



















Preview text:
  lOMoAR cPSD| 60776878
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KỸ THUẬT - CÔNG NGHỆ CẦN THƠ 
KHOA KHOA HỌC XÃ HỘI  -----   
BÁO CÁO CHUYÊN ĐỀ 
HỌC PHẦN KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁC - LÊNIN 
HỌC KỲ II, NĂM HỌC 2024 – 2025  ĐỀ TÀI: 
LÝ LUẬN CỦA C. MÁC VỀ GIÁ TRỊ THẶNG DƯ 
GIẢNG VIÊN GIẢNG DẠY:  
Họ tên: ThS. NGUYỄN HOÀNG VIỆN 
 ThS. NGUYỄN THỊ THÚY VÂN 
Cần Thơ,tháng 4 năm 2025    lOMoAR cPSD| 60776878
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KỸ THUẬT - CÔNG NGHỆ CẦN THƠ KHOA  KHOA HỌC XÃ HỘI 
BÁO CÁO CHUYÊN ĐỀ 
HỌC PHẦN KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁC - LÊNIN 
HỌC KỲ II, NĂM HỌC 2024 - 2025  ĐỀ TÀI: 
LÝ LUẬN CỦA C. MÁC VỀ GIÁ TRỊ THẶNG DƯ 
SINH VIÊN THỰC HIỆN (Nhóm ):  1.Nguyễn Đăng Khoa  MSSV: KTPM2411080  2. Nguyễn Thành Lộc  MSSV: KTPM2411030  3. Nguyễn Tâm Duy Anh  MSSV: KTPM2411071  4. Nguyễn Phương Triều  MSSV: KTPM2411043  5. Cao Hoài Khánh  MSSV: KTPM2411060  6. Nguyễn Đức Kha  MSSV: KTPM2411010  7. Cao Nhựt Duy  MSSV: KTPM2411051  8. Nguyễn Phúc Duy  MSSV: KTPM2411014  9. Nguyễn Lê Hoàng Phúc  MSSV: KTPM2411002  10. Trần Minh Quân  MSSV: KTPM2411016 
Cần Thơ,tháng 4 năm 2025              lOMoAR cPSD| 60776878
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KỸ THUẬT - CÔNG NGHỆ CẦN THƠ 
KHOA KHOA HỌC XÃ HỘI  -----    
 Cần Thơ, ngày … tháng 4 năm 2025  NHẬN XÉT   ĐIỂM 
NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN                            GIẢNG VIÊN II   GIẢNG VIÊN I 
 ThS Nguyễn Thị Thúy Vân 
 ThS Nguyễn Hoàng Viện    lOMoAR cPSD| 60776878 Mục lục 
A. PHẦN MỞ ĐẦU............................................................................................................3 
B. PHẦN NỘI DUNG.........................................................................................................3 
I. NGUỒN GỐC CỦA GIÁ TRỊ THẶNG DƯ................................................................3 
I.1. Công thức chung của tư bản...................................................................................3 
I.2. Hàng hóa sức lao động...........................................................................................5 
I.2.1. Hai điều kiện để sức lao động trở thành hàng hóa..............................................6 
I.2.2. Thuộc tính của sức lao động................................................................................7 
I.3. Sự sản xuất giá trị thặng dư....................................................................................7 
I.4. Tư bản bất biến và tư bản khả biến........................................................................9 
I.5. Tiền công..............................................................................................................11 
I.6. Tuần hoàn và chu chuyển của tư bản...................................................................12 
II. Bản chất của giá trị thặng dư.....................................................................................14 
II.1. Hiện tượng “vô hình hóa” giá trị thặng dư trong nền kinh tế số.........................15 
II.1.1. Sự phân tách giữa lao động và sản phẩm lao động......................................15 
II.1.2. Cơ chế chiếm đoạt giá trị thặng dư thông qua nền tảng công nghệ.............15 
II.2. Giá trị thặng dư và vấn đề bất bình đẳng đa chiều..............................................16 
II.2.1. Sự phân hóa xã hội trong kỷ nguyên số.......................................................16 
II.2.2. Phân tích hệ lụy xã hội từ tích lũy tư bản phi sản xuất................................17 
III. Các phương pháp sản xuất giá trị thặng dư..............................................................18 
III.1. Sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối và tương đối................................................18 
III.2. Tỷ suất và khối lượng giá trị thặng dư...............................................................19 
IV. Ý nghĩa và sự vận dụng học thuyết giá trị thặng dư.................................................21 
IV.1. Thực tiễn vấn đề “Sản xuất giá trị thặng dư” ở Việt Nam................................21 
