Báo cáo cuối kỳ đề tài Hàng hoá - Kinh tế chính trị Mác - Lênin | Đại học Tôn Đức Thắng
Hàng hóa, hai thuộc tính của hàng hoá. Những giải pháp củadoanh nghiệp và của nhà nước (chủ thể quản lý vĩ mô) trongviệc vận dụng hai thuộc tính của hàng hóa nhằm phát triểnsản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và của nền kinh tế. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!
Preview text:
BÁO CÁO CUỐI KỲ
MÔN: KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁC LÊ-NIN ĐỀ TÀI
Hàng hóa, hai thuộc tính của hàng hoá. Những giải pháp của
doanh nghiệp và của nhà nước (chủ thể quản lý vĩ mô) trong
việc vận dụng hai thuộc tính của hàng hóa nhằm phát triển
sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và của nền kinh tế
Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 11 tháng 11 năm 2021 LỜI CAM ĐOAN
Chúng em xin cam đoan đề tài báo cáo cuối kỳ: “Hàng hóa, hai thuộc tính của
hàng hoá. Những giải pháp của doanh nghiệp và của nhà nước (chủ thể quản lý vĩ
mô) trong việc vận dụng hai thuộc tính của hàng hóa nhằm phát triển sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp và của nền kinh tế” là báo cáo của tập thể nhóm 4, do
nhóm nghiên cứu và thực hiện.
Báo cáo đã được kiểm tra theo quy định hiện hành.
Kết quả trình bày trong báo cáo hoàn toàn trung thực. Nếu có vấn đề phát sinh,
nhóm chúng em xin chịu trách nhiệm theo quy chế của Khoa và Nhà trường.
Bên cạnh đó, tài liệu tham khảo trong báo cáo đã được trích dẫn đầy đủ và rõ ràng.
Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 11 năm 2021
Nhóm thực hiện – Nhóm 4 2 LỜI CÁM ƠN
Để hoàn thành được bài báo cáo này, nhóm chúng em xin chân thành gửi lời cảm
ơn đến Giảng viên phụ trách môn …………... Thời gian qua tuy không dài nhưng chúng
em đã tiếp thu được rất nhiều kiến thức bổ ích qua những buổi học cùng cô. Cảm ơn cô đã
luôn tận tình chỉ dạy và giúp đỡ chúng em, chính những lời khuyên ấy đã giúp bài cáo
được đầy đủ và hoàn thiện hơn.
Ngoài ra, chúng em cũng xin gửi lời cảm ơn đến các Thầy, Cô trong khoa Khoa
học Xã hội và Nhân văn cũng như Ban giám hiệu Nhà trường vì đã tạo điều kiện về tài
liệu học tập và hệ thống thư viện thuận tiện cho việc tìm kiếm, nghiên cứu thông tin.
Đồng thời, chúng em sâu sắc cảm ơn các thành viên trong nhóm 4, tuy không quen biết
nhưng qua môn học này, nhóm đã dần thân quen và mạnh dạn chia sẻ những ý kiến cá
nhân để hoàn thành công việc một cách suôn sẻ; chúng em cũng xin cảm ơn nhóm trưởng
đã rất tận tâm với mọi người từ những việc nhỏ nhất.
Thời gian dịch bệnh Covid-19 vừa qua, Quý thầy cô và cả chúng em, đều gặp phải
không ít khó khăn khi truyền đạt, tiếp nhận kiến thức cũng như làm việc nhóm thông qua
hình thức trực tuyến. Thế nên, bài báo cáo này chính là thành quả kết tinh từ sự nỗ lực và
cố gắng của cả nhóm, mặc dù sẽ không thể tránh khỏi những thiếu sót và hạn chế. Nhóm
chúng em rất mong nhận được những góp ý xây dựng từ phía Thầy Cô, điều này sẽ vô
cùng bổ ích đối với chúng em trong việc phát hiện những hạn chế và bổ sung thêm kiến thức của mỗi cá nhân.
Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 11 năm 2021
Nhóm thực hiện – Nhóm 4 3 MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU.........................................................................................................................................6
PHẦN NỘI DUNG.....................................................................................................................................8 1.
HÀNG HÓA VÀ HAI THUỘC TÍNH CỦA HÀNG HÓA...........................................................8 1.1.
Khái niệm về hàng hóa...........................................................................................................8 1.2.
Hai thuộc tính của hàng hóa..................................................................................................8 1.2.1.
Giá trị sử dụng......................................................................................................................8 1.2.2.
Giá trị hàng hóa...................................................................................................................9 1.2.3.
Mối quan hệ giữa hai thuộc tính của hàng hóa...................................................................10 2.
GIẢI PHÁP CỦA CHỦ THỂ QUẢN LÝ VĨ MÔ NHẰM PHÁT TRIỂN SẢN XUẤT KINH
DOANH CỦA DOANH NGHIỆP VÀ NỀN KINH TẾ (VẬN DỤNG HAI THUỘC TÍNH HÀNG
HÓA).....................................................................................................................................................11 2.1.
Đặc điểm thị trường hàng hóa Việt Nam hiện nay.............................................................11 2.2.
Thực trạng hàng hóa Việt Nam hiện nay............................................................................12 2.2.1.
Đối với hàng hóa tiêu thụ trong nước:................................................................................12 2.2.2.
Đối với hàng hóa xuất khẩu:...............................................................................................14 2.3.
Giải pháp nhằm phát triển sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, nền kinh tế............15 2.3.1.
Giải pháp nâng cao sức cạnh tranh của hàng hóa..............................................................15 2.3.1.1.
Tăng sức cạnh tranh của hàng hóa..................................................................................15 2.3.1.2.
Chủ thể quản lý vĩ mô.....................................................................................................16 2.3.2.
Một số giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh về giá của các doanh nghiệp Việt
Nam hiện nay......................................................................................................................................17 2.3.2.1.
