lOMoARcPSD| 59908026
1
TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI
KHOA LUẬT
LÊ MINH HIẾU
TIỂU LUẬN GIỮA HỌC PHẦN
Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong hoạt động kh
uyến mại
HÀ NỘI, năm 2022
lOMoARcPSD| 59908026
Mc lc
MỞ ĐẦU...............................................................................................................1
NỘI DUNG............................................................................................................2
CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG KHUYẾN MẠI............................2
1.1 Khái niệm của khuyến mại...........................................................................2
1.2 Đặc điểm của khuyến mại............................................................................2
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ HOẠT ĐỘNG
KHUYẾN MẠI.....................................................................................................3
2.1 Quy định pháp luật về hoạt động khuyến mại............................................3
2.2 Thực trạng các hoạt động khuyến mại ở nước ta hiện nay........................5
CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ NÂNG CAO
HIỆU QUẢ CỦA HOẠT ĐỘNG KHUYẾN MẠI..............................................7
3.1 Những bất cập của pháp luật hiện hành về hoạt động khuyến mại..........7
3.2 Một số giải pháp hoàn thiện quy định của pháp luật về hoạt động
khuyến mại........................................................................................................10
KẾT LUẬN.........................................................................................................13
MỞ ĐẦU
Hiện nay, tốc độ tăng trưởng kinh tế của đất nước ngày càng phát triển
nhanh và mạnh. Số lượng hàng hóa được sản xuất ngày càng nhiều, cùng với
nó là chất lượng hàng hóa ngày càng được nâng cao, mẫu mã, chủng loại của
các mặt hàng ngày càng phong phú, đa dạng. Điều đó đòi hỏi các nhà sản xuất
phải tích cực n trong khâu tiêu thụ sản phẩm, xúc tiến hoạt động thương
mại ở khâu tiêu thụ là một nhu cầu tất yếu đặt ra.
Nhằm mục đích tiêu thụ sản phẩm, các nhà sản xuất đã đưa ra nhiều
hình thức quảng cáo sản phẩm của mình. Cụ thể như: giới thiệu sản phẩm ,
dùng thử sản phẩm trong một thời gian,… Nền kinh tế hiện nay gọi đó
khuyến mại và các hình thức này không còn xa lạ với người tiêu dùng. Ai
cũng đã ít nhất một lần quan tâm đến các hình thức khuyến mi sản phẩm của
các nhà sản xuất. Kinh tế ngày càng phát triển thì nhu cầu về thị trường cũng
ngày càng được nâng cao. Do chất lượng cuộc sống ngày càng được nâng cao,
người tiêu dùng ngày nay hiểu rất về các sản phẩm mình mua, họ đòi hỏi
cao hơn về chất lượng cũng như giá cả của hàng hóa. Vì vậy, cuộc cạnh tranh
giữa các nhà sản xuất ngày càng quyết liệt hơn. Muốn đi đầu trong việc tiêu
lOMoARcPSD| 59908026
1
thụ hàng hóa đòi hỏi họ phải nâng cao chất lượng sản phẩm của mình đồng
thời tiếp thị đưa ra các hình thức khuyến mại hấp dẫn dành cho khách hàng.
Tầm quan trọng sức ảnh hưởng của hoạt động khuyến mại đối với
khâu tiêu thụ sản phẩm nói riêng và nền kinh tế nói chung một nhân tố
không thể phủ nhận. Sẽ chẳng gì để nói nếu tất cả các hoạt động khuyến
mại của nhà cung ứng lành mạnh không nh hưởng đến yếu tố cạnh
tranh của nền kinh tế thị trường. Tuy nhiên, thực tế cho thấy điều ngược lại,
hoạt động khuyến mại nếu không được điều tiết một cách hợp chặt
chẽ bởi các quy định của pháp luật, có thể sẽ là “con dao hai lưỡi” đe dọa thị
trường tự do cạnh tranh, hơn hết là quyền lợi của người tiêu dùng. Yêu cầu
tất yếu đặt ra đòi hỏi sự can thiệp của pháp luật về hoạt động khuyến mại, cùng
với sự hoàn thiện những giải pháp sắc bén hơn để bảo vệ cũng như thúc
đẩy nền kinh tế thị trường, đảm bảo cạnh tranh lành mạnh những quyền lợi
cơ bản của người tiêu dùng. Do đó, tác giả chọn đề tài: “Bảo vệ
lOMoARcPSD| 59908026
quyền lợi người tiêu dùng trong hoạt động khuyến mại theo pháp luật Việt
Nam”.