IV.1.1. Vai trò của các khu công nghiệp và lao động phổ thông............................21 
IV.1.2. Nền kinh tế gia công và sự phụ thuộc........................................................22 
IV.1.3. Thách thức về quyền lợi lao động..............................................................22 
IV.1.4. Chính sách hỗ trợ và tái cơ cấu kinh tế......................................................22 
IV.2. Đối với đời sống, thực tiễn cách mạng..............................................................23 
IV.2.1. Tác động đối với đời sống xã hội...............................................................23 
IV.2.2. Ý nghĩa trong thực tiễn cách mạng.............................................................23 
IV.3. Đối với khoa học, kinh tế, chính trị...................................................................24 
IV.4. Trong công cuộc xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa 
................................................................................................................................................24 
C. KẾT LUẬN...................................................................................................................24      lOMoAR cPSD| 60776878
D. TÀI LIỆU THAM KHẢO...........................................................................................24        lOMoAR cPSD| 60776878 A. PHẦN MỞ ĐẦU 
Lý luận về giá trị thặng dư của C. Mác là một trong những cống hiến vĩ đại 
của ông đối với khoa học kinh tế chính trị, đặt nền móng cho sự phê phán chủ nghĩa 
tư bản, vạch rõ cơ chế bóc lột trong chủ nghĩa tư bản thông qua việc nhà tư bản chiếm 
đoạt phần giá trị do công nhân tạo ra vượt quá sức lao động của họ. Không chỉ có ý 
nghĩa lý luận sâu sắc, học thuyết này còn là công cụ quan trọng để phân tích các mâu 
thuẫn kinh tế - xã hội trong thời đại ngày nay, đặc biệt ở các nước đang phát triển 
như Việt Nam – nơi quá trình công nghiệp hóa và hội nhập kinh tế toàn cầu đặt ra 
nhiều vấn đề về công bằng xã hội và phân phối giá trị thặng dư. 
Trong bối cảnh hiện đại, những hình thức bốc lột đã biến đổi thành các mô 
hình tinh vi hơn như bóc lột dữ liệu, nền kinh tế Gig hay sự phụ thuộc vào chuỗi 
cung ứng toàn cầu. Điều này càng khẳng định tính thời sự của học thuyết khi các 
nước đang phát triển như Việt Nam thường đóng vai trò là "công xưởng gia công" 
với giá trị thặng dư chủ yếu chảy về các tập đoàn đa quốc gia. 
Việc nghiên cứu và vận dụng lý luận giá trị thặng dư của C. Mác vào thực tiễn 
Việt Nam không chỉ giúp nhận diện những mặt trái của kinh tế thị trường mà còn gợi 
mở các giải pháp nhằm đảm bảo lợi ích chính đáng của người lao động, hướng tới 
một nền kinh tế phát triển bền vững và công bằng hơn. Đặc biệt, khi Việt Nam đang 
xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, việc phân tích giá trị 
thặng dư giúp hoạch định chính sách phân phối hợp lý, cân bằng giữa tích lũy tư bản 
và phúc lợi xã hội, đồng thời đề ra các biện pháp bảo vệ người lao động trước những 
hình thức bóc lột mới trong kỷ nguyên số.  B. PHẦN NỘI DUNG 
I. NGUỒN GỐC CỦA GIÁ TRỊ THẶNG DƯ 
I.1. Công thức chung của tư bản 
Công thức chung của tư bản được C. Mác xây dựng dựa trên việc phân tích 
quá trình lưu thông và sản xuất trong nền kinh tế tư bản chủ nghĩa. Trong xã hội tư      lOMoAR cPSD| 60776878
bản, mục tiêu của nhà tư bản không phải là sản xuất để tiêu dùng, mà là để gia tăng 
giá trị, tức là tạo ra lợi nhuận. C. Mác đã quan sát rằng trong nền kinh tế tư bản, tiền 
không chỉ được sử dụng để trao đổi hàng hóa nhằm thỏa mãn nhu cầu trực tiếp (như 
trong nền kinh tế hàng hóa giản đơn), mà được sử dụng như một công cụ để sinh ra 
nhiều tiền hơn. Từ đó, ông rút ra công thức chung của tư bản. 
* Khái niệm và ý nghĩa của công thức chung của tư bản. 
Công thức chung của tư bản, theo C. Mác, được biểu diễn là T – H – T’, trong  đó: 
 T (Tiền): Là số tiền ban đầu mà nhà tư bản bỏ ra để khởi đầu quá trình. 
 H (Hàng hóa): Là giai đoạn trung gian, khi tiền được dùng để mua hàng hóa.   
 T’ (Tiền mới): Là số tiền thu về sau khi bán hàng hóa, với điều kiện T’ > T. 
