-
Thông tin
-
Quiz
Báo cáo Kinh tế vĩ mô z - Báo cáo kinh tế vĩ mô xịn - Tài liệu tham khảo | Đại học Hoa Sen
Báo cáo Kinh tế vĩ mô z - Báo cáo kinh tế vĩ mô xịn - Tài liệu tham khảo | Đại học Hoa Sen Báo cáo Kinh tế vĩ mô z - Báo cáo kinh tế vĩ mô xịn - Tài liệu tham khảo | Đại học Hoa Senvà thông tin bổ ích giúp sinh viên tham khảo, ôn luyện và phục vụ nhu cầu học tập của mình cụ thể là có định hướng, ôn tập, nắm vững kiến thức môn học và làm bài tốt trong những bài kiểm tra, bài tiểu luận, bài tập kết thúc học phần, từ đó học tập tốt và có kết quả
Marketing (MK191P1) 310 tài liệu
Đại học Hoa Sen 4.8 K tài liệu
Báo cáo Kinh tế vĩ mô z - Báo cáo kinh tế vĩ mô xịn - Tài liệu tham khảo | Đại học Hoa Sen
Báo cáo Kinh tế vĩ mô z - Báo cáo kinh tế vĩ mô xịn - Tài liệu tham khảo | Đại học Hoa Sen Báo cáo Kinh tế vĩ mô z - Báo cáo kinh tế vĩ mô xịn - Tài liệu tham khảo | Đại học Hoa Senvà thông tin bổ ích giúp sinh viên tham khảo, ôn luyện và phục vụ nhu cầu học tập của mình cụ thể là có định hướng, ôn tập, nắm vững kiến thức môn học và làm bài tốt trong những bài kiểm tra, bài tiểu luận, bài tập kết thúc học phần, từ đó học tập tốt và có kết quả
Môn: Marketing (MK191P1) 310 tài liệu
Trường: Đại học Hoa Sen 4.8 K tài liệu
Thông tin:
Tác giả:
Tài liệu khác của Đại học Hoa Sen
Preview text:
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC HOA SEN
BÁO CÁO KINH TẾ VĨ MÔ
Giảng viên : Châu Tấn Lực Ngày 24/2/2021 Nhóm 4: Nguyễn Hữu Thịnh-2151099 Hà Quốc Toản-2174378
NHẬN XÉT, ĐÁNH GIÁ CỦA GIẢNG VIÊN
........................................................................................................................................
........................................................................................................................................
........................................................................................................................................
........................................................................................................................................
........................................................................................................................................
........................................................................................................................................
........................................................................................................................................
........................................................................................................................................
........................................................................................................................................
........................................................................................................................................
........................................................................................................................................
........................................................................................................................................
........................................................................................................................................
........................................................................................................................................
........................................................................................................................................
........................................................................................................................................
........................................................................................................................................
........................................................................................................................................
........................................................................................................................................
........................................................................................................................................
........................................................................................................................................
........................................................................................................................................
........................................................................................................................................
........................................................................................................................................
........................................................................................................................................
........................................................................................................................................
........................................................................................................................................
........................................................................................................................................ LỜI CẢM ƠN
Đầu tiên, nhóm em xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến Trường đã đưa bộ môn kinh tế vĩ mô
vào chương trình giảng dạy. Đặc biệt, em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến giảng viên
bộ môn - thầy Châu Tấn Lực. Chính thầy là người đã tận tình dạy dỗ và truyền đạt những
kiến thức quý báu cho em trong suốt học kỳ vừa qua. Trong thời gian tham dự lớp học
của thầy, em đã được tiếp cận với nhiều kiến thức bổ ích và rất cần thiết cho quá trình học tập, làm việc sau này.
Bộ môn kinh tế vĩ mô là một môn học thú vị và vô cùng bổ ích. Tuy nhiên, những kiến
thức và kỹ năng về môn học này của em vẫn còn nhiều hạn chế. Do đó, bài báo cáo của
nhóm em khó tránh khỏi những sai sót. Kính mong thầy xem xét và góp ý giúp bài tiểu
luận của em được hoàn thiện hơn. MỤC LỤC
CHƯƠNG 1: GIỚI THIỆU ..........................................................................................7 1.a
Khái niệm chính sách tiền tệ :.................................................................7 1.b
Lịch sử của chính sách tiền tệ:................................................................9
CHƯƠNG 2:CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ TRONG THỜI KÌ ĐẠI DỊCH TẠI VIỆT NAM
.................................................................................................................................... 11
2.a Tình hình trước khi dại dịch bùng nổ(2016-2019):....................................11
2.b Ảnh hưởng của dịch Covid-19 lên nền kinh tế VN..................................21
2.c Chính sách tiền tệ sau khi đại dịch bùng nổ:..........................................23
Chương 3:ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ..............................................................................27
Tài liệu tham khảo:..........................................................................................32 I. Giới thiệu (Toản)
a/ Khái niệm chính sách tiền tệ.
Để nền kinh tế của một quốc gia có thể phát triển một cách ổn định, thì đòi hỏi phải có sự điều
hành, điều chỉnh linh hoạt của Chính phủ bằng các công cụ kinh tế vĩ mô để nền kinh tế diễn ra
một cách ổn định và hiệu quả. Trong đó, một trong những công cụ hiệu quả bậc nhất và quan
trọng nhất đó chính là “chính sách tiền tệ”. Chính sách tiền tệ (monetary policy) là chính sách sử
dụng các công cụ của hoạt động tín dụng và ngoại hối để điều chỉnh khối lượng tiền tệ trong nền
kinh tế, từ đó ổn định nền kinh tế và thúc đẩy nền kinh tế trong nước tăng trưởng và phát triển ổn định.
Tác dụng chủ yếu của “chính sách tiền tệ” là do các cơ quan quản lý tiền tệ và ở một số nước
trong đó có Việt Nam được Ngân hàng Trung ương thực hiện điều hành, quản lý nguồn cung của
tiền tệ trong nền kinh tế, qua đó thay đổi linh hoạt được khối lượng tiền tệ nhằm hướng tới
những mục tiêu kinh tế phù hợp với từng giai đoạn và bối cảnh của một nền kinh tế trong một
thời điểm, như là: kiềm chế lạm phát hoặc kích thích nền kinh tế đang suy thoái,…
“Chính sách tiền tệ” có vai trò cực kì quan trọng đối với nền kinh tế, nó được ví như mạch máu
của một nền kinh tế, đặc biệt với một nền kinh tế mở như hiện nay. Còn Ngân hàng Trung ương
thì được xem là trái tim của nền kinh tế, việc điều hành chính sách tiền tệ của ngân hàng nhà
nước nhằm đạt được những mục đích ổn định và tăng trưởng kinh tế như kiềm chế lạm phát, duy
trì ổn định tỷ giá hối đoái, đạt được toàn dụng lao động hay tăng trưởng kinh tế.
( Ngân hàng Trung ương Việt Nam) Các chính sách tiền tệ.
Việc thực hiện một chính sách tiền tệ của Ngân hàng Trung ương còn phụ thuộc vào tình hình
kinh tế đang gặp phải. Để đưa ra một chính sách tiền tệ hiệu quả chủ yếu dựa vào tổng cầu của
nền kinh tế, từ đó Ngân hàng Trung ương sẽ thực hiện một loạt các thao tác nhằm kích thích
hoặc làm giảm tổng cầu của các thành phần trong nền kinh tế. Một nền kinh tế lúc này có thể
đang tăng trưởng nhanh nhưng tiềm ẩn nguy cơ lạm phát và một lúc nào đó lại tăng trưởng chậm
chạp, đối mặt với nguy cơ suy thoái, vì vậy mà Ngân hang Trung ương sẽ thực hiện những chính
sách linh hoạt, phù hợp để đem đến sự ổn định cho nền kinh tế và kiềm chế lạm phát.