2
NỘI DUNG
lOMoARcPSD| 59908026
CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG KHUYẾN MẠI
1.1 Khái niệm của khuyến mại
Khuyến mại cách thức, biện pháp thu hút khách hàng thông qua việc dành lợi
ích cho khách hàng, bao gồm lợi ích vật chất (tiền, hàng hóa) hay lợi ích phi vật chất
(được cung ứng dịch vụ miễn phí). Dấu hiệu dành cho khách hàng những lợi ích vật
chất nhất định để tác động tới thái độ hành vi mua bán của họ đặc trưng của khuyến
mại phân biệt vơi các hình thức xúc tiến thương mại khác.
So với Luật thương mại năm 1997, Luật thương mại hiện hành khi định nghĩa về
khuyến mại bổ sung hai điểm về mục đích khuyến mại và cách thức khuyến mại
thông qua quan hdịch vụ. Mục đích của khuyến mại không chỉ nhằm xúc tiến việc bán
hàng còn nhằm xúc tiến việc mua hàng. Mặc khuyến mại để bán hàng hoạt
động phổ biến của thương nhân, do thương nhân tiến hành như mt nhu cầu tất yếu để
cạnh tranh mở rộng thị phần nhưng đối với doanh nghiệp thương mại, việc khuyến mại
để mua hàng, gom hàng cũng có thể trở thành nhu cầu cần thiết.
Đáp ứng yêu cầu thực tế này, pháp luật hiện hành quy định: khuyến mại là hoạt
động xúc tiến thương mại của thương nhân nhằm xúc tiến việc mua bán hàng, cung ứng
dịch vụ bằng cách dành cho khách hàng những lợi ích nhất định. Cách thức thực hiện
xúc tiến thương mại, tạo ra những điều kiện thuận lợi để thúc đẩy mạnh mẽ việc bán
hàng và cung ứng dịch vụ dành cho khách hàng những lợi ích nhất định. Đây chính
là dấu hiệu phân biệt hành vi khuyến mại với các hành vi xúc tiến thương mại khác.
1.2 Đặc điểm của khuyến mại
Theo quy định của Luật thương mại 2005, khuyến mại có các đặc điểm cơ bản sau
đây:
- Chủ thể thực hiện hành vi khuyến mại thương nhân. Để tăng cường hội
thương mại, thương nhân được phép tự mình tổ chức thực hiện việc khuyến mại, cũng
thể lựa chọn dịch vụ khuyến mại cho thương nhân khác để kinh doanh. Quan hệ dịch
vụ này hình thành trên sở hợp đồng dịch vụ khuyến mại giữa thương nhân nhu
cầu khuyến mại và thương nhân kinh doanh dịch vụ.
- Cách thức xúc tiến thương mại: dành cho khách hàng những lợi ích nhất định.
Tùy thuộc vào mục tiêu của đợt khuyến mại, tùy thuộc vào trạng thái cạnh tranh, phản
ứng của đối thủ cạnh tranh trên thương trường, tùy thuộc vào điều kiện kinh phí dành
cho khuyến mại, lợi ích mà thương nhân dành cho khách hàng có thể là quà tặng, hàng
mẫu để dùng thử, mua hàng giảm giá...hoặc lợi ích phi vật chất khác. Khách hàng
được khuyến mại có thể là người tiêu dùng hoặc các trung gian phân phối, ví dụ các đại
lý bán hàng.