Công thức T – H – T’ phản ánh mục tiêu tối thượng của nhà tư bản: gia tăng 
giá trị (giá trị trao đổi). Khoảng chênh lệch T’ – T chính là giá trị thặng dư, nguồn 
gốc lợi nhuận của nhà tư bản. Điều này cho thấy bản chất của tư bản không phải là 
một vật chất cố định mà là giá trị tự gia tăng, hay như C. Mác định nghĩa: “Tư bản 
là giá trị mang lại giá trị thặng dư”. Công thức này không chỉ là một biểu thức kinh 
tế mà còn thể hiện quan hệ xã hội giữa nhà tư bản và người lao động, trong đó nhà 
tư bản tìm kiếm giá trị thặng dư thông qua việc bóc lột lao động. 
* Các giai đoạn vận động của tư bản: 
Quá trình vận động của tư bản trong công thức T – H – T’ bao gồm hai giai  đoạn chính:      lOMoAR cPSD| 60776878
 Giai đoạn thứ nhất: T – H (Mua để bán). 
Nhà tư bản dùng tiền (T) mua sức lao động – hàng hóa đặc biệt tạo ra giá trị 
thặng dư – với giá trị bằng chi phí tái sản xuất (sinh hoạt, giáo dục…) trong lĩnh vực 
lưu thông. Lưu thông không tạo ra giá trị thặng dư, nhưng là điều kiện cần để thực 
hiện nó, như C. Mác nhấn mạnh: giá trị thặng dư không sinh ra từ lưu thông mà từ  sản xuất. 
 Giai đoạn thứ hai: H – T’ (Bán để thu tiền). 
Sau khi mua sức lao động, nhà tư bản sử dụng nó trong sản xuất, nơi người lao 
động tạo ra giá trị mới lớn hơn giá trị sức lao động. Hàng hóa được bán với giá cao 
hơn (T’), tạo ra giá trị thặng dư (T’ – T), nguồn gốc lợi nhuận từ việc bóc lột lao 
động. Công thức T – H – T’ thể hiện sự vận động của tư bản nhằm gia tăng giá trị 
thặng dư qua mở rộng sản xuất và khai thác lao động. 
* Nguồn gốc giá trị thặng dư. 
Giá trị thặng dư là cốt lõi của công thức chung của tư bản (T – H – T’), không 
xuất phát từ lưu thông (mua rẻ bán đắt) mà từ việc bóc lột lao động thặng dư trong 
sản xuất, theo C. Mác. Sức lao động có khả năng tạo ra giá trị mới lớn hơn giá trị của 
chính nó. Trong một ngày làm việc 8 giờ, nếu 4 giờ tạo ra giá trị tương đương tiền 
công (lao động cần thiết), thì 4 giờ còn lại (lao động thặng dư) tạo ra giá trị thặng dư 
cho nhà tư bản. Tỷ lệ giá trị thặng dư (m’) được tính bằng: m’ = (Giá trị thặng dư / 
Giá trị sức lao động) × 100%. Ví dụ, nếu giá trị thặng dư bằng giá trị sức lao động, 
m’ = 100%. Đây là cơ chế bóc lột trong chủ nghĩa tư bản, được che đậy dưới hình 
thức trao đổi công bằng trên thị trường. 
I.2. Hàng hóa sức lao động 
Sức lao động là một khái niệm trung tâm, đóng vai trò nền tảng trong việc giải 
thích bản chất bóc lột giá trị thặng dư của chủ nghĩa tư bản. Để sức lao động trở thành 
hàng hóa một yếu tố cốt lõi trong nền kinh tế tư bản chủ nghĩa cần có những điều 
kiện lịch sử và xã hội nhất định.      lOMoAR cPSD| 60776878
I.2.1. Hai điều kiện để sức lao động trở thành hàng hóa 
* Người lao động phải tự do về thân thể, có quyền sở hữu sức lao 
động củamình và có thể tự do bán sức lao động trên thị trường. 
Điều kiện đầu tiên để sức lao động trở thành hàng hóa là người lao động phải 
có tự do cá nhân, không bị ràng buộc bởi quan hệ phong kiến như nô lệ hay nông nô. 
Trong xã hội tư bản, họ được “giải phóng”, tự do về thân thể, có quyền sở hữu và 
bán sức lao động trên thị trường lao động, ký hợp đồng với nhà tư bản để nhận tiền 
công. Tuy nhiên, C. Mác chỉ ra rằng tự do này chỉ mang tính hình thức, vì người lao 
động buộc phải bán sức lao động để kiếm sống, không có lựa chọn nào khác. Điều 
kiện này phản ánh sự chuyển đổi lịch sử từ xã hội phong kiến sang xã hội tư bản, tạo 
ra thị trường lao động tự do. 
* Người lao động không sở hữu tư liệu sản xuất, buộc phải bán sức 
lao độngđể kiếm sống.   