Giải pháp nhằm nâng cao năng suất lao động của các doanh nghiệp..............................18 2.3.2.2.
Giải pháp nhằm tăng mức độ phức tạp trong lao động....................................................20 2.3.2.3.
Chính sách của chính phủ...............................................................................................21 2.3.3.
Một số giải pháp khác.........................................................................................................22
PHẦN KẾT LUẬN...................................................................................................................................23
TÀI LIỆU THAM KHẢO........................................................................................................................26
PHỤ LỤC..................................................................................................................................................29 4 PHẦN MỞ ĐẦU
Lý do chọn đề tài
Thuở sơ khai của xã lội loài người, khi mà lịch sử phát triển của nền sản xuất xã
hội chỉ mang tính tự cung tự cấp, do lực lượng sản xuất ở thời kỳ đó còn nhiều rào cản
nên nhu cầu của con người lúc bấy giờ chỉ gói gọn ở một mức độ nhất định. Chính vì lẽ
đó, sản xuất hàng hoá ra đời là một bước ngoặt tuy căn bản nhưng quan trọng trong giai
đoạn phát triển ấy, đưa loài người thoát khỏi tình trạng “mông muội1”, xoá bỏ nền kinh tế
tự nhiên, phát triển nhanh chóng lực lượng sản xuất đồng thời đặt bước đệm cho một nền
kinh tế thị trường. Từ đó, nhu cầu của con người mới dần được thỏa mãn nhiều hơn và đời
sống kinh tế xã hội của toàn nhân loại cũng được nâng cao.
Có thể nói, hàng hóa ra đời như một yếu tố tất yếu và cấp thiết trong cuộc sống. Vì
vậy mà mục đích cốt yếu của sản xuất hàng hóa chính là để trao đổi mua bán. Từ đó, để
có thể thúc đẩy cạnh tranh trong nền kinh tế hàng hóa thì việc nghiên cứu và vận dụng hai
thuộc tính cơ bản của hàng hóa là điều kiện bắt buộc.
Từ những ý tưởng đã nêu trên, cùng với mong muốn tìm ra các giải pháp mà chủ
thể quản lí vĩ mô đã áp dụng hai thuộc tính của hàng hóa trong việc thúc đẩy, phát triển
sản xuất kinh doanh ở Việt Nam hiện nay và cả tương lai, chúng em quyết định chọn đề
tài: “Hàng hóa, hai thuộc tính của hàng hoá. Những giải pháp của doanh nghiệp và
của nhà nước (chủ thể quản lý vĩ mô) trong việc vận dụng hai thuộc tính của hàng
hóa nhằm phát triển sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và của nền kinh tế” làm
đề tài nghiên cứu cho bài báo cáo cuối kì của môn học.
Mục đích và đối tượng nghiên cứu
Tìm hiểu và khai thác cụ thể cơ sở lý luận hàng hóa và hai thuộc tính hàng hóa đã
được học, phân tích thực trạng thị trường hàng hóa Việt Nam cũng như các giải pháp mà
1 Mông muội (Thời kì mông muội): mơ hôồ không rõ ràng, thuậ t ngữ khoa h
ọ c dùng để chỉ giai đoạ n đầồu c ủ a lị ch s ử loài ng i (giai đo ườ n th ạ hai g ứ i là dã man, giai đo ọ n th ạ ba là vă ứ n minh) theo T đi ừ ể n Tiếếng Vi ệ t (vtudien.com) 5
chủ thể vĩ mô đã vận dụng hai thuộc tính của hàng hóa. Từ đó, lý giải sâu hơn về những
giải pháp đã đề ra, đồng thời gợi mở các phương án khác mà doanh nghiệp và nhà nước
vận dụng trong công cuộc đẩy mạnh phát triển nền kinh tế và sức cạnh tranh của hàng hóa
ở thị trường nước nhà nói riêng và thị trường quốc tế nói chung. Phạm vi nghiên cứu
Nhóm chúng em đã nghiên cứu và phân tích đề tài này trong khoảng thời gian từ
ngày 29/10/2021 và kết thúc vào ngày 10/11/2021. Về phạm vi nội dung của chúng em
trong bài báo cáo này chính là những cơ sở lý luận về hàng hóa và hai thuộc tính của
chúng dựa trên phân tích của Karl Heinrich Marx 2 (C.Mác), hàng hóa trong phạm vi
nghiên cứu của ông là hàng hóa đơn giản, làm cơ sở cho sự phát triển của hàng hóa tư bản
chủ nghĩa sau này. Đồng thời kết hợp với những thông tin đã thu thập và tổng hợp được
về nền kinh tế Việt Nam để có thể triển khai và hoàn thành đề tài này.
Phương pháp nghiên cứu
Bằng phương pháp phân tích và tổng hợp, nhóm chúng em trước hết là phân chia
đối tượng nghiên cứu thành những bộ phận, những yếu tố giản đơn hơn để phân tích, phát
hiện ra bản chất, thuộc tính, quy luật của từng bộ phận của đối tượng nghiên cứu (cụ thể ở
đây là hàng hóa, hai thuộc tính hàng hóa và tính ứng dụng của nó) để từ đó hiểu rõ hơn về
đối tượng. Cuối cùng là tổng hợp lại những phân tích của từng thành viên, từng mảng
thông tin để nhìn nhận và đề ra các giải pháp của doanh nghiệp và nhà nước trong việc
vận dụng hai thuộc tính của hàng hóa nhằm phát triển sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp và của nền kinh tế.
2 Karl Heinrich Marx (C.Mác): m t nhà triếết h ộ c, nhà kinh tếế h ọ
ọc, nhà sử họ c, nhà xã hộ i họ c, nhà lý luậ n chính trị ,
nhà báo và nhà cách m ng ng ạ i Đ ườ c gôếc Do Thái ứ 6 PHẦN NỘI DUNG
1. HÀNG HÓA VÀ HAI THUỘC TÍNH CỦA HÀNG HÓA
1.1. Khái niệm về hàng hóa
Hàng hoá đóng vai trò rất quan trọng trong xã hội loài người. Theo quan điểm của
C.Mác hàng hóa là sản phẩm của lao động, có thể thỏa mãn một nhu cầu nào đó của con
người thông qua trao đổi, mua bán. Sự ra đời của hàng hóa gắn liền với sự phát triển của
xã hội loài người nên hàng hóa là phạm trù lịch sử .