Chính sách thắt chặt (Tight Monetary Policy) : chính sách tiền tệ thắt chặt bao gồm một loạt
các thao tác nhằm làm giảm lượng tiền tệ trong nền kinh tế, từ đó dập tắt nguy cơ lạm phát do
nền kinh tế tăng trưởng quá nóng, kiểm soát lại chi tiêu cũng như cân bằng lại tổng cầu của các
thành phần nền kinh tế. Khi lượng tiền lưu thông trong nền kinh tế nhiều hơn so với số lượng
hàng hóa mà nền kinh đó đáp ứng được, trong khi càng có nhiều tiền thì nhu cầu về hàng hóa cua
các thành phần trong nền kinh tế lại càng tăng, từ đó dẫn đến giá cả leo thang do mất cân bằng về
cung – cầu, ngoài ra giá cả tăng cao cũng gây thâm hụt cán cân thương mại, từ một nền kinh tế
đang tăng trưởng nếu không có một chính sách tiền tệ hợp lý sẽ lại trở lên suy thoái.
Chính sách mở rộng (Expansionary Policy): ngược lại với chính sách thắt chặt đó là chính
sách tiền tệ mở rộng, đây cũng là chính sách bao gồm các thao tác điều hành của Ngân hàng
Trung ương nhằm điều chỉnh tăng khối lượng tiền tệ đang lưu thông trong nền kinh tế. Đây còn
được gọi là chính sách bành chướng được nhà kinh tế học J.M.Keynes đề xuất và được thực hiện
sau cuộc suy thoái năm 1930. Suy thoái kinh tế dẫn đến thiếu hụt đi tổng cầu cần có để kích thích
các thành phần trong nền kinh tế đó hoạt động . Do đó chính sách mở rộng là bao gồm các hành
động nhằm bơm tiền vào một nền kinh tế suy thoái. Việc tăng lượng tiền lưu thông nhằm kích
thích đầu tư kinh doanh, tạo việc làm và kích thích tiêu dùng. Một nền kinh tế đang trì trệ nhờ đó
mà trở lên sôi động và tăng trưởng trở lại.
b/ Lịch sử của chính sách tiền tệ.
Trong suốt chiều dài lịch sử giao thương, buôn bán ta có thể cho rẳng nó luôn gắn liền
với tiền tệ. Khi suy nghĩ về của cải và sự giàu có, con người chưa bao giờ không để tâm
đến ảnh hưởng của tiền tệ, một hàng hóa tuy cũng là để tao đổi nhưng lại có vai trò đặc
biệt. Tiền tệ đặc biệt không chỉ vì nó có nhiều công dụng (trao đổi, cất giữ giá trị, đo
lường giá trị, phương tiện thanh toán) hơn các loại hàng hóa khác, mà nó đặc biệt vì luôn
hiện lên trong đầu mỗi khi người ta nghĩ đến sự giàu có và thịnh vượng. Ngay cả những
triết gia, những nhà kinh tế học mỗi khi họ suy nghĩ về một nền kinh tế khỏe mạnh và
đúng mực thì tiền tệ luôn chiếm được vị trí trong tư duy của họ. Do đó, từ rất lâu các
quốc gia đã có những chính sách liên quan đến tiền tệ nhằm mang đến sự thịnh vượng.
Và cũng do cách nhìn nhận về sự thịnh vượng của mỗi thời đại là khác nhau cho nên mỗi
thời đại lại có những chính sách về tiền tệ khác nhau. Nếu nhìn lại lịch sử, nền kinh tế
mỗi thời kỳ là có lúc thịnh vượng rồi lại suy thoái và ngược lại, từ đó cho nhân loại
những kiến thức sâu sắc hơn về tiền tệ và những ảnh hưởng to lớn đến nền kinh tế thông qua chính sách tiền tệ.
Từ thế kỷ XVI cho đến cuối kể XVIII, do ảnh hưởng từ phái trọng thương, quan điểm về
sự thịnh vượng nằm ở số lượng của cải (vàng, bạc) , mà của cải (vàng, bạc) tích trữ được
là do thặng dư từ thương mại với các quốc gia khác. Do đó, đã có các chính sách giảm
thuế và hơn hết là việc cắt xén bớt trọng lượng trong mỗi đồng vàng, nhằm đạt được
thặng dư trong thương mại. Gía cả của hàng hóa từ đó mà ngày càng leo thang do khối
lượng vàng nhiều hơn là số lượng hàng hóa mà quốc gia đó có thể tạo ra. Lợi thế trong
thương mại từ đó mất đi. Từ đó mà khiến cho quan điểm về tiền tệ của các nhà kinh tế
học giai đoạn cổ điển, tân cổ điển đã thay đổi, các chính sách tiền tệ từ đó mà ít được chú
ý tới, tuy nhiên sự ảnh hưởng của tiền tệ đối với nền kinh tế vẫn đặc biệt quan trọng.
Cho đến đầu thế kỷ XX, nền kinh tế thê giới trải qua một giai đoạn đình trệ do thiếu hụt
lượng cung tiền cần để kích thích, chỉ sau khi phát hiện được những mỏ vàng mới thì nền
kinh tế mới chuyển động trở lại. Vai trò của chính sách tiền tệ
Chính sách gia tăng chi tiêu chính phủ được J.M.Keynes đề xuất và được thực hiện, nhằm
giải quyết tình trạng đình trệ của nền kinh lúc bấy giờ đi cùng với tình trạng thất nghiệp.
Việc được chính phủ bơm tiền thì nền kinh tế đã sôi động trở lại, chính sách tiền tệ bành
chướng của ông bao gồm giảm lãi suất để kích thích đầu tư kinh doanh và đầu tư của
chính phủ vào các công trình, nhờ đó mà nền kinh tế tăng trưởng trở lại và thất nghiệp
được giải quyết. Tuy nhiên, sau đó đã dẫn đến tình trạng lạm phát do mất cân bằng giữa
số lượng tiền tệ và số lượng hàng hóa.
Điều này được M. Friedman giải thích rằng, trong bất cứ nền kinh tế nào cũng có một lực
lượng thất nghiệp tự nhiên, việc làm tăng nguồn cung tiền vào nền kinh tế để làm giảm tỷ
lệ thất nghiệp tự nhiên sẽ dẫn đến tình trạng lạm phát. Một chính sách tiền tệ mới được đề
ra, chính sách tiền tệ không chỉ để kích thích nền kinh tế mà còn để điều chỉnh một khối
lượng tiền tệ nhất định trong nền kinh tế sao cho cân bằng với sản lượng hàng hóa. Ngân
hàng Trung ương có vai trò điều tiết lượng tiền tệ lưu thông trong nền kinh tế thông tỷ lệ
dự trự bắt buộc, lãi suất chiết khấu, lãi suất tiền gửi sử dụng séc và việc mua bán chứng khoán chính phủ
c/ Tác động của chính sách tiền tệ. (trong tài liệu của thầy) - Khi Yt- Khi Yt>Yp II.
Chính sách tiền tệ trong thời kỳ đại dịch Covid – 19 tại Việt Nam.
a/ tình hình trước khi đại dịch bùng nổ (2016-2019) (Đăng)
1/ Tình hình chính sách tiền tệ trước khi đại dịch bùng nổ(2016-2019) Giaiđoạn: 2016
Chính sách tiền tệ trong thời kỳ đại dịch Covid-19 tại Việt Nam
1/ Tình hình chính sách tiền tệ trước khi đại dịch bùng nổ (2016-2019) Giai đoạn: 2016
Kết quả điều hành CSTT và hoạt động ngân hàng trong năm 2016 đã đạt được 7 điểm nổi bật.