Điều kiện thứ hai là người lao động không sở hữu tư liệu sản xuất (đất đai, 
máy móc, nguyên liệu), bị tước đoạt tư liệu sản xuất, chỉ còn sức lao động. Trong xã 
hội tư bản, tư liệu sản xuất tập trung vào tay giai cấp tư sản, buộc giai cấp công nhân 
phải bán sức lao động để kiếm sống, khác với xã hội phong kiến nơi nông dân có đất 
đai để tự sản xuất. Sự tước đoạt này diễn ra qua các quá trình lịch sử như phong trào 
“rào đất chiếm ruộng” ở Anh, biến nông dân thành người lao động tự do. Do đó,      lOMoAR cPSD| 60776878
người lao động trở thành người làm thuê và sức lao động của họ thành hàng hóa trên  thị trường. 
I.2.2. Thuộc tính của sức lao động   
Khả năng tạo ra giá trị mới lớn hơn giá trị của chính nó: Sức lao động tạo ra 
giá trị mới cao hơn giá trị ban đầu trong sản xuất, phần vượt trội là giá trị thặng dư 
mà nhà tư bản chiếm đoạt. Ví dụ, công nhân nhận 100.000 đồng/ngày nhưng tạo ra 
200.000 đồng, 100.000 đồng còn lại là giá trị thặng dư – từ 4 giờ lao động thặng dư  trong 8 giờ làm việc. 
Tính không tách rời khỏi người lao động: Sức lao động không tách rời người 
lao động, được nhà tư bản mua qua hợp đồng trong thời gian nhất định, mang tính cá 
nhân và phụ thuộc vào sức khỏe, kỹ năng, ý chí. Điều này gây mâu thuẫn: nhà tư bản 
muốn khai thác tối đa, còn người lao động bảo vệ sức khỏe và quyền lợi. 
Tính tái sản xuất và khả năng thay đổi: Sức lao động tái sản xuất qua nghỉ 
ngơi, ăn uống, đào tạo, nhưng phụ thuộc vào điều kiện sống và làm việc do nhà tư 
bản cung cấp. Điều kiện kém khiến năng suất giảm, trong khi kỹ thuật và giáo dục 
nâng cao giá trị và hiệu quả của nó. 
Tính phụ thuộc vào nhu cầu thị trường lao động: Giá trị và giá trị sử dụng của 
sức lao động biến động theo cung cầu lao động: cạnh tranh cao giảm tiền công, tăng 
giá trị thặng dư; lao động khan hiếm tăng tiền công, buộc nhà tư bản cải tiến kỹ thuật 
để duy trì lợi nhuận, thể hiện sự phụ thuộc vào kinh tế tư bản.      lOMoAR cPSD| 60776878
I.3. Sự sản xuất giá trị thặng dư   
* Khái niệm giá trị thặng dư. 
Giá trị thặng dư là phần giá trị người lao động tạo ra vượt quá giá trị sức lao 
động, bị nhà tư bản chiếm đoạt. Theo C. Mác, nó là “linh hồn” của tư bản, nguồn gốc 
lợi nhuận, tích lũy và mở rộng sản xuất, thúc đẩy kinh tế tư bản phát triển. 
* Cơ chế sản xuất giá trị thặng dư: 
Sự sản xuất giá trị thặng dư diễn ra trong lĩnh vực sản xuất, thông qua việc 
khai thác lao động thặng dư của người lao động. Quá trình này bao gồm các bước  sau: 
 Mua sức lao động: Trong nền kinh tế tư bản, nhà tư bản mua sức lao động trên 
thị trường lao động với giá trị của nó, tức là chi phí cần thiết để tái sản xuất sức lao 
động (như chi phí sinh hoạt, giáo dục...), được thể hiện dưới dạng tiền công. Trên bề 
mặt, đây là một cuộc trao đổi công bằng, nhưng thực chất sức lao động có khả năng 
tạo ra giá trị mới lớn hơn giá trị của chính nó. 
Sử dụng sức lao động trong sản xuất: Sau khi mua sức lao động, nhà tư bản   
đưa nó vào quá trình sản xuất. Trong một ngày làm việc, người lao động làm việc 
một phần thời gian để tạo ra giá trị tương đương với tiền công (lao động cần thiết), 
và phần thời gian còn lại (lao động thặng dư) để tạo ra giá trị thặng dư: “Nếu sức lao 
động được sử dụng trong một ngày lao động 8 giờ, trong đó 4 giờ tạo ra giá trị tương      lOMoAR cPSD| 60776878
đương với tiền công, thì 4 giờ còn lại là lao động thặng dư, tạo ra giá trị thặng dư cho  nhà tư bản.” 