- Mục đích của khuyến mại xúc tiến việc bán hàng cung ứng dịch vụ. Để thực
hiện mục đích này, các đợt khuyến mại có thể hướng tới mục tiêu lôi kéo hành vi mua
sắm, sử dụng dịch vụ của khách hàng, giới thiệu một sản phẩm mới, kích thích trung
gian phân phối chú ý hơn nữa đến hàng hóa của doanh nghiệp, tăng lượng hàng đặt
mua...thông qua đó tăng thị phần của doanh nghiệp trên thị trường hàng hóa, dịch vụ.
lOMoARcPSD| 59908026
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ HOẠT ĐỘNG
KHUYẾN MẠI
2.1 Quy định pháp luật về hoạt động khuyến mại
Về hình thức thực hiện, thương nhân được tổ chức thực hiện khuyến mại hoặc thuê
dịch vụ khuyến mại do thương nhân khác cung cấp. Do đó, thương nhân thực hiện
khuyến mại gồm có thương nhân tự tổ chức thực hiện khuyến mại thương nhân kinh
doanh dịch vụ khuyến mại.
a. Quy định của pháp luật về các hình thức khuyến mại
Theo quy định của Luật thương mại 2005 và Nghị định 37/2006 thì thương nhân
được thực hiện các hình thức khuyến mại sau đây:
Hàng mẫu: hình thức khuyến mại, theo đó, thương nhân đưa hàng mẫu, cung
ứng dịch vụ mẫu để khách hàng dùng thử không phải trả tiền. Thông thường hàng mẫu
được sử dụng khi thương nhân cần giới thiệu một sản phẩm mới hoặc sản phẩm đã cải
tiến, do vậy hàng mẫu đưa cho khách hàng dùng thử là hàng đang bán hoặc sẽ được n
trên thị trường. Trên thực tế hình thức khuyến mại này thường được áp dụng đối với
những hàng hóa, dịch vụ lần đầu được đưa ra thị trường hoặc trong một chiến dịch thâm
nhập vào một thị trường mới mà ở đó người tiêu dùng chưa biết tới chúng hoặc tiêu thụ
rất ít. Hình thức khuyến mại này ý nghĩa thương nhân tạo điều kiện cho khách
hàng được sử dụng sản phẩm miễn phí và phải chính là sản phẩm nằm trong chiến dịch
xúc tiến thương mại của thương nhân. Đây thể xem cách quảng cáo tốt, gây ấn
tượng rất mạnh đối với khách hàng: dùng sản phẩm để quảng cáo cho chính sản phẩm
đó.Hàng mẫu đưa cho khách hàng, dịch vụ mẫu cung ứng cho khách hàng dùng thử
phải là hàng hóa, dịch vụ được kinh doanh hợp pháp thương nhân đang hoặc sẽ bán,
cung ứng trên thị trường. Khi nhận hàng mẫu, dịch vụ mẫu, khách hàng không phải thực
hiện bất kỳ nghĩa vụ thanh toán nào. Thương nhân thực hiện chương trình khuyến mãi
theo hình thức đưa hàng mẫu, cung ứng dịch vụ mẫu phải chịu trách nhiệm về chất
lượng của hàng mẫu, dịch vụ mẫu và phải thông báo cho khách hàng đầy đủ thông tin
liên quan đến việc sử dụng hàng mẫu, dịch vụ mẫu.
Cách thức tiến hành khuyến mại đưa hàng hóa mẫu, cung ứng dịch vụ mẫu đê
khách hàng dùng thử không phải trả tiền chưa được quy định ràng trong Luật Thương
mại Việt Nam 2005 nhưng thực tế các thương nhân thường sử dụng một số cách thức
sau: đưa hàng mẫu, cung ứng dịch vụ mẫu theo yêu cầu của khách hàng; phát hàng mẫu,
cung ứng dịch vụ mẫu tại nơi bán hàng, nơi cung cấp dịch vụ; tổ chức phân phát đến
tận tay khách hàng:
- Tặng quà
- Giảm giá
- Bán hàng, cung ứng dịch vụ có kèm phiếu mua hàng, phiếu sử dụng dịch
vụ, phiếu dự thi
- Tổ chức các sự kiện để thu hút khách hàng
lOMoARcPSD| 59908026
5
Ngoài ra, pháp luật không cấm thương nhân sử dụng các hình thức khác để khuyến
mại nhưng khi tiến hành phải được quan quản nhà nước về thương mại chấp nhận.
