









Preview text:
lOMoAR cPSD| 46342819 A. Dẫn nhập
Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc là tư tưởng xuyên suốt trong cuộc đời
hoạt động cách mạng của Người. Tư tưởng này được thể hiện rõ nét trong các bài
viết, bài nói của Người, trong đó có đề cập trực tiếp đến vấn đề bảo vệ không gian mạng.
Trong bài viết “Chủ nghĩa yêu nước của nhân dân ta”, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
khẳng định: “Niềm tự hào, tự tôn dân tộc là một động lực to lớn thúc đẩy nhân dân
ta đấu tranh giành độc lập, tự do, thống nhất Tổ Quốc”. Tư tưởng này cũng được
Người nhắc lại trong bài viết “Tự do và độc lập quyền thiêng liêng của mọi dân tộc”.
Theo Người, “Tự do và độc lập là quyền thiêng liêng của mọi dân tộc. Không có tự
do và độc lập thì không có dân tộc. Vì vậy nhân dân Việt Nam quyết tâm đấu tranh
đến cùng để giành lấy và giữ vững độc lập, tự do cho Tổ Quốc”.
Từ những quan điểm trên,có thể thấy trong tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân
tộc là một trong những giá trị cốt lõi của dân tộc Việt Nam. Độc lập dân tộc gắn liền
với chủ quyền quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ là nguyên tắc bất biến của cách mạng Việt Nam.
Trong bối cảnh hiện nay, khi không gian mạng xã hội trở thành một kênh thông
tin, giao tiếp, kết nối quan trọng, các thế lực thù địch đang sử dụng mạng xã hội để
thực hiện các hoạt động chống phá, lợi dụng mạng xã hội để tuyên truyền, xuyên tạc,
kích động, chia rẽ, gây mất ổn định chính trị, xã hội, xâm phạm chủ quyền, lãnh thổ của Việt Nam. B. Nội dung
1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc.
1.1. Độc lập, tự do là quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm của tất cả các dân tộc
Độc lập dân tộc và tự do của nhân dân là quyền thiêng liêng bất khả xâm phạm, là
sản phẩm của lịch sử đấu tranh oanh liệt của dân tộc Việt Nam mang tính pháp quyền
của nhân loại như tư tưởng về quyền của các dân tộc đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh
nêu ra trong Tuyên ngôn Độc lập. Chính đó là động lực vĩ đại của dân tộc Việt Nam
trong cuộc đấu tranh giành độc lập, tự do và quyết tâm đem tất cả tinh thần và lực lượng,
tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do và độc lập ấy.
Năm 1919, nhân cơ hội các nước đồng minh thắng trận trong Chiến tranh thế giới thứ
nhất họp Hội Nghị ở Vécxây (Pháp) mà ở đó Tổng thống Mỹ V.Wilson đã kêu gọi trao lOMoAR cPSD| 46342819
quyền tự quyết cho các dân tộc trên thế giới, thay mặt nhóm những người yêu nước Việt
Nam tại Pháp, Hồ Chí Minh đã gửi tới Hội nghị bản Yêu sách của nhân dân An Nam,
với hai nội dung chính là đòi quyền bình đẳng về mặt pháp lý và đòi các quyền tự do,
dân chủ. Bản yêu sách không được Hội nghị chấp nhận nhưng qua sự kiện trên cho thấy
lần đầu tiên, tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền của các dân tộc thuộc địa mà trước hết là
quyền bình đẳng và tự do đã hình thành. Căn cứ vào những quyền tự do, bình đẳng và
quyền con người - “những quyền mà không ai có thể xâm phạm được” đã được ghi trong
bản Tuyên ngôn độc lập của cách mạng Mỹ năm 1776, Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân
quyền của Cách mạng Pháp năm 1791, Hồ Chí Minh tiếp tục khẳng định những giá trị
thiêng liêng, bất biến về quyền dân tộc: “Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình
đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do... Đó là những
lẽ phải không ai chối cãi được”
Trong Chánh cương vắn tắt của Đảng năm 1930, Hồ Chí Minh cũng đã xác định
mục tiêu chính trị của Đảng là:
“a) Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến, b)
Làm cho nước Nam được hoàn toàn độc lập”
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, trong Tuyên ngôn độc lập, Hồ Chí
Minh thay mặt Chính phủ lâm thời long trọng tuyên bố với đồng bào và thế giới: “Nước
Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thực đã thành một nước tự do và độc
lập. Toàn thể dân Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của
cải để giữ vững quyền tự do và độc lập ấy”.