Hàng hóa có thể đáp ứng nhu cầu cá nhân(hàng tiêu dùng) hoặc nhu cầu sản xuất
(tư liệu sản xuất). Ngoài ra, hàng hóa có thể tồn tại dưới dạng hữu hình (vd:quần áo,
lương thực, thực phẩm, lúa gạo,…) hoặc vô hình (vd:các dịch vụ ăn uống, dịch vụ y tế,
dịch vụ thẩm mỹ,...). Từ đây, ta có thể kết luận được một vật muốn trở thành hàng hoá
cần phải thỏa mãn 3 yếu tố:
Hàng hóa là sản phẩm của lao động
Hàng hóa có thể thỏa mãn một nhu cầu nào đó của con người
Thông qua trao đổi, mua bán
Bên cạnh đó, hàng hóa còn có thể được phân thành nhiều loại như: hàng hóa đặc
biệt, hàng hóa tư nhân, hàng hóa thông thường,…
1.2. Hai thuộc tính của hàng hóa
Dù khác nhau về hình thái tồn tại, song mọi thứ hàng hóa đều có hai thuô rc tính là
giá trị sử dụng và giá trị, nếu thiếu một trong hai thuộc tính thì không phải là hàng hoá.
1.2.1. Giá trị sử dụng
Giá trị sử dụng của hàng hóa là công cụ của vâ rt phẩm, có thể thỏa mãn mô rt nhu
cầu nào đó của con người; nhu cầu đó có thể là nhu cầu vâ rt chất hoă rc nhu cầu tinh thần;
cũng có thể là nhu cầu cho tiêu dùng cá nhân, có thể là nhu cầu tiêu dùng cho sản xuất.
Ví dụ: gạo để ăn, áo để mặc, xe để đi lại,….
Đối với giá trị sử dụng, hàng hóa có các đặc điểm sau: 7
Giá trị sử dụng của hàng hoá do thuô rc tính tự nhiên của yếu tố tham gia cấu thành
nên hàng hoá đó quy định nhưng nó chỉ thực hiện khi con người tiêu dùng hàng hóa nên
giá trị sử dụng là một phạm trù vĩnh viễn vì không phụ thuộc vào sự thay đồi của phương thức sản xuất.
Ngày nay, nền sản xuất càng phát triển, khoa học, công nghê r càng tiên tiến, càng
giúp cho con người phát hiê rn ra nhiều thuộc tính mới và phong phú các giá trị sử dụng của hàng hóa khác nhau.
Một vật khi đã là hàng hóa thì phải có giá trị sử dụng, nhưng không phải vật nào có
giá trị sử dụng cũng là hàng hóa. Ví dụ như không khí rất cần cho sự sống nhưng nó
không phải là hàng hóa. Vì thế, trong kinh tế hàng hoá, vật mang giá trị sử dụng là vật mang giá trị trao đổi.
Giá trị sử dụng của hàng hóa là giá trị sử dụng nhằm đáp ứng yêu cầu của người
mua. Cho nên, nếu là người sản xuất, tất yếu phải chú ý chăm lo giá trị sử dụng của hàng
hóa do mình sản xuất ra sao cho ngày càng đáp ứng nhu cầu khắt khe và tinh tế hơn của người mua.
1.2.2. Giá trị hàng hóa
Giá trị hàng hóa là một thuộc tính của hàng hóa, là lao động hao phí của người sản
xuất để sản xuất ra nó đã được kết tinh trong hàng hoá.Nếu một vật được tạo ra bởi thiên
nhiên mà không có tác động nào của con người thì chúng không phải là hàng hóa.
Muốn hiểu được giá trị của hàng hoá phải đi từ giá trị trao đổi. Giá trị trao đổi là
hình thức biểu hiện bên ngoài của giá trị . C.Mác viết: “Giá trị trao đổi trước hết là một
quan hệ về số lượng, là tỷ lệ theo đó một giá trị sử dụng loại này được trao đổi với những
giá trị sử dụng loại khác”. Giá trị hàng hóa là biểu hiện mối quan hệ giữa những người
sản xuất hàng hoá trao đổi hàng hoá và là phạm trù lịch sử. 8 Ví dụ: 1m vải = 10kg thóc
Hai vật thể khác nhau có thể trao đổi được với nhau thì giữa chúng phải có cơ sở
chung nào đó. Vì các hàng hóa khác nhau về giá trị sử dụng nên không thể lấy giá trị sử
dụng để đo lường các hàng hóa. Các hàng hóa đều là sản phẩm của lao động, đều có
lượng hao phí sức lao động của người sản xuất hàng hóa để tạo ra chúng là bằng nhau hay
nói cách khác là giữa hai hàng hóa đó đều có lượng lao động kết tinh trong đó là như
nhau. Như vậy, hao phí để sản xuất ra hàng hóa là cơ sở chung của trao đổi gọi là giá trị hàng hóa.
1.2.3. Mối quan hệ giữa hai thuộc tính của hàng hóa
Hàng hoá là sự thống nhất của hai thuộc tính giá trị sử dụng và giá trị. Hai thuộc
tính trên đều do cùng một lao động sản xuất ra hàng hóa. Giữa hai thuộc tính của hàng
hóa luôn có mối quan hệ chặt chẽ, nó vừa mâu thuẫn vừa thống nhất với nhau. Tính thống nhất
Cả hai thuộc tính cùng tồn tại trong một hàng hóa. Nếu một vật có giá trị sử dụng,
nhưng không có giá trị hàng hoá và ngược lại thì sẽ không được xem là hàng hoá. Tính đối lập
Hai thuộc tính của hàng hoá này không phải là do có hai thứ lao động khác nhau
kết tinh trong hàng hoá mà là do lao động sản xuất hàng hoá có tính chất hai mặt là lao
động trừu tượng, và lao động cụ thể.