b. Quyền và nghĩa vụ của thương nhân hoạt động khuyến mại
Quyền tự do kinh doanh cho phép thương nhân được áp dụng các kỹ thuật thuyết
phục khác nhau để tăng cường cơ hội bán hàng và cung ứng dịch vụ. Khi tổ chức hoạt
động khuyến mại, thương nhân quyền: Lựa chọn hình thức, thời gian, địa điểm
khuyến mại, hàng hoá, dịch vụ dùng để khuyến mại. Quy định các lợi ích cụ thể
khách hàng được ởng phù hợp với quy định của pháp luật. Thuê thương nhân kinh
doanh dịch vụ khuyến mại thực hiện việc khuyến mại cho mình. Tổ chức thực hiện các
hình thức khuyến mại quy định tại như đã nêu trên đây.
Thương nhân tổ chức hoạt động khuyến mại có các nghĩa vụ cơ bản theo luật định
sau đây: Thực hiện đầy đủ các trình tự, thủ tục theo quy định của pháp luật để thực hiện
các hình thức khuyến mại. Thông báo công khai các nội dung thông tin về hoạt động
khuyến mại cho khách hàng theo quy định của pháp luật. Thực hiện đúng chương trình
khuyến mại đã thông báo và các cam kết với khách hàng. Đối với các hình thức khuyến
mại: bán hàng, cung ứng dịch vkèm theo việc tham dự các chương trình mang tính
may rủi mà việc tham gia chương trình gắn liền với việc mua hàng hoá, dịch vụ và việc
trúng thưởng dựa tn sự may mắn của người tham gia theo thể lệ và giải thưởng đã
công bố thì thương nhân phải trích 50% giá trị giải thưởng đã công bố vào ngân sách
nhà nước trong trường hợp không người trúng thưởng. Tuân thủ các thoả thuận trong
hợp đồng dịch vụ khuyến mại nếu thương nhân thực hiện khuyến mại là thương nhân
kinh doanh dịch vụ khuyến mại.
c. Các hành vi bị cấm trong hoạt động khuyến mại
Khuyến mại quyền của thương nhân trong hoạt động kinh doanh. hội khuyến
mại thương nhân khuyến mại được vấn đề “nhạy cảm” thể tạo ra
những khó khăn cho thương nhân khác, có thể “đụng chạm” đến lợi ích của khách hàng
tính lành mạnh của môi trường kinh doanh. Để ngăn ngừa những tác động tiêu cực
này, một số hành vi sau đây bị cấm trong hoạt động khuyến mại: Khuyến mại cho hàng
hoá, dịch vụ cấm kinh doanh, hàng hoá, dịch vụ hạn chế kinh doanh, hàng hoá chưa
được phép lưu thông, dịch vụ chưa được phép cung ứng; sử dụng hàng hoá, dịch vụ
dùng để khuyến mại hàng hoá, dịch vụ cấm kinh doanh, hàng hoá, dịch vụ hạn chế
kinh doanh, hàng hchưa được phép lưu thông, dịch vụ chưa được phép cung ứng;
khuyến mại hoặc sử dụng rượu, bia để khuyến mại cho người dưới 18 tuổi; khuyến mại
hoặc sử dụng thuốc lá, rượu độ cồn từ 30 độ trở lên để khuyến mại dưới mọi hình
thức; khuyến mại thiếu trung thực hoặc gây hiểu lầm vhàng hoá, dịch vụ để lừa dối
khách hàng; khuyến mại để tiêu thụ hàng hoá kém chất lượng, làm phương hại đến môi
trường, sức khoẻ con người lợi ích công cộng khác; khuyến mại tại trường học, bệnh
viện, trụ sở của quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - hội, đơn vị
trang nhân dân; hứa tặng, thưởng nhưng không thực hiện hoặc thực hiện không đúng;
khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh; thực hiện khuyến mại giá trị hàng
hoá, dịch vụ dùng để khuyến mại vượt quá hạn mức tối đa hoặc giảm giá hàng hoá, dịch
vụ được khuyến mại quá mc tối đa theo quy định của pháp luật.