Ý chí và quyết tâm trên còn được thể hiện trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp
và chống Mỹ. Trong thư gửi Liên hợp quốc năm 1946, một lần nữa Hồ Chí Minh khẳng
định: “Nhân dân chúng tôi thành thật mong muốn hoà bình. Nhưng nhân dân chúng tôi
cũng kiên quyết chiến đấu đến cùng để bảo vệ những quyền thiêng liêng nhất: toàn vẹn
lãnh thổ cho Tổ quốc và độc lập cho đất nước”. Khi thực dân Pháp tiến hành xâm lược
Việt Nam lần thứ hai, trong Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến ngày 19-12-1946, Người
ra lời hiệu triệu, thể hiện quyết tâm sắt đá, bảo vệ cho bằng được nền độc lập dân tộc -
giá trị thiêng liêng mà nhân dân Việt Nam mới giành được: “Không! Chúng ta thà hy
sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”
Năm 1965, đế quốc Mỹ tăng cường mở rộng chiến tranh ở Việt Nam: ồ ạt đưa quân
viễn chinh Mỹ, chư hầu vào miền Nam tiến hành chiến lược “Chiến tranh cục bộ” và
gây chiến tranh phá hoại miền Bắc. Trong hoàn cảnh khó khăn, chiến tranh ác liệt đó,
Hồ Chí Minh đã nêu lên một chân lý thời đại, một tuyên ngôn bất hủ của các dân tộc
khao khát nền độc lập, tự do trên thế giới "Không có gì quý hơn độc lập, tự do”3. Với
tư tưởng Hồ Chí Minh, nhân dân Việt Nam đã anh dũng chiến đấu, đánh thắng đế quốc
Mỹ xâm lược, buộc chúng phải ký kết Hiệp định Paris, cam kết tôn trọng các quyền dân
tộc cơ bản của nhân dân Việt Nam, rút quân Mỹ về nước.
1.2. Độc lập dân tộc phải gắn liền tự do, cơm no, áo ấm và hạnh phúc của nhân dân lOMoAR cPSD| 46342819
Theo Hồ Chí Minh, độc lập dân tộc phải gắn với tự do của nhân dân. Người đánh
giá cao học thuyết “Tam dân” của Tôn Trung Sơn về độc lập và tự do: dân tộc độc lập,
dân quyền tự do và dân sinh hạnh phúc. Và bằng lý lẽ đầy thuyết phục, trong khi viện
dẫn bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Cách mạng Pháp năm 1791 “Người
ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi, và phải luôn được tự do và bình đẳng về
quyền lợi”, Hồ Chí Minh khẳng định dân tộc Việt Nam đương nhiên cũng phải được tự
do và bình đẳng về quyền lợi. “Đó là lẽ phải không ai chối cãi được”. Trong Chánh
cương vắn tắt của Đảng, Người cũng đã xác định rõ ràng mục tiêu của đấu tranh của
cách mạng là “Làm cho nước Nam được hoàn toàn độc lập... dân chúng được tự do...
thủ tiêu hết các thứ quốc trái... thâu hết ruộng đất của đế quốc chủ nghĩa làm của công
chia cho dân cày nghèo. Bỏ sưu thuế cho dân cày nghèo... thi hành luật ngày làm 8 giờ”.
Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945 thành công nước nhà được độc lập và một lần
nữa Hồ Chí Minh khẳng định độc lập phải gắn với tự do. Người nói: “Nước độc lập mà
dân không hưởng hạnh phúc, tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”.
