ......................................................................... 16
9. Thành tựu của quá trình CNH, HDH .......................................................... 17
10. Khó khăn ................................................................................................... 20
11. Giải pháp.................................................................................................30
C. KẾT LUẬN.......................................................................................................33
lOMoARcPSD| 60776878
A PHẦN MỞ ĐẦU
Do công nghiệp hóa, hiện đại hóa một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng
đầu chứa cả nền sản xuất vật chất đời sống văn hóa – hội của đất nước lên
trình độ mới. Đôi sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa hội, công nghiệp hóa vai trò
tạo điều kiện làm tiền đề vật chất - kỹ thuật, công nghiệp hóa nội dung, bước đi cụ
thể, phù hợp. Đối với Việt Nam khi chính thức bước vào thời quá độ lên chủ nghĩa
hội. Đó một quả trình kinh tế, kỹ thuật - công nghệ kinh tế hội toàn diện
sâu rộng nhằm chuyển đổi nền sản xuất hội Việt Nam từ trình độ nông nghiệp
lạc hậu lên trình độ công nghiệp tiên tiến, hiện đại và văn minh...
Với sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế trên thế giới, công nghiệp hoá, hiện
đại hoá một vấn đề tất yếu của tất cả các quốc gia, đất nước ta cũng không ngoại
lệ. Nói về sự cần thiết của công nghiệp hoá, hiện đại hoá chính là giúp cho nền khoa
học công nghệ điều kiện được phát triển nhanh chóng đạt tới trình độ hiện
đại, tiên tiến. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nền tảng để các ngành kinh tế thể
phát triển vượt trội. Tạo điều kiện bổ sung lực lượng vật chất kỹ thuật cho hệ thống
quốc phòng, an ninh, giúp đảm bảo về đời sống kinh tế, chính trị và xã hội trong đất
nước ngày càng phát triển hơn.
lOMoARcPSD| 60776878
B PHẦN NỘI DUNG
1. Khái niệm CNH, HDH, cách mạng công nghiệp
* Công nghiệp hóa là gì ?
Công nghiệp hóa là quá trình chuyển đổi cơ bản và toàn diện hầu hết các hoạt
động sản xuất từ việc sử dụng sức lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách
phổ biến sức lao động phổ thông dựa trên sự phát triển của ngành công nghiệp khí.
Ngoài ra, công nghiệp hóa còn được hiểu quá trình nâng cao tỷ trọng của công
nghiệp trong toàn bộ các ngành kinh tế của một vùng kinh tế hay một nền kinh tế. Đó
là tỷ trọng về lao động, về giá trị gia tăng, về năng suất lao động,..
Đây qtrình chuyển biến kinh tế-xã hội một cộng đồng người từ nền kinh
tế với mức độ tập trung bản nhỏ (xã hội tiền công nghiệp) sang nền kinh tế ng
nghiệp. ng nghiệp hóa một phần của qtrình hiện đại hóa. Sự chuyển biến kinh
tế-xã hội này đi đôi với tiến bộ công nghệ, đặc biệt là sự phát triển của sản xuất năng
lượng và luyện kim quy mô lớn. Công nghiệp hóa còn gắn liền với thay đổi các hình
thái triết học hoặc sự thay đổi thái độ trong nhận thức tự nhiên. Dầu vậy, những thay
đổi về mặt triết học nguyên nhân của ng nghiệp hóa hay ngược lại thì vẫn còn
tranh cãi.
- Công nghiệp hóa là quá trình nâng cao giá trị tuyệt đối sản lượng công
nghiệp. - Công nghiệp hóa gắn với phát triển văn hóa hội để đạt tới
hội công nghiệp * Hiện đại hóa là gì ?
Hiện đại hóa có thể được hiểu việc sử dụng các trang thiết bị hiện đại, những
thành tựu khoa học công nghệ tiên tiến ứng dụng vào quá trình sản xuất quản
lý kinh tế xã hội.
Đó việc tsử dụng sức lao động thủ công của con người sang sử dụng sức
lao động phổ thông được ứng dụng những trang thiết bị công nghệ hiện đại
Đây thuật ngữ tổng quan với mục đích thể hiện tiến trình cải biến khi khoa
học công nghệ được con người phát triển và sử dụng thành thục. Từ đó, xã hội được
phát triển với tốc độ nhanh chóng chưa từng thấy trong lịch sử.
* Một số ví dụ về công nghiệp hóa và hiện đại hóa.
Nước ta đã thực hiện qtrình công nghiệp hóa hiện đại hóa trong một
khoảng thời gian dài, đạt được nhiều thành tựu đáng kể. Dưới đây là một số ví dụ cụ
thể về những lĩnh vực đã áp dụng công nghhiện đại để thúc đẩy phát triển kinh tế
cải thiện chất lượng cuộc sống của người dân:
- Trong lĩnh vực nông nghiệp, các loại giống lúa, cây trồng vật nuôi
mớiđã được tạo ra nhờ sự ứng dụng của khoa học công nghệ. Những loại giống
này có năng suất và chất lượng cao hơn so với giống thông thường và được áp dụng
rộng rãi. Công nghệ tưới phun mưa, nuôi trồng trong nhà các phương pháp canh
tác khác cũng đã giúp tăng năng suất và giảm thiểu tác động của các yếu tố thời tiết.
- Trong lĩnh vực công nghệ thông tin, nhiều loại máy móc, thiết bị
phươngtiện đã được phát triển để hỗ trợ cho việc tiếp nhận thông tin, truyền thông
lOMoARcPSD| 60776878
giải trí. Internet các thiết bị di động đã thay đổi cách chúng ta liên lạc trao
đổi thông tin, mang lại lợi ích đáng kể cho người dân và doanh nghiệp.
- Trong lĩnh vực y tế, các thiết bị máy móc đã giúp nâng cao khả
năngchữa trị bệnh cho con người. Máy siêu âm, y chụp X-quang và các công nghệ
chuẩn đoán khác đã giúp đưa ra các phương pháp điều trị chính xác và hiệu quả hơn,
giúp cứu sống hàng ngàn người mỗi năm.
- Trong lĩnh vực xây dựng, nhiều loại máy móc phương tiện đã được
sửdụng đgiúp tăng năng suất giảm thiểu thời gian thi công. Cần cẩu, máy vận
chuyển vật liệu và các loại máy khác đã giúp giảm thiểu công sức lao động đạt
được kết quả xây dựng nhanh chóng và hiệu quả.
- Trong lĩnh vực năng lượng tái tạo, công nghệ năng lượng tái tạo như
điệnmặt trời, gió và thủy điện đã phát triển nhanh chóng trong những năm qua và đã
trở thành một phần quan trọng của nền kinh tế quốc dân. Sử dụng các nguồn năng
lượng tái tạo giúp giảm thiểu lượng khí thải gây ô nhiễm và giảm thiểu sự phụ thuộc
vào các nguồn năng lượng hóa thạch.
- Ngoài ra, nhiều loại máy móc như máy điều hòa nhiệt độ, máy lọc
khôngkhí, máy sưởi cũng đã được phát triển đnâng cao chất lượng đời sống con
người.
* Cách mạng công nghiệp là gì?
Cách mạng công nghiệp diễn ra đầu tiên Anh vào những năm 60 của thế kỉ
18 bắt đầu từ những phát minh máy móc trong ngành dệt, sau đó lan sang các nước
khác như Mỹ, Pháp, Đức,...
* Khái niệm cách mạng công nghiệp là gì?
Cách mạng công nghiệp là cuộc cách mạng trong lĩnh vực sản xuất, là sự thay
thế lao động thủ công (còn gọi lao động tay chân) của con người bằng lao động
máy móc, chuyển đổi từ sản xuất thủ công sang nền sản xuất cơ khí.
Việc thay thế lao động thủ công bằng máy móc; nền kinh tế giản đơn, quy mô
nhỏ, dựa trên lao động chân tay được thay thế bằng công nghiệp và chế tạo máy móc
quy mô lớn chính là ý nghĩa lớn nhất của cách mạng công nghiệp.
Cuộc cách mạng công nghiệp đã làm thay đổi cơ bản điều kiện về:
- Kinh tế - xã hội
- Văn hóa
- Khoa học kĩ thuật của xã hội loài người.
2. Đặc điểm của CNH, HDH
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng
đầu đứa cả nễ sản xuất vật chất và đời sống văn hóa – xã hội của đất nước lên
trình độ mới. Đôi sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa hội, công nghiệp hóa vai trò
tạo điều kiện làm tiền đề vật chất - kỹ thuật, công nghiệp hóa nội dung, bước đi cụ
thể, phù hợp. Đối với Việt Nam khi chính thức bước vào thời quá độ lên chủ nghĩa
xã hội. Đang chủ trương tiễn hành công nghiệp hóa hội chủ nghĩa tử cuối thế k
XX đến nay quá trình này được xác định đầy đủ là công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Đó
lOMoARcPSD| 60776878
một quả trình kinh tế, thuật công nghệ kinh tế - hội toàn diện sâu rộng
nhằm chuyển đổi nền sản xuất hội Việt Nam từ trình độ nông nghiệp lạc hậu lên
trình độ công nghiệp tiên tiến, hiện đại văn minh. Trên sở tổng kết công cuộc
ng nghiệp hỏa, hiện đại hóa tử đầu thập kỉ 90 của thế kỉ XX đến nay bảm sát bối
cảnh, yêu cầu, nhiệm vmới, Đại hội XIII của Đảng nêu chủ trương: “Tiếp tục đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa trên tiền tảng của tiến bộ khoa học, công nghệ
đôi mới sáng tạo". Nhận thấy sự cấp thiết thực tế của vấn đề nên em đã quyết
định chọn đề tài Công nghiệp hóa, hiện đại hóa Việt Nam trong bối cảnh cách mạng
công nghiệp lần thứ tư – thực trang và giải pháp phát triển” nhằm nâng cao kiến thức
và trình độ hiểu biết để theo kịp thời đại và góp phần phát triển đất nước.
Vậy nên sự cần thiết của CNH, HĐH Với sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh
tế trên thế giới, công nghiệp hoá, hiện đại hoá một vấn đtất yếu của tất cả các
quốc gia, đất nước ta cũng không ngoại lệ. Nói về sự cần thiết của công nghiệp
hoá, hiện đại hoá chính giúp cho nền khoa học công nghệ điều kiện được phát
triển nhanh chóng đạt tới trình độ hiện đại, tiên tiến. Công nghiệp hoá, hiện đại
hoá nền tảng để các ngành kinh tế thể phát triển vượt trội. Tạo điều kiện bổ sung
lực lượng vật chất và kỹ thuật cho hthống quốc phòng, an ninh, giúp đảm bảo về đời
sống kinh tế, chính trị và xã hội trong đất nước ngày càng phát triển hơn.
3. Vai trò của CNH, HDH
* Thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất.
Các cuộc ch mạng công nghiệp những tác động vô cùng to lớn đến sphát
triển lực lượng sản xuất của các quốc gia đồng thời tác động mạnh mẽ tới quá trình
điều chỉnh cấu trúc vai trò của các nhân tố trong lực lượng sản xuất hội, về
liệu lao động, từ chmáy móc ra đời thay thế cho lao động chân tay cho đến sra đời
của máy tính điện tử, chuyển nền sản xuất sang giai đoạn tự động hóa tài sản cố định
thường xuyên được đổi mới quá trình tập trung hóa sản xuất được đẩy nhanh.
Cách mạng công nghiệp vai trò to lớn trong phát triển nguồn nhân lực.
vừa đặt ra những đòi hỏi vchất lượng nguồn nhân lực ngày càng cao, nhưng mặt
khác lại tạo điều kiện để phát triển nguồn nhân lực. Cuộc cách mạng công nghiệp lần
thứ nhất đã thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, nâng cao sản xuất lao động gia tăng của cải
vật chất dẫn đến những thay đổi to lớn về kinh tế, xã hội, văn hóa và kỹ thuật.
Thành tựu của các cuộc cách mạng công nghiệp, tạo điều kiện cho khoa học
công nghệ tiên tiến vào sản xuất đời sống. Đồng thời tạo hội cho các nước đang
kém phát triển, tiếp cận với những thành tựu mới của khoa học công nghệ, tận dụng
lợi thế của những nước đi sau, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa để bứt phá,
rút ngắn khoảng cách và trình độ phát triển với các nước đi trước.
Cách mạng công nghiệp, tạo hội cho các nước phát triển nhiều ngành kinh
tế những ngành mới thông qua mở rộng ứng dụng những thành tựu về công
nghệ thông tin, công nghệ số, công nghệ điều khiển, công nghệ sinh học, cách mạng
công nghiệp, thúc đẩy chuyển dịch cấu kinh tế, nh thành cấu kinh tế mới theo
hướng hiện đại, hội nhập quốc tế hiệu quả cao. Các thành tựu mới của khoa học
công nghệ được ứng dụng để tối ưu hóa quá trình sản xuất, phân phối, trao đổi tiêu
dùng và quản lý quản trị.
lOMoARcPSD| 60776878
* Thúc đẩy hoàn thiện quan hệ sản xuất.
Các cuộc cách mạng công nghiệp, tạo sự phát triển nhảy vọt về chất trong lực
lượng sản xuất sự phát triển này tất yếu dẫn đến quá trình điều tiết, phát triển
hoàn thiện quan hệ sản xuất xã hội và quản trị phát triển.
Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ hai đã đẩy nhanh quá trình hội hóa sản
xuất, thúc đẩy chủ nghĩa bản chuyển biến từ giai đoạn tự do cạnh tranh sang giai
đoạn độc quyền làm gia tăng mâu thuẫn của chủ nghĩa tư bản trong giai đoạn này.
Cách mạng công nghiệp cũng đặt ra những yêu cầu hoàn thiện thể chế kinh tế
thị trường, tạo điều kiện thuận lợi cho hội nhập kinh tế quốc tế trao đổi thành tựu
khoa học công nghệ giữa các ớc. Cách mạng công nghiệp làm cho lĩnh vực tổ chức
quản kinh doanh cũng sthay đổi to lớn. Việc quản quá trình sản xuất của
các doanh nghiệp trở nên dễ dàng hơn thông qua ứng dụng các công nghệ như Internet,
trí tuệ nhân tạo, phỏng, robot,...từ đó tạo điều kiện cho doanh nghiệp sử dụng
nguồn nguyên liệu và năng lượng mới hiệu quả, giúp nâng cao năng suất lao động và
định hướng lại tiêu dùng.
Trong lĩnh vực phân phối, cách mạng công nghiệp mà nhất là cách mạng công
nghiệp 4.0 đã thúc đẩy nâng cao năng suất lao động, làm giảm chi phí sản xuất, nâng
cao thu nhập cải thiện đời sống của người dân. Cách mạng công nghiệp 4.0 giúp
cho việc phân phối tiêu dùng trở nên dễ dàng nhanh chóng làm thay đổi đời
sống xã hội của con người. Tuy nhiên, nó lại tác động tiêu cực đến việc làm thu
nhập. Nạn thất nghiệp phân hóa thu nhập gay gắt hơn nguyên nhân chính dẫn
đến gia tăng bất nh đẳng của các nước phải điều chỉnh chính sách phân phối thu
nhập và an sinh xã hội, nhằm giải quyết những mâu thuẫn cổ hủ trong phân phối của
nền kinh tế thị trường.
Cách mạng ng nghiệp tạo điều kiện để tiếp thu, trao đổi kinh nghiệm, tổ chức
quản lý kinh tế - xã hội giữa các nước. Thông qua đó, các nước lạc hậu có thể rút ra
những bài học kinh nghiệm của các nước đi trước để hạn chế những sai lầm thất bại
trong quá trình phát triển. Cách mạng công nghiệp cũng tạo điều kiện cho các nước
mở rộng quan hệ đối ngoại cho phát triển từng bước tham gia vào chuỗi giá trị toàn
cầu, tạo khả năng biến đổi các hệ thống sản xuất, quản lý, quản trị kinh tế và doanh
nghiệp, phát triển những mô hình kinh doanh mới, nâng cao sức cạnh tranh. Của nền
kinh tế và các doanh nghiệp.