lOMoARcPSD| 59908026
6
Việc pháp luật quy định nghiêm cấm các hoạt động khuyến mại trên đây hoàn
toàn cần thiết, với mục đích bảo vệ lợi ích nhà nước, người tiêu dùng cũng như việc gìn
giữ đạo đức kinh doanh của các thương nhân, đảm bảo quyền tự do kinh doanh của các
thương nhân trong môi trường cạnh tranh lành mạnh. Khuyến mại không phải chỉ
một hình thức pháp để xúc tiến thương mại Việt Nam còn được ghi nhận
chịu sự điều chỉnh của luật pháp phần đa các nước có nền kinh tế thị trường phát triển
2.2 Thực trạng các hoạt động khuyến mại ở nước ta hiện nay
Để bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng, Luật thương mại 2005 và Nghị định số
37 /2006/NĐ - CP đã quy định về hàng hoá, dịch vụ được khuyến mại; về hàng hoá,
dịch vụ dùng để khuyến mại; quyền và nghĩa vụ pháp của thương nhân thực hiện
khuyến mại; các hành vi bị cấm trong hoạt động khuyến mại; về nguyên tắc thực hiện
khuyến mại. Tuy nhiên, những quy định này chưa thực sự đầy đủ để đảm bảo lợi ích
của khách hàng. Do đó, hiện nay, các hoạt động khuyến mại ở nước ta diễn ra phức tạp,
mục tiêu doanh thu, thương nhân bằng nhiều cách không chấp hành các quy định của
pháp luật về khuyến mại, gây ảnh hưởng không nhỏ tới quyền lợi của người tiêu dùng.
Về vấn đề kiểm soát giá cả và chất lượng sản phẩm khuyến mại, một thực tế là do
các điểm kinh doanh hàng hoá quá nhiều, thời gian khuyến mãi ngắn nên nhiều
chương trình khuyến mãi mà các cơ quan quản nhà nước không thể nắmhết được.
Việc quản lý các chương trình khuyến mãi theo Luật Khuyến mãi hiện rất khó khăn.
vậy, đây cũng là một kẽ hđể tư thương “làm liều”, không thông báo với cơ quan quản
trước 7 ngày, trước khi áp dụng các chương trình khuyến mãi theo quy định. Người
tiêu dùng thường phải chấp nhận một giá cả chất lượng sản phẩm không đúng như
thông tin khuyến mãi các thương nhân đưa ra khi mua hàng “thanh lý”, “xhàng
tồn” hiện nay.
Đơn cử trong lĩnh vực điện máy, thể nhận thấy trên địa bàn Nội hiện nay
không phải trung tâm điện máy nào cũng thể vừa bán sản phẩm với giá ưu đãi rất
thấp lại vừa có thể đảm bảo quyền lợi cho khách hàng từ chất lượng sản phẩm đã mua
đến các dịch vụ hậu mãi, bảo hành. Hầu như toàn bộ hệ thống siêu thị đều rầm rộ quảng
cáo trên các phương tiện truyền thông những thông điệp giảm giá gây sốc, trong đó có
những đơn vị đưa ra mức giảm giá tới 50%. Điều đó làm cho người tiêu dùng lại có thể
dễ dàng khi lựa chọn cho mình những sản phẩm điện máy với mức giá hấp dẫn. Nhưng
bên cạnh điều này không ít người tiêu dùng vẫn e ngại bởi tìm được một điểm bán hàng
thật sự tin cậy để mua sắm là một vấn đề không nhỏ.