Ngoài ra, độc lập cũng phải gắn với cơm no, áo ấm và hạnh phúc của nhân dân.
Ngay sau thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 trong hoàn cảnh nhân dân đói
rét, mù chữ..., Hồ Chí Minh yêu cầu: “Chúng ta phải Làm cho dân có ăn. Làm cho dân có mặc. Làm cho dân có chỗ ở.
Làm cho dân có học hành”.
Có thể thấy rằng, trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của Hồ Chí Minh,
Người luôn coi độc lập gắn liền với tự do, cơm no, áo ấm cho nhân dân, như Người từng
bộc bạch đầy tâm huyết: “Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao
cho nước ta hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm
ăn áo mặc, ai cũng được học hành”.
1.3. Độc lập dân tộc phải là nền độc lập thật sự, hoàn toàn và triệt để
Trong quá trình đi xâm lược các nước, bọn thực dân đế quốc hay dùng chiêu bài
mị dân, thành lập các Chính phủ bù nhìn bản xứ, tuyên truyền cái gọi là “độc lập tự do”
giả hiệu cho nhân dân các nước thuộc địa nhưng thực chất là nhằm che đậy bản chất “ăn
cướp” và “giết người” của chúng.
Theo Hồ Chí Minh, độc lập dân tộc phải là độc lập thật sự, hoàn toàn và triệt để
trên tất cả các lĩnh vực. Người nhấn mạnh: độc lập mà người dân không có quyền tự
quyết về ngoại giao, không có quân đội riêng, không có nền tài chính riêng..., thì độc
lập đó chẳng có ý nghĩa gì. Trên tinh thần đó và trong hoàn cảnh đất nước ta sau Cách
mạng Tháng Tám còn gặp nhiều khó khăn, nhất là nạn thù trong giặc ngoài bao vây tứ
phía, để bảo vệ nền độc lập thật sự mới giành được, Người đã thay mặt Chính phủ ký
với đại diện Chính phủ Pháp Hiệp định Sơ bộ ngày 6-3-1946, theo đó: “Chính phủ Pháp
công nhận nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà là một quốc gia tự do có Chính phủ của
mình, Nghị viện của mình, quân đội của mình, tài chính của mình”. lOMoAR cPSD| 46342819
1.4. Độc lập dân tộc gắn liền với thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ
Độc lập dân tộc gắn chặt với bảo vệ toàn vẹn chủ quyền lãnh thổ của đất nước là
tư tưởng chủ đạo, chi phối toàn bộ sự nghiệp cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Trong lịch sử đấu tranh giành độc lập dân tộc, dân tộc ta luôn đứng trước âm mưu chia
cắt đất nước của kẻ thù. Trong hoàn cảnh đó, trong bức Thư gửi đồng bào Nam Bộ
(1946), Hồ Chí Minh khẳng định: “Đồng bào Nam Bộ là dân nước Việt Nam. Sông có
thể cạn, núi có thể mòn, song chân lý đó không bao giờ thay đổi”. Hiệp định Giơnevơ
năm 1954 được ký kết, đất nước Việt Nam tạm thời bị chia cắt làm hai miền, Hồ Chí
Minh tiếp tục kiên trì đấu tranh để thống nhất Tổ quốc. Tháng 2 năm 1958, Người khẳng
định: “Nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một”. Trong Di chúc, Người cũng
đã thể hiện niềm tin tuyệt đối vào sự thắng lợi của cách mạng, vào sự thống nhất nước
nhà: “Dù khó khăn gian khổ đến mấy, nhân dân ta nhất định sẽ hoàn toàn thắng lợi. Đế
quốc Mỹ nhất định phải cút khỏi nước ta. Tổ quốc ta nhất định sẽ thống nhất. Đồng bào
Nam Bắc nhất định sẽ sum họp một nhà”.