* Thúc đẩy đổi mới phương thức quản trị phát triển.
Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ ba làm cho sản xuất hội những bước
phát triển nhảy vọt. Công nghệ kỹ thuật số internet đã kết nối giữa doanh nghiệp
với doanh nghiệp, giữa doanh nghiệp, với cá nhân và giữa các cá nhân với nhau trên
phạm vi toàn cầu. Thị trường được mở rộng, đồng thời dần hình thành một "thế giới
phẳng". Thành tựu khoa học mang tính đột phá của cách mạng công nghiệp lần thứ
ba là sáng chế và áp dụng máy tính điện tử, hoàn thiện quá trình tự động hóa có tính
hệ thống để đưa tất cả các lĩnh vực trong nền kinh tế chuyển sang một trạng thái công
nghệ hoàn toàn mới. Cuộc cách mạng này đã tạo điều kiện chuyển biến các nền kinh
tế công nghiệp sang nền kinh tế tri thức. Hàm lượng tri thức tăng lên trong sản phẩm
lOMoARcPSD| 60776878
và dịch vụ, khoảng cách thời gian tự phát, minh khoa học đến ứng dụng vào thực tiễn
ngày càng được rút ngắn.
Cách mạng công nghiệp 4.0 cũng tác động mạnh mẽ đến phương thức quản tr
điều hành của doanh nghiệp. Sự thay đổi của ng nghệ sản xuất dựa trên ứng dụng
công nghệ cao vào sản xuất, làm cho các doanh nghiệp phải thay đổi cách thức thiết
kế, tiếp thị và cung ứng hàng hóa, dịch vụ theo cách mới bắt nhịp với không gian số.
Các doanh nghiệp cần phải xây dựng chiến lược kinh doanh xuất phát từ nguồn lực,
trong đó nguồn lực chủ yếu là công nghệ trí tuệ, đổi mới sáng tạo. Trên cơ sở đó, xây
dựng định hướng chiến lược hoạch định kế hoạch phát triển một cách hiệu quả
nhất, nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh và hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp.
* Vai trò của công nghiệp hóa, hiện đại hóa đối với Việt Nam
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa mang tới nhiều tác dụng to lớn đối với sự phát
triển của nền kinh tế – xã hội Việt Nam. Cụ thể:
+ Giúp đảm bảo tạo điều kiện cho sthay đổi về nền sản xuất hội, làm
tăng năng suất lao động và tăng sức chế ngự của con người với thiên nhiên. Từ đó sẽ
góp phần phát triển nền kinh tế, cải thiện được đời sống của nhân dân một phần
quyết định tới sự thắng lợi của chủ nghĩa xã hội.
+ Công nghiệp hóa, hiện đại hóa tạo các điều kiện vật chất đối việc củng cố và
tăng cường vai tcủa nền kinh tế Nhà nước. Nhờ đó con người sẽ được phát triển
một cách toàn diện nhất trong mọi hoạt động kinh tế và xã hội.
+ Giúp cho nền khoa học và công nghệ điều kiện được phát triển nhanh
chóng và đạt tới trình độ hiện đại, tiên tiến. Tạo điều kiện bồ sung lực lượng vật chất
kỹ thuật cho hệ thống quốc phòng, an ninh, giúp đảm bảo về đời sống kinh tế,
chính trị xã hội trong đất nước ngày càng phát triển hơn. ng nghiệp hóa hiện đại
hóa được xem là một nhiệm vụ trọng tâm trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội.
4. Sơ lược các cuộc cách mạng công nghiệp
* Cách mạng công nghiệp lần thứ nhất:
Cách mạng công nghiệp lần thứ nhất cuộc cách mạng trong lĩnh vực sản xuất;
sthay đổi bản các điều kiện kinh tế hội, văn hóa kỹ thuật, xuất phát từ
nước Anh sau đó lan tỏa ra toàn thế giới. Trong thời kỳ này, nền kinh tế giản đơn, quy
nhỏ, dựa trên lao động chân tay được thay thế bằng công nghiệp chế tạo máy
móc quy lớn. Tên gọi "Cách mạng công nghiệp" thường dùng để chỉ giai đoạn thứ
nhất của diễn ra cuối thế kỷ 18 đầu thế kỷ 19. Giai đoạn hai hay còn gọi là
Cách mạng công nghiệp lần thứ hai tiếp tục ngay sau đó từ nửa sau thế kỷ 19 đến đầu
thế kỷ 20. Ảnh hưởng của diễn ra Tây Âu Bắc Mỹ trong suốt thế kỷ 19 và sau
đó là toàn thế giới.
Ý kiến về thời gian diễn ra Cách mạng công nghiệp lần thứ nhất không thống
nhất, nhưng nói chung nửa cuối thế kỷ 18 đến nửa đầu thế kỷ 19. Cuộc cách mạng
công nghiệp lần thứ nhất bắt đầu với sự phát triển sản xuất hàng hóa của ngành công
nghiệp dệt. Sau đó, với nhu cầu cung cấp máy móc năng lượng cho công nghiệp
lOMoARcPSD| 60776878
dệt, các kỹ thuật gia công sắt thép được cải thiện và than đá sdụng với khối lượng
lớn. Thương mại mở rộng tạo điều kiện cho sự ra đời của kênh đào giao thông
đường sắt. Bên cạnh đó, đường giao thông được nâng cấp lớn cho hoạt động giao
thương nhộn nhịp. Động cơ hơi nước sử dụng nhiên liệu than và máy móc dẫn động
bằng khí đã đưa đến gia tăng năng suất lao động đột biến. Sự phát triển các máy
công cụ trong hai thập kỷ đầu của thế kỷ 19 tạo thuận lợi cho lĩnh vực chế tạo máy,
phục vụ những ngành sản xuất khác.
* Cách mạng công nghiệp lần thứ hai:
Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ hai diễn ra từ những năm 1870 đến khi
chiến tranh thế giới thứ nhất nổ ra. Thời gian này gắn liền với sự phát triển của các
cường quốc công nghiệp như nước Anh, Đức và Hoa Kỳ.
Cuộc cách mạng này là một cuộc cách mạng về khoa học và kỹ thuật. Chuyển
sang sản xuất trên sở điện khí giai đoạn tđộng hóa cục bộ. Sử dụng năng
lượng điện và sản xuất ra dây chuyên sản xuất hàng loạt quy mô lớn. Được đánh dấu
bằng những thành tựu to lớn: Ô tô, máy bay, đèn sợi đốt, điện thoại, tua bin hơi,…
Bên cạnh đó còn sự phát triển của các ngành vận tải, sản xuất thép, điện, hóa học
đặc biệt nhất sản xuất tiêu dùng. Phát minh cốt yếu nhất trong lĩnh vực truyền
thông đầu tiên là kỹ thuật in ấn tang quay dẫn động bằng năng lượng hơi nước. Tiếp
của sthành công máy sản xuất giấy cuộn dựa trên kỹ thuật in ấn ra đời. Quy trình
làm giấy tnhững nguồn hạn chế như bông, lanh được thay thế bằng bột gỗ. Năm
1870 với sự truyền bá kiến thức của nước Anh thuế giấy bị xóa bỏ kích thích sự phát
triển của báo chí và tạp chí. Thời gian này máy công cụ có khả năng chế tạo các thiết
bị chính xác trong y khác tại Mỹ có sự tăng trưởng. Dây chuyền sản xuất hàng tiêu
dùng ra đời.
Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 2 ra đời đã mở ra kỷ nguyên của sản xuất
hàng loạt, thúc đẩy bởi sự ra đời của điện dây chuyền lắp ráp. Công nghiệp hóa
được lan rộng ra nhiều nước như Nhật Bản, Nga,… Cuộc cách mạng đã tạo ra những
tiền đề thắng lợi cho chủ nghĩa xã hội có quy mô thế giới.
* Cách mạng công nghiệp lần thứ ba:
Cách mạng công nghiệp lần thứ ba bắt đầu khoảng 1960, khi có các tiến bộ về
hạ tầng điện tử, máy tính công nghệ thuật số trên nền tảng sự phát triển của
chất bán dẫn, siêu máy tính (thập niên 1960), máy tính nhân (thập niên 1970
1980) Internet (thập niên 1990). Cho đến cuối thế kỷ 20, quá trình này bản hoàn
thành nhờ những thành tựu khoa học công nghệ cao. Năm 1997, khi cuộc khủng hoảng
tài chính Châu Á nổ ra là bước đánh dấu giai đoạn thứ ba kết thúc.
* Cách mạng công nghiệp lần thứ tư:
Cách mạng công nghiệp lần thứ bắt đầu vào đầu thế kỷ 21, tiếp sau những
thành tựu lớn từ lần thứ 3 để lại, được hình thành trên nền tảng cải tiến của cuộc cách
mạng số, với những công nghệ mới như in 3D, robot, trí tuệ nhân tạo, Internet of
Things, S.M.A.C, công nghệ nano, sinh học, vật liệu mới,... Hiện tại cả thế giới đang
trong giai đoạn đầu của cuộc cách mạng này chiến lược bản lề cho các nước
đang phát triển tiến đến để theo kịp với xu hướng thế giới mở ra bước ngoặt mới
cho sự phát triển của con người.
lOMoARcPSD| 60776878
Tác động của cách mạng công nghiệp là vô cùng sâu rộng. Không chỉ làm thay
đổi đời sống con người, các cuộc cách mạng công nghiệp còn dẫn tới sự thay đổi toàn
diện hình thái kinh tế hội. Sau cách mạng công nghiệp lần thứ nhất, giai cấp
sản đã tích lũy đủ tài sản và quyền lực, dẫn tới việc chủ nghĩa bản đã thắng thế chế
độ phong kiến. Sau ch mạng ng nghiệp lần thứ hai, các nhà máy lớn sản xuất theo
dây chuyền đã thay thế các xưởng sản xuất nhỏ, dẫn tới việc chủ nghĩa tư bản độc
quyền đã thay thế chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh, đồng thời giai cấp công nhân và
một số phong trào chính trị đi theo chủ nghĩa xã hội đã hình thành. Cách mạng công
nghiệp lần thba dẫn tới sự ra đời của chủ nghĩa bản hiện đại. Cách mạng công
nghiệp lần thứ hứa hẹn slàm thay đổi hình thái kinh tế - hội của nhân loại thêm
một lần nữa.
5. CNH, HĐH ở Việt Nam trước đổi mới
Công nghiệp hóa thời kỳ trước đổi mới (từ năm 1960 đến năm 1986) Công
nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa, bắt đầu được hình thành từ Đại hội Đảng toàn quốc lần
thứ III (năm 1960), với nhiệm vụ trung tâm của thời kỳ quá đmiền Bắc nước ta,
công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa. Chủ trương chính của thời kỳ y là: “Xây dựng
một nền kinh tế hội chủ nghĩa cân đối hiện đại, kết hợp công nghiệp với nông
nghiệp lấy công nghiệp nặng làm nền tảng, ưu tiên phát triển công nghiệp nặng
một cách hợp lý, đồng thời ra sức phát triển nông nghiệp công nghiệp nhẹ, nhằm
biến nước ta từ một nước nông nghiệp lạc hậu thành một nước công nghiệp hiện
đại và nông nghiệp hiện đại". Do đó, trước thời kỳ đổi mới, nước ta khoảng 25
năm tiến hành công nghiệp hóa, đáng chú ý quá trình này được chia ra làm 02 giai
đoạn: Từ năm 1960 đến năm 1975 tiến hành công nghiệp hóa ở miền Bắc, và từ năm
1975 đến năm 1985, tiến hành công nghiệp hóa trên phạm vi cả nước. Đặc trưng chủ
yếu của thời kỳ này tiến hành công nghiệp hóa, trên sở phát triển công nghiệp
nặng, kết hợp chặt chẽ giữa phát triển công nghiệp với nông nghiệp; phát triển chủ
yếu dựa vào lợi thế về lao động, tài nguyên đất đai, nguồn viện trợ của các nước
hội chủ nghĩa, và Nhà nước cùng doanh nghiệp nhà nước đóng vai trò chủ lực, trong
việc thực hiện công nghiệp hóa đất nước.
6. CNH, HDH ở Việt Nam sau đổi mới
* Những nội dung bản của công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong thời
kỳquá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam a) Thực hiện cuộc cách mạng khoa học
công nghệ để xây dựng sở vật chất kỹ thuật cho chủ nghĩa hội, phát triển mạnh
mẽ lực lượng sản xuất Nước ta đang định hướng đi lên chủ nghĩa hội bqua chế
độ bản chủ nghĩa, quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa tất yếu phải được tiến
hành bằng cách mạng khoa học công nghệ. Cố nhiên, trong điều kiện thế giới đã
trải qua hai cuộc cách mạng khoa học và công nghệ điều kiện cơ cấu kinh tế mở,
cuộc cách mạng khoa học ng nghệ nước ta thể cần phải bao hàm c
cuộc cách mạng khoa học công nghệ thế giới đã, đang trải qua. Từ bối cảnh
đó, vị trí của cuộc cách mạng này phải được xác định “then chốt” và khoa học
công nghệ phải được xác định là một “quốc sách”, một “động lực” cần đem toàn lực
lượng để nắm lấy và phát triển nó. Cuộc cách mạng khoa học công nghệ nước ta
hiện nay thể khái quát gồm hai nội dung chủ yếu sau: Một là, xây dựng thành công
lOMoARcPSD| 60776878
sở vật chất kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội để dựa vào đó mà trang bị công nghệ
hiện đại cho các ngành kinh tế quốc dân. Hai là, tổ chức nghiên cứu, thu thập thông
tin, phổ biến ứng dụng những thành tựu mới của khoa học và công nghệ hiện đại vào
sản xuất, đời sống với những hình thức, bước đi, quy mô thích hợp. Trong quá trình
thực hiện cách mạng khoa học công nghệ, chúng ta cần chú ý: ứng dụng những
thành tựu mới, tiên tiến vkhoa học công nghệ, đặc biệt công nghệ thông tin,
công nghệ sinh học, phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa từng bước phát triển
nền kinh tế tri thức. Sử dụng công nghệ mới gắn với yêu cầu tạo nhiều việc làm, tốn
ít vốn, quay vòng nhanh, giữ được nghề truyền thống; kết hợp công nghệ cũ, công
nghệ truyền thống với công nghệ hiện đại. Tăng đầu ngân sách huy động các
nguồn lực khác cho khoa học công nghệ; kết hợp phát triển cả bề rộng lẫn chiều
sâu, xây dựng mới, cải tạo cũ, thực hiện tiết kiệm, hiệu quả. Kết hợp các loại quy
lớn, vừa nhỏ cho thích hợp; ưu tiên quy vừa nhỏ, coi trọng hiệu quả sản xuất
kinh doanh và hiệu quả kinh tế – xã hội.