Với tư cách là giá trị sử dụng thì các hàng hoá khác nhau về chất (vải mặc, sắt
thép, lúa gạo…). Nhưng ngược lại, với tư cách là giá trị thì các hàng hóa lại đồng nhất về 9
chất, đều là “những cục kết tinh đồng nhất của lao động”, tức đều là sự kết tinh của lao
động, hay là lao động đã được vật hoá ( vải mặc, sắt thép, lúa gạo… ) đều do lao động tạo
ra, kết tinh lao động trong đó.
Quá trình để thực hiện giá trị hàng hóa và giá trị sử dụng của hàng hóa không
thống nhất mà tách rời nhau cả về thời gian lẫn không gian. Giá trị hàng hóa được thực
hiện đối với lĩnh vực lưu thông và được diễn ra trước. Giá trị sử dụng sẽ diễn ra sau và
thực hiện trong lĩnh vực tiêu dùng.
Như vậy, hàng hoá là sự thống nhất của hai thuộc tính giá trị sử dụng và giá trị,
nhưng là sự thống nhất của hai mặt đối lập. Đối với người sản xuất hàng hoá, họ tạo ra giá
trị sử dụng, những thứ họ quan tâm đến là giá trị hàng hoá (lợi nhuận). Ngược lại đối với
người tiêu dùng sẽ quan tâm về giá trị sử dụng nhằm đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng của
mình. Tuy nhiên để có giá trị sử dụng thì người tiêu dùng phải trả giá trị cho người sản
xuất ra nó. Nếu không thực hiện giá trị sẽ không có giá trị sử dụng.Mâu thuẫn trong giá trị
hàng hoá và giá trị sử dụng của hàng hóa là một trong các nguyên nhân dẫn tới việc sản
xuất hàng hóa bị dư thừa.
2. GIẢI PHÁP CỦA CHỦ THỂ QUẢN LÝ VĨ MÔ NHẰM PHÁT TRIỂN SẢN
XUẤT KINH DOANH CỦA DOANH NGHIỆP VÀ NỀN KINH TẾ (VẬN
DỤNG HAI THUỘC TÍNH HÀNG HÓA)
2.1. Đặc điểm thị trường hàng hóa Việt Nam hiện nay
Trước tiên chúng ta cần tìm hiểu về nền kinh tế hàng hóa ở Việt Nam. Sau thời
phong kiến, Việt Nam liền bị đô hộ trong thời gian dài. Từ sau giải phóng, Việt Nam thực
hiện nền kinh tế bao cấp trong khoảng 10 năm đã kìm hãm mạnh mẽ đến sự phát triển 10
kinh tế thời bấy giờ (ít giao thương với các nước khác, người dân không có động lực làm
việc, hàng hóa thiếu thốn,...), đồng thời phải kể đến chất lượng giáo dục thấp, đời sống
người dân còn nghèo đói, văn hóa còn lạc hậu... Nhận thấy những khó khăn phải đối mặt,
Nhà nước đã dần chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung bao cấp sang nền kinh
tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Sự phát triển kinh tế ở
Việt Nam trong 30 năm qua vẫn còn nhiều hạn chế, Việt Nam từ nền kinh tế lúa nước (lấy
nông nghiệp làm trọng, tự cung tự cấp) đang dần chuyển biến thành nền kinh tế hàng hóa
phát triển theo trình tự.
Nước ta đang đối mặt với những thử thách cần phải vượt qua nhằm nâng cao số
lượng cũng như chất lượng hàng hóa, có thể kể đến như cơ sở vật chất, cơ sở hạ tầng còn
hạn chế, đồng tiền giá trị chưa cao so với mặt bằng chung, sức mua hàng hóa của người
tiêu dùng chưa cao, công nghệ chưa phát triển, các doanh nghiệp quy mô chưa lớn, các
chuyên gia đầu ngành còn ít ỏi... Những thử thách nói trên không chỉ là khó khăn, mà còn
có thể là thuận lợi: là động lực để khắc phục những khuyết điểm, phát triển hơn nữa qua
những giải pháp như sau: đẩy mạnh phát triển hàng hóa; chú trọng vào cơ sở hạ tầng; học
hỏi tri thức công nghệ; tăng cường xúc tiến thương mại, hội nhập cùng các tổ chức trong
khu vực cũng như quốc tế; tổ chức hệ thống kinh doanh thương mại hợp lý. Tuy vậy, thị
trường cũng có những điểm mạnh như: mang tính cạnh tranh cao, độ co giãn lớn (hàng
hóa thay thế và hàng hóa bổ sung phong phú dẫn đến việc người tiêu dùng dễ dàng
chuyển dịch), độ liên kết lớn (thị trường hàng hóa được phân chia theo phương thức, chủng loại, phạm vi...).
2.2. Thực trạng hàng hóa Việt Nam hiện nay
Khi nói đến thực trạng hàng hóa Việt Nam thời điểm hiện tại, ta sẽ xét đến 2 khía
cạnh là hàng hóa trong nước và xuất khẩu.
2.2.1. Đối với hàng hóa tiêu thụ trong nước:
Thị trường tiêu thụ hàng hóa được thống nhất trên phạm vi cả nước với nhiều cấp
độ khác nhau: Việc thực hiện chính sách tự do thương mại, tự do lưu thông đã khiến việc
giao thương giữa các vùng miền, các địa phương trở nên dễ dàng và thuận tiện hơn. Trên 11
cơ sở đó, tiềm năng và thế mạnh của từng vùng miền được khai thác một cách hiệu quả.