=> Có thể khẳng định rằng tư tưởng độc lập dân tộc gắn liền với thống nhất Tổ
quốc, toàn vẹn lãnh thổ là tư tưởng xuyên suốt trong cuộc đời hoạt động cách
mạng của Hồ Chí Minh. Hồ Chí Minh coi việc bảo vệ và duy trì toàn vẹn lãnh
thổ là một trong những điều quan trọng nhất để bảo vệ độc lập dân tộc. Người tỏ
rõ ý chí quyết tâm trong việc chống lại bất kỳ nỗ lực nào xâm phạm lãnh thổ của Việt Nam 2.
Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc trong việc bảo vệ chủ
quyềnViệt Nam trên không gian về mạng xã hội.
2.1 Những đặc trưng cơ bản của mạng xã hội (Khái quát về mạng xã hội) a) Khái niệm:
Mạng xã hội (social network) là hệ thống thông tin cung cấp cho cộng đồng người sử
dụng mạng các dịch vụ lưu trữ, cung cấp, sử dụng, tìm kiếm, chia sẻ và trao đổi thông
tin với nhau, bao gồm dịch vụ tạo trang thông tin điện tử cá nhân, diễn đàn, trò chuyện
trực tuyến, chia sẻ âm thanh, hình ảnh và các hình thức dịch vụ tương tự khác. b) Đặc điểm
l Mục tiêu của mạng xã hội đó chính là có sự tham gia trực tuyến của các cá nhân hoặc chủ thể. lOMoAR cPSD| 46342819
l Mạng xã hội cung cấp nền tảng để người dùng kết nối với bạn bè, gia đình, đồng
nghiệp và người khác trên khắp thế giới. Nó mở ra cơ hội tạo ra và duy trì mối quan hệ trực tuyến.
l Tất cả nội dung trên mạng xã hội đều do người dùng tự tạo ra, tự chia sẻ tự do nhưng
không ảnh hưởng đến thuần phong mỹ tục hoặc pháp luật ở Việt Nam.
l Mỗi người dùng trên mạng xã hội đều phải tạo tài khoản, hồ sơ riêng. Mạng xã hội
sẽ kết nối tài khoản người dùng đến các tài khoản cá nhân, tổ chức khác thông qua
các tài khoản ảo do người dùng tạo ra.
c) Tác động tích cực và tiêu cực: l Tích cực
- Mạng xã hội đã mang lại cho con người rất nhiều những lợi ích như: Cập nhật tintức,
kết nối các mối quan hệ, kinh doanh, quảng cáo trên mạng xã hội, tạo nên sự kết nối,
chia sẻ các thông tin hữu ích, nâng cao kỹ năng sống…
- Mục đích của mạng xã hội là xây dựng mối quan hệ lành mạnh, giao lưu giữa
ngườivới người nên thông qua mạng xã hội sẽ thúc đẩy, mở rộng các mối quan hệ, sự tương tác với nhau.
- Thông tin trên mạng xã hội cũng được cập nhật nhanh chóng, người dùng sẽ đượctiếp
cận thông tin một cách nhanh nhất. Tuy nhiên, cần lưu ý rằng phải biết chọn lọc
thông tin chính thống, tin cậy… Tiêu cực
- Lợi dụng để đưa ra tư tưởng lệch lạc: Nếu những thông tin chia sẻ là những thôngtin
tích cực và chính xác sẽ thúc đẩy sự phát triển và nhận thức của con người. Tuy nhiên
có nhiều người lợi dụng yếu tố này để đưa ra những thông tin lệch lạc làm ảnh hưởng
đến sự phát triển và tư duy của con người.
- Mất bí mật quốc gia: Khi chia sẻ các thông tin trên mạng xã hội, nhiều người sẽtheo
dõi mạng xã hội của bạn từ đó biết được các bí mật. Đặc biệt là đối với những cá
nhân làm việc trong nhà nước, chính phủ chia sẻ các thông tin liên quan đến công
việc hoạt động sẽ làm mất thông tin và bí mật quốc gia.