* Xây dựng cấu kinh tế hợp phân công lại lao động hội *
Xâydựng cấu kinh tế hợp cấu kinh tế tổng thể các bphận hợp thành,
cùng với vị trí, tỷ trọng quan hệ tương tác phợp giữa các bộ phận trong hệ thống
kinh tế quốc dân. Cơ cấu kinh tế được xem xét dưới góc độ: cơ cấu ngành (như công
nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ…); cơ cấu vùng (các vùng kinh tế theo lãnh thổ) và cơ
cấu thành phần kinh tế. Trong cơ cấu kinh tế thì cấu ngành bphận tầm quan
trọng đặc biệt, là bộ xương của cấu kinh tế. Xây dựng cấu kinh tế yêu cầu
cần thiết khách quan của mỗi nước trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Vấn
đề quan trọng là tạo ra một cơ cấu kinh tế tối ưu (hợp lý). Xây dựng một cơ cấu kinh
tế được gọi tối ưu khi đáp ng được các yêu cầu sau: Phản ánh được đúng
các quy luật khách quan, nhất là các quy luật kinh tế và xu hướng vận động phát triển
kinh tế hội của đất nước. Nông nghiệp phải giảm dần về tỷ trọng, công nghiệp
và dịch vụ phải tăng dần về tỷ trọng. Phù hợp với xu hướng tiến bộ của khoa học và
công nghệ đã và đang diễn ra như bão trên thế giới. Cho phép khai thác tối đa mọi
tiềm năng của đất nước, của c ngành, các địa phương, các thành phần kinh tế. Thực
hiện tốt sự phân công và hợp tác quốc tế theo xu hướng toàn cầu hoá kinh tế, do vậy,
cấu kinh tế được tạo dựng phải “cơ cấu mở”. Xây dựng cấu kinh tế một
quá trình, trải qua những chặng đường nhất định, do vậy xây dựng cơ cấu kinh tế của
chặng đường trước phải sao cho tạo được “đà” cho chặng đường sau và phải được bổ
sung và hoàn thiện dần trong quá trình phát triển. ở nước ta hiện nay, Đảng ta đã xác
định cần tập trung xây dựng một cơ cấu kinh tế hợp lý, mà “bộ xương” của nó là “cơ
cấu kinh tế công nông nghiệp dịch vụ gắn với phân công hợp tác quốc tế sâu
rộng”1, và khi hình thành cơ cấu kinh tế đó, sẽ cho phép nước ta kết thúc thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa hội. cấu nói trên nước ta trong thời kquá độ được thực
hiện theo phương châm là:
Kết hợp công nghệ với nhiều trình độ, tranh thủ công nghệ mũi nhọn, tiên tiến
vừa tận dụng được nguồn lao động dồi dào, vừa cho phép rút ngắn khoảng cách lạc
hậu, vừa phù hợp với nguồn vốn hạn nước ta; lấy quy vừa nhỏ chủ yếu,
tính đến quy lớn nhưng phải là quy mô hợp lý và có điều kiện; giữ được nhịp
lOMoARcPSD| 60776878
độ (tốc độ) phát triển hợp lý, tạo ra sự cân đối giữa các ngành, các lĩnh vực kinh tế và
các vùng trong nền kinh tế…
* Tiến hành phân công lại lao động hội Từ sản xuất nhỏ lên sản xuất
lớnxã hội chủ nghĩa bỏ qua giai đoạn phát triển bản chủ nghĩa trong quá trình công
nghiệp hoá tất yếu phải phân công lại lao động xã hội. Phân công lao động xã hội
sự chuyên môn hóa lao động, tức chuyên môn hóa sản xuất giữa các ngành, trong
nội bộ từng ngành và giữa các vùng trong nền kinh tế quốc dân. Phân công lao động
xã hội có tác dụng rất to lớn. Nó là đòn bẩy của sự phát triển công nghệ và năng suất
lao động; cùng với cách mạng khoa học công nghệ, góp phần hình thành
phát triển cấu kinh tế hợp lý. Trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại a, sự
phân công lại lao động hội phải tuân thủ các quá trình tính quy luật sau: Tỷ
trọng số tuyệt đối lao động nông nghiệp giảm dần, tỷ trọng và sốtuyệt đối lao động
công nghiệp ngày một tăng lên. Tỷ trọng lao động trí tuệ ngày một tăng và chiếm ưu
thế so với lao động giản đơn trong tổng lao động xã hội. Tốc độ tăng lao động trong
các ngành sản xuất phi vật chất (dịch vụ) tăng nhanh hơn tốc độ tăng lao động trong
các ngành sản xuất vật chất. ở nước ta, phương hướng phân công lại lao động xã hội
hiện nay cần triển khai trên cả hai địa bàn: tại chỗ và nơi khác để phát triển về chiều
rộng kết hợp phát triển theo chiều sâu. 2. Những nội dung cụ thể của công nghiệp
hoá, hiện đại hoá nước ta trong những năm trước mắt a) Đẩy mạnh công nghiệp
hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn, giải quyết đồng bộ các vấn đề nông
nghiệp, nông thôn và nông dân.
Chuyển dịch mạnh cơ cấu nông nghiệp và kinh tế nông thôn theo hướng tạo ra
giá trị gia tăng ngày càng cao, gắn với công nghiệp chế biến và thị trường; thực hiện
cơ khí hoá, điện khí hoá, thuỷ lợi hoá, đưa nhanh tiến bộ khoa học – kỹ thuật và công
nghệ sinh học vào sản xuất; nâng cao năng suất, chất lượng và sức cạnh tranh phù hợp
với từng vùng, từng địa phương; phát triển các khu nông nghiệp ng nghệ cao, vùng
trồng trọt và chăn nuôi tập trung, doanh nghiệp công nghiệp và dịch vụ gắn với hình
thành các ngành nghề, làng nghề, hợp tác xã, trang trại, tạo ra những sản phẩm có thị
trường và hiệu quả kinh tế cao. Thực hiện chương trình xây dựng nông thôn mới. b)
Phát triển nhanh n công nghiệp, xây dựng dịch vụ Khuyến khích phát triển công
nghiệp công nghệ cao, công nghiệp chế tác, công nghiệp phần mềm công nghiệp
hỗ trợ có lợi thế cạnh tranh, tạo nhiều sản phẩm xuất khẩu và thu hút nhiều lao động;
phát triển một số khu kinh tế mở đặc khu kinh tế. Phát triển mạnh mẽ các ngành
công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng hàng xuất khẩu, sản xuất liệu sản xuất quan
trọng theo hướng hiện đại. Xây dựng đồng bộ kết cấu hạ tầng kinh tế hội. Tạo
bước phát triển vượt bậc của các ngành dịch vụ, nhất những ngành chất lượng
cao, tiềm năng lớn sức cạnh tranh, đưa tốc độ tăng trưởng của ngành dịch vụ
cao hơn tốc độ tăng trưởng GDP.
* Phát triển kinh tế vùng Phát triển các vùng trong cả nước và tạo sự liên
kết giữa các vùng nội vùng; thúc đẩy phát triển các vùng kinh tế trọng điểm, tạo
động lực, tác động lan toả đến các vùng khác; đồng thời tạo điều kiện phát triển nhanh
hơn cho các vùng kinh tế đang còn nhiều khó khăn. d) Phát triển kinh tế biển y
dựng thực hiện chiến lược phát triển kinh tế biển toàn diện, trọng tâm, trọng
lOMoARcPSD| 60776878
điểm; sớm đưa nước ta trở thành quốc gia mạnh về kinh tế biển trong khu vực, gắn
với bảo đảm quốc phòng, an ninh và hợp tác quốc tế.
7. Tính tất yếu
Mỗi phương thức sản xuất xã hội nhất định một sở vật chất kỹ thuật
tương ứng. svật chất kỹ thuật của một xã hội toàn bộ hệ thống các yếu tố
vật chất của lực lượng sản xuất hội, phợp với trình độ kỹ thuật (công nghệ)
tương ứng mà lực lượng lao động hội sử dụng để sản xuất ra của cải vật chất đáp
ứng nhu cầu xã hội.
- Chỗ dựa để xem xét sự biến đổi của sở vật chất – kỹ thuật của một
hộilà sự biến đổi phát triển của lực lượng sản xuất; sự phát triển khoa học k
thuật; tính chất trình độ của các quan hệ xã hội; đặc biệt là quan hệ sản xuất thống
trị.
Nói sở vật chất kỹ thuật của một phương thức sản xuất nào đó nói svật
chất – kỹ thuật đó đã đạt đến một trình độ nhất định làm đặc trưng cho phương thức
sản xuất đó.
- Đặc trưng của sở vật chất kỹ thuật của các phương thức sản xuất
trướcchủ nghĩa bản là dựa vào công cụ thủ công, nhỏ bé, lạc hậu. Đặc trưng của
sở vật chất – kỹ thuật của chủ nghĩa tư bản là nền đại công nghiệp cơ khí hóa.
- Chủ nghĩa hội giai đoạn thấp của phương thức sản xuất mới cao
hơnchủ nghĩa tư bản – đòi hỏi một cơ sở vật chất – kỹ thuật cao hơn trên cả hai mặt:
trình độ kỹ thuật cấu sản xuất, gắn với thành tựu của cách mạng khoa học
công nghệ hiện đại.
Do vậy, có thể hiểu, cơ sở vật chất – kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội là nền công
nghiệp lớn hiện đại, có cấu kinh tế hợp lý, có trình độ xã hội hóa cao dựa trên trình
độ khoa học công nghệ hiện đại được hình thành một cách kế hoạch thống
trị trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
Từ chnghĩa bản hay ttrước chủ nghĩa bản quá độ lên chủ nghĩa hội, xây
dựng sở vật chất kỹ thuật cho chủ nghĩa hội một tất yếu khách quan, một
quy luật kinh tế mang tính phổ biến được thực hiện thông qua công nghiệp hóa,
hiện đại hóa.
Đối với các nước quá độ từ chủ nghĩa bản lên chủ nghĩa hội, đã
công nghiệp, cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa tư bản tiến bộ đến đâu cũng
chỉ là những tiền đề vật chất chứ chưa phải là cơ sở vật chất – kỹ thuật của chủ nghĩa
hội. Muốn sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, các nước này phải
thực hiện quy luật nói trên bằng cách tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa về quan
hệ sản xuất; tiếp thu vận dụng phát triển cao hơn những thành tựu khoa học
công nghệ vào sản xuất; hình thành cấu kinh tế mới hội chủ nghĩa trình độ
cao tổ chức, sắp xếp lại nền đại công nghiệp bản chủ nghĩa một cách hợp lý,
hiệu quả hơn.
Đối với các nước nền kinh tế kém phát triển quá độ lên chủ nghĩa hội như
nước ta, xây dựng sở vật chất kỹ thuật cho chủ nghĩa hội phải thực hiện từ
đầu, từ không đến có, từ gốc đến ngọn thông qua công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Mỗi
lOMoARcPSD| 60776878
bước tiến của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa là một bước tăng cường cơ sở
vật chất kỹ thuật cho chủ nghĩa hội, phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất
góp phần hoàn thiện quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa.
8. Mục tiêu và phương hướng
Mục tiêu và phương hướng công nghiệp hóa
Đường lối công nghiệp hóa đất nước đã được hình thành từ Đại hội III của
Đảng (tháng 9-1960). Trước thời kỳ đổi mới, nước ta đã có khoảng 25 năm tiến hành
công nghiệp hóa qua hai giai đoạn: từ năm 1960 đến năm 1975 triển khai ở miền Bắc
và từ năm 1975 đến năm 1985 thực hiện trên phạm vi cả nước.
Đường lối công nghiệp hóa đất nước đã được hình thành từ Đại hội III của
Đảng (tháng 9-1960). Trước thời kỳ đổi mới, nước ta đã có khoảng 25 năm tiến hành
công nghiệp hóa qua hai giai đoạn: từ năm 1960 đến năm 1975 triển khai ở miền Bắc
và từ năm 1975 đến năm 1985 thực hiện trên phạm vi cả nước.
miền Bắc: Trên cơ sở phân tích một cách sâu sắc đặc điểm kinh tế miền Bắc,
trong đó đặc điểm lớn nhất từ một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên
chủ nghĩa xã hội không trải qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa, Đại hội III của
Đảng khẳng định: muốn cải biến tình trạng kinh tế lạc hậu của nước ta, không có con
đường nào khác, ngoài con đường công nghiệp hóa hội chủ nghĩa. Tức khẳng
định tính tất yếu của công nghiệp hóa đối với công cuộc xây dựng chủ nghĩa hội ở
nước ta.
Ngay từ đầu quá trình công nghiệp hóa, Đảng ta đã xác định công nghiệp hóa
hội chnghĩa nhiệm vtrung tâm trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
nước ta. Quan điểm đúng đắn này được khẳng định nhiều làn trong tất cả các Đại
hội của Đảng.
Mục tiêu bản của công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa được Đại hội III của
Đảng xác định xây dựng một nền kinh tế hội chủ nghĩa cân đối hiện đại; bước
đầu xây dựng cơ sở vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội. Đó là mục tiêu cơ bản,
lâu dài, phải thực hiện qua nhiều giai đoạn.
Để chỉ đạo thực hiện công nghiệp hóa, Hội nghị Trung ương lần thứ bảy khóa
III nêu phương hướng chỉ đạo xây dựng và phát triển công nghiệp là:
- Ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý;
- Kết hợp chặt chẽ phát triển công nghiệp với phát triển nông nghiệp;
- Ra sức phát triển công nghiệp nhẹ song song với việc ưu tiên phát triển
côngnghiệp nặng;
- Ra sức phát triển công nghiệp trung ương, đồng thời đẩy mạnh phát
triểncông nghiệp địa phương,
Trên phạm vi cả nước: Sau Đại thắng Mùa Xuân năm 1975, cả nước độc lập,
thống nhất và quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Trên cơ sở phân tích một cách toàn diện
đặc điểm, tình hình trong nước và quốc tế, Đại hội IV của Đảng (tháng-1976) đề ra
đường lối công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa là: "Đẩy mạnh công nghiệp hóa xã hội
chủ nghĩa, xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, đưa nền kinh tế
nước ta từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa. Ưu tiên phát triển công
lOMoARcPSD| 60776878
nghiệp nặng một cách hợp lý trên cơ sở phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ,
kêt hợp xây dựng công, nghiệp và nông nghiệp cả nước thành một cơ cấu kinh tế
công - nông nghiệp; vừa xây dựng kinh tế trung ương vừa phát triển kinh tế địa
phương, kết hợp kinh tế trung ương với kinh tế địa phương trong một cơ cấu kinh tế
quốc dân thống nhất". Đường lối này nhất trí với những nhận thức cơ bản về công
nghiệp hóa ở miền Bắc trước đây, đồng thời có sự phát triển thêm. Từ thực tiễn chỉ
đạo công nghiệp hóa 5 năm (1976-1981), Đảng ta rút ra kết luận; từ một nền sản
xuất nhỏ đi lên, điều quan trọng là phải xác định đúng bước đi của công nghiệp hóa
cho phù hợp với mục tiêu và khả năng của mỗi chặng đường. Với cách đặt vấn đề
như trên, Đại hội lần thứ V của Đảng (tháng 3-1982) đã xác định trong chặng đường
đầu tiên của thời kỳ quá độ ở nước ta phải lấy nông nghiệp làm mặt trận hàng đầu,
ra sức phát triển công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng; việc xây dựng và phát triển
công nghiệp nặng trong giai đoạn này cần làm có mức độ, vừa sức, nhằm phục vụ
thiết thực, có hiệu quả cho nông nghiệp và công nghiệp nhẹ. Đại hội V coi đó là nội
dung chính của công nghiệp hóa trong chặng đường trước mắt. Đây là sự điều chỉnh
rất đúng đắn mục tiêu và bước đi của công nghiệp hóa, phù hợp với thực tiễn Việt
Nam. Tiếc rằng, trên thực tế chúng ta đã không làm đúng sự điều chỉnh chiến lược
quan trọng này, gây hậu quả nghiêm trọng.
9. Thành tựu của quá trình CNH, HDH
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng (1960) đã xác định: “Công
nghiệp hóa hội chủ nghĩa nhiệm vụ trung tâm của thời kỳ quá độ nước ta”.
Trong 20 năm đầu, công nghiệp hóa nước ta diễn ra trong điều kiện chiến tranh.