Thực hiện giá trị thặng dư: Sản phẩm do người lao động tạo ra được bán trên   
thị trường, mang về số tiền lớn hơn chi phí bỏ ra (bao gồm tiền công và tư liệu sản 
xuất), phần chênh lệch này chính là giá trị thặng dư được thực hiện. Quá trình này 
được phản ánh qua công thức chung của tư bản T – H – T’, trong đó sức lao động là 
yếu tố quyết định sự gia tăng từ T thành T’. Ví dụ, nếu giá trị sức lao động của một 
công nhân là 100.000 đồng/ngày, nhưng trong một ngày lao động, công nhân tạo ra 
giá trị mới là 200.000 đồng, thì 100.000 đồng còn lại là giá trị thặng dư mà nhà tư  bản chiếm đoạt. 
* Các hình thức sản xuất giá trị thặng dư: 
C. Mác phân chia sự sản xuất giá trị thặng dư thành hai hình thức chính, phản 
ánh sự phát triển của chủ nghĩa tư bản: 
 Giá trị thặng dư tuyệt đối: Đây là hình thức sản xuất giá trị thặng dư trong giai 
đoạn đầu của chủ nghĩa tư bản, khi nhà tư bản kéo dài thời gian lao động mà không 
tăng tiền công. Ví dụ, nếu một công nhân làm việc 10 giờ thay vì 8 giờ với cùng mức 
tiền công, 2 giờ bổ sung sẽ tạo ra giá trị thặng dư tuyệt đối. Hình thức này dựa vào 
việc tăng cường cường độ lao động và thời gian làm việc. 
 Giá trị thặng dư tương đối: Phát triển trong giai đoạn sau, khi nhà tư bản cải 
tiến kỹ thuật và tổ chức sản xuất để tăng năng suất lao động, từ đó giảm thời gian lao 
động cần thiết và tăng thời gian lao động thặng dư trong cùng một ngày làm việc. Ví 
dụ, bằng cách sử dụng máy móc hiện đại, một công nhân có thể tạo ra giá trị tương 
đương tiền công trong 3 giờ thay vì 4 giờ, và 5 giờ còn lại sẽ tạo ra giá trị thặng dư 
tương đối: “Giá trị thặng dư tương đối là kết quả của việc cải tiến kỹ thuật và tổ chức 
lao động, làm tăng năng suất lao động.” 
I.4. Tư bản bất biến và tư bản khả biến  * Tư bản bất biến.      lOMoAR cPSD| 60776878
Tư bản bất biến (ký hiệu: c) là bộ phận tư bản tồn tại dưới hình thái tư liệu sản 
xuất, bao gồm tư liệu lao động (máy móc, công cụ, nhà xưởng, phương tiện vận 
chuyển…) và đối tượng lao động (nguyên liệu, nhiên liệu, vật liệu phụ…). Giá trị 
của nó được lao động cụ thể của công nhân làm thuê bảo tồn và chuyển nguyên vẹn 
vào sản phẩm, tức không thay đổi trong quá trình sản xuất. Đặc điểm nổi bật của tư 
bản bất biến là không trực tiếp tạo ra giá trị thặng dư, nhưng lại đóng vai trò thiết 
yếu làm nền tảng vật chất (nguyên liệu, công cụ, phương tiện) để quá trình sản xuất 
giá trị thặng dư diễn ra. Nhờ đó, nó góp phần duy trì và vận hành hệ thống sản xuất  tư bản chủ nghĩa 
Ví dụ: Trong một nhà máy dệt, các khoản như máy dệt trị giá 1 tỷ đồng, bông 
nguyên liệu 500 triệu đồng, nhà xưởng và thiết bị 2 tỷ đồng sẽ được xếp vào tư bản 
bất biến vì chúng không tạo ra giá trị mới mà chỉ góp phần cấu thành giá trị của sản 
phẩm. Tương tự, trong một xưởng chế biến gỗ, các khoản như gỗ nguyên liệu 300 
triệu, máy cưa 700 triệu và nhà xưởng 1 tỷ đồng cũng là tư bản bất biến. Điểm chung 
của các loại tư bản này là không tạo ra giá trị thặng dư mà chỉ chuyển giá trị vốn có 
của chúng vào sản phẩm cuối cùng.    * Tư bản khả biến. 
Tư bản khả biến (ký hiệu: v) là bộ phận tư bản tồn tại dưới hình thái sức lao 
động không tái hiện ra giá trị ban đầu, nhưng thông qua lao động trừu tượng của công      lOMoAR cPSD| 60776878
nhân làm thuê mà tăng lên về lượng trong quá trình sản xuất. Nó bao gồm tiền lương 
trả cho người lao động để đổi lấy sức lao động của họ. Đặc điểm nổi bật của tư bản 
khả biến là sự biến đổi về lượng: không chỉ tái tạo lại giá trị ban đầu mà còn tạo ra 
giá trị thặng dư cho nhà tư bản. Vai trò quan trọng của tư bản khả biến là tạo ra giá 
trị gia tăng trong quá trình sản xuất, đóng góp trực tiếp vào việc hình thành lợi nhuận  cho chủ tư bản. 