Hoặc các cửa hàng, đại bán lẽ thì các mặt ng được cửa hàng chọn “thanh
lý”, “xả hàng” chủ yếu tập trung vào nhóm hàng hoá mỹ phẩm, quần áo, giày dép, kính
mắt...Một trong những chiêu chủ hàng thường áp dụng nâng giá niêm yết hàng
trước khi áp dụng chương trình “thanh lý”, “xả hàng”. Khi khách chấp nhận mua hàng,
nhân viên sẽ giảm trực tiếp trên giá đã tăng, khiến cho khách hàng tưởng mua được giá
rẻ, nhưng thực chất giá sản phẩm vẫn giữ nguyên, thậm chí còn cao hơn giá chưa được
“thanh lý”. Cách thức thứ hai các cửa hàng cũng đang thực hiện chỉ quảng cáo
chung chung là “thanh hàng tồn từ 30 40%” hoặc “xả hàng giá sốc tới 50%”. Khi
khách hàng hỏi, mới biết chỉ mt lượng hàng nhỏ áp dụng “thanh lý”, số hàng n
lại vẫn bán với giá đã niêm yết. Nhìn số lượng hàng quá ít, thiếu size, nhiều khách hàng
lOMoARcPSD| 59908026
7
nản lòng, lúc đó nhân viên mới hướng khách sang những mặt hàng không giảm giá. Một
số trường hợp, khách hàng chấp nhận mua hàng không thanh lý để khỏi mất thời gian.
Như vậy, một vấn đề đặt ra qua những thực trạng nêu trên đó là, pháp luật về
khuyến mại hiện hành đã đủ các chế tài để quản hiệu quả các hành vi khuyến mại nêu
trên? Giải pháp nào hữu hiệu? Luật thương mại 2005 quy định “cấm hành vi
khuyến mại thiếu trung thực hoặc gây hiểu lầm về hàng hoá, dịch vụ để lừa dối khách
ng”, tuy nhiên Luật quy định một chuyện còn chế để kiểm soát được các hành
vi khuyến mại tương tự thì ở nước ta hiện nay còn chưa được quan tâm đúng mức. Do
đó, các quy định của Nhà nước còn chưa đủ để có thể quản lý, kiểm soát hết được thực
trạng các hoạt động khuyến mại không đảm bảo về giá cả chất lượng sản phẩm
khuyến mại như hiện nay.
CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ NÂNG CAO
HIỆU QUẢ CỦA HOẠT ĐỘNG KHUYẾN MẠI
Qua khái quát tình hình, thực trạng hoạt động khuyến mại ở nước ta hiện nay trên
đây cho chúng ta thấy, trong hệ thống các quy định của pháp luật hiện hành về khuyến
mại ng những hạn chế, bất cập, chưa tương thích chưa đủ các chế, biện
pháp để giúp nhà nước quản lý, kiểm soát chặt chẽ được các hoạt động khuyến mi hiện
nay.
3.1 Những bất cập của pháp luật hiện hành về hoạt động khuyến mại
Về trình tự, thủ tục thực hiện khuyến mại:
Luật thương mại 2005 Nghị định s37/2006/NĐ - CP đã những quy định
hợp lý. Tuy nhiên, theo khoản 3 điều 16 khoản 3 điều 17 của Nghị định số
37/2006/NĐ - CP tquan quản lí nhà nước thẩm quyền khi nhận hồ đăng
thực hiện chương trình khuyến mại phải xem xét, xác nhận bằng văn bản về việc đăng
thực hiện chương trình khuyến mại, trường hợp không xác nhận phải thông báo bằng
văn bản nêu do. Nhưng luật lại không quy định các điều kiện để thương nhân
có được sự xác nhận của cơ quan quản lí nhà nước có thẩm quyền và trong trường hợp
bị từ chối xác nhận thì luật cũng không quy định những quyền của thương nhân trong
trường hợp này. Quy định như trên đã biến thủ tục “đăng kí” thành thủ tục “xin phép”.
Như vậy sẽ hạn chế quyền tự do hoạt động khuyến mại của thương nhân, qua đó gián
tiếp ảnh hưởng đến lợi ích của người tiêu dùng. Trên thực tế không ít