Những năm sau, công nghiệp hóa diễn ra trong điều kiện vừa khủng hoảng kinh tế
hội, vừa tìm tòi đổi mới nền kinh tế.
Công nghiệp hóa trước đổi mới diễn ra theo mô hình của Liên Xô, chỉ đến khi
khởi đầu là đổi mới tư duy kinh tế và nhất là từ Đại hội VIII (1996), công cuộc công
nghiệp hóa, hiện đại hóa của nước ta mới được xác định một cách đầy đủ. Trong 35
năm đổi mới, đặc biệt sau 10 năm thực hiện Cương lĩnh 2011, nhận thức của Đảng
trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đã những bước phát triển mới về cả
nội dung và phương thức thực hiện.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa hội (bổ
sung, phát triển năm 2011) đã xác định: “Coi trọng phát triển các ngành công nghiệp
nặng, công nghiệp chế tạo có tính nền tảng và các ngành công nghiệp lợi thế”. Đại
hội Đảng XI (năm 2011) đã bổ sung thêm cấu lại nền công nghiệp theo hướng
phát triển nhanh, hiệu quả, bền vững, nâng cao tính độc lập, tchủ của nền kinh tế,
từng bước khả năng tham gia sâu, hiệu quả vào mạng sản xuất phân phối
toàn cầu; Ưu tiên phát triển công nghiệp phục vụ nông nghiệp nông thôn; Phát
triển hợp công nghiệp sử dụng nhiều lao động, góp phần chuyển dịch nhanh cấu
lao động”.
Sau 35 năm đổi mới, Việt Nam đã đạt được những thành tựu quan trọng trong
công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, đưa nước ta tmột trong những
quốc gia nghèo nhất thế giới trở thành quốc gia thu nhập trung bình thấp và ngày
càng hội nhập sâu rộng với khu vực thế giới; đời sống của người dân ngày càng
được cải thiện, vị thế uy tín của đất nước ta trên trường quốc tế ngày càng được
lOMoARcPSD| 60776878
nâng cao. Đóng góp vào những thành quả to lớn này của phát triển đất nước vai
trò hết sức quan trọng của ngành Công Thương với việc Việt Nam đã đang dần
khẳng định được vthế một trong những trung tâm sản xuất công nghiệp của khu
vực và của thế giới.
Việt Nam đã vươn lên trở thành một trong những quốc gia có nền công nghiệp
năng lực cạnh tranh toàn cầu (CIP) mức khá cao, thuộc vào nhóm các quốc gia
năng lực cạnh tranh công nghiệp trung bình cao với vị trí thứ 44 trên thế giới vào
năm 2018 theo đánh giá của UNIDO. Theo đó, trong giai đoạn 1990-2018 đã tăng 50
bậc và giai đoạn 2010-2018 tăng 23 bậc, tăng nhanh nhất trong các nước thuộc khu
vực ASEAN và đã tiệm cận vị trí thứ 5 của Philipphin (chỉ thua 0.001 điểm), tiến gần
hơn với nhóm 4 nước có năng lực cạnh tranh mạnh nhất trong khối.
Công nghiệp ngành tốc độ tăng trưởng cao nhất trong các ngành kinh tế
quốc dân với đóng góp xấp xỉ 30% GDP trở thành ngành xuất khẩu chủ lực của
đất nước, góp phần đưa Việt Nam lên vị trí thứ 22 quốc gia xuất khẩu lớn nhất thế
giới vào năm 2018. Một số ngành công nghiệp ưu tiên, công nghiệp mũi nhọn theo
định hướng chiến lược của ta đã trở thành các ngành công nghiệp lớn nhất đất nước,
qua đó đưa nước ta bản đã hội nhập thành công vào chuỗi giá trị toàn cầu với s
dẫn dắt của một số doanh nghiệp công nghiệp lớn như điện tử, dệt may, da giày…
Trong tổng số 32 mặt hàng xuất khẩu kim ngạch trên 1 tỷ USD vào m
2019 hàng công nghiệp chiếm 29/32 mặt hàng 5/5 mặt hàng kim ngạch xuất
khẩu trên 10 tỷ USD (điện tử, dệt may, da giày, đồ gỗ, máy móc, thiết bị). Một số
ngành công nghiệp hiện vị trí vững chắc trên thị trường thế giới hiện nay như dệt
may (đứng thứ 7 về xuất khẩu), da giày (thứ 3 về sản xuất thứ 2 về xuất khẩu), điện
tử (đứng thứ 12 về xuất khẩu, trong đó mặt hàng điện thoại di động đứng thứ 2 về
xuất khẩu), đồ gỗ (đứng thứ 5 về xuất khẩu).
Theo xếp hạng doanh nghiệp lớn nhất Việt Nam năm 2019, trong số 10 doanh
nghiệp lớn nhất thì tới 8/10 doanh nghiệp trong lĩnh vực công nghiệp, trong đó
7/10 doanh nghiệp nội địa ; chiếm 5/10 doanh nghiệp tư nhân lớn nhất cả nước . Các
doanh nghiệp công nghiệp lớn của Việt Nam chủ yếu tập trung vào lĩnh vực dầu khí,
điện, khoáng sản, ô tô, thép, sữa và thực phẩm.
Bên cạnh đó, quá trình tái cơ cấu ngành công nghiệp gắn với đổi mới mô hình
tăng trưởng, nâng cao năng suất lao động đã đi vào thực chất hơn, ngày càng hướng
vào lõi công nghiệp hóa. Theo đó, công nghiệp tiếp tục duy trì là ngành có năng suất
lao động cao nhất trong các ngành kinh tế quốc dân với tỷ trọng trong GDP tăng từ
26,63% năm 2011 lên 27,81% năm 2015 và 28,55% năm 2019.
cấu nội ngành công nghiệp đã chuyển dịch theo hướng giảm dần tỷ trọng
công nghiệp khai khoáng (t36,47% năm 2011 xuống còn 25,61% năm 2019) tăng
tỷ trọng công nghiệp chế biến chế tạo (từ 49,82% năm 2011 lên 54,57% năm 2019)
trở thành động lực tăng trưởng chính của ngành công nghiệp (ước VA tăng 10,99%
giai đoạn 2011-2020 và 12,64% giai đoạn 2016-2020).
cấu công nghệ trong ngành công nghiệp đã nhiều thay đổi theo hướng
tiếp cận công nghệ tiên tiến, hiện đại hơn với sự dịch chuyển mạnh từ các ngành thâm
lOMoARcPSD| 60776878
dụng lao động như dệt may, da giày sang các ngành công nghiệp công nghệ cao như
máy vi tính, sản phẩm điện tử, điện thoại.
Đầu cho phát triển công nghiệp ngày càng được mở rộng, trong đó, đầu
FDI trở thành động lực chính của phát triển công nghiệp và chuyển dịch cơ cấu phát
triển các ngành công nghiệp nước ta theo hướng hiện đại (chiếm tỷ trọng xấp xỉ 70%
tổng vốn đầu FDI vào các ngành kinh tế, trong đó, đầu vào công nghiệp chế
biến, chế tạo chiếm tỷ trọng lớn nhất với xấp xỉ 60%).
Đầu FDI vai trò to lớn trong việc hình thành một số ngành công nghiệp
chủ lực của nền kinh tế như viễn thông; khai thác, chế biến dầu khí; điện tử, công
nghệ thông tin, thép, xi ng, dệt may, da giày... tạo nền tảng quan trọng cho tăng
trưởng dài hạn, cũng như thúc đẩy quá trình hiện đại hóa, công nghiệp hóa đất nước.
Chẳng hạn, các dự án đầu quan trọng của một số công ty đa quốc gia hàng đầu bao
gồm Tập đoàn Samsung, Tập đoàn Intel, LG… đã chọn Việt Nam làm nơi sản xuất
các sản phẩm điện tử như điện thoại di động và máy tính bảng để xuất khẩu trên toàn
thế giới đã đưa ngành điện tử Việt Nam với xuất phát điểm gần như bằng 0 vào những
năm trước 2010 lên thành ngành xuất khẩu lớn nhất của đất nước trong giai đoạn hiện
nay (đứng thứ 2 thế giới về xuất khẩu điện thoại di động). Trong vài năm trở lại đây,
dòng vốn FDI đang dịch chuyển sang các ngành, nghề giá trị gia tăng cao hơn trong
các ngành, lĩnh vực ưu tiên ng nghệ cao, công nghệ thông tin truyền thông
(ICT), chế tạo, chế biến, công nghiệp hỗ trợ và nông nghiệp... và giảm dần trong một
số ngành thâm dụng lao động.
Để tiếp tục đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, với
mục tiêu đến năm 2030 Việt Nam bản trở thành nước công nghiệp theo ớng hiện
đại, thuộc nhóm 3 nước dẫn đầu khu vực ASEAN về công nghiệp, trong đó một số
ngành công nghiệp sức cạnh tranh quốc tế tham gia sâu vào chuỗi giá trị toàn
cầu; tầm nhìn đến năm 2045, Việt Nam trở thành nước công nghiệp phát triển hiện
đại, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 23-NQ/TW ngày 22/3/2018 về định
hướng xây dựng chính sách phát triển công nghiệp quốc gia đến năm 2030, tầm nhìn
đến năm 2045.
Trong đó, quan điểm chỉ đạo xuyên suốt của Đảng đối với chính sách công
nghiệp quốc gia phải gắn liền với chính sách phát triển các ngành kinh tế khác, đặc
biệt chính sách thương mại quốc gia, tài chính - tiền tệ, khoa học, công nghệ, đào
tạo, bảo vệ môi trường ứng phó với biến đổi khí hậu. Bảo đảm gắn kết chặt chẽ
giữa quy hoạch phát triển các ngành công nghiệp với chiến lược tổng thể phát triển
công nghiệp, giữa chiến lược, quy hoạch phát triển các ngành công nghiệp với chiến
lược, quy hoạch phát triển các ngành kinh tế khác để hình thành các vùng công nghiệp,
cụm liên kết ngành công nghiệp, khu công nghiệp, các mạng sản xuất, chuỗi giá trị
công nghiệp, trong đó cụm liên kết ngành công nghiệp là trọng tâm. Kết hợp hài hoà
giữa phát triển công nghiệp theo cả chiều rộng và chiều sâu, ctrọng phát triển theo
chiều sâu, tạo bước đột phá trong nâng cao năng suất, chất lượng, sức cạnh tranh của
sản phẩm công nghiệp. Tận dụng tối đa lợi thế của nước đang trong thời kỳ cấu
dân số vàng, khai thác triệt để thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ 4,
lợi thế thương mại để phát triển nhanh, chuyên sâu một số ngành công nghiệp nền
lOMoARcPSD| 60776878
tảng, chiến lược, lợi thế cạnh tranh. Phát triển công nghiệp công nghệ thông tin,
công nghiệp điện tử con đường chủ đạo; phát triển công nghiệp chế biến, chế tạo
trung tâm; phát triển công nghiệp chế tạo thông minh là bước đột phá; chú trọng phát
triển công nghiệp xanh.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng Nhà nước, trong thời gian tới ngành Công
Thương sẽ tiếp tục tích cực triển khai thực hiện, cụ thể hóa c đường lối, chủ trương,
quan điểm của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước về công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước, tạo môi trường pháp bình đẳng minh bạch cho các doanh
nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế cạnh tranh, phát triển, khơi thông các nguồn lực
trong nước và thu hút đầu tư nước ngoài, quyết tâm sớm đưa nước ta trở thành nước
công nghiệp theo hướng hiện đại.
10. Khó khăn
Một số khó khăn và thách thức đặt ra với quá trình công nghiệp hóa ở nước ta
hiện nay
Đẩy mạnh phát triển một số ngành, lĩnh vực kinh tế trọng điểm, có tiềm năng,
lợi thế và còn dư địa lớn để làm động lực cho tăng trưởng theo tinh thần bắt kịp, tiến
cùng vượt lên một số lĩnh vực so với khu vực, thế giới. Tuy vậy, Việt Nam, quá
trình công nghiệp hóa cũng gặp một số khó khăn, thách thức.
Các quốc gia công nghiệp phát triển và các quốc gia công nghiệp hóa mới đều
thành công trên con đường công nghiệp hóa nhờ biết xác định kịp thời mô hình công
nghiệp hóa phù hợp với bối cảnh thế giới điều kiện cụ thể của đất nước. Chỉ tính
từ giữa thế kỷ XX đến nay, đã 2 hình công nghiệp hóa rất thành công. hình
thay thế nhập khẩu đã biến các quốc gia Braxin, Mêhicô, Áchentina Chilê thành
các “con hổ” Mỹ La tinh. Sau đó, mô hình hướng xuất khẩu đã đem lại sự phát triển
thần kỳ cho các “con hổ” Đông Á: Xinhgapo, Hàn Quốc, Hồng Công, Đài Loan. Đến
đầu thập kỷ 90 của thế kỷ XX, Việt Nam đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
theo phương châm hướng xuất khẩu, đồng thời thay thế nhập khẩu ở những lĩnh vực,
mặt hàng có lợi thế.
Quá trình này đã góp phần đem lại cho đất nước những thành tựu to lớn, ý
nghĩa lịch sử; tuy nhiên, như Đại hội XIII kiểm điểm: “công nghiệp hóa, hiện đại hóa
chưa đạt được mục tiêu đề ra”.
Với tính cách thị trường thương mại, thế giới ngày nay đã bị các hiệp định
thương mại tdo, nhất các hiệp định thế hệ mới biến thành một thị trường liên
hoàn, thống nhất. đó, đã sẽ nhanh chóng mất đi sự phân biệt giữa thtrường quốc
nội và thị trường quốc tế. Trong bối cảnh mới như vậy, các mô hình công nghiệp hóa
nêu trên hiển nhiên không còn chỗ đứng. Việt Nam cũng như các quốc gia khác, rất
cần xác định mới mô hình công nghiệp hóa, vừa thích ứng với chuỗi giá trị toàn cầu,
cách mạng công nghiệp lần thứ tư…, vừa phù hợp với điều kiện, mục tiêu, yêu cầu
của nước nhà. Chiến lược phát triển kinh tế - hội 10 năm 2021-2030 được thông
qua tại Đại hội XIII nêu rõ mô hình công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong thời kỳ mới:
“Tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa dựa trên nền tảng của khoa học,
công nghệ, đổi mới sáng tạo những thành tựu công nghcủa cách mạng công
nghiệp lần thứ tư. Đẩy mạnh phát triển một số ngành, lĩnh vực kinh tế trọng điểm, có

Preview text:

lOMoAR cPSD| 60776878
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KỸ THUẬT - CÔNG NGHỆ CẦN THƠ
KHOA KHOA HỌC XÃ HỘI -----
BÁO CÁO CHUYÊN ĐỀ
HỌC PHẦN KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁC - LÊNIN
HỌC KỲ II, NĂM HỌC 2024 - 2025 ĐỀ TÀI:
CÔNG NGHIỆP HÓA - HIỆN ĐẠI HOÁ Ở VIỆT NAM
GIẢNG VIÊN GIẢNG DẠY: Họ tên:
Cần Thơ, tháng 4 năm 2025 lOMoAR cPSD| 60776878
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KỸ THUẬT - CÔNG NGHỆ CẦN THƠ
KHOA KHOA HỌC XÃ HỘI
BÁO CÁO CHUYÊN ĐỀ
HỌC PHẦN KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁC - LÊNIN
HỌC KỲ II, NĂM HỌC 2024 - 2025 ĐỀ TÀI:
CÔNG NGHIỆP HOÁ - HIỆN ĐẠI HOÁ Ở VIỆT NAM
SINH VIÊN THỰC HIỆN (Nhóm 8):
Cần Thơ, tháng 4 năm 2025 lOMoAR cPSD| 60776878
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KỸ THUẬT - CÔNG NGHỆ CẦN THƠ
KHOA KHOA HỌC XÃ HỘI -----
Cần Thơ, ngày … tháng 4 năm 2025 NHẬN XÉT ĐIỂM
NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN GIẢNG VIÊN II GIẢNG VIÊN I lOMoAR cPSD| 60776878 MỤC LỤC
A. PHẦN MỞ ĐẦU.................................................................................................1
B. PHẦN NỘI DUNG..............................................................................................4
1. Khái niệm CNH, HDH, cách mạng công nghiệp ......................................... 6
2. Đặc điểm của CNH, HDH ............................................................................ 7
3. Vai trò của CNH, HDH ................................................................................. 8
4. Sơ lược các cuộc cách mạng công nghiệp .................................................. 10
5. CNH, HDH ở Việt Nam trước đổi mới ....................................................... 12
6. CNH, HDH ở Việt Nam sau đổi mới .......................................................... 12
7. Tính tất yếu ................................................................................................. 15
8. Mục tiêu và phương hướng ......................................................................... 16
9. Thành tựu của quá trình CNH, HDH .......................................................... 17
10. Khó khăn ................................................................................................... 20
11. Giải pháp.................................................................................................30
C. KẾT LUẬN.......................................................................................................33 lOMoAR cPSD| 60776878 A PHẦN MỞ ĐẦU
Do công nghiệp hóa, hiện đại hóa là một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng
đầu vì nó chứa cả nền sản xuất vật chất và đời sống văn hóa – xã hội của đất nước lên
trình độ mới. Đôi sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, công nghiệp hóa có vai trò
tạo điều kiện làm tiền đề vật chất - kỹ thuật, công nghiệp hóa có nội dung, bước đi cụ
thể, phù hợp. Đối với Việt Nam khi chính thức bước vào thời kì quá độ lên chủ nghĩa
xã hội. Đó là một quả trình kinh tế, kỹ thuật - công nghệ và kinh tế xã hội toàn diện
sâu rộng nhằm chuyển đổi nền sản xuất và xã hội Việt Nam từ trình độ nông nghiệp
lạc hậu lên trình độ công nghiệp tiên tiến, hiện đại và văn minh...