Trong suốt quá trình giao thương đó đã dẫn đến sự hình thành của các trung tâm thương
mại với nhiều quy mô khác nhau như: TP.HCM, Hà Nội, Hải Phòng, Cần thơ,…
Hàng hóa được buôn bán với nhiều hình thức, cách thức khác nhau: Hiện nay tại
Việt Nam, với việc tự do thương mại đang được đề cao kéo theo việc hàng hóa được buôn
bán, tiêu thụ với nhiều hình thức, cách thức khác nhau từ bán lẻ, trao đổi qua hợp tác xã
hay mua bán trên các kênh thương mại điện tử. Trong năm 2019, xét theo ngành hoạt
động, doanh thu bán lẻ hàng hóa năm 2019 đạt 3.751,3 nghìn tỷ, chiếm 75,% tổng mức
(Theo Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội quý IV và năm 2019)
Hàng hóa trên thị trường thay đổi từ khan hiếm sang đủ dùng và dư thừa. Điều này
là hoàn toàn bình thường với quy luật cung cầu trong điều kiện tự do hóa thương mại như
hiện nay. Với việc tự do giao thương, tự do thương mại cũng như các chính sách khuyến
khích phát triển của chính phủ. Một số mặt hàng trước đây ở trong tình trạng khan hiếm
và phải nhập khẩu thì hiện nay đã có thể đảm bảo về cả chất lượng và số lượng khi sản
xuất nội địa như đường, xi măng. Việc tự do thương mại kéo theo sự phát triển về mặt tư
duy mua sắm cũng như mức sống của người dân dẫn đến nhu cầu về hàng hóa càng trở
nên đa dạng và phát triển không ngừng. Việc này cũng góp phần kéo theo vấn đề bên dưới.
Hàng hóa hiện nay không chỉ cạnh tranh về giá cả, chất lượng mà còn phải cạnh
tranh về dịch vụ: Việc nhu cầu hàng hóa của người dân ngày càng cao mà việc chất lượng
và giá cả hàng hóa đang dần bão hòa, các doanh nghiệp hiện nay đang dần chuyển sang
cạnh tranh qua dịch vụ bán hàng. Từ chỗ chỉ là hoạt động phụ trợ, dịch vụ hiện nay đã trở
thành một ngành kinh doanh và là một loại hàng hóa đặc biệt trên thị trường.
Hàng hóa hiện nay vẫn còn tình trạng bị ứ đọng, khó tiêu thụ: Về cơ bản, mặc dù
đã có bước chuyển mình đáng kể nhưng thị thường tiêu thụ hàng hóa tại Việt Nam vẫn
còn khá manh mún và phân tán. Một số hàng hóa trong nước thiếu đi những phương pháp
để tiếp cận đến người dân khiến sức mua thấp và hàng hóa bị ứ đọng. Việc các mặt hàng 12
nước ngoài tràn vào và cạnh tranh gay gắt với các mặt hàng nội địa cũng là một bài toán
nan giải cho cả doanh nghiệp và chính phủ.
Tình trạng buôn lậu, hàng giả, hàng kém chất lượng đang là vấn đề báo động đỏ:
Việc tự do thương mại không chỉ mang đến cơ hội mà còn kéo theo đó là những vấn đề
đau đầu như buôn lậu hay hàng giả, kém chất lượng chàn lan trên thị trường. Tại quý 3
năm 2020, lực lượng chức năng đã phải xử lý hơn 63.110 vụ buôn lậu mặc dù đã giảm 1%
so với cùng kì năm 2019 nhưng vẫn là một con số đáng báo động về tình trạng buôn lậu hàng hóa hiện nay.
Đại dịch COVID-19 đang ảnh hưởng trực tiếp lên hàng hóa qua nhiều mặt: Hiện
nay, COVID-19 đang là vấn đề nhức nhối đối với cả nước nói chung và nền kinh tế nói
riêng. Việc đóng cửa doanh nghiệp khiến số lượng hàng hóa được sản xuất ra không đủ
đáp ứng nhu cầu thị trường, việc khó khăn trong khâu sản xuất còn kéo theo giá cả của
hàng hóa tăng một cách chóng mặt. Ngoài sản xuất, việc tiêu thụ cũng đang gặp phải vô
vàn khó khăn khi chỉ thị 15,16 của chính phủ được áp dụng khiến người dân không thể ra
khỏi nhà và các hàng quán phải đóng cửa.
2.2.2. Đối với hàng hóa xuất khẩu:
Hàng hóa xuất khẩu đang phát triển nhanh chóng: Với việc hàng loạt các chính
sách tạo điều kiện cho doanh nghiệp trong vấn đề xuất khẩu được áp dụng, hay việc dỡ bỏ
các quy định chồng chéo, các loại giấy phép con, kiểm tra chuyên ngành nhằm tiết kiệm
thời gian và chi phí cho doanh nghiệp. Ngoài ra, việc tận dụng tối đa cơ hội từ các hiệp
định thương mại tự do FTA để khai thác thị trường mời. Tất cả những điều trên đang là
những yếu tố thúc đẩy cho việc xuất khẩu hàng hóa ngày càng phát triển.
Hàng hóa xuất khẩu còn thiếu sự đa dạng: Mặc dù đang phát triển nhưng hiện nay,
nhóm hàng hóa xuất khẩu vẫn còn khá hạn chế về số lượng. Hàng hóa xuất khẩu đa phần
là nông phẩm như gạo hay hàng dệt may và các linh kiện, phụ tùng điện tử. Việt Nam
hiện nay vẫn đang là nước đang phát triển nên các điều kiện cũng như nguồn lực sản xuất
còn hàng chế, thêm vào đó việc một số nước có chính sách vô cùng khắt khe về mặt hàng 13
nhập khẩu như Nhật Bản, Canada, Mỹ cũng là nguyên nhân khiến hàng hóa xuất khẩu của
Việt Nam còn thiếu sự đa dạng.