Ví dụ: Giả sử một nhà máy sản xuất giày. Nhà tư bản đầu tư 100 triệu vào 
máy móc và nguyên liệu (tư bản bất biến) và 50 triệu để trả lương cho công nhân 
(tư bản khả biến). Trong quá trình sản xuất, công nhân không chỉ tái tạo lại giá trị 
50 triệu mà còn tạo ra thêm 20 triệu giá trị thặng dư. Vậy, giá trị sản phẩm cuối 
cùng sẽ là 170 triệu, trong đó có 20 triệu là giá trị thặng dư do tư bản khả biến tạo  ra.  I.5. Tiền công  * Khái niệm. 
Tiền công là giá cả của hàng hóa sức lao động, biểu hiện bên ngoài như một 
khoản trả công cho lao động. Trên thực tế, nó là một phần giá trị mới do chính người 
lao động làm thuê tạo ra thông qua hao phí sức lao động, nhưng thường bị hiểu nhầm 
là do người mua sức lao động (nhà tư bản) trả cho họ. Bản chất của tiền công chính 
là hình thức che đậy quan hệ bóc lột trong chủ nghĩa tư bản, bởi vì công nhân tạo ra 
giá trị lớn hơn nhiều so với số tiền lương họ nhận được, phần chênh lệch đó trở thành 
giá trị thặng dư cho nhà tư bản.   
* Các hình thức của tiền công.      lOMoAR cPSD| 60776878
Trong chủ nghĩa tư bản, tiền công có hai hình thức chính: 
 Tiền công tính theo thời gian: Công nhân được trả tiền theo giờ, ngày, tuần, 
tháng... làm việc. Nếu làm nhiều giờ hơn, công nhân nhận được nhiều tiền hơn, 
những nhà tư bản có thể kéo dài thời gian lao động để tăng giá trị thặng dư. 
 Tiền công tính theo sản phẩm: Công nhân được trả lương theo số lượng sản 
phẩm họ làm ra. Hình thức này thúc đẩy công nhân làm việc năng suất hơn, những 
nhà tư bản có thể lợi dụng để tăng khối lượng sản xuất mà không cần tăng lương. 
Ngoài ra tiền công còn được phân biệt thành: 
 Tiền công danh nghĩa: Là số tiền mà công nhân nhận được. 
 Tiền công thực tế: Là số lượng hàng hóa và dịch vụ mà công nhân có thể mua 
được bằng tiền công danh nghĩa đó. 
Bản chất bóc lột của tiền công nằm ở chỗ công nhân chỉ được trả một phần giá 
trị họ tạo ra, phần còn lại trở thành giá trị thặng dư cho nhà tư bản. Tiền công tạo ra 
ảo giác rằng người lao động được trả công đầy đủ, nhưng thực chất họ đang bị trả ít 
hơn giá trị lao động mà họ bỏ ra. Điều này che giấu mối quan hệ bóc lột trong chủ  nghĩa tư bản. 
* Mối quan hệ giữa tiền công và tư bản khả biến. 
Tiền công chính là hình thức biểu hiện bên ngoài của tư bản khả biến. Nhà tư 
bản trả tiền công cho công nhân, nhưng công nhân tạo ra giá trị lớn hơn số tiền họ 
nhận, phần giá trị thặng dư bị chiếm đoạt. Vì vậy, giảm tiền công hoặc tăng cường 
độ lao động là cách mà nhà tư bản gia tăng giá trị thặng dư. 
I.6. Tuần hoàn và chu chuyển của tư bản 
* Tuần hoàn của tư bản. 
Tuần hoàn của tư bản là quá trình vận động liên tục của tư bản qua ba giai 
đoạn, ba hình thái khác nhau (hình thái tư bản tiền tệ, hình thái tư bản sản xuất, hình 
thái tư bản hàng hóa) nhưng có mối quan hệ chặt chẽ, nhằm mục đích sản xuất và 
tạo ra giá trị thặng dư. 
* Các giai đoạn tuần hoàn của tư bản:      lOMoAR cPSD| 60776878
 Giai đoạn 1 (T – H): Tư bản tiền tệ chuyển hóa thành tư bản sản xuất – Nhà tư 
bản dùng tiền (T) để mua tư liệu sản xuất (máy móc, nguyên liệu) và sức lao động 
(công nhân). Ví dụ: Một xưởng may mua vải, kim chỉ và thuê công nhân để sản xuất  quần áo. 