Với sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế trên thế giới, công nghiệp hoá, hiện
đại hoá là một vấn đề tất yếu của tất cả các quốc gia, và đất nước ta cũng không ngoại
lệ. Nói về sự cần thiết của công nghiệp hoá, hiện đại hoá chính là giúp cho nền khoa
học và công nghệ có điều kiện được phát triển nhanh chóng và đạt tới trình độ hiện
đại, tiên tiến. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là nền tảng để các ngành kinh tế có thể
phát triển vượt trội. Tạo điều kiện bổ sung lực lượng vật chất và kỹ thuật cho hệ thống
quốc phòng, an ninh, giúp đảm bảo về đời sống kinh tế, chính trị và xã hội trong đất
nước ngày càng phát triển hơn. lOMoAR cPSD| 60776878 B PHẦN NỘI DUNG
1. Khái niệm CNH, HDH, cách mạng công nghiệp
* Công nghiệp hóa là gì ?
Công nghiệp hóa là quá trình chuyển đổi cơ bản và toàn diện hầu hết các hoạt
động sản xuất từ việc sử dụng sức lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách
phổ biến sức lao động phổ thông dựa trên sự phát triển của ngành công nghiệp cơ khí.
Ngoài ra, công nghiệp hóa còn được hiểu là quá trình nâng cao tỷ trọng của công
nghiệp trong toàn bộ các ngành kinh tế của một vùng kinh tế hay một nền kinh tế. Đó
là tỷ trọng về lao động, về giá trị gia tăng, về năng suất lao động,..
Đây là quá trình chuyển biến kinh tế-xã hội ở một cộng đồng người từ nền kinh
tế với mức độ tập trung tư bản nhỏ bé (xã hội tiền công nghiệp) sang nền kinh tế công
nghiệp. Công nghiệp hóa là một phần của quá trình hiện đại hóa. Sự chuyển biến kinh
tế-xã hội này đi đôi với tiến bộ công nghệ, đặc biệt là sự phát triển của sản xuất năng
lượng và luyện kim quy mô lớn. Công nghiệp hóa còn gắn liền với thay đổi các hình
thái triết học hoặc sự thay đổi thái độ trong nhận thức tự nhiên. Dầu vậy, những thay
đổi về mặt triết học là nguyên nhân của công nghiệp hóa hay ngược lại thì vẫn còn tranh cãi.
- Công nghiệp hóa là quá trình nâng cao giá trị tuyệt đối sản lượng công
nghiệp. - Công nghiệp hóa gắn với phát triển văn hóa và xã hội để đạt tới xã
hội công nghiệp * Hiện đại hóa là gì ?
Hiện đại hóa có thể được hiểu là việc sử dụng các trang thiết bị hiện đại, những
thành tựu khoa học và công nghệ tiên tiến ứng dụng vào quá trình sản xuất và quản lý kinh tế xã hội.
Đó là việc từ sử dụng sức lao động thủ công của con người sang sử dụng sức
lao động phổ thông được ứng dụng những trang thiết bị công nghệ hiện đại
Đây là thuật ngữ tổng quan với mục đích thể hiện tiến trình cải biến khi khoa
học công nghệ được con người phát triển và sử dụng thành thục. Từ đó, xã hội được
phát triển với tốc độ nhanh chóng chưa từng thấy trong lịch sử.
* Một số ví dụ về công nghiệp hóa và hiện đại hóa.
Nước ta đã thực hiện quá trình công nghiệp hóa và hiện đại hóa trong một
khoảng thời gian dài, đạt được nhiều thành tựu đáng kể. Dưới đây là một số ví dụ cụ
thể về những lĩnh vực đã áp dụng công nghệ hiện đại để thúc đẩy phát triển kinh tế và
cải thiện chất lượng cuộc sống của người dân: -
Trong lĩnh vực nông nghiệp, các loại giống lúa, cây trồng và vật nuôi
mớiđã được tạo ra nhờ sự ứng dụng của khoa học và công nghệ. Những loại giống
này có năng suất và chất lượng cao hơn so với giống thông thường và được áp dụng
rộng rãi. Công nghệ tưới phun mưa, nuôi trồng trong nhà và các phương pháp canh
tác khác cũng đã giúp tăng năng suất và giảm thiểu tác động của các yếu tố thời tiết. -
Trong lĩnh vực công nghệ thông tin, nhiều loại máy móc, thiết bị và
phươngtiện đã được phát triển để hỗ trợ cho việc tiếp nhận thông tin, truyền thông và lOMoAR cPSD| 60776878
giải trí. Internet và các thiết bị di động đã thay đổi cách mà chúng ta liên lạc và trao
đổi thông tin, mang lại lợi ích đáng kể cho người dân và doanh nghiệp. -
Trong lĩnh vực y tế, các thiết bị và máy móc đã giúp nâng cao khả
năngchữa trị bệnh cho con người. Máy siêu âm, máy chụp X-quang và các công nghệ
chuẩn đoán khác đã giúp đưa ra các phương pháp điều trị chính xác và hiệu quả hơn,
giúp cứu sống hàng ngàn người mỗi năm. -
Trong lĩnh vực xây dựng, nhiều loại máy móc và phương tiện đã được
sửdụng để giúp tăng năng suất và giảm thiểu thời gian thi công. Cần cẩu, máy vận
chuyển vật liệu và các loại máy khác đã giúp giảm thiểu công sức lao động và đạt
được kết quả xây dựng nhanh chóng và hiệu quả. -
Trong lĩnh vực năng lượng tái tạo, công nghệ năng lượng tái tạo như
điệnmặt trời, gió và thủy điện đã phát triển nhanh chóng trong những năm qua và đã
trở thành một phần quan trọng của nền kinh tế quốc dân. Sử dụng các nguồn năng
lượng tái tạo giúp giảm thiểu lượng khí thải gây ô nhiễm và giảm thiểu sự phụ thuộc
vào các nguồn năng lượng hóa thạch. -
Ngoài ra, nhiều loại máy móc như máy điều hòa nhiệt độ, máy lọc
khôngkhí, máy sưởi cũng đã được phát triển để nâng cao chất lượng đời sống con người.
* Cách mạng công nghiệp là gì?
Cách mạng công nghiệp diễn ra đầu tiên ở Anh vào những năm 60 của thế kỉ
18 bắt đầu từ những phát minh máy móc trong ngành dệt, sau đó lan sang các nước
khác như Mỹ, Pháp, Đức,...
* Khái niệm cách mạng công nghiệp là gì?
Cách mạng công nghiệp là cuộc cách mạng trong lĩnh vực sản xuất, là sự thay
thế lao động thủ công (còn gọi là lao động tay chân) của con người bằng lao động
máy móc, chuyển đổi từ sản xuất thủ công sang nền sản xuất cơ khí.
Việc thay thế lao động thủ công bằng máy móc; nền kinh tế giản đơn, quy mô
nhỏ, dựa trên lao động chân tay được thay thế bằng công nghiệp và chế tạo máy móc
quy mô lớn chính là ý nghĩa lớn nhất của cách mạng công nghiệp.
Cuộc cách mạng công nghiệp đã làm thay đổi cơ bản điều kiện về: - Kinh tế - xã hội - Văn hóa
- Khoa học kĩ thuật của xã hội loài người.
2. Đặc điểm của CNH, HDH
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng
đầu vì nó đứa cả nễ sản xuất vật chất và đời sống văn hóa – xã hội của đất nước lên
trình độ mới. Đôi sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, công nghiệp hóa có vai trò
tạo điều kiện làm tiền đề vật chất - kỹ thuật, công nghiệp hóa có nội dung, bước đi cụ
thể, phù hợp. Đối với Việt Nam khi chính thức bước vào thời kì quá độ lên chủ nghĩa
xã hội. Đang chủ trương tiễn hành công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa và tử cuối thế kỉ
XX đến nay quá trình này được xác định đầy đủ là công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Đó lOMoAR cPSD| 60776878
là một quả trình kinh tế, kĩ thuật – công nghệ và kinh tế - xã hội toàn diện sâu rộng
nhằm chuyển đổi nền sản xuất và xã hội Việt Nam từ trình độ nông nghiệp lạc hậu lên
trình độ công nghiệp tiên tiến, hiện đại và văn minh. Trên cơ sở tổng kết công cuộc
công nghiệp hỏa, hiện đại hóa tử đầu thập kỉ 90 của thế kỉ XX đến nay bảm sát bối
cảnh, yêu cầu, nhiệm vụ mới, Đại hội XIII của Đảng nêu rõ chủ trương: “Tiếp tục đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa trên tiền tảng của tiến bộ khoa học, công nghệ
và đôi mới sáng tạo". Nhận thấy sự cấp thiết và thực tế của vấn đề nên em đã quyết
định chọn đề tài Công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam trong bối cảnh cách mạng
công nghiệp lần thứ tư – thực trang và giải pháp phát triển” nhằm nâng cao kiến thức
và trình độ hiểu biết để theo kịp thời đại và góp phần phát triển đất nước.
Vậy nên sự cần thiết của CNH, HĐH Với sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh
tế trên thế giới, công nghiệp hoá, hiện đại hoá là một vấn đề tất yếu của tất cả các
quốc gia, và đất nước ta cũng không ngoại lệ. Nói về sự cần thiết của công nghiệp
hoá, hiện đại hoá chính là giúp cho nền khoa học và công nghệ có điều kiện được phát
triển nhanh chóng và đạt tới trình độ hiện đại, tiên tiến. Công nghiệp hoá, hiện đại
hoá là nền tảng để các ngành kinh tế có thể phát triển vượt trội. Tạo điều kiện bổ sung
lực lượng vật chất và kỹ thuật cho hệ thống quốc phòng, an ninh, giúp đảm bảo về đời
sống kinh tế, chính trị và xã hội trong đất nước ngày càng phát triển hơn.
3. Vai trò của CNH, HDH
* Thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất.
Các cuộc cách mạng công nghiệp có những tác động vô cùng to lớn đến sự phát
triển lực lượng sản xuất của các quốc gia và đồng thời tác động mạnh mẽ tới quá trình
điều chỉnh cấu trúc và vai trò của các nhân tố trong lực lượng sản xuất xã hội, về tư
liệu lao động, từ chỗ máy móc ra đời thay thế cho lao động chân tay cho đến sự ra đời
của máy tính điện tử, chuyển nền sản xuất sang giai đoạn tự động hóa tài sản cố định
thường xuyên được đổi mới quá trình tập trung hóa sản xuất được đẩy nhanh.
Cách mạng công nghiệp có vai trò to lớn trong phát triển nguồn nhân lực. Nó
vừa đặt ra những đòi hỏi về chất lượng nguồn nhân lực ngày càng cao, nhưng mặt
khác lại tạo điều kiện để phát triển nguồn nhân lực. Cuộc cách mạng công nghiệp lần
thứ nhất đã thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, nâng cao sản xuất lao động gia tăng của cải
vật chất dẫn đến những thay đổi to lớn về kinh tế, xã hội, văn hóa và kỹ thuật.
Thành tựu của các cuộc cách mạng công nghiệp, tạo điều kiện cho khoa học
công nghệ tiên tiến vào sản xuất đời sống. Đồng thời tạo cơ hội cho các nước đang và
kém phát triển, tiếp cận với những thành tựu mới của khoa học công nghệ, tận dụng
lợi thế của những nước đi sau, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa để bứt phá,
rút ngắn khoảng cách và trình độ phát triển với các nước đi trước.
Cách mạng công nghiệp, tạo cơ hội cho các nước phát triển nhiều ngành kinh
tế và và những ngành mới thông qua mở rộng ứng dụng những thành tựu về công
nghệ thông tin, công nghệ số, công nghệ điều khiển, công nghệ sinh học, cách mạng
công nghiệp, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, hình thành cơ cấu kinh tế mới theo
hướng hiện đại, hội nhập quốc tế và hiệu quả cao. Các thành tựu mới của khoa học
công nghệ được ứng dụng để tối ưu hóa quá trình sản xuất, phân phối, trao đổi tiêu
dùng và quản lý quản trị. lOMoAR cPSD| 60776878
* Thúc đẩy hoàn thiện quan hệ sản xuất.
Các cuộc cách mạng công nghiệp, tạo sự phát triển nhảy vọt về chất trong lực
lượng sản xuất và sự phát triển này tất yếu dẫn đến quá trình điều tiết, phát triển và
hoàn thiện quan hệ sản xuất xã hội và quản trị phát triển.
Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ hai đã đẩy nhanh quá trình xã hội hóa sản
xuất, thúc đẩy chủ nghĩa tư bản chuyển biến từ giai đoạn tự do cạnh tranh sang giai
đoạn độc quyền làm gia tăng mâu thuẫn của chủ nghĩa tư bản trong giai đoạn này.
Cách mạng công nghiệp cũng đặt ra những yêu cầu hoàn thiện thể chế kinh tế
thị trường, tạo điều kiện thuận lợi cho hội nhập kinh tế quốc tế và trao đổi thành tựu
khoa học công nghệ giữa các nước. Cách mạng công nghiệp làm cho lĩnh vực tổ chức
quản lý kinh doanh cũng có sự thay đổi to lớn. Việc quản lý quá trình sản xuất của
các doanh nghiệp trở nên dễ dàng hơn thông qua ứng dụng các công nghệ như Internet,
trí tuệ nhân tạo, mô phỏng, robot,...từ đó tạo điều kiện cho doanh nghiệp sử dụng
nguồn nguyên liệu và năng lượng mới hiệu quả, giúp nâng cao năng suất lao động và
định hướng lại tiêu dùng.