Một là, NHNN điều hành cung tiền hợp lý tạo điều kiện cho các TCTD ổn định lãi suất huy
động, có điều kiện phấn đấu giảm lãi suất cho vay và hỗ trợ việc phát hành thành công khối
lượng lớn TPCP với lãi suất thấp, đồng thời hỗ trợ ổn định tỷ giá và đảm bảo kiểm soát lạm phát.
Các chỉ tiêu tiền tệ tăng đúng định hướng NHNN đề ra từ đầu năm. Đến ngày 29/12/2016, tổng
phương tiện thanh toán tăng 17,88%, huy động vốn tăng 18,38% so với cuối năm 2015. Lạm
phát cơ bản được kiểm soát ổn định và cả năm đạt 1,87%, góp phần quan trọng trong việc thực
hiện kiểm soát lạm phát CPI cả năm 4,74%, đạt mục tiêu dưới 5% của Quốc hội đề ra. Thanh
khoản của hệ thống được đảm bảo và có dư thừa, thị trường liên ngân hàng hoạt động thông suốt.
Hai là, mặc dù có áp lực tăng nhưng với việc thực hiện linh hoạt các giải pháp của NHNN, mặt
bằng lãi suất được giữ ổn định, một số TCTD giảm lãi suất cho vay để hỗ trợ sản xuất kinh
doanh. Mặt bằng lãi suất huy động sau khi tăng 0,2-0,3%/năm trong 3 tháng đầu năm thì từ tháng
4 đã ổn định, đặc biệt giữa tháng 4 và từ cuối tháng 9/2016, một số TCTD đã giảm 0,3-0,5%/năm
lãi suất huy động, giảm khoảng 0,5-1%/năm lãi suất cho vay đối với sản xuất kinh doanh, lĩnh
vực ưu tiên. Lãi suất cho vay hiện phổ biến khoảng 6-9%/năm đối với kỳ hạn ngắn và 9-
11%/năm đối với trung và dài hạn; đối với khách hàng tốt, lãi suất cho vay ngắn hạn từ 4- 5%/năm.
Ba là, tỷ giá và thị trường ngoại hối diễn biến tương đối ổn định trong bối cảnh chịu sức ép từ
những biến động khó lường trên thị trường quốc tế. Từ đầu năm 2016, NHNN thực hiện công bố
tỷ giá trung tâm biến động linh hoạt hàng ngày theo sát diễn biến thị trường trong, ngoài nước và
phù hợp với mục tiêu CSTT đã giúp hạn chế các cú sốc bên ngoài và giảm tâm lý găm giữ ngoại
tệ, hỗ trợ cho sự ổn định của tỷ giá và thị trường ngoại tệ. So với đầu năm, tỷ giá VND/USD tăng
khoảng 1,1-1,2%, thanh khoản thị trường tốt, các nhu cầu ngoại tệ hợp pháp được đáp ứng đầy đủ, kịp thời.
Tại một số thời điểm tỷ giá tăng do yếu tố tâm lý bởi biến động trên thị trường quốc tế như sự
kiện Brexit, kết quả bầu cử tổng thống Mỹ, Fed tăng lãi suất nhưng đã nhanh chóng ổn định trở
lại. Tâm lý găm giữ ngoại tệ giảm, hệ thống TCTD mua ròng lượng lớn ngoại tệ từ nền kinh tế,
nhờ đó, NHNN mua được lượng lớn ngoại tệ bổ sung dự trữ ngoại hối Nhà nước.
Bốn là, diễn biến tín dụng và cơ cấu tín dụng phù hợp với chỉ tiêu và định hướng điều hành của
NHNN. Đến ngày 29/12/2016, tín dụng tăng 18,71% so với cuối năm 2015. Cơ cấu tín dụng diễn
biến tích cực theo hướng mở rộng tín dụng đi đôi với an toàn, chất lượng, tập trung chủ yếu cho
lĩnh vực sản xuất kinh doanh, tín dụng đối với lĩnh vực đầu tư, kinh doanh bất động sản chậm lại.
Tín dụng VND tăng cao trong khi tín dụng ngoại tệ tăng thấp, phù hợp với chủ trương chống đô la hóa của Chính phủ.
Các chương trình, chính sách tín dụng ngành, lĩnh vực, người nghèo và các đối tượng chính sách
khác theo chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ tiếp tục được hệ thống ngân hàng đẩy
mạnh triển khai có hiệu quả, góp phần phát triển kinh tế.
Năm là, với việc tiếp tục triển khai đồng bộ các giải pháp quản lý hoạt động kinh doanh vàng
theo Nghị định 24/2012/NĐ-CP của Chính phủ, thị trường vàng trong năm 2016 về cơ bản ổn
định và tự điều tiết tốt. Vào những thời điểm thị trường vàng thế giới biến động mạnh nhưng thị
trường vàng trong nước tương đối ổn định. Sức hấp dẫn của vàng miếng suy giảm, doanh số
mua, bán vàng đã giảm nhiều so với những năm trước. Thị trường vàng trong nước điều tiết tốt,
nguồn vốn bằng vàng đang có xu hướng chuyển thành tiền hoặc các tài sản khác để phục vụ phát triển kinh tế-xã hội.
Sáu là, với việc triển khai quyết liệt, đồng bộ các giải pháp, công tác thanh tra, giám sát và tái cơ
cấu, xử lý nợ xấu đạt được những kết quả tích cực. Các ngân hàng yếu kém được kiểm soát, tái
cơ cấu, giám sát chặt chẽ hoạt động; các tồn tại, yếu kém tiếp tục được chấn chỉnh, xử lý dứt
điểm. Nợ xấu được giữ ổn định ở mức dưới 3%, đến 30/11/2016, tỷ lệ nợ xấu ước tính còn
khoảng 2,46%. Từ đầu năm 2016 đến hết 30/11/2016, VAMC đã thực hiện mua 839 khoản nợ,
với tổng dư nợ gốc là 23.283 tỷ đồng, giá mua nợ là 22.483 tỷ đồng.
Bảy là, hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt và công nghệ, dịch vụ ngân hàng tiếp tục được
phát triển mạnh mẽ, phù hợp với xu thế thanh toán của các nước trong khu vực và trên thế giới.
NHNN đã chủ động theo dõi, giám sát và kịp thời ban hành văn bản chỉ đạo TCTD về các vấn đề
an ninh, an toàn trong hoạt động thanh toán. Các dịch vụ, phương tiện thanh toán không dùng
tiền mặt được phát triển mạnh và đa dạng với nhiều sản phẩm, phương tiện mới, an toàn, tiện lợi,
đáp ứng tốt hơn nhu cầu thanh toán của khách hàng.
Đồng thời với các giải pháp nêu trên, các mặt hoạt động ngân hàng khác tiếp tục được NHNN
triển khai quyết liệt và có hiệu quả phục vụ đắc lực cho công tác điều hành CSTT và quản lý Nhà
nước về hoạt động ngân hàng, góp phần quan trọng trong việc đạt được các mục tiêu đề ra từ đầu năm.
Tại buổi họp báo, Phó Thống đốc Nguyễn Thị Hồng đã trả lời báo giới một số nội dung liên quan
tới điều hành CSTT và hoạt động ngân hàng. Theo Phó Thống đốc, năm 2017 Quốc hội đã thông
mục tiêu tăng trưởng kinh tế ở mức 6,7% và lạm phát ở mức 4%. Mặc dù năm 2016, lạm phát ở
mức 4,74% nhưng năm 2017 lạm phát tính theo cách tính lạm phát bình quân mà để đưa lạm
phát bình quân thì việc kiểm soát lạm phát cũng gặp nhiều khó khăn.