 Giai đoạn 2 (Sản xuất – H’): Tạo ra giá trị thặng dư – Công nhân sử dụng tư 
liệu sản xuất để làm ra hàng hóa mới (H’) có giá trị lớn hơn, trong đó phần chênh 
lệch chính là giá trị thặng dư (m). Ví dụ: Vải được may thành quần áo, có giá trị cao  hơn chi phí ban đầu. 
 Giai đoạn 3 (H’ – T’): Hàng hóa chuyển thành tiền tệ – Hàng hóa được bán 
trên thị trường, thu về số tiền (T’) lớn hơn vốn ban đầu (T’ = T + m). Lợi nhuận này 
tiếp tục được tái đầu tư, duy trì chu kỳ tuần hoàn. 
Quá trình tuần hoàn của tư bản trải qua ba giai đoạn chính, được biểu diễn  bằng công thức:   
Trong đó: T: Tiền tư bản (vốn ban đầu), H: Hàng hóa tư bản (tư liệu sản xuất 
+ sức lao động). Sản xuất: Quá trình tạo ra hàng hóa mới. H': Hàng hóa có giá trị 
cao hơn trước. T': Tiền thu về lớn hơn ban đầu (T' > T). 
Điều kiện để tuần hoàn tư bản diễn ra liên tục bao gồm: (1) Đảm bảo đủ tư liệu 
sản xuất và lao động; (2) Hàng hóa phải bán được, tránh ứ đọng vốn; (3) Vốn lưu 
thông nhanh, hạn chế tồn kho hoặc thiếu nguyên liệu. 
Ý nghĩa của tuần hoàn tư bản: (1) Giúp nhà tư bản không ngừng thu hồi vốn 
và tích lũy tư bản; (2) Làm rõ nguồn gốc giá trị thặng dư xuất phát từ lao động của 
công nhân; (3) Giải thích động lực tăng tốc sản xuất và lưu thông để tối đa hóa lợi 
nhuận trong chủ nghĩa tư bản.      lOMoAR cPSD| 60776878
* Chu chuyển của tư bản. 
Chu chuyển tư bản là quá trình tuần hoàn của tư bản được lặp đi lặp lại một 
cách định kỳ và liên tục đổi mới theo thời gian. Nó phản ánh vòng đời vận động của 
tư bản từ khi bỏ vốn đầu tư cho đến khi thu hồi vốn cùng với giá trị thặng dư. 
* Thời gian chu chuyển tư bản. 
Thời gian sản xuất: Thời gian lao động trực tiếp (công nhân làm việc), thời 
gian gián đoạn (nếu có) (chờ nguyên liệu, chờ máy móc sửa chữa…). 
Thời gian lưu thông: Thời gian cần để mua các yếu tố sản xuất (chuyển từ T 
sang H), thời gian bán hàng hóa (chuyển từ H' sang T'), thời gian vận chuyển, bảo  quản, chờ thanh toán… 
Tổng thời gian chu chuyển = Thời gian sản xuất + Thời gian lưu thông. 
* Số vòng chu chuyển tư bản trong một năm.  CH  n=  ch 
Trong đó: CH: Thời gian một năm (ví dụ: 365 ngày), ch: Thời gian chu chuyển  một vòng của tư bản. 
Ý nghĩa: Số vòng chu chuyển càng nhiều → vốn luân chuyển càng nhanh → 
tích lũy giá trị thặng dư càng lớn trong năm, ngược lại, nếu thời gian chu chuyển kéo 
dài → số vòng ít → tốc độ tích lũy chậm. 
II. Bản chất của giá trị thặng dư 
Trong Tư bản luận, C. Mác chỉ ra rằng giá trị thặng dư là “Bộ phận giá trị mới 
dôi ra ngoài giá trị sức lao động do công nhân tạo ra, là kết quả của lao động không 
công của công nhân cho nhà tư bản”. 
Bản chất giá trị thặng dư là phần giá trị do người lao động tạo ra vượt quá giá 
trị sức lao động của họ, nhưng không được trả công và bị nhà tư bản chiếm đoạt. Đây 
chính là nền tảng của sự bóc lột trong quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa. Giá trị      lOMoAR cPSD| 60776878
thặng dư là yếu tố quyết định sự vận động và tích lũy của tư bản, đồng thời phản ánh 
mâu thuẫn cơ bản giữa lao động và tư bản trong nền sản xuất hiện đại. 
II.1. Hiện tượng “vô hình hóa” giá trị thặng dư trong nền kinh tế số 
Mặc dù C. Mác đã chỉ ra rõ bản chất bóc lột của giá trị thặng dư trong chủ 
nghĩa tư bản công nghiệp, nhưng khi bước vào thời đại kinh tế số, hình thức bóc lột 
này đã trở nên tinh vi, phi vật chất và khó nhận diện hơn. 