Trong lĩnh vực phân phối, cách mạng công nghiệp mà nhất là cách mạng công
nghiệp 4.0 đã thúc đẩy nâng cao năng suất lao động, làm giảm chi phí sản xuất, nâng
cao thu nhập và cải thiện đời sống của người dân. Cách mạng công nghiệp 4.0 giúp
cho việc phân phối và tiêu dùng trở nên dễ dàng và nhanh chóng làm thay đổi đời
sống xã hội của con người. Tuy nhiên, nó lại có tác động tiêu cực đến việc làm và thu
nhập. Nạn thất nghiệp và phân hóa thu nhập gay gắt hơn là nguyên nhân chính dẫn
đến gia tăng bất bình đẳng của các nước phải điều chỉnh chính sách phân phối thu
nhập và an sinh xã hội, nhằm giải quyết những mâu thuẫn cổ hủ trong phân phối của
nền kinh tế thị trường.
Cách mạng công nghiệp tạo điều kiện để tiếp thu, trao đổi kinh nghiệm, tổ chức
quản lý kinh tế - xã hội giữa các nước. Thông qua đó, các nước lạc hậu có thể rút ra
những bài học kinh nghiệm của các nước đi trước để hạn chế những sai lầm thất bại
trong quá trình phát triển. Cách mạng công nghiệp cũng tạo điều kiện cho các nước
mở rộng quan hệ đối ngoại cho phát triển từng bước tham gia vào chuỗi giá trị toàn
cầu, tạo khả năng biến đổi các hệ thống sản xuất, quản lý, quản trị kinh tế và doanh
nghiệp, phát triển những mô hình kinh doanh mới, nâng cao sức cạnh tranh. Của nền
kinh tế và các doanh nghiệp.
* Thúc đẩy đổi mới phương thức quản trị phát triển.
Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ ba làm cho sản xuất xã hội có những bước
phát triển nhảy vọt. Công nghệ kỹ thuật số và internet đã kết nối giữa doanh nghiệp
với doanh nghiệp, giữa doanh nghiệp, với cá nhân và giữa các cá nhân với nhau trên
phạm vi toàn cầu. Thị trường được mở rộng, đồng thời dần hình thành một "thế giới
phẳng". Thành tựu khoa học mang tính đột phá của cách mạng công nghiệp lần thứ
ba là sáng chế và áp dụng máy tính điện tử, hoàn thiện quá trình tự động hóa có tính
hệ thống để đưa tất cả các lĩnh vực trong nền kinh tế chuyển sang một trạng thái công
nghệ hoàn toàn mới. Cuộc cách mạng này đã tạo điều kiện chuyển biến các nền kinh
tế công nghiệp sang nền kinh tế tri thức. Hàm lượng tri thức tăng lên trong sản phẩm lOMoAR cPSD| 60776878
và dịch vụ, khoảng cách thời gian tự phát, minh khoa học đến ứng dụng vào thực tiễn
ngày càng được rút ngắn.
Cách mạng công nghiệp 4.0 cũng tác động mạnh mẽ đến phương thức quản trị
và điều hành của doanh nghiệp. Sự thay đổi của công nghệ sản xuất dựa trên ứng dụng
công nghệ cao vào sản xuất, làm cho các doanh nghiệp phải thay đổi cách thức thiết
kế, tiếp thị và cung ứng hàng hóa, dịch vụ theo cách mới bắt nhịp với không gian số.
Các doanh nghiệp cần phải xây dựng chiến lược kinh doanh xuất phát từ nguồn lực,
trong đó nguồn lực chủ yếu là công nghệ trí tuệ, đổi mới sáng tạo. Trên cơ sở đó, xây
dựng định hướng chiến lược và hoạch định kế hoạch phát triển một cách hiệu quả
nhất, nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh và hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
* Vai trò của công nghiệp hóa, hiện đại hóa đối với Việt Nam
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa mang tới nhiều tác dụng to lớn đối với sự phát
triển của nền kinh tế – xã hội Việt Nam. Cụ thể:
+ Giúp đảm bảo và tạo điều kiện cho sự thay đổi về nền sản xuất xã hội, làm
tăng năng suất lao động và tăng sức chế ngự của con người với thiên nhiên. Từ đó sẽ
góp phần phát triển nền kinh tế, cải thiện được đời sống của nhân dân và một phần
quyết định tới sự thắng lợi của chủ nghĩa xã hội.
+ Công nghiệp hóa, hiện đại hóa tạo các điều kiện vật chất đối việc củng cố và
tăng cường vai trò của nền kinh tế Nhà nước. Nhờ đó con người sẽ được phát triển
một cách toàn diện nhất trong mọi hoạt động kinh tế và xã hội.
+ Giúp cho nền khoa học và công nghệ có điều kiện được phát triển nhanh
chóng và đạt tới trình độ hiện đại, tiên tiến. Tạo điều kiện bồ sung lực lượng vật chất
và kỹ thuật cho hệ thống quốc phòng, an ninh, giúp đảm bảo về đời sống kinh tế,
chính trị và xã hội trong đất nước ngày càng phát triển hơn. Công nghiệp hóa hiện đại
hóa được xem là một nhiệm vụ trọng tâm trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
4. Sơ lược các cuộc cách mạng công nghiệp
* Cách mạng công nghiệp lần thứ nhất:
Cách mạng công nghiệp lần thứ nhất là cuộc cách mạng trong lĩnh vực sản xuất;
là sự thay đổi cơ bản các điều kiện kinh tế xã hội, văn hóa và kỹ thuật, xuất phát từ
nước Anh sau đó lan tỏa ra toàn thế giới. Trong thời kỳ này, nền kinh tế giản đơn, quy
mô nhỏ, dựa trên lao động chân tay được thay thế bằng công nghiệp và chế tạo máy
móc quy mô lớn. Tên gọi "Cách mạng công nghiệp" thường dùng để chỉ giai đoạn thứ
nhất của nó diễn ra ở cuối thế kỷ 18 và đầu thế kỷ 19. Giai đoạn hai hay còn gọi là
Cách mạng công nghiệp lần thứ hai tiếp tục ngay sau đó từ nửa sau thế kỷ 19 đến đầu
thế kỷ 20. Ảnh hưởng của nó diễn ra ở Tây Âu và Bắc Mỹ trong suốt thế kỷ 19 và sau đó là toàn thế giới.
Ý kiến về thời gian diễn ra Cách mạng công nghiệp lần thứ nhất không thống
nhất, nhưng nói chung là ở nửa cuối thế kỷ 18 đến nửa đầu thế kỷ 19. Cuộc cách mạng
công nghiệp lần thứ nhất bắt đầu với sự phát triển sản xuất hàng hóa của ngành công
nghiệp dệt. Sau đó, với nhu cầu cung cấp máy móc và năng lượng cho công nghiệp lOMoAR cPSD| 60776878
dệt, các kỹ thuật gia công sắt thép được cải thiện và than đá sử dụng với khối lượng
lớn. Thương mại mở rộng tạo điều kiện cho sự ra đời của kênh đào giao thông và
đường sắt. Bên cạnh đó, đường giao thông được nâng cấp lớn cho hoạt động giao
thương nhộn nhịp. Động cơ hơi nước sử dụng nhiên liệu than và máy móc dẫn động
bằng cơ khí đã đưa đến gia tăng năng suất lao động đột biến. Sự phát triển các máy
công cụ trong hai thập kỷ đầu của thế kỷ 19 tạo thuận lợi cho lĩnh vực chế tạo máy,
phục vụ những ngành sản xuất khác.
* Cách mạng công nghiệp lần thứ hai:
Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ hai diễn ra từ những năm 1870 đến khi
chiến tranh thế giới thứ nhất nổ ra. Thời gian này gắn liền với sự phát triển của các
cường quốc công nghiệp như nước Anh, Đức và Hoa Kỳ.
Cuộc cách mạng này là một cuộc cách mạng về khoa học và kỹ thuật. Chuyển
sang sản xuất trên cơ sở điện cơ khí và giai đoạn tự động hóa cục bộ. Sử dụng năng
lượng điện và sản xuất ra dây chuyên sản xuất hàng loạt quy mô lớn. Được đánh dấu
bằng những thành tựu to lớn: Ô tô, máy bay, đèn sợi đốt, điện thoại, tua bin hơi,…
Bên cạnh đó còn có sự phát triển của các ngành vận tải, sản xuất thép, điện, hóa học
và đặc biệt nhất là sản xuất và tiêu dùng. Phát minh cốt yếu nhất trong lĩnh vực truyền
thông đầu tiên là kỹ thuật in ấn tang quay dẫn động bằng năng lượng hơi nước. Tiếp
của sự thành công máy sản xuất giấy cuộn dựa trên kỹ thuật in ấn mà ra đời. Quy trình
làm giấy từ những nguồn hạn chế như bông, lanh được thay thế bằng bột gỗ. Năm
1870 với sự truyền bá kiến thức của nước Anh thuế giấy bị xóa bỏ kích thích sự phát
triển của báo chí và tạp chí. Thời gian này máy công cụ có khả năng chế tạo các thiết
bị chính xác trong máy khác tại Mỹ có sự tăng trưởng. Dây chuyền sản xuất hàng tiêu dùng ra đời.
Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 2 ra đời đã mở ra kỷ nguyên của sản xuất
hàng loạt, thúc đẩy bởi sự ra đời của điện và dây chuyền lắp ráp. Công nghiệp hóa
được lan rộng ra nhiều nước như Nhật Bản, Nga,… Cuộc cách mạng đã tạo ra những
tiền đề thắng lợi cho chủ nghĩa xã hội có quy mô thế giới.
* Cách mạng công nghiệp lần thứ ba:
Cách mạng công nghiệp lần thứ ba bắt đầu khoảng 1960, khi có các tiến bộ về
hạ tầng điện tử, máy tính và công nghệ kĩ thuật số trên nền tảng là sự phát triển của
chất bán dẫn, siêu máy tính (thập niên 1960), máy tính cá nhân (thập niên 1970 và
1980) và Internet (thập niên 1990). Cho đến cuối thế kỷ 20, quá trình này cơ bản hoàn
thành nhờ những thành tựu khoa học công nghệ cao. Năm 1997, khi cuộc khủng hoảng
tài chính Châu Á nổ ra là bước đánh dấu giai đoạn thứ ba kết thúc.
* Cách mạng công nghiệp lần thứ tư:
Cách mạng công nghiệp lần thứ tư bắt đầu vào đầu thế kỷ 21, tiếp sau những
thành tựu lớn từ lần thứ 3 để lại, được hình thành trên nền tảng cải tiến của cuộc cách
mạng số, với những công nghệ mới như in 3D, robot, trí tuệ nhân tạo, Internet of
Things, S.M.A.C, công nghệ nano, sinh học, vật liệu mới,... Hiện tại cả thế giới đang
ở trong giai đoạn đầu của cuộc cách mạng này và là chiến lược bản lề cho các nước
đang phát triển tiến đến để theo kịp với xu hướng thế giới và mở ra bước ngoặt mới
cho sự phát triển của con người. lOMoAR cPSD| 60776878
Tác động của cách mạng công nghiệp là vô cùng sâu rộng. Không chỉ làm thay
đổi đời sống con người, các cuộc cách mạng công nghiệp còn dẫn tới sự thay đổi toàn
diện hình thái kinh tế – xã hội. Sau cách mạng công nghiệp lần thứ nhất, giai cấp tư
sản đã tích lũy đủ tài sản và quyền lực, dẫn tới việc chủ nghĩa tư bản đã thắng thế chế
độ phong kiến. Sau cách mạng công nghiệp lần thứ hai, các nhà máy lớn sản xuất theo
dây chuyền đã thay thế các xưởng sản xuất nhỏ, dẫn tới việc chủ nghĩa tư bản độc
quyền đã thay thế chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh, đồng thời giai cấp công nhân và
một số phong trào chính trị đi theo chủ nghĩa xã hội đã hình thành. Cách mạng công
nghiệp lần thứ ba dẫn tới sự ra đời của chủ nghĩa tư bản hiện đại. Cách mạng công
nghiệp lần thứ tư hứa hẹn sẽ làm thay đổi hình thái kinh tế - xã hội của nhân loại thêm một lần nữa.
5. CNH, HĐH ở Việt Nam trước đổi mới
Công nghiệp hóa thời kỳ trước đổi mới (từ năm 1960 đến năm 1986) Công
nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa, bắt đầu được hình thành từ Đại hội Đảng toàn quốc lần
thứ III (năm 1960), với nhiệm vụ trung tâm của thời kỳ quá độ ở miền Bắc nước ta,
là công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa. Chủ trương chính của thời kỳ này là: “Xây dựng
một nền kinh tế xã hội chủ nghĩa cân đối và hiện đại, kết hợp công nghiệp với nông
nghiệp và lấy công nghiệp nặng làm nền tảng, ưu tiên phát triển công nghiệp nặng
một cách hợp lý, đồng thời ra sức phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ, nhằm
biến nước ta từ một nước nông nghiệp lạc hậu thành một nước có công nghiệp hiện
đại và nông nghiệp hiện đại". Do đó, trước thời kỳ đổi mới, nước ta có khoảng 25
năm tiến hành công nghiệp hóa, đáng chú ý quá trình này được chia ra làm 02 giai
đoạn: Từ năm 1960 đến năm 1975 tiến hành công nghiệp hóa ở miền Bắc, và từ năm
1975 đến năm 1985, tiến hành công nghiệp hóa trên phạm vi cả nước. Đặc trưng chủ
yếu của thời kỳ này là tiến hành công nghiệp hóa, trên cơ sở phát triển công nghiệp
nặng, kết hợp chặt chẽ giữa phát triển công nghiệp với nông nghiệp; phát triển chủ
yếu dựa vào lợi thế về lao động, tài nguyên đất đai, nguồn viện trợ của các nước xã
hội chủ nghĩa, và Nhà nước cùng doanh nghiệp nhà nước đóng vai trò chủ lực, trong
việc thực hiện công nghiệp hóa đất nước.