Theo Phó Thống đốc Nguyễn Thị Hồng, trên cơ sở chủ trương của Quốc hội, chỉ đạo của Chính
phủ và các đánh giá, nhận định về tình hình kinh tế, vĩ mô, tiền tệ năm 2017, NHNN điều hành
CSTT chủ động, linh hoạt các công cụ CSTT phù hợp với diễn biến trên thị trường thế giới và
trong nước để thực hiện mục tiêu CSTT, phối hợp chặt chẽ với chính sách tài khóa và các chính
sách kinh tế vĩ mô khác nhằm bảo đảm ổn định các cân đối vĩ mô và kiểm soát lạm phát, hỗ trợ
tăng trưởng kinh tế ở mức hợp lý.
Cụ thể, năm 2017, NHNN đã đưa ra chỉ tiêu định hướng tăng trưởng tín dụng khoảng 18% và
tổng phương tiện thanh toán khoảng từ 16-18%. Đó là mục tiêu định hướng để hỗ trợ cho mục
tiêu tăng trưởng kinh tế 6,7% và lạm phát kiểm soát lạm phát ở mức 4%. Giai đoạn: 2017
Ngân hàng nhà nước đã thực hiện đồng bộ, linh hoạt các công cụ CSTT để ổn định thị trường
tiền tệ, góp phần kiểm soát lạm phát, tạo điều kiện thuận lợi để TCTD giảm lãi suất cho vay và
tăng cường khả năng cung ứng tín dụng cho nền kinh tế, góp phần hỗ trợ tăng trưởng kinh tế đạt
6,81% (cao nhất trong 10 năm và cao hơn mục tiêu 6,7%). Ước cả năm, tổng phương tiện thanh
toán (M2) tăng khoảng 16%, sát với chỉ tiêu định hướng đề ra khoảng 16-18% từ đầu năm.
Ổn định và giảm mặt bằng lãi suất
NHNN tiếp tục tập trung triển khai các giải pháp giảm lãi suất cho vay nhằm góp phần hỗ trợ
doanh nghiệp và tăng trưởng kinh tế. Trong điều kiện lãi suất chịu áp lực gia tăng trong 6 tháng
đầu năm 2017, NHNN đã nỗ lực điều hành CSTT đảm bảo thanh khoản cho TCTD, duy trì lãi
suất liên ngân hàng ở mức hợp lý, góp phần ổn định và giảm mặt bằng lãi suất thị trường.
Từ ngày 10/7/2017, để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế theo chỉ đạo của Chính phủ, trên cơ sở diễn
biến lạm phát có chiều hướng tăng châ ”
m và có khả năng kiểm soát theo mục tiêu 4% được Quốc
hội đề ra, hoạt động các TCTD diễn biến tích cực, NHNN đã giảm 0,25%/năm các mức lãi suất
điều hành; giảm 0,5%/năm trần lãi suất cho vay ngắn hạn đối với các lĩnh vực ưu tiên.
Kết quả, các TCTD đã giảm 0,5%/năm lãi suất cho vay ngắn hạn đối với các lĩnh vực ưu tiên;
tích cực giảm lãi suất thông qua một số chương trình tín dụng hỗ trợ phát triển doanh nghiệp với
lãi suất thấp hơn trần của NHNN (thấp hơn khoảng 0,5-1%/năm); giảm lãi suất một số chương
trình cho vay trung dài hạn đối với lĩnh vực ưu tiên xuống còn khoảng 8%/năm; triển khai các
gói tín dụng ngắn hạn và trung dài hạn đa dạng với lãi suất ưu đãi cho các ngành thiết yếu trong
phát triển kinh tế và an sinh xã hội; áp dụng lãi suất cho vay ngắn hạn đối với khách hàng có tình
hình tài chính lành mạnh, xếp hạng tín nhiệm cao khoảng 4-5%/năm.
Tín dụng tăng 18,17%
NHNN đã mở rộng tín dụng đi đôi với an toàn chất lượng tín dụng, đảm bảo cung ứng vốn cho
nền kinh tế, tạo điều kiện thuận lợi trong tiếp cận vốn ngân hàng. Nhờ thực hiện đồng bộ nhiều
giải pháp, nguồn vốn tín dụng đã được khơi thông và tăng trưởng tốt ngay từ đầu năm, hỗ trợ
tích cực cho tăng trưởng kinh tế (Đến ngày 31/12/2017, tín dụng tăng 18,17%).
Đáng chú ý tín dụng tập trung chủ yếu vào lĩnh vực sản xuất kinh doanh (chiếm khoảng 80%
tổng dư nợ), trong đó tín dụng đối với một số lĩnh vực ưu tiên theo chỉ đạo của Chính phủ diễn
biến tích cực. Tín dụng đối với lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro như kinh doanh bất động sản, chứng
khoán được kiểm soát đã tăng với tốc độ chậm lại. Cụ thể: Đến cuối tháng 11/2017, tín dụng cho
lĩnh vực xuất khẩu tăng 14,03% so với cuối năm 2016; tín dụng đối với doanh nghiệp ứng dụng
công nghệ cao tăng 20%; tín dụng đối với lĩnh vực công nghiệp ưu tiên tăng 22,13%; Tín dụng
đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa tăng 11,53%; Dư nợ tín dụng đối với lĩnh vực nông nghiệp,
nông thôn tăng khoảng 22%....
Tỷ giá và thị trường ngoại tệ cơ bản ổn định
NHNN tiếp tục điều hành linh hoạt tỷ giá trung tâm; trong điều kiện nguồn cung ngoại tệ dồi
dào, điều chỉnh linh hoạt tỷ giá mua ngoại tệ phù hợp với diễn biến thị trường để mua ngoại tệ bổ
sung dự trữ ngoại hối Nhà nước. Đồng thời thực hiện linh hoạt các công cụ CSTT để duy trì
chênh lệch lãi suất VND và USD ở mức hợp lý, điều hành thanh khoản tiền đồng để vừa hỗ trợ
ổn định tỷ giá khi cần thiết, vừa hỗ trợ thực hiện mục tiêu ổn định lãi suất trên thị trường 1 (huy
động của các ngân hàng từ dân cư và tổ chức kinh tế). Theo đánh giá của Bloomberg, đồng Việt
Nam là một trong những đồng tiền ổn định nhất Châu Á. Thanh khoản thị trường thông suốt, các
nhu cầu ngoại tệ hợp pháp của nền kinh tế được đáp ứng đầy đủ, kịp thời, hệ thống các TCTD
mua ròng ngoại tệ từ tổ chức, cá nhân với khối lượng lớn, từ đó có điều kiện bán lại cho NHNN
để bổ sung Dự trữ ngoại hối Nhà nước.
Thị trường vàng ổn định
Từ đầu năm 2017 đến nay, giá vàng trong nước diễn biến tương đối ổn định và biến động trong
biên độ hẹp ngay cả khi giá vàng quốc tế diễn biến phức tạp. Nhu cầu vàng miếng trong nền kinh
tế ngày càng suy giảm, doanh số mua, bán vàng miếng trong hệ thống duy trì ở mức thấp. Thị
trường không xuất hiện các “cơn sốt” vàng miếng; không còn tình trạng đầu cơ, làm giá gây bất
ổn đến tỷ giá, thị trường ngoại tệ và sự ổn định kinh tế vĩ mô. Một phần nguồn vốn bằng vàng đã
bước đầu được chuyển hóa để phục vụ phát triển kinh tế - xã hội.
Nợ xấu tiếp tục được kiểm soát và duy trì ở mức dưới 3%
Trong năm 2017, khuôn khổ pháp lý về cơ cấu lại hệ thống các TCTD gắn với xử lý nợ xấu đã
dần được hoàn thiện. NHNN đã xây dựng và trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án “Cơ
cấu lại hệ thống các TCTD gắn với xử lý nợ xấu giai đoạn 2016-2020” tại Quyết định số
1058/QĐ-TTg ngày 19/7/2017 (Đề án 1058). Bên cạnh việc xây dựng Đề án 1058, để khắc phục
các khó khăn, vướng mắc, bất cập về pháp lý trong quá trình xử lý nợ xấu, tài sản bảo đảm của
TCTD, NHNN đã trình Chính phủ, Quốc hội xem xét thông qua Nghị quyết số 42/2017/QH14
ngày 21/6/2017 về thí điểm xử lý nợ xấu của các TCTD (Nghị quyết số 42).
Nghị quyết 42 đã tạo lập cơ sở pháp lý thuận lợi hơn cho việc xử lý nợ xấu, tài sản bảo đảm của
các TCTD, tổ chức mua bán nợ xấu. Để triển khai các nhiệm vụ tại Nghị quyết 42 và Quyết định
1058, NHNN đã tham mưu Thủ tướng Chính phủ ban hành các Chị thị, văn bản chỉ đạo triển
khai trên toàn hệ thống, đồng thời tổ chức Hội nghị trực tuyến toàn quốc triển khai Nghị quyết số
42 và Quyết định 1058 để quán triệt các đơn vị trong ngành và các TCTD triển khai các nhiệm
vụ được giao tại Nghị quyết số 42 và Đề án 1058, yêu cầu các TCTD xây dựng phương án cơ
cấu lại gắn với xử lý nợ xấu và kế hoạch xử lý nợ xấu trình NHNN phê duyệt.
Đồng thời, để đảm bảo hoạt động ngân hàng được an toàn, lành mạnh và bền vững hơn, NHNN
cũng phối hợp các Bộ, ngành xây dựng và hoàn thiện Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung Luật Các TCTD.
Tháng 11 vừa qua, Quốc hội khóa XIV đã chính thức thông qua Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung
một số điều của Luật các TCTD (có hiệu lực từ ngày 15/01/2018). Việc Luật sửa đổi, bổ sung
một số điều của Luật các TCTD được Quốc hội thông qua là yếu tố quan trọng, có tính lâu dài và
quyết định để thực hiện hiệu quả và khả thi việc tái cơ cấu hệ thống TCTD gắn với xử lý nợ xấu,
qua đó góp phần phát triển kinh tế trong giai đoạn mới và khắc phục những khó khăn, vướng
trong công tác cơ cấu lại các TCTD trong giai đoạn trước, tạo nền tảng cho sự phát triển an toàn,
hiệu quả của hệ thống TCTD, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền.
Với việc triển khai quyết liệt, đồng bộ các giải pháp, công tác thanh tra, giám sát và tái cơ cấu,
xử lý nợ xấu đạt được những kết quả tích cực. Sự ổn định, an toàn hệ thống được giữ vững. Nợ
xấu tiếp tục được kiểm soát và duy trì ở mức dưới 3%.
Cải thiện môi trường kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ, ngân hàng
Trong công tác chỉ đạo điều hành CCHC, NHNN đã chỉ đạo quyết liệt các đơn vị chấp hành tốt
kỷ cương hành chính, cải cách thủ tục hành chính nội bộ, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông
tin trong hoạt động quản lý và tác nghiệp.
NHNN đã sớm phê duyệt và tổ chức triển khai Đề án điều tra sự hài lòng của người dân, doanh
nghiệp với hoạt động giải quyết thủ tục hành chính của NHNN; Ban hành Danh mục tổng thể
chế độ báo cáo và tổ chức rà soát theo đúng Quyết định của Thủ tướng Chính phủ. Qua đó đóng
góp quan trọng vào việc cải thiện chỉ số tiếp cận tín dụng nói riêng và môi trường kinh doanh nói
chung, hỗ trợ doanh nghiệp, người dân trong tiếp cận vốn ngân hàng.
Nhờ đó, chỉ số “Tiếp cận tín dụng” của Việt Nam năm 2018 đã được Ngân hàng Thế giới xếp
hạng 29/190, tăng 3 bậc và đứng thứ 4 trong ASEAN, sau Brunei (xếp hạng 2/190), Malaysia và
Campuchia (xếp hạng 20/190). Theo kết quả xếp hạng chỉ số CCHC (Par Index) công bố trong
năm 2017, NHNN tiếp tục giữ vị trí dẫn đầu trong số các Bộ, ngành năm 2016. Đây là năm thứ
hai liên tiếp NHNN giữ vị trí thứ nhất.
Thúc đẩy thanh toán không dùng tiền mặt
NHNN đã ban hành Kế hoạch của ngành triển khai Đề án phát triển thanh toán không dùng tiền
mặt tại Việt Nam giai đoạn 2016-2020; Thành lập Ban Chỉ đạo về lĩnh vực công nghệ tài chính
của NHNN nhằm hoàn thiện hệ sinh thái, hoàn thiện khuôn khổ pháp lý tạo thuận lợi cho các
doanh nghiệp Fintech ở Việt Nam ra đời và phát triển. Đồng thời, NHNN đã chủ động theo dõi,
giám sát và kịp thời ban hành văn bản chỉ đạo TCTD về các vấn đề an ninh, an toàn trong hoạt động thanh toán.
Các dịch vụ, phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt được phát triển mạnh và đa dạng với
nhiều sản phẩm, phương tiện mới, an toàn, tiện lợi, đáp ứng tốt hơn nhu cầu thanh toán của
khách hàng. Ngoài ra, công tác truyền thông về hoạt động thanh toán và dịch vụ ngân hàng được
đẩy mạnh, nhằm cung cấp kiến thức, thay đổi thói quen của người tiêu dùng trong sử dụng dịch
vụ tài chính trên nguyên tắc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người sử dụng dịch vụ tài
chính đó; đồng thời đẩy mạnh thực hiện Đề án thúc đẩy thanh toán không dùng tiền mặt tại Việt
Nam và Đề án tăng cường khả năng tiếp cận dịch vụ tài chính.
Nhờ đó, hoạt động thanh toán tiếp tục có nhiều chuyển biến tích cực, hạ tầng cho thanh toán thẻ
được cải thiện về chất lượng, số lượng khách hàng sử dụng thanh toán điện tử qua Internet, điện
thoại di động tăng khá nhanh. Các tiện ích, an toàn trong thanh toán điện tử đã góp phần cải thiện
và thúc đẩy thanh toán không dùng tiền mặt trong khu vực dân cư. Giai đoạn: 2018
Điểm sáng nhất của chính sách tiền tệ năm 2018 phải kể đến việc điều hành cung tiền ra thị
trường hợp lý, hiệu quả, tín dụng đang dần được kiểm soát chặt chẽ để đảm bảo mục tiêu ổn định
vĩ mô. Con số được Tổng cục Thống kê đưa ra cho thấy, đến hết ngày 20/12, tăng trưởng tín
dụng của nền kinh tế đạt 13,30%. Theo đại diện Ngân hàng Nhà nước (NHNN), ước tăng tín
dụng cả năm 2018 vào khoảng 15%, thấp hơn mục tiêu 17% đưa ra đầu năm. Tuy nhiên, điều
đáng nói là dòng tiền đã đi đúng hướng, vào đúng các lĩnh vực ưu tiên, các ngành sản xuất chế
biến, chế tạo. Hiện tín dụng cho khu vực nông nghiệp nông thôn đã tăng hơn 15%; tín dụng dành
cho lĩnh vực công nghiệp chế biến, chế tạo tăng khoảng hơn 14% so với cuối năm trước và đều
cao hơn mức tăng trưởng chung của toàn ngành ngân hàng.
Nếu như những năm trước đó, tăng trưởng tín dụng thường khá cao để đảm bảo các mục tiêu
tăng trưởng vĩ mô thì năm 2018, xu hướng này đã có sự thay đổi. Phân tích kỹ hơn về vấn đề
này, Ủy Ban giám sát tài chính Quốc gia (NFSC) cho rằng, đối với thị trường ngân hàng, tốc độ
tăng M2 và tín dụng đều có xu hướng giảm. Đến cuối năm 2018, M2/GDP ước khoảng 168%,
tăng thấp hơn so với bình quân giai đoạn 2012-2016. Tín dụng năm 2018 ước tăng 14-15%, thấp
hơn 3-4 điểm % so với năm 2017. Tỷ lệ tín dụng/GDP khoảng 134%. Hệ số chênh lệch tín
dụng/GDP tăng 1,7 điểm % so với cùng kỳ năm 2017, mức tăng thấp nhất kể từ năm 2015.
“Cung tiền, tín dụng đang dần được kiểm soát chặt chẽ để đảm bảo mục tiêu ổn định vĩ mô”- đại diện NFSC nhận định.
Một mảng sáng nữa trong bức tranh ngân hàng năm 2018 là tình hình xử lý nợ xấu. Theo báo cáo
từ các tổ chức tín dụng, tỷ lệ nợ xấu đã giảm so với cuối năm 2017, ở mức 2,4% (năm 2017:
2,5%). Dự phòng rủi ro tín dụng tăng khoảng 30,1% so với cuối năm 2017. Tỷ lệ dự phòng rủi ro
tín dụng so với nợ xấu báo cáo cải thiện lên mức 78,2% (năm 2017: 65,4%). Giá trị xử lý nợ xấu
năm 2018 tăng khoảng 30% so với năm 2017. Trong đó, sử dụng dự phòng rủi ro tín dụng chiếm
59,8%; thu nợ từ khách hàng chiếm 33,2%; bán phát mại tài sản chiếm 3%, còn lại bằng các hình
thức khác. Một số ngân hàng đã tất toán toàn bộ nợ xấu đã bán cho VAMC hoặc chủ động mua
lại các khoản nợ đã bán cho VAMC để tự xử lý. Sau hơn một năm thực hiện Nghị quyết 42, hệ
thống tổ chức tín dụng xử lý được khoảng 30% nợ xấu xác định tại thời điểm ngày 15/8/2017. Giai đoạn: 2019
Tại Việt Nam, 2019 cũng là năm chứng kiến nhiều sự thay đổi về chính sách tiền tệ, theo hướng
linh hoạt để đảm bảo các mục tiêu điều hành. Đặc biệt, chỉ trong một thời gian ngắn 3 tháng cuối
năm, Ngân hàng Nhà nước đã liên tục có những điều chỉnh mới. Đây được xem như những bước
chuẩn bị, tạo nền cho năm mới 2020.
Giảm một loạt các loại lãi suất điều hành
Ngày 16/9, Ngân hàng Nhà nước công bố quyết định giảm 0,25 điểm phần trăm đối với một loạt
lãi suất điều hành, bao gồm lãi suất tái cấp vốn, lãi suất tái chiết khấu; lãi suất cho vay qua đêm
trong thanh toán điện tử liên ngân hàng và cho vay bù đắp thiếu hụt vốn trong thanh toán bù trừ
của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đối với các ngân hang và lãi suất chào mua giấy tờ có giá
qua nghiệp vụ thị trường mở.
Đây là lần đầu tiên Ngân hàng Nhà nước điều chỉnh lãi suất điều hành kể từ tháng 10/2017.
Hai tháng sau, ngày 19/11, Ngân hàng Nhà nước tiếp tục phát đi thông báo về việc ban hành 2
quyết định về việc điều chỉnh giảm lãi suất tiền gửi tối đa bằng VND và lãi suất cho vay ngắn
hạn tối đa bằng VND của tổ chức tín dụng đối với một số lĩnh vực, ngành kinh tế.
Đến cuối tháng 11, để hỗ trợ thanh khoản không còn quá dồi dào, Ngân hàng Nhà nước tăng
mạnh khối lượng chào thầu OMO; đặc biệt, Nhà điều hành đã lần thứ 2 trong năm giảm lãi suất OMO, xuống còn 4%/năm.
Và mới đây nhất, nhà điều hành tiếp tục ban hành quyết định giảm lãi suất đối với tiền gửi dự trữ
bắt buộc của các tổ chức tín dụng từ mức 1,2% xuống còn 0,8%/năm.
Nắm dòng, siết vốn ngắn hạn cho vay trung dài hạn
Ngày 15/11/2019, Ngân hàng Nhà nước đã ban hành Thông tư số 22/2019/TT-NHNN quy định
các giới hạn, tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động của ngân hàng, chi nhánh ngân hàng nước
ngoài, có hiệu lực từ 01/01/2020.
Trong đó, một trong những nội dung quan trọng là lộ trình giảm tỷ lệ vốn ngắn hạn cho vay trung
và dài hạn từ mức 40% hiện tại xuống 30% vào đầu tháng 10/2022.
Bên cạnh đó, Thông tư này cũng tăng hệ số rủi ro của cho vay bất động sản tiêu dùng, tăng dần
theo số dư những khoản vay lớn, cũng như áp hệ số rủi ro ở mức cao đối với các khoản cho vay
đầu tư và kinh doanh bất động sản.
Theo đánh giá của một số chuyên gia, đây là bước đi đúng đắn và cần thiết của nhà điều hành
nhằm từng bước kiểm soát được rủi ro thanh khoản, đảm bảo an toàn hoạt động ngân hàng, nắn
dòng vốn vào các lĩnh vực sản xuất, kinh doanh ưu tiên.
Tuy nhiên, cũng có nhiều chuyên gia bày tỏ ý kiến quan ngại, cho rằng Thông tư 22 sẽ ảnh
hưởng không nhỏ tới hoạt động cho vay bất động sản của các nhà băng, bởi hiện nay, phần lớn
các khoản cho vay trung và dài hạn đều tập trung ở lĩnh vực này.
Với tác động điều chỉnh sâu rộng đến hoạt động của hệ thống, Thông tư 22 được xem là một
trong những chính sách quan trọng nhất chính thức tạo nền trong năm 2019, để các tổ chức tín
dụng và thị trường từng bước thích nghi theo lộ trình từ năm 2020.
Có thể cho đóng cửa nhà băng nếu vốn thực góp thấp hơn vốn pháp định
Cũng tại Thông tư 22, một trong những nội dung nhận được nhiều sự quan tâm chính là quy định
về giá trị thực của vốn điều lệ, vốn được cấp và xử lý khi giá trị thực của vốn điều lệ, vốn được
cấp giảm thấp hơn mức vốn pháp định.
Theo đó, giá trị thực của vốn điều lệ, vốn được cấp của ngân hàng, chi nhánh ngân hàng nước
ngoài được xác định bằng vốn điều lệ, vốn được cấp và thặng dư vốn cổ phần cộng (trừ) lợi
nhuận lũy kế chưa phân phối (lỗ lũy kế chưa xử lý) được phản ánh trên sổ sách kế toán.
Khi vốn điều lệ, vốn được cấp của ngân hàng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài giảm thấp hơn
vốn pháp định, Ngân hàng Nhà nước sẽ đánh giá, kiểm tra hoặc yêu cầu ngân hàng, chi nhánh
ngân hàng nước ngoài thực hiện kiểm toán độc lập để xác định giá trị thực của vốn điều lệ, vốn
được cấp tại phương án xử lý do ngân hàng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài báo cáo theo quy định.
Bên cạnh đó, Nhà điều hành cũng sẽ yêu cầu sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện các biện pháp xử lý
của ngân hàng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài khi giá trị thực của vốn điều lệ, vốn được cấp
thấp hơn mức vốn pháp định trong trường hợp cần thiết.
“Tùy theo mức độ giảm giá trị thực của vốn điều lệ, vốn được cấp so với mức vốn pháp định,
Ngân hàng Nhà nước quyết định cụ thể các biện pháp xử lý đối với từng ngân hàng, chi nhánh
ngân hàng nước ngoài”, Thông tư nêu rõ.
Theo đó, các biện pháp cụ thể bao gồm các biện pháp quy định tại khoản 2 Điều 59 Luật Ngân
hàng Nhà nước khi giá trị thực của vốn điều lệ, vốn được cấp giảm xuống dưới 80% của mức vốn pháp định.
Bên cạnh đó, Ngân hàng Nhà nước cũng có thể sẽ áp dụng các biện pháp cơ cấu lại theo quy
định của pháp luật, thu hồi giấy phép đối với ngân hàng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài nếu có
giá trị thực của vốn điều lệ, vốn được cấp thấp dưới 50% mức vốn pháp định, hoặc giá trị thực
của vốn điều lệ, vốn được cấp thấp hơn mức vốn pháp định liên tục trong thời gian 6 tháng mặc
dù đã có phương án xử lý.
Lên lộ trình siết dần cho vay tiền mặt tại công ty tài chính
Tại Thông tư 18/2019 ban hành hồi đầu tháng 11 vừa qua, Ngân hàng Nhà nước quy định lộ trình
giảm tỷ lệ dư nợ cho vay tiêu dùng giải ngân trực tiếp cho khách hàng tại công ty tài chính so với
tổng dư nợ tín dụng tiêu dùng.
Cụ thể, từ 1/1/2021 đến 31/12/2021, tỷ lệ này là 70% và giảm còn 60% trong giai đoạn 1/1/2022-
31/12/2022. Đến 1/1/2023-31/12/2023, con số trên là 50% và sau 1/1/2024, là 30%.
Thông tư cũng quy định, công ty tài chính chỉ được giải ngân trực tiếp cho khách hàng đối với
khách hàng không có nợ xấu theo báo cáo quan hệ tín dụng tra cứu tại Trung tâm Thông tin tín
dụng quốc gia Việt Nam tại thời điểm gần nhất so với thời điểm ký kết hợp đồng cho vay tiêu dùng.
Tổng dư nợ cho vay tiêu dùng giải ngân trực tiếp cho khách hàng tại một công ty tài chính chỉ
bao gồm khách hàng có tổng dư nợ cho vay tiêu dùng giải ngân trực tiếp tại công ty tài chính đó trên 20 triệu đồng.
Như vậy, với chính sách trên, Ngân hàng Nhà nước đã lên lộ trình từng bước siết lại hoạt động
cho vay tiền mặt tại các công ty tài chính. Thông tư này có hiệu lực từ ngày 01/01/2020.
Dự kiến hạ “room” ngoại tại Fintech thanh toán xuống 49%
Cũng hồi đầu tháng 11 vừa qua, Ngân hàng Nhà nước công bố dự thảo lấy ý kiến thay thế Nghị
định 101 về thanh toán không dùng tiền mặt.
Trong đó, một nội dung đáng chú ý tại dự thảo là việc Ngân hàng Nhà nước đề xuất tỷ lệ tối đa
phần vốn góp của các nhà đầu tư nước ngoài (bao gồm cả sở hữu trực tiếp và gián tiếp) tại các tổ
chức cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán là 49%.
Theo nhà điều hành, quy định này là nhằm tạo thuận lợi thu hút vốn đầu tư nước ngoài nhưng
vẫn bảo đảm được vai trò chủ động của các doanh nghiệp trong nước, tránh sự thao túng của nhà
đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực này, bảo đảm an ninh, an toàn cho hoạt động, chủ quyền quốc
gia trong lĩnh vực tài chính - ngân hàng.
Bên cạnh đó, đây là loại hình hoạt động mới, dự báo thị trường đầy tiềm năng, vì vậy việc tạo
môi trường kinh doanh phục vụ vì lợi ích quốc gia và cộng đồng doanh nghiệp trong nước là thực sự cần thiết.
Do đó, cơ quan quản lý chuyên ngành cần tạo điều kiện để doanh nghiệp trong nước nắm bắt
được cơ hội, tính chủ động trong hoạt động kinh doanh của mình.
Ngân hàng Nhà nước cũng cho biết đề xuất trên dựa vào kinh nghiệm của Indonesia liên quan
đến tỷ lệ sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài không vượt quá 20% vốn sở hữu trong lĩnh vực thanh
toán đối với các tổ chức chủ trì vận hành hệ thống, vận hành bù trừ, chuyển mạch, quyết toán cuối cùng.
Giảm giá mua ngoại tệ, nâng cao dự trữ ngoại hối quốc gia
Từ năm 2016, Ngân hàng Nhà nước bắt đầu điều hành chính sách tỷ giá bằng cơ chế tỷ giá trung
tâm. Cơ chế này linh động có thể theo từng ngày, từng thời điểm mà ít có những điều chỉnh lớn hoặc bất thường.
Tuy nhiên, năm 2019 Ngân hàng Nhà nước đã có một hành trình nâng dần tỷ giá trung tâm lên
một mặt bằng mới, cân đối hơn với các tỷ giá trên các thị trường thay vì nằm quá sâu và lệch so
với trước. Điều này cũng giải thích vì sao năm 2019 trong khi tỷ giá của các ngân hàng thương
mại giảm so với cuối 2018 thì tỷ giá trung tâm vẫn tăng đáng kể.
Và năm 2019 cũng có một lần thị trường đón nhận quyết định Ngân hàng Nhà nước hạ giá mua
vào USD vừa qua, từ 23.200 VND xuống 23.175 VND. Dù bước giảm không lớn, nhưng nó tạo
xu hướng điều chỉnh trên thị trường, trong một năm hiếm hoi mà tỷ giá USD/VND cho đến nay
lại giảm trong khi đầu năm nhiều dự báo sẽ tăng 2-3%.
Xu hướng đó cũng gắn với các đợt mua ròng ngoại tệ lượng lớn, mà theo một số tính toán từ tổ
chức đầu tư, Ngân hàng Nhà nước đã nâng nguồn lực dự trữ ngoại hối quốc gia lên kỷ lục trên 75
tỷ USD. Vấn đề là, mua lượng lớn ngoại tệ đồng nghĩa với tiền đồng cung ứng cũng rất lớn,
nhưng nhà điều hành vẫn điều tiết hợp lý và góp phần kiểm soát lạm phát trong giới hạn mục tiêu.
Cũng như điều chỉnh lãi suất cần có độ trễ để tạo nền và thể hiện tác động trong năm 2020, việc
tỷ giá USD/VND tạo nền ở mức bình ổn thấp 2019 cũng là một điểm được chú ý khi chuyển giao
sang năm tới, mà độ nén của nó có hay không hẳn giới chuyên môn sẽ tính toán.
b/ ảnh hưởng của dịch covid đến nền kinh tế VN. (Văn)
Đại dịch Covid-19 đã gây ra những ảnh hưởng toàn diện, sâu rộng đến tất cả các quốc gia
trên thế giới và hiện nay vẫn còn diễn biến phức tạp. Nền kinh tế Việt Nam có độ mở lớn, hội
nhập quốc tế sâu rộng đã và đang chịu nhiều tác động, ảnh hưởng nghiêm trọng đến các lĩnh
vực kinh tế - xã hội. GDP quý I/2020 của Việt Nam chỉ tăng 3,82%, là mức thấp nhất trong
10 năm gần đây. Hầu hết các hoạt động kinh tế đều suy giảm, chỉ số sản xuất công nghiệp,
doanh thu bán lẻ và dịch vụ, vốn đầu tư toàn xã hội, nhập khẩu, tín dụng mặc dù vẫn tăng
trưởng nhưng ở mức thấp; vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đăng ký và thực hiện đều
tăng trưởng âm. Trong quý I/2020 nhiều ngành có tăng trưởng sụt giảm lớn như: Nông
nghiệp (-1,17%); khai khoáng (-3,18%); lưu trú, ăn uống (-11%); vận tải, kho bãi (-0,9%);
hoạt động hành chính (-3,5%). Tổng cầu suy giảm mạnh từ cả đầu tư, tiêu dùng nội địa và
nhu cầu hàng hóa của thế giới. Cầu nội địa và quốc tế đều bị kìm hãm bởi các biện pháp đóng
cửa quốc gia, giãn cách xã hội. Toàn bộ hệ thống thị trường và nền kinh tế quốc gia, thế giới
giảm tốc độ tăng đột ngột. Đáng chú ý, 2 động lực quan trọng nhất của tăng trưởng là đầu tư
tư nhân và đầu tư nước ngoài đều suy yếu. Sự gia tăng mạnh mẽ của đầu tư thuộc vốn ngân
sách nhà nước (NSNN) cho thấy, Chính phủ đã chủ động thực hiện các chính sách đẩy mạnh
đầu tư công để hạn chế đà suy giảm kinh tế. Tuy nhiên, giải ngân đầu tư công còn chậm và
không lớn để bù đắp cho sự sụt giảm của đầu tư tư nhân và FDI. Tổng mức bán lẻ hàng hóa
và doanh thu dịch vụ quý I/2020 chỉ tăng 4,7% (chưa trừ yếu tố tăng giá), thấp hơn rất nhiều
so với mức tăng 9% vào quý I/2019. Đây là mức tăng thấp nhất trong 10 năm trở lại đây…
Tính chung 4 tháng đầu năm 2020, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng
giảm 4,3% so với cùng kỳ năm trước, trong đó doanh thu bán lẻ hàng hóa chiếm 80,6% tổng
mức, tăng nhẹ (0,4%) do hình thức mua sắm trực tuyến được người tiêu dùng ưa chuộng
trong thời gian gần đây. Thu hút khách quốc tế giảm 37,8%; Các hoạt động dịch vụ khác như
vận tải, nhất là vận tải hàng không, dịch vụ lưu trú, ăn uống... cũng bị ảnh hưởng nặng nề.
Phát triển DN chịu tác động lớn bởi dịch bệnh, hầu hết các DN đều thận trọng trong việc đầu
tư thêm vốn vào hoạt động sản xuất, kinh doanh. Số lượng DN thành lập mới trong 4 tháng
đầu năm chững lại, số vốn bổ sung hoặc cam kết đưa vào kinh doanh giảm so với cùng kỳ
năm 2019. Tỷ trọng vốn đăng ký bình quân trên một DN đạt khoảng 11,8 tỷ đồng, giảm 5,5%
so với cùng kỳ. Số DN tạm ngừng kinh doanh trong ngắn hạn tăng mạnh so với cùng kỳ
(tăng 33,6%), nhất là tại các lĩnh vực: kinh doanh bất động sản; nghệ thuật, vui chơi và giải
trí; dịch vụ lưu trú và ăn uống; du lịch; giáo dục và đào tạo và vận tải, kho bãi.Cụ thể, chỉ số
sản xuất công nghiệp hai tháng đầu năm 2020 chỉ tăng 6,2%, giảm 3% so với cùng kỳ 2019.
Trong đó, chịu tác động nhất là ngành chế biến chế tạo chỉ tăng 7,4%, so với cùng kỳ giảm
4%; sản xuất và phân phối điện giảm so với cùng kỳ 1%, khai khoáng giảm 1,6%.
Nền kinh tế Việt Nam có độ mở lớn, hội nhập quốc tế sâu rộng đã và đang chịu nhiều tác
động, ảnh hưởng nghiêm trọng đến tất cả các lĩnh vực kinh tế - xã hội, gây gián đoạn chuỗi
cung ứng và lưu chuyển thương mại, làm đình trệ các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch
vụ; đã tác động trực tiếp đến các ngành xuất, nhập khẩu, hàng không, du lịch, dịch vụ lưu trú,
ăn uống, y tế, giáo dục, lao động, việc làm; nhiều doanh nghiệp phá sản, giải thể, tạm dừng
hoạt động, thu hẹp quy mô...; GDP quý I/2020 chỉ tăng 3,82%, là mức thấp nhất trong 10
năm gần đây; ảnh hưởng mạnh đến tâm lý và đời sống nhân dân. Ngay khi có dịch bệnh
bùng phát, lãnh đạo Đảng, Nhà nước và cả hệ thống chính trị đã vào cuộc quyết liệt, cùng với
sự đồng lòng, đoàn kết của toàn dân, toàn quân, công tác phòng, chống dịch đã đạt kết quả
tốt, Việt Nam đã đẩy lùi và kiểm soát được dịch bệnh. Đồng thời, đã có những chính sách kịp
thời để từng bước hỗ trợ doanh nghiệp và người dân vượt qua khó khăn của đại dịch COVID-
19; các hoạt động của đời sống kinh tế - xã hội đang được khôi phục; tình hình kinh tế - xã
hội đã có những chuyển biến tích cực; được cộng đồng quốc tế đánh giá cao, nhân dân ngày
càng tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước và sự chỉ đạo của Chính phủ.
Do ảnh hưởng của dịch bệnh khiến thị trường trong nước có những tín hiệu tiêu cực. Tổng
mức bán lẻ hai tháng đầu năm tăng 8,3%, thấp nhất trong nhiều năm trở lại đây.
Dự báo mức bán lẻ năm 2020 chỉ tăng trưởng khoảng 10%. Trong đó, quý I-2020 chịu tác
động lớn nhất do nghỉ tết dài và tác động từ Nghị định 100/2019/NĐ-CP về xử phạt hành
chính trong lĩnh vực giao thông. Mức phạt với người đi xe uống rượu, bia khiến doanh số các
nhà hàng ăn uống giảm rõ rệt.
Tại Diễn đàn, PGS.TS Nguyễn Đức Vinh, Viện trưởng Viện Xã hội học chia sẻ, đại dịch
COVID-19 đã đang và sẽ tiếp tục ảnh hưởng tiêu cực đến hầu hết mọi mặt của đời sống xã
hội. Cho đến nay, khi tình hình dịch bệnh ở Việt Nam có xu hướng được kiểm soát, thế
nhưng suy thoái kinh tế dẫn đến mất việc làm và giảm thu nhập trở thành vấn đề đáng lo ngại
nhất và còn kéo dài. Theo số liệu của Bộ LĐTBXH, số lao động đang làm việc quý I/2020
giảm hơn 680 nghìn so với quý 4/2019. Tỷ lệ thất nghiệp không tăng cao nhưng tỷ lệ thiếu
việc làm đã tăng từ gần 590 ngàn (1,22%) lên hơn 970 ngàn (2,03%). Đó chưa kể sự suy
giảm về tổng số giờ làm việc cũng như năng suất lao động do đại dịch COVID-19. “Điều
này có thể dẫn đến những hệ lụy tiếp theo về an sinh xã hội và bất bình đẳng xã hội nếu
chính sách can thiệp không kịp thời điều chỉnh cho hiệu quả”- PGS.TS Nguyễn Đức Vinh