- Thực hiện các hoạt động lừa gạt: Ưu điểm của mạng xã hội đó chính là có ai cũngcó
thể tham gia thành lập tài khoản và kết nối. Chính vì thế có rất nhiều đối tượng lợi
dụng điều này để tạo thành các tài khoản ảo trên mạng sau đó thực hiện các hành vi lừa đảo. lOMoAR cPSD| 46342819
2.2: Thực trạng việc bảo vệ chủ quyền VN trên không gian mạng XH. -
Chủ quyền quốc gia trên không gian mạng là tất cả các quyền của nhà nước
đối với không gian mạng, phù hợp với quy định của luật pháp quốc tế.
- Bảo vệ chủ quyền Quốc gia trên không gian mạng là cuộc đấu tranh
toàndiện trên các các lĩnh vực, trong đó có bảo vệ chủ quyền biên giới
mạng, bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội trên không gian
mạng; việc chấp hành pháp luật, lựa chọn và duy trì thể chế chính trị, văn
hóa, quyền tự quyết, tự do, độc lập, thống nhất, toàn vẹn của quốc gia trên không gian mạng.
- Sự ra đời của cuộc cách mạng công nghệ và thời đại toàn cầu hóa đã
dẫnđến sự bùng phát của internet, cuả không gian mạng, của công nghệ
số. Nó là một con dao hai lưỡi, có tốt, có xấu. Bên cạnh việc ta có thể thỏa
thích chia sẻ cuộc sống, công việc, buôn bán, hợp tác và phát triển thì song
song với đó là những cá nhân, tổ chức mê tín, lôi kéo, những phần tử
khủng bố, các thế lực thù địch. Không gian mạng đã và đang là môi trường
lý tưởng cho các hoạt động xâm phạm an ninh quốc gia. Hàng loạt cuộc
tấn công xâm nhập, chiếm quyền điều khiển, lấy cắp, phá hoại dữ liệu đã
không được kiểm tra, đánh giá, quản lý rủi ro về an toàn thông tin, dẫn
đến không kịp thời phát hiện được nguy cơ, lỗ hổng, mã độc bị cài vào
trong hệ thống. Đó là thực trạng diễn ra hàng ngày hàng giờ trên không
gian mạng mà khó có thể kiểm soát hết được.
- Trước tình hình đó, Đảng và Nhà nước ta đã ban hành nhiều chủ
trương,chính sách và biện pháp nhằm bảo đảm an toàn thông tin, an ninh
mạng, góp phần quan trọng bảo đảm chủ quyền quốc gia trên không gian
mạng. Căn cứ Luật Tổ chức Chính phủ ngày 19 tháng 6 năm 2015; Luật
sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tổ chức Chính phủ và Luật Tổ chức
chính quyền địa phương ngày 22 tháng 11 năm 2019; Căn cứ Luật An ninh
quốc gia ngày 03 tháng 12 năm 2004; Căn cứ Luật An ninh mạng ngày 12
tháng 6 năm 2018; Căn cứ Luật An toàn thông tin mạng ngày 19 tháng 11 năm 2015.
-> Đây là những cơ sở pháp lý quan trọng trong phòng ngừa, đấu tranh, xử
lý các hoạt động vi phạm pháp luật trên không gian mạng, bảo vệ quyền và lOMoAR cPSD| 46342819
lợi ích hợp pháp của các tổ chức, cá nhân; tạo hành lang pháp lý để nâng
cao năng lực bảo vệ hệ thống cơ sở dữ liệu, thông tin quan trọng về an ninh
quốc gia, góp phần bảo đảm chủ quyền, an ninh, trật tự và xây dựng môi
trường an toàn, lành mạnh trên không gian mạng. Việc bảo đảm an toàn, an
ninh mạng đã được xác định trong định hướng phát triển đất nước giai đoạn
2021-2030 theo Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII là một
trong những nhiệm vụ quan trọng trong Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong
tình hình mới, Chiến lược bảo vệ an ninh quốc gia.