6. CNH, HDH ở Việt Nam sau đổi mới *
Những nội dung cơ bản của công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong thời
kỳquá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam a) Thực hiện cuộc cách mạng khoa học –
công nghệ để xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội, phát triển mạnh
mẽ lực lượng sản xuất Nước ta đang định hướng đi lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế
độ tư bản chủ nghĩa, quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa tất yếu phải được tiến
hành bằng cách mạng khoa học và công nghệ. Cố nhiên, trong điều kiện thế giới đã
trải qua hai cuộc cách mạng khoa học và công nghệ và điều kiện cơ cấu kinh tế mở,
cuộc cách mạng khoa học và công nghệ ở nước ta có thể và cần phải bao hàm các
cuộc cách mạng khoa học và công nghệ mà thế giới đã, đang trải qua. Từ bối cảnh
đó, vị trí của cuộc cách mạng này phải được xác định là “then chốt” và khoa học và
công nghệ phải được xác định là một “quốc sách”, một “động lực” cần đem toàn lực
lượng để nắm lấy và phát triển nó. Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ ở nước ta
hiện nay có thể khái quát gồm hai nội dung chủ yếu sau: Một là, xây dựng thành công lOMoAR cPSD| 60776878
cơ sở vật chất – kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội để dựa vào đó mà trang bị công nghệ
hiện đại cho các ngành kinh tế quốc dân. Hai là, tổ chức nghiên cứu, thu thập thông
tin, phổ biến ứng dụng những thành tựu mới của khoa học và công nghệ hiện đại vào
sản xuất, đời sống với những hình thức, bước đi, quy mô thích hợp. Trong quá trình
thực hiện cách mạng khoa học và công nghệ, chúng ta cần chú ý: ứng dụng những
thành tựu mới, tiên tiến về khoa học và công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin,
công nghệ sinh học, phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và từng bước phát triển
nền kinh tế tri thức. Sử dụng công nghệ mới gắn với yêu cầu tạo nhiều việc làm, tốn
ít vốn, quay vòng nhanh, giữ được nghề truyền thống; kết hợp công nghệ cũ, công
nghệ truyền thống với công nghệ hiện đại. Tăng đầu tư ngân sách và huy động các
nguồn lực khác cho khoa học và công nghệ; kết hợp phát triển cả bề rộng lẫn chiều
sâu, xây dựng mới, cải tạo cũ, thực hiện tiết kiệm, hiệu quả. Kết hợp các loại quy mô
lớn, vừa và nhỏ cho thích hợp; ưu tiên quy mô vừa và nhỏ, coi trọng hiệu quả sản xuất
kinh doanh và hiệu quả kinh tế – xã hội. *
Xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý và phân công lại lao động xã hội *
Xâydựng cơ cấu kinh tế hợp lý Cơ cấu kinh tế là tổng thể các bộ phận hợp thành,
cùng với vị trí, tỷ trọng và quan hệ tương tác phù hợp giữa các bộ phận trong hệ thống
kinh tế quốc dân. Cơ cấu kinh tế được xem xét dưới góc độ: cơ cấu ngành (như công
nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ…); cơ cấu vùng (các vùng kinh tế theo lãnh thổ) và cơ
cấu thành phần kinh tế. Trong cơ cấu kinh tế thì cơ cấu ngành là bộ phận có tầm quan
trọng đặc biệt, là bộ xương của cơ cấu kinh tế. Xây dựng cơ cấu kinh tế là yêu cầu
cần thiết khách quan của mỗi nước trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Vấn
đề quan trọng là tạo ra một cơ cấu kinh tế tối ưu (hợp lý). Xây dựng một cơ cấu kinh
tế được gọi là tối ưu khi nó đáp ứng được các yêu cầu sau: Phản ánh được và đúng
các quy luật khách quan, nhất là các quy luật kinh tế và xu hướng vận động phát triển
kinh tế – xã hội của đất nước. Nông nghiệp phải giảm dần về tỷ trọng, công nghiệp
và dịch vụ phải tăng dần về tỷ trọng. Phù hợp với xu hướng tiến bộ của khoa học và
công nghệ đã và đang diễn ra như vũ bão trên thế giới. Cho phép khai thác tối đa mọi
tiềm năng của đất nước, của các ngành, các địa phương, các thành phần kinh tế. Thực
hiện tốt sự phân công và hợp tác quốc tế theo xu hướng toàn cầu hoá kinh tế, do vậy,
cơ cấu kinh tế được tạo dựng phải là “cơ cấu mở”. Xây dựng cơ cấu kinh tế là một
quá trình, trải qua những chặng đường nhất định, do vậy xây dựng cơ cấu kinh tế của
chặng đường trước phải sao cho tạo được “đà” cho chặng đường sau và phải được bổ
sung và hoàn thiện dần trong quá trình phát triển. ở nước ta hiện nay, Đảng ta đã xác
định cần tập trung xây dựng một cơ cấu kinh tế hợp lý, mà “bộ xương” của nó là “cơ
cấu kinh tế công – nông nghiệp – dịch vụ gắn với phân công và hợp tác quốc tế sâu
rộng”1, và khi hình thành cơ cấu kinh tế đó, sẽ cho phép nước ta kết thúc thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội. Cơ cấu nói trên ở nước ta trong thời kỳ quá độ được thực
hiện theo phương châm là:
Kết hợp công nghệ với nhiều trình độ, tranh thủ công nghệ mũi nhọn, tiên tiến
vừa tận dụng được nguồn lao động dồi dào, vừa cho phép rút ngắn khoảng cách lạc
hậu, vừa phù hợp với nguồn vốn có hạn ở nước ta; lấy quy mô vừa và nhỏ là chủ yếu,
có tính đến quy mô lớn nhưng phải là quy mô hợp lý và có điều kiện; giữ được nhịp lOMoAR cPSD| 60776878
độ (tốc độ) phát triển hợp lý, tạo ra sự cân đối giữa các ngành, các lĩnh vực kinh tế và
các vùng trong nền kinh tế… *
Tiến hành phân công lại lao động xã hội Từ sản xuất nhỏ lên sản xuất
lớnxã hội chủ nghĩa bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa trong quá trình công
nghiệp hoá tất yếu phải phân công lại lao động xã hội. Phân công lao động xã hội là
sự chuyên môn hóa lao động, tức là chuyên môn hóa sản xuất giữa các ngành, trong
nội bộ từng ngành và giữa các vùng trong nền kinh tế quốc dân. Phân công lao động
xã hội có tác dụng rất to lớn. Nó là đòn bẩy của sự phát triển công nghệ và năng suất
lao động; cùng với cách mạng khoa học và công nghệ, nó góp phần hình thành và
phát triển cơ cấu kinh tế hợp lý. Trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, sự
phân công lại lao động xã hội phải tuân thủ các quá trình có tính quy luật sau: Tỷ
trọng và số tuyệt đối lao động nông nghiệp giảm dần, tỷ trọng và sốtuyệt đối lao động
công nghiệp ngày một tăng lên. Tỷ trọng lao động trí tuệ ngày một tăng và chiếm ưu
thế so với lao động giản đơn trong tổng lao động xã hội. Tốc độ tăng lao động trong
các ngành sản xuất phi vật chất (dịch vụ) tăng nhanh hơn tốc độ tăng lao động trong
các ngành sản xuất vật chất. ở nước ta, phương hướng phân công lại lao động xã hội
hiện nay cần triển khai trên cả hai địa bàn: tại chỗ và nơi khác để phát triển về chiều
rộng kết hợp phát triển theo chiều sâu. 2. Những nội dung cụ thể của công nghiệp
hoá, hiện đại hoá ở nước ta trong những năm trước mắt a) Đẩy mạnh công nghiệp
hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn, giải quyết đồng bộ các vấn đề nông
nghiệp, nông thôn và nông dân.
Chuyển dịch mạnh cơ cấu nông nghiệp và kinh tế nông thôn theo hướng tạo ra
giá trị gia tăng ngày càng cao, gắn với công nghiệp chế biến và thị trường; thực hiện
cơ khí hoá, điện khí hoá, thuỷ lợi hoá, đưa nhanh tiến bộ khoa học – kỹ thuật và công
nghệ sinh học vào sản xuất; nâng cao năng suất, chất lượng và sức cạnh tranh phù hợp
với từng vùng, từng địa phương; phát triển các khu nông nghiệp công nghệ cao, vùng
trồng trọt và chăn nuôi tập trung, doanh nghiệp công nghiệp và dịch vụ gắn với hình
thành các ngành nghề, làng nghề, hợp tác xã, trang trại, tạo ra những sản phẩm có thị
trường và hiệu quả kinh tế cao. Thực hiện chương trình xây dựng nông thôn mới. b)
Phát triển nhanh hơn công nghiệp, xây dựng và dịch vụ Khuyến khích phát triển công
nghiệp công nghệ cao, công nghiệp chế tác, công nghiệp phần mềm và công nghiệp
hỗ trợ có lợi thế cạnh tranh, tạo nhiều sản phẩm xuất khẩu và thu hút nhiều lao động;
phát triển một số khu kinh tế mở và đặc khu kinh tế. Phát triển mạnh mẽ các ngành
công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu, sản xuất tư liệu sản xuất quan
trọng theo hướng hiện đại. Xây dựng đồng bộ kết cấu hạ tầng kinh tế – xã hội. Tạo
bước phát triển vượt bậc của các ngành dịch vụ, nhất là những ngành có chất lượng
cao, tiềm năng lớn và có sức cạnh tranh, đưa tốc độ tăng trưởng của ngành dịch vụ
cao hơn tốc độ tăng trưởng GDP. *
Phát triển kinh tế vùng Phát triển các vùng trong cả nước và tạo sự liên
kết giữa các vùng và nội vùng; thúc đẩy phát triển các vùng kinh tế trọng điểm, tạo
động lực, tác động lan toả đến các vùng khác; đồng thời tạo điều kiện phát triển nhanh
hơn cho các vùng kinh tế đang còn nhiều khó khăn. d) Phát triển kinh tế biển Xây
dựng và thực hiện chiến lược phát triển kinh tế biển toàn diện, có trọng tâm, trọng lOMoAR cPSD| 60776878
điểm; sớm đưa nước ta trở thành quốc gia mạnh về kinh tế biển trong khu vực, gắn
với bảo đảm quốc phòng, an ninh và hợp tác quốc tế. 7. Tính tất yếu
Mỗi phương thức sản xuất xã hội nhất định có một cơ sở vật chất – kỹ thuật
tương ứng. Cơ sở vật chất – kỹ thuật của một xã hội là toàn bộ hệ thống các yếu tố
vật chất của lực lượng sản xuất xã hội, phù hợp với trình độ kỹ thuật (công nghệ)
tương ứng mà lực lượng lao động xã hội sử dụng để sản xuất ra của cải vật chất đáp ứng nhu cầu xã hội. -
Chỗ dựa để xem xét sự biến đổi của cơ sở vật chất – kỹ thuật của một xã
hộilà sự biến đổi và phát triển của lực lượng sản xuất; sự phát triển khoa học – kỹ
thuật; tính chất và trình độ của các quan hệ xã hội; đặc biệt là quan hệ sản xuất thống trị.
Nói cơ sở vật chất – kỹ thuật của một phương thức sản xuất nào đó là nói cơ sở vật
chất – kỹ thuật đó đã đạt đến một trình độ nhất định làm đặc trưng cho phương thức sản xuất đó. -
Đặc trưng của cơ sở vật chất – kỹ thuật của các phương thức sản xuất
trướcchủ nghĩa tư bản là dựa vào công cụ thủ công, nhỏ bé, lạc hậu. Đặc trưng của cơ
sở vật chất – kỹ thuật của chủ nghĩa tư bản là nền đại công nghiệp cơ khí hóa. -
Chủ nghĩa xã hội – giai đoạn thấp của phương thức sản xuất mới cao
hơnchủ nghĩa tư bản – đòi hỏi một cơ sở vật chất – kỹ thuật cao hơn trên cả hai mặt:
trình độ kỹ thuật và cơ cấu sản xuất, gắn với thành tựu của cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại.
Do vậy, có thể hiểu, cơ sở vật chất – kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội là nền công
nghiệp lớn hiện đại, có cơ cấu kinh tế hợp lý, có trình độ xã hội hóa cao dựa trên trình
độ khoa học và công nghệ hiện đại được hình thành một cách có kế hoạch và thống
trị trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
Từ chủ nghĩa tư bản hay từ trước chủ nghĩa tư bản quá độ lên chủ nghĩa xã hội, xây
dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội là một tất yếu khách quan, một
quy luật kinh tế mang tính phổ biến và được thực hiện thông qua công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Đối với các nước quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội, dù đã có
công nghiệp, có cơ sở vật chất – kỹ thuật của chủ nghĩa tư bản tiến bộ đến đâu cũng
chỉ là những tiền đề vật chất chứ chưa phải là cơ sở vật chất – kỹ thuật của chủ nghĩa
xã hội. Muốn có cơ sở vật chất – kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, các nước này phải
thực hiện quy luật nói trên bằng cách tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa về quan
hệ sản xuất; tiếp thu vận dụng và phát triển cao hơn những thành tựu khoa học và
công nghệ vào sản xuất; hình thành cơ cấu kinh tế mới xã hội chủ nghĩa có trình độ
cao và tổ chức, sắp xếp lại nền đại công nghiệp tư bản chủ nghĩa một cách hợp lý, hiệu quả hơn.
Đối với các nước có nền kinh tế kém phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội như
nước ta, xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội phải thực hiện từ
đầu, từ không đến có, từ gốc đến ngọn thông qua công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Mỗi lOMoAR cPSD| 60776878
bước tiến của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa là một bước tăng cường cơ sở
vật chất – kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội, phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất và
góp phần hoàn thiện quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa.
8. Mục tiêu và phương hướng
Mục tiêu và phương hướng công nghiệp hóa
Đường lối công nghiệp hóa đất nước đã được hình thành từ Đại hội III của
Đảng (tháng 9-1960). Trước thời kỳ đổi mới, nước ta đã có khoảng 25 năm tiến hành
công nghiệp hóa qua hai giai đoạn: từ năm 1960 đến năm 1975 triển khai ở miền Bắc
và từ năm 1975 đến năm 1985 thực hiện trên phạm vi cả nước.
Đường lối công nghiệp hóa đất nước đã được hình thành từ Đại hội III của
Đảng (tháng 9-1960). Trước thời kỳ đổi mới, nước ta đã có khoảng 25 năm tiến hành
công nghiệp hóa qua hai giai đoạn: từ năm 1960 đến năm 1975 triển khai ở miền Bắc
và từ năm 1975 đến năm 1985 thực hiện trên phạm vi cả nước.
Ở miền Bắc: Trên cơ sở phân tích một cách sâu sắc đặc điểm kinh tế miền Bắc,
trong đó đặc điểm lớn nhất là từ một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên
chủ nghĩa xã hội không trải qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa, Đại hội III của
Đảng khẳng định: muốn cải biến tình trạng kinh tế lạc hậu của nước ta, không có con
đường nào khác, ngoài con đường công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa. Tức là khẳng
định tính tất yếu của công nghiệp hóa đối với công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Ngay từ đầu quá trình công nghiệp hóa, Đảng ta đã xác định công nghiệp hóa
xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ trung tâm trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
ở nước ta. Quan điểm đúng đắn này được khẳng định nhiều làn trong tất cả các Đại hội của Đảng.
Mục tiêu cơ bản của công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa được Đại hội III của
Đảng xác định là xây dựng một nền kinh tế xã hội chủ nghĩa cân đối và hiện đại; bước
đầu xây dựng cơ sở vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội. Đó là mục tiêu cơ bản,
lâu dài, phải thực hiện qua nhiều giai đoạn.
Để chỉ đạo thực hiện công nghiệp hóa, Hội nghị Trung ương lần thứ bảy khóa
III nêu phương hướng chỉ đạo xây dựng và phát triển công nghiệp là:
- Ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý;
- Kết hợp chặt chẽ phát triển công nghiệp với phát triển nông nghiệp;
- Ra sức phát triển công nghiệp nhẹ song song với việc ưu tiên phát triển côngnghiệp nặng;
- Ra sức phát triển công nghiệp trung ương, đồng thời đẩy mạnh phát
triểncông nghiệp địa phương,
Trên phạm vi cả nước: Sau Đại thắng Mùa Xuân năm 1975, cả nước độc lập,
thống nhất và quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Trên cơ sở phân tích một cách toàn diện
đặc điểm, tình hình trong nước và quốc tế, Đại hội IV của Đảng (tháng-1976) đề ra
đường lối công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa là: "Đẩy mạnh công nghiệp hóa xã hội
chủ nghĩa, xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, đưa nền kinh tế
nước ta từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa. Ưu tiên phát triển công lOMoAR cPSD| 60776878
nghiệp nặng một cách hợp lý trên cơ sở phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ,
kêt hợp xây dựng công, nghiệp và nông nghiệp cả nước thành một cơ cấu kinh tế
công - nông nghiệp; vừa xây dựng kinh tế trung ương vừa phát triển kinh tế địa
phương, kết hợp kinh tế trung ương với kinh tế địa phương trong một cơ cấu kinh tế
quốc dân thống nhất". Đường lối này nhất trí với những nhận thức cơ bản về công
nghiệp hóa ở miền Bắc trước đây, đồng thời có sự phát triển thêm. Từ thực tiễn chỉ
đạo công nghiệp hóa 5 năm (1976-1981), Đảng ta rút ra kết luận; từ một nền sản
xuất nhỏ đi lên, điều quan trọng là phải xác định đúng bước đi của công nghiệp hóa
cho phù hợp với mục tiêu và khả năng của mỗi chặng đường. Với cách đặt vấn đề
như trên, Đại hội lần thứ V của Đảng (tháng 3-1982) đã xác định trong chặng đường
đầu tiên của thời kỳ quá độ ở nước ta phải lấy nông nghiệp làm mặt trận hàng đầu,
ra sức phát triển công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng; việc xây dựng và phát triển
công nghiệp nặng trong giai đoạn này cần làm có mức độ, vừa sức, nhằm phục vụ
thiết thực, có hiệu quả cho nông nghiệp và công nghiệp nhẹ. Đại hội V coi đó là nội
dung chính của công nghiệp hóa trong chặng đường trước mắt. Đây là sự điều chỉnh
rất đúng đắn mục tiêu và bước đi của công nghiệp hóa, phù hợp với thực tiễn Việt
Nam. Tiếc rằng, trên thực tế chúng ta đã không làm đúng sự điều chỉnh chiến lược
quan trọng này, gây hậu quả nghiêm trọng.