Đại dịch COVID-19 đang tác động không nhỏ đến việc xuất khẩu: Việc phải đóng
cửa kinh tế ở các nước trên thế giới và cả Việt Nam đã khiến cho việc xuất khẩu hàng hóa
bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Không thể sản xuất cũng không thể xuất khẩu khiến đây là
vấn đề đau đầu cho cả chính phủ và doanh nghiệp.
2.3. Giải pháp nhằm phát triển sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, nền kinh tế
2.3.1. Giải pháp nâng cao sức cạnh tranh của hàng hóa 2.3.1.1. Tăng sức cạnh tranh của hàng hóa
Nhìn chung, chúng ta có thể thấy rằng nhiều mặt hàng ở Việt Nam đang bị cạnh
tranh mạnh mẽ bởi lượng hàng hóa Trung Quốc về lĩnh vực tiêu dùng, còn lĩnh vực công
nghệ cao thì bị ảnh hưởng bởi Mỹ, Nhật cả về giá cả và giá trị.
Có thể kể đến những mặt hàng tiêu biểu như:
Mặt hàng tiêu dùng (quần áo)
+ Giá cả cao hơn so với hàng Trung
+ Giá trị có phần tốt hơn
Nguyên nhân: mẫu mã hạn chế, kiểu dáng chưa thực sự thu hút được nhiều phân khúc khách hàng.
=> Vậy nên, các doanh nghiệp sản xuất mặt hàng này cần chú trọng hơn về mẫu
mã song song với chất lượng, tăng cường kêu gọi, khuyến khích người Việt Nam dùng hàng Việt Nam.
Mặt hàng thực phẩm tươi sống (rau, củ,quả)
+ Bị lấn át bởi hàng Trung Quốc chứa chất độc hại, giá thành đắt đỏ. 14
+ Làm cho hàng Việt Nam bị tụt dốc, giá thành giảm, màu sắc không bắt mắt.
Nguyên nhân: đa phần hàng hóa Việt Nam chưa có loại chất bảo quản giữ được sự
tươi mới lâu dài như Trung Quốc, khi vận chuyển từ Nam ra Bắc cũng như từ Bắc vào
Nam trong vài ngày thì rau quả đôi khi có nhiều vết bầm dập, sần sùi hơn, ảnh hưởng
nghiêm trọng đến màu sắc. Chính điều đó dẫn đến việc số lượng lớn rau củ quả trở nên thối rửa, gây mất giá.
=> Xuất phát từ tình hình thực tế trên, hai phương án đề ra sẽ giúp giải quyết nan
đề này. Thứ nhất, giảm thời gian vận chuyển nhưng không thể đưa máy bay vào vận
chuyển. Thứ hai, cần tìm ra chất bảo quản, để giữ hàng hóa lâu hơn.
Mặt hàng lương thực (cafe, ngũ cốc)
+ Phần lớn xuất khẩu ra nước ngoài nhưng chưa được các nước khác chú ý
+ Chú trọng số lượng hơn chất lượng
Nguyên nhân: hàng Việt Nam ở khâu xử lí còn kém, chất lượng hàng hóa khi đến
tay người tiêu dùng không bằng sản phẩm của các nước khác.
=> Biện pháp nêu ra là Nhà nước nên thu mua tập trung các mặt hàng nông sản
hoặc có biện pháp khuyến khích các doanh nghiệp thu mua nông sản để tập trung xử lí
nhằm giảm giá thành khâu xử lí, tăng chất lượng hàng nông sản xuất khẩu. Kiểm soát chặt
chẽ thành phần trong sản phẩm và nên có hình phạt thích đáng với những doanh nghiệp sơ
sài, chủ quan trong khâu công khai thành phần sản phẩm gây mất uy tín hàng Việt Nam
trên thị trường hàng hóa quốc tế. 2.3.1.2. Chủ thể quản l ý vĩ mô Doanh nghiệp
Trong điều kiện Việt Nam hiện nay, nên tập trung vào công nghệ bảo quản và công
nghệ chế biến. Trước hết là nên đầu tư cải tiến công nghệ sản xuất hàng xuất khẩu cũng 15
như mẫu mả để nâng cao chất lượng sản phẩm, tăng sức cạnh tranh, giảm giá thành và giá
xuất khẩu cho hàng hóa Việt Nam. Tiếp đó là đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu thị trường
nước ngoài để nắm bắt cơ hội kinh doanh. Ngoài ra, doanh nghiệp cũng nên tăng cường
công tác quảng bá, xây dựng đội ngũ marketing, các cán bộ kinh doanh quốc tế tại các
hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, thúc đẩy liên kết với các đối tác nước ngoài.
Cuối cùng cũng không kém phần quan trọng đó chính là tiếp cận tốt với các kênh phân
phối phù hợp ở các thị trường và hình thức khác nhau như : hình thức tập đoàn (EU), hình thức hiệp hội (Mỹ). Nhà nước
Tăng cường mở rộng và phát triển kinh tế quốc tế, quan hệ thương mại với các
nước trên thế giới. Đồng thời nghiêm chỉnh thực hiện các cam kết với các quốc gia và
WTO (World Trade Organization3), đổi mới thể chế chính sách quản lý hoạt động xuất
nhập khẩu theo hướng minh bạch hóa nhằm khuyến khích các thành phần kinh tế, mọi đối
tượng kinh doanh với mục tiêu là đạt hiệu quả cao. Hơn thế nữa, Việt Nam cần hoàn thiện
tốt các văn bản dưới luật cho việc thực thi điều kiện thuận lợi hơn, đặc biệt là các quy
định về hải quan. Ngoài ra, chúng ta cũng cần phải có chiến lược quy hoạch và xây dựng
các dự án sản xuất hàng hóa xuất khẩu trên cơ sở đánh giá đúng tiềm năng và lợi thế của
từng vùng, ưu tiên nhập khẩu các hàng hóa, công nghệ mới áp dụng vào sản xuất. Và
nhân tố vô cùng quan trọng trong quá trình thúc đẩy này đó chính là con người, vậy nên
đào tạo và phát triển nguồn nhân lực đặc biệt (đội ngũ cán bộ đàm phán thương mại) là điều cần thiết.
2.3.2. Một số giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh về giá của các doanh
nghiệp Việt Nam hiện nay
3 WTO (World Trade Organizaton): T chổ c Th ứ ng m ươ i Thếế gi ạ i là m ớ t t ộ ch ổ c quôếc tếế đ ứ ặ t trụ sở ở Genève, Th ụ y
Sĩ, có ch c năng giám sát các hi ứ p đ ệ nh th ị ng m ươ i gi ạ a các n ữ
ướ c thành viến vớ i nhau theo các quy tăếc th ươ ng mại. 16
Trong xu thế toàn cầu hóa, nhất là khi Việt Nam đã là thành viên của WTO và đang
tham gia mạnh mẽ tiến trình khu vực, tiến tới việc hình thành Cộng đồng ASEAN vào
năm 2015, cùng nhiều hiệp định tự do thương mại khác, việc nâng cao năng lực cạnh
tranh trở thành vấn đề sống còn của các doanh nghiệp nói chung.
Nâng cao năng lực cạnh tranh về giá của sản phẩm có nghĩa là doanh nghiệp phải
tìm cách để nâng cao chất lượng sản phẩm, trong khi đó giá thành của sản phẩm phải hạ.
Nhiều doanh nghiệp thành công trong việc cạnh tranh chiếm lĩnh thị trường là do sự khéo
léo, tinh tế chiến thuật giá cả. Nếu doanh nghiệp có thể tìm ra biện pháp giảm giá mà chất
lượng sản phẩm vẫn đảm bảo khi đó lượng tiêu thụ sẽ tăng lên, hiệu quả kinh doanh và lợi
nhuận thu được nhiều hơn. Để làm được điều này, các doanh nghiệp cần có các biện pháp
để tăng năng suất lao động (năng suất lao động tăng làm cho sản phẩm làm ra trong một
đơn vị thời gian nhiều hơn, giá cả hàng hoá từ đó sẽ giảm xuống) và tăng mức độ phức
tạp của lao động (lao động phức tạp tạo ra nhiều sản phẩm chất lượng tốt, đáp ứng nhu
cầu người tiêu dùng). Ngoài ra còn có nhiều biện pháp khác để có thể nâng cao năng lực
cạnh tranh về giá cho sản phẩm. 2.3.2.1. Giải pháp nhằm
nâng cao năng suất lao động của các doanh nghiệp
Các chủ thể sản xuất kinh doanh không ngừng tìm kiếm và ứng dụng tiến bộ khoa
học - công nghệ vào quá trình sản xuất.
Đối với các doanh nghiệp việc áp dụng các tiến độ của khoa học kỹ thuật là một
bước đột phá lớn trong lĩnh vực sản xuất hàng hoá phục vụ nhu cầu của thị trường. Bản
thân các doanh nghiệp vừa phải nỗ lực cải tiến và hoàn thiện công nghệ hiện có, vừa phải
tranh thủ tiếp thu công nghệ tiên tiến của nước ngoài để tạo ra nhiều mặt hàng có chất
lượng với chi phí sản xuất thấp hơn. Đổi mới công nghệ phải căn cứ vào chiến lược kinh
doanh của doanh nghiệp, xu thế phát triển của công nghệ thế giới để lựa chọn công nghệ
phù hợp, sản xuất đáp ứng nhu cầu thị trường trên cơ sở tiết kiệm chi phí. Doanh nghiệp
cần đầu tư đổi mới đồng bộ dứt điểm từng dây chuyền công nghệ những sản phẩm quan
trọng, tránh lãng phí trong đầu tư. Dây chuyền máy móc hiện đại sẽ làm ra nhiều sản 17
phẩm hơn, chất lượng cao, mẫu mã đẹp, sản phẩm đồng đều hơn, giảm bớt sức lao động
chân tay trong mỗi sản phẩm. Như vậy việc áp dụng các tiến bộ của khoa học kỹ thuật,
đổi mới công nghệ không những làm cho năng suất lao động tăng cao, chất lượng sản
phẩm đảm bảo, sản phẩm mang tính đồng nhất cao mà giá thành của sản phẩm cũng có thể hạ.
Ngoài ra, đầu tư đổi mới công nghệ phải đi đôi với quá trình tiếp thu công nghệ
mới và đồng bộ, tiến hành tổ chức lại quản lý. Mỗi doanh nghiệp cũng nên chuẩn bị đội
ngũ cán bộ kỹ thuật và đào tạo công nhân để có khả năng vận hành, sử dụng công nghệ
hiệu quả nhất. Bồi dưỡng về kiến thức chuyên môn kỹ năng, tay nghề còn phải nâng cao
trình độ tổ chức quản lý, tổ chức sản xuất khoa học cho người lao động. Và cần có hệ
thống quản lý hiệu quả. Công tác quản lý rất quan trọng trong việc tăng năng suất của
doanh nghiệp không chỉ quản lý yếu tố về con người mà còn quản lý toàn bộ những yếu
tố đầu vào để cho một kết quả ở đầu ra được hiệu quả nhất.
Đối với Việt Nam nước ta, một nước nông nghiệp với các hàng nông sản là chính.
Việc áp dụng những tiến bộ khoa học vào sản xuất không chỉ làm tăng năng suất lao động
xã hội, kinh tế tăng trưởng nhanh, chất lượng hàng nông sản được chế biến một cách kỹ
càng và đồng nhất qua một hệ thống các dây chuyền sản xuất, tinh chế : cafe, chè,… mà
còn giúp các doanh nghiệp trong sản xuất hàng hóa tăng năng suất lao động, giảm đáng kể
sức lao động của người công nhân dẫn đến chi phí sản xuất giảm, giá cả của hàng hoá từ
đó cũng giảm theo tạo ra lợi thế cạnh tranh cho hàng hóa khi gia nhập thị trường với
những sản phẩm cùng loại.