Khi áp dụng vào nền kinh tế hiện đại, giá trị thặng dư không chỉ còn tồn tại 
dưới dạng bóc lột lao động trực tiếp trong nhà máy, công xưởng, mà đã mở rộng và 
biến hóa phức tạp hơn trong các lĩnh vực như công nghệ số hóa, kinh tế tài chính, và 
nền kinh tế ứng dụng. Người lao động ngày nay không chỉ tạo ra giá trị qua sức lao 
động thể chất, mà còn thông qua dữ liệu, tương tác, sự hiện diện kỹ thuật số. Tất cả 
đều bị chuyển hóa thành lợi nhuận cho tư bản mà không được trả công tương xứng. 
Đây là giá trị thặng dư vô hình một hình thức bóc lột mới, thầm lặng nhưng sâu sắc, 
đặc trưng cho chủ nghĩa tư bản thời đại số. 
II.1.1. Sự phân tách giữa lao động và sản phẩm lao động 
Nền kinh tế số đã tạo ra một hình thái mới của quá trình lao động, nơi mối liên 
hệ giữa người lao động và sản phẩm của họ trở nên mờ nhạt. Người lao động kỹ thuật 
số không còn trực tiếp tạo ra sản phẩm vật chất, mà thay vào đó là các sản phẩm phi 
vật thể (dữ liệu, nội dung số, thuật toán). Điều này khiến cho việc đo lường chính 
xác giá trị lao động và giá trị thặng dư trở nên phức tạp hơn, tạo điều kiện cho sự vô 
hình hóa của quá trình bóc lột. 
Như C. Mác đã viết: "Giá trị thặng dư là giá trị do lao động của công nhân làm 
thuê sản sinh ra vượt quá giá trị sức lao động của họ và bị nhà tư bản chiếm đoạt toàn 
bộ". Trong nền kinh tế số, người lao động vẫn tạo ra giá trị vượt quá giá trị sức lao 
động của họ, nhưng cơ chế chiếm đoạt đã trở nên tinh vi và được "chuẩn hóa" đến 
mức không còn được nhận thức là bóc lột. 
II.1.2. Cơ chế chiếm đoạt giá trị thặng dư thông qua nền tảng công nghệ      lOMoAR cPSD| 60776878
Người dùng các nền tảng số như mạng xã hội và dịch vụ trực tuyến liên tục 
tạo ra dữ liệu có giá trị thông qua các hoạt động trực tuyến; dữ liệu này trở thành 
nguồn tư bản mới cho các công ty công nghệ, nhưng người tạo ra dữ liệu không được 
trả công cho lao động của họ. Công nghệ số đã xóa nhòa ranh giới giữa thời gian làm 
việc và thời gian nghỉ ngơi khi người lao động liên tục kết nối với công việc thông 
qua thiết bị di động, email và các ứng dụng nhắn tin, từ đó tạo ra thời gian lao động 
thặng dư ẩn không được trả công. Các nền tảng như Uber, Deliveroo hay Amazon 
Mechanical Turk đã phân mảnh quá trình lao động thành các công việc nhỏ, tạo điều 
kiện cho việc giảm tiền công và tăng tỷ suất giá trị thặng dư; người lao động trong 
nền kinh tế Gig thường không được hưởng các quyền lợi của người lao động truyền 
thống, dẫn đến tình trạng bóc lột mới. Công nghệ mới như trí tuệ nhân tạo và tự động 
hóa cho phép thay thế lao động sống bằng máy móc ở quy mô chưa từng có, làm tăng 
tỷ trọng tư bản bất biến so với tư bản khả biến và dẫn đến hiện tượng thất nghiệp 
công nghệ – một dạng hiện đại của đạo quân lao động dự bị mà C. Mác đã mô tả  trong Tư bản luận.  Ví dụ thực tế: 
 Facebook thu lợi nhuận từ quảng cáo nhờ vào dữ liệu người dùng nhưng không 
chia sẻ trực tiếp lợi ích đó với họ. 
 Grab không sở hữu xe hay tài xế nhưng thu phí hoa hồng trên mỗi chuyến xe, 
khiến tài xế chịu gánh nặng chi phí nhưng không có bảo hiểm lao động đầy đủ. 
II.2. Giá trị thặng dư và vấn đề bất bình đẳng đa chiều 
Học thuyết của C. Mác về giá trị thặng dư không chỉ nhằm mục đích mô tả cơ 
chế bóc lột, mà còn phân tích hệ quả xã hội của quá trình tích lũy tư bản. 
II.2.1. Sự phân hóa xã hội trong kỷ nguyên số 
Nền kinh tế số đã tạo ra những hình thái bất bình đẳng mới và làm trầm trọng 
thêm những bất bình đẳng đã tồn tại khi sự tập trung giá trị thặng dư vào tay một số 
ít các tập đoàn công nghệ hàng dầu dẫn đến sự phân cực giàu nghèo chưa từng có,