2.3: Biện pháp bảo vệ chủ quyền VN trên không gian mạng XH. Để giữ
vững chủ quyền quốc gia trên không gian mạng thời gian tới cần thực hiện
một số nội dung và giải pháp sau:
- Một là, tiếp tục triển khai việc xác lập và thực thi đầy đủ chủ quyền, lợi
ích, an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự an toàn xã hội của Việt Nam trên
không gian mạng dựa trên các chủ trương, nghị quyết, chỉ thị của Đảng về
ứng dụng, phát triển công nghệ thông tin đi đôi với bảo đảm an toàn thông tin, an ninh mạng
- Hai là, hoàn thiện khung khổ luật pháp quốc gia, ban hành cơ chế, chính
sách phù hợp với các quy định quốc tế nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả
công tác quản lý nhà nước về an toàn thông tin, an ninh mạng, sẵn sàng
ứng phó với các thách thức an ninh mạng, đặc biệt là tội phạm sử dụng
công nghệ cao nhằm bảo vệ tốt hơn quyền, lợi ích hợp pháp của các tổ chức và cá nhân.
- Ba là, tăng cường công tác quản lý nhà nước các dịch vụ trên không gian
mạng, nâng cao sự phối hợp giữa các bộ, ban, ngành để phát huy sức mạnh
tổng hợp của toàn hệ thống chính trị và toàn xã hội để triển khai các biện
pháp phòng thủ, giám sát, đảm bảo an toàn, an ninh thông tin phục vụ bảo
vệ toàn vẹn chủ quyền không gian mạng của quốc gia.
- Bốn là, nâng cao nhận thức và thay đổi thói quen, hành vi trên không gian mạng của người dân.
+ Việt Nam với hơn 70 triệu người dùng Internet, trung bình mỗi
người sử dụng trực tuyến gần 7 giờ mỗi ngày, an toàn, an ninh mạng giờ
đây là câu chuyện của mọi người dân. Tuy nhiên, nhận thức và kỹ năng về lOMoAR cPSD| 46342819
an toàn, an ninh mạng của đại đa số người dân còn hạn chế,chưa đủ lành
mạnh, chưa đủ để bảo vệ chính mình.
+ Mỗi người dân cần xác định thái độ, hành vi ứng xử văn hóa trên
MXH. Ứng xử trên MXH luôn cần có thái độ tôn trọng người khác, biết
quan tâm, lắng nghe, chia sẻ, thông cảm. Mọi lời nhận xét, bình luận phải
khách quan và tế nhị, tỏ thái độ, cảm xúc phù hợp, không nói xấu, kéo bè
cánh nhằm hạ thấp danh dự, nhân phẩm của người khác. Biết cách chọn
bạn và quản lý danh sách bạn bè, không nên quá nhiều bạn khiến cho việc
kiểm soát thông tin khó khăn. Trước khi kết bạn với những người mới, cần
tìm hiểu một cách kỹ lưỡng.Suy nghĩ kỹ về những gì nói và đăng trên
mạng, có trách nhiệm với lời nói, hành vi. Đề phòng kẻ xấu có thể sử dụng
những bức ảnh cho những mục đích không tốt đẹp. Trước khi đăng tải
những bức ảnh và các câu chuyện của bạn bè cần có lời xin phép và được
sự đồng ý của họ… =>Quan điểm lấy cộng đồng làm
trung tâm sẽ là phương thức để triể hai các chiến dịch tuyên truyền nâng
nâng cao nhận thức, phát triển cổng Khonggianmang.vn cung cấp cho tổ
chức, cá nhân thông tin, cảnh báo, giải đáp thắc mắc, hỗ trợ công cụ, tiện
ích và hướng dẫn xử lý sự cố an toàn thông tin mạng.
- Năm là, làm chủ, tự chủ công nghệ, sản phẩm, dịch vụ an toàn, an ninh
mạng. Cần khuyến khích và tôn vinh tinh thần đổi mới sáng tạo về công
nghệ, sản phẩm, dịch vụ an toàn, an ninh mạng. Việc phát triển sản phẩm
an toàn thông tin mạng sẽ được chuyển dịch từ chiều rộng sang chiều sâu:
tập trung phát triển 3 - 5 sản phẩm trọng điểm, có thương hiệu quốc gia.