9. Thành tựu của quá trình CNH, HDH
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng (1960) đã xác định: “Công
nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ trung tâm của thời kỳ quá độ ở nước ta”.
Trong 20 năm đầu, công nghiệp hóa nước ta diễn ra trong điều kiện có chiến tranh.
Những năm sau, công nghiệp hóa diễn ra trong điều kiện vừa khủng hoảng kinh tế xã
hội, vừa tìm tòi đổi mới nền kinh tế.
Công nghiệp hóa trước đổi mới diễn ra theo mô hình của Liên Xô, chỉ đến khi
khởi đầu là đổi mới tư duy kinh tế và nhất là từ Đại hội VIII (1996), công cuộc công
nghiệp hóa, hiện đại hóa của nước ta mới được xác định một cách đầy đủ. Trong 35
năm đổi mới, đặc biệt sau 10 năm thực hiện Cương lĩnh 2011, nhận thức của Đảng
trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đã có những bước phát triển mới về cả
nội dung và phương thức thực hiện.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội (bổ
sung, phát triển năm 2011) đã xác định: “Coi trọng phát triển các ngành công nghiệp
nặng, công nghiệp chế tạo có tính nền tảng và các ngành công nghiệp có lợi thế”. Đại
hội Đảng XI (năm 2011) đã bổ sung thêm Cơ cấu lại nền công nghiệp theo hướng
phát triển nhanh, hiệu quả, bền vững, nâng cao tính độc lập, tự chủ của nền kinh tế,
từng bước có khả năng tham gia sâu, có hiệu quả vào mạng sản xuất và phân phối
toàn cầu; Ưu tiên phát triển công nghiệp phục vụ nông nghiệp và nông thôn; Phát
triển hợp lý công nghiệp sử dụng nhiều lao động, góp phần chuyển dịch nhanh cơ cấu lao động”.
Sau 35 năm đổi mới, Việt Nam đã đạt được những thành tựu quan trọng trong
công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, đưa nước ta từ một trong những
quốc gia nghèo nhất thế giới trở thành quốc gia có thu nhập trung bình thấp và ngày
càng hội nhập sâu rộng với khu vực và thế giới; đời sống của người dân ngày càng
được cải thiện, vị thế và uy tín của đất nước ta trên trường quốc tế ngày càng được lOMoAR cPSD| 60776878
nâng cao. Đóng góp vào những thành quả to lớn này của phát triển đất nước có vai
trò hết sức quan trọng của ngành Công Thương với việc Việt Nam đã và đang dần
khẳng định được vị thế là một trong những trung tâm sản xuất công nghiệp của khu vực và của thế giới.
Việt Nam đã vươn lên trở thành một trong những quốc gia có nền công nghiệp
có năng lực cạnh tranh toàn cầu (CIP) ở mức khá cao, thuộc vào nhóm các quốc gia
có năng lực cạnh tranh công nghiệp trung bình cao với vị trí thứ 44 trên thế giới vào
năm 2018 theo đánh giá của UNIDO. Theo đó, trong giai đoạn 1990-2018 đã tăng 50
bậc và giai đoạn 2010-2018 tăng 23 bậc, tăng nhanh nhất trong các nước thuộc khu
vực ASEAN và đã tiệm cận vị trí thứ 5 của Philipphin (chỉ thua 0.001 điểm), tiến gần
hơn với nhóm 4 nước có năng lực cạnh tranh mạnh nhất trong khối.
Công nghiệp là ngành có tốc độ tăng trưởng cao nhất trong các ngành kinh tế
quốc dân với đóng góp xấp xỉ 30% GDP và trở thành ngành xuất khẩu chủ lực của
đất nước, góp phần đưa Việt Nam lên vị trí thứ 22 quốc gia xuất khẩu lớn nhất thế
giới vào năm 2018. Một số ngành công nghiệp ưu tiên, công nghiệp mũi nhọn theo
định hướng chiến lược của ta đã trở thành các ngành công nghiệp lớn nhất đất nước,
qua đó đưa nước ta cơ bản đã hội nhập thành công vào chuỗi giá trị toàn cầu với sự
dẫn dắt của một số doanh nghiệp công nghiệp lớn như điện tử, dệt may, da giày…
Trong tổng số 32 mặt hàng xuất khẩu có kim ngạch trên 1 tỷ USD vào năm
2019 hàng công nghiệp chiếm 29/32 mặt hàng và 5/5 mặt hàng có kim ngạch xuất
khẩu trên 10 tỷ USD (điện tử, dệt may, da giày, đồ gỗ, máy móc, thiết bị). Một số
ngành công nghiệp hiện có vị trí vững chắc trên thị trường thế giới hiện nay như dệt
may (đứng thứ 7 về xuất khẩu), da giày (thứ 3 về sản xuất và thứ 2 về xuất khẩu), điện
tử (đứng thứ 12 về xuất khẩu, trong đó mặt hàng điện thoại di động đứng thứ 2 về
xuất khẩu), đồ gỗ (đứng thứ 5 về xuất khẩu).
Theo xếp hạng doanh nghiệp lớn nhất Việt Nam năm 2019, trong số 10 doanh
nghiệp lớn nhất thì có tới 8/10 doanh nghiệp trong lĩnh vực công nghiệp, trong đó
7/10 doanh nghiệp nội địa ; chiếm 5/10 doanh nghiệp tư nhân lớn nhất cả nước . Các
doanh nghiệp công nghiệp lớn của Việt Nam chủ yếu tập trung vào lĩnh vực dầu khí,
điện, khoáng sản, ô tô, thép, sữa và thực phẩm.
Bên cạnh đó, quá trình tái cơ cấu ngành công nghiệp gắn với đổi mới mô hình
tăng trưởng, nâng cao năng suất lao động đã đi vào thực chất hơn, ngày càng hướng
vào lõi công nghiệp hóa. Theo đó, công nghiệp tiếp tục duy trì là ngành có năng suất
lao động cao nhất trong các ngành kinh tế quốc dân với tỷ trọng trong GDP tăng từ
26,63% năm 2011 lên 27,81% năm 2015 và 28,55% năm 2019.
Cơ cấu nội ngành công nghiệp đã chuyển dịch theo hướng giảm dần tỷ trọng
công nghiệp khai khoáng (từ 36,47% năm 2011 xuống còn 25,61% năm 2019) và tăng
tỷ trọng công nghiệp chế biến chế tạo (từ 49,82% năm 2011 lên 54,57% năm 2019)
và trở thành động lực tăng trưởng chính của ngành công nghiệp (ước VA tăng 10,99%
giai đoạn 2011-2020 và 12,64% giai đoạn 2016-2020).
Cơ cấu công nghệ trong ngành công nghiệp đã có nhiều thay đổi theo hướng
tiếp cận công nghệ tiên tiến, hiện đại hơn với sự dịch chuyển mạnh từ các ngành thâm lOMoAR cPSD| 60776878
dụng lao động như dệt may, da giày sang các ngành công nghiệp công nghệ cao như
máy vi tính, sản phẩm điện tử, điện thoại.
Đầu tư cho phát triển công nghiệp ngày càng được mở rộng, trong đó, đầu tư
FDI trở thành động lực chính của phát triển công nghiệp và chuyển dịch cơ cấu phát
triển các ngành công nghiệp nước ta theo hướng hiện đại (chiếm tỷ trọng xấp xỉ 70%
tổng vốn đầu tư FDI vào các ngành kinh tế, trong đó, đầu tư vào công nghiệp chế
biến, chế tạo chiếm tỷ trọng lớn nhất với xấp xỉ 60%).
Đầu tư FDI có vai trò to lớn trong việc hình thành một số ngành công nghiệp
chủ lực của nền kinh tế như viễn thông; khai thác, chế biến dầu khí; điện tử, công
nghệ thông tin, thép, xi măng, dệt may, da giày... tạo nền tảng quan trọng cho tăng
trưởng dài hạn, cũng như thúc đẩy quá trình hiện đại hóa, công nghiệp hóa đất nước.
Chẳng hạn, các dự án đầu tư quan trọng của một số công ty đa quốc gia hàng đầu bao
gồm Tập đoàn Samsung, Tập đoàn Intel, LG… đã chọn Việt Nam làm nơi sản xuất
các sản phẩm điện tử như điện thoại di động và máy tính bảng để xuất khẩu trên toàn
thế giới đã đưa ngành điện tử Việt Nam với xuất phát điểm gần như bằng 0 vào những
năm trước 2010 lên thành ngành xuất khẩu lớn nhất của đất nước trong giai đoạn hiện
nay (đứng thứ 2 thế giới về xuất khẩu điện thoại di động). Trong vài năm trở lại đây,
dòng vốn FDI đang dịch chuyển sang các ngành, nghề có giá trị gia tăng cao hơn trong
các ngành, lĩnh vực ưu tiên là công nghệ cao, công nghệ thông tin và truyền thông
(ICT), chế tạo, chế biến, công nghiệp hỗ trợ và nông nghiệp... và giảm dần trong một
số ngành thâm dụng lao động.
Để tiếp tục đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, với
mục tiêu đến năm 2030 Việt Nam cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện
đại, thuộc nhóm 3 nước dẫn đầu khu vực ASEAN về công nghiệp, trong đó một số
ngành công nghiệp có sức cạnh tranh quốc tế và tham gia sâu vào chuỗi giá trị toàn
cầu; tầm nhìn đến năm 2045, Việt Nam trở thành nước công nghiệp phát triển hiện
đại, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 23-NQ/TW ngày 22/3/2018 về định
hướng xây dựng chính sách phát triển công nghiệp quốc gia đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.
Trong đó, quan điểm chỉ đạo xuyên suốt của Đảng đối với chính sách công
nghiệp quốc gia là phải gắn liền với chính sách phát triển các ngành kinh tế khác, đặc
biệt là chính sách thương mại quốc gia, tài chính - tiền tệ, khoa học, công nghệ, đào
tạo, bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu. Bảo đảm gắn kết chặt chẽ
giữa quy hoạch phát triển các ngành công nghiệp với chiến lược tổng thể phát triển
công nghiệp, giữa chiến lược, quy hoạch phát triển các ngành công nghiệp với chiến
lược, quy hoạch phát triển các ngành kinh tế khác để hình thành các vùng công nghiệp,
cụm liên kết ngành công nghiệp, khu công nghiệp, các mạng sản xuất, chuỗi giá trị
công nghiệp, trong đó cụm liên kết ngành công nghiệp là trọng tâm. Kết hợp hài hoà
giữa phát triển công nghiệp theo cả chiều rộng và chiều sâu, chú trọng phát triển theo
chiều sâu, tạo bước đột phá trong nâng cao năng suất, chất lượng, sức cạnh tranh của
sản phẩm công nghiệp. Tận dụng tối đa lợi thế của nước đang trong thời kỳ cơ cấu
dân số vàng, khai thác triệt để thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ 4,
lợi thế thương mại để phát triển nhanh, chuyên sâu một số ngành công nghiệp nền lOMoAR cPSD| 60776878
tảng, chiến lược, có lợi thế cạnh tranh. Phát triển công nghiệp công nghệ thông tin,
công nghiệp điện tử là con đường chủ đạo; phát triển công nghiệp chế biến, chế tạo là
trung tâm; phát triển công nghiệp chế tạo thông minh là bước đột phá; chú trọng phát triển công nghiệp xanh.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước, trong thời gian tới ngành Công
Thương sẽ tiếp tục tích cực triển khai thực hiện, cụ thể hóa các đường lối, chủ trương,
quan điểm của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước về công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước, tạo môi trường pháp lý bình đẳng và minh bạch cho các doanh
nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế cạnh tranh, phát triển, khơi thông các nguồn lực
trong nước và thu hút đầu tư nước ngoài, quyết tâm sớm đưa nước ta trở thành nước
công nghiệp theo hướng hiện đại. 10. Khó khăn
Một số khó khăn và thách thức đặt ra với quá trình công nghiệp hóa ở nước ta hiện nay
Đẩy mạnh phát triển một số ngành, lĩnh vực kinh tế trọng điểm, có tiềm năng,
lợi thế và còn dư địa lớn để làm động lực cho tăng trưởng theo tinh thần bắt kịp, tiến
cùng và vượt lên ở một số lĩnh vực so với khu vực, thế giới. Tuy vậy, ở Việt Nam, quá
trình công nghiệp hóa cũng gặp một số khó khăn, thách thức.
Các quốc gia công nghiệp phát triển và các quốc gia công nghiệp hóa mới đều
thành công trên con đường công nghiệp hóa nhờ biết xác định kịp thời mô hình công
nghiệp hóa phù hợp với bối cảnh thế giới và điều kiện cụ thể của đất nước. Chỉ tính
từ giữa thế kỷ XX đến nay, đã có 2 mô hình công nghiệp hóa rất thành công. Mô hình
thay thế nhập khẩu đã biến các quốc gia Braxin, Mêhicô, Áchentina và Chilê thành
các “con hổ” Mỹ La tinh. Sau đó, mô hình hướng xuất khẩu đã đem lại sự phát triển
thần kỳ cho các “con hổ” Đông Á: Xinhgapo, Hàn Quốc, Hồng Công, Đài Loan. Đến
đầu thập kỷ 90 của thế kỷ XX, Việt Nam đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
theo phương châm hướng xuất khẩu, đồng thời thay thế nhập khẩu ở những lĩnh vực, mặt hàng có lợi thế.
Quá trình này đã góp phần đem lại cho đất nước những thành tựu to lớn, có ý
nghĩa lịch sử; tuy nhiên, như Đại hội XIII kiểm điểm: “công nghiệp hóa, hiện đại hóa
chưa đạt được mục tiêu đề ra”.
Với tính cách thị trường thương mại, thế giới ngày nay đã bị các hiệp định
thương mại tự do, nhất là các hiệp định thế hệ mới biến thành một thị trường liên
hoàn, thống nhất. Ở đó, đã và sẽ nhanh chóng mất đi sự phân biệt giữa thị trường quốc
nội và thị trường quốc tế. Trong bối cảnh mới như vậy, các mô hình công nghiệp hóa
nêu trên hiển nhiên là không còn chỗ đứng. Việt Nam cũng như các quốc gia khác, rất
cần xác định mới mô hình công nghiệp hóa, vừa thích ứng với chuỗi giá trị toàn cầu,
cách mạng công nghiệp lần thứ tư…, vừa phù hợp với điều kiện, mục tiêu, yêu cầu
của nước nhà. Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021-2030 được thông
qua tại Đại hội XIII nêu rõ mô hình công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong thời kỳ mới:
“Tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa dựa trên nền tảng của khoa học,
công nghệ, đổi mới sáng tạo và những thành tựu công nghệ của cách mạng công
nghiệp lần thứ tư. Đẩy mạnh phát triển một số ngành, lĩnh vực kinh tế trọng điểm, có