Hơn hết, tận dụng hiệu quả các yếu tố về tư liệu sản xuất, các điều kiện tự nhiên
nhằm tăng năng suất doanh nghiệp như sử dụng hợp lí các nguồn nguyên liệu sẵn có, giá
rẻ trong nước để đưa vào chế biến, đặt nhà máy ở nơi có vị trí địa lý thuận lợi (như là gần
nguồn nguyên liệu, gần trục giao thông, gần nơi tiêu thụ…) để giảm chi phí sản xuất đến
mức thấp nhất mà vẫn đảm bảo được năng suất. Chi phí sản xuất giảm đồng nghĩa với 18
việc giá thành của sản phẩm cũng giảm theo. Mở rộng quy mô sản xuất và tăng hiệu suất của tư liệu sản xuất.
Bên cạnh đó, để đầu tư đổi mới công nghệ, nhà nước cần có cơ chế và chính sách
khuyến khích nghiên cứu, sản xuất công nghệ mới, tiến bộ như là hỗ trợ kinh phí cho các
chương trình, đề tài nghiên cứu sản xuất ra máy móc thiết bị trong nước, giảm thuế một số
năm đối với những doanh nghiệp đầu tư đổi mới và áp dụng công nghệ mới trong sản
xuất, lập quỹ dự trữ đầu tư phát triển công nghệ mới, tạo điều kiê rn tối đa cử cá nhân hay
tổ chức đi học tập công nghê r tiên tiến từ các quốc gia nước ngoài và trở về áp dụng cho kinh tế nước nhà. 2.3.2.2. Giải pháp nhằm
tăng mức độ phức tạp trong lao động
Mức độ phức tạp của lao động cũng ảnh hưởng nhất định đến số lượng giá trị của
hàng hoá. Trong cùng một thời gian thì lao động phức tạp tạo ra nhiều giá trị hơn lao động
giản đơn. Tăng chất lượng của sản phẩm cần làm cho lao động phức tạp kết tinh trong sản
phẩm nhiều hơn. Mọi cải cách, cải tiến đều phải bắt đầu từ nâng cao chất lượng nguồn
nhân lực, do đó các doanh nghiê rp cần chủ đô rng trang bị cho nhân viên của mình những
kiến thức cần thiết để sẵn sàng cho các dự định trong tương lai. Một sản phẩm làm ra để
có chất lượng tốt đòi hỏi lao động kết tinh trong đó phải phức tạp và tỉ mỉ. Vì vậy, nâng
cao tay nghề, trình độ của lao động rất quan trọng. Hiện nay, đa phần ở nước ta là lao
động thủ công, tay nghề chưa cao. Người lao động Việt Nam cần cù, chăm chỉ, tiếp thu
nhanh tiến bộ khoa học - kĩ thuật nhưng lại chưa được đào tạo phù hợp. Đào tạo nghề cho
lao động ở nước ta là một trong những giải pháp cần thiết. Doanh nghiệp đầu tư mở các
trường dạy nghề, tập huấn kỹ thuật, nâng cao năng lực, cập nhật tri thức, cho người lao
động tiếp cận với những ứng dụng công nghệ tiên tiến…
Trong nền sản xuất hàng hoá sự phân công lao động xã hội đã tạo nên sự chuyên
môn hoá lao động, dẫn tới sự chuyên môn hoá sản xuất. Vì vậy mỗi công nhân phải thành
thạo một ngành nghề của mình để tạo ra một sản phẩm có chất lượng. 19
Ngoài bồi dưỡng kiến thức chuyên môn kỹ năng, tay nghề còn phải nâng cao trình
độ tổ chức quản lý, tổ chức sản xuất khoa học cho người lao động. Cần thông qua các
chương trình đào tạo cụ thể để phù hợp với từng đối tượng, từng ngành nghề và còn có
thể phổ biến cho công nhân các kiến thức liên quan đến chất lượng sản phẩm, giá cả thị
trường, kiến thức về khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp, từ đó nâng cao chất lượng
đội ngũ lao động của nước ta nhằm tạo một lực lượng lao động có đủ khả năng tiếp thu,
thích ứng với môi trường kinh doanh hiện nay.
Vậy nên khi trình độ của người lao động tăng cao cũng có nghĩa là lao động phức
tạp kết tinh trong hàng hóa tăng lên, làm cho sản phẩm làm ra ngày càng có chất lượng,
mẫu mã phù hợp, đáp ứng thị hiếu của người tiêu dùng. Đây chính là một trong những
điều kiện để tăng năng lực cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam ở thị trường trong nước và trên thế giới. 2.3.2.3. Chính sách của chính phủ
Trong thời buổi hội nhập hiện nay, nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của các
doanh nghiệp Việt Nam, nhà nước đã đề ra một số chính sách:
Để giúp doanh nghiệp nâng cao năng lực cạnh tranh, nhà nước trước tiên cần đẩy
mạnh hoàn thiện môi trường pháp lý, cơ chế chính sách đối với doanh nghiệp. Tiêu biểu
trong đó là đẩy mạnh việc giảm chi phí kinh doanh, các chi phí bất hợp lý phát sinh từ
quản lý nhà nước; cắt giảm, đơn giản hóa quy định về đầu tư, đất đai, xây dựng, thuế, bảo
hiểm xã hội để tiết kiệm thời gian, chi phí cho doanh nghiệp cũng như nâng cao chỉ số
môi trường kinh doanh của Việt Nam.
Nhà nước cần đề ra những chính sách để các ngân hàng có thể cải tiến thủ tục cho
vay, đơn giản hóa các loại giấy tờ nhằm tiết kiệm thời gian xét duyệt nhằm giúp doanh
nghiệp dễ dàng tiếp cận đến các nguồn vốn tín dụng. 20