Chuyển dịch từ sản phẩm lớn, chuyên dụng sang sản phẩm phổ cập: “bình
dân hóa” sản phẩm an toàn thông tin mạng, phục vụ đối tượng người dân, hộ gia đình.
- Sáu là, đào tạo và phát triển nguồn nhân lực.
+ Nguồn nhân lực đóng vai trò quan trọng trong hoạt động an toàn, an
ninh mạng. Chiến lược xác định chuyển đổi từ đào tạo cán bộ kỹ thuật
trung bình sang phát triển đội ngũ chuyên gia giỏi, phát triển đội ngũ
chuyên gia xuất sắc về an toàn, an ninh mạng để giải quyết các bài toán lOMoAR cPSD| 46342819
khó của đất nước cũng như góp phần giải quyết các vấn đề về an toàn, an
ninh mạng trong công nghệ số của thế giới.
+ Đưa nội dung về an toàn, an ninh mạng vào chương trình giáo dục phổ
thông (chính khóa và ngoại khóa) cũng như đào tạo bậc đại học trở lên.
+ Xây dựng đội ngũ kỹ sư an ninh mạng chất lượng cao, có khả năng
nghiên cứu, chế tạo, sản xuất các sản phẩm, dịch vụ an ninh mạng, đóng
vai trò quan trọng trong việc tiếp thu, chuyển giao tri thức về an ninh
mạng, chính sách tôn vinh và đãi ngộ phù hợp.
- Bảy là, mở rộng và tăng cường hợp tác quốc tế.
+ Cũng như các thách thức an ninh phi truyền thống khác (mua bán
người, dịch bệnh, biến đổi khí hậu…), các thách thức về đảm bảo an ninh
trên không gian mạng có tính xuyên quốc gia, đòi hỏi nỗ lực hợp tác quốc
tế để giải quyết. Người dân ở khắp nơi trên thế giới nói chung và tại Việt
Nam nói riêng đều mong muốn được bảo vệ an ninh, an sinh, an toàn để
phát triển toàn diện về thể chất và tinh thần. -> vì vậy Việt Nam cần nỗ
lực hơn nữa trong việc hợp tác với các quốc gia nhằm hợp tác hóa công
nghệ kỹ thuật; hỗ trợ bắt tội phạm an ninh xuyên quốc gia; tôn trọng luật
pháp quốc tế và xác định rõ chủ quyền quốc gia trên không gian mạng
⇨ Như vậy bất cứ ai cũng có thể thực hiện bảo vệ chủ quyền an ninh quốc
gia trên không gian mạng, có thể bắt đầu từ hành động đơn giản như khi
thấy một thông tin xuyên tạc, xấu, độc, tin giả có thể gửi báo cáo
(report), phản hồi về những hành vi xấu để các nhà cung cấp dịch vụ gỡ
bỏ. Khi toàn dân nâng cao ý thức, trách nhiệm đồng hành cùng lực lượng
chức năng, chủ quyền an ninh quốc gia trên không gian mạng sẽ được bảo vệ vững chắc.
Kết luận: Không gian mạng được coi như vùng “lãnh thổ đặc biệt” của
quốc gia, chứa đựng lợi ích quốc gia, dân tộc. Do đó, chủ quyền trên không
gian mạng là một phần không thể tách rời của chủ quyền quốc gia và bảo
đảm chủ quyền quốc gia trên không gian mạng cũng chính là bảo vệ chủ
quyền quốc gia, dân tộc. Việc nhận diện, xác lập chủ quyền không gian
mạng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng với mỗi quốc gia trong đó có Việt
Nam. Trước tình hình chính trị trên thế giới diễn biến phức tạp, công cuộc lOMoAR cPSD| 46342819
chuyển đổi số của quốc gia đang diễn ra mạnh mẽ thì nhiệm vụ bảo vệ chủ
quyền quốc gia trên không gian mạng là nhiệm vụ trọng yếu, thường
xuyên, vừa cấp bách, vừa lâu dài, là trách nhiệm chung của cả hệ thống
chính trị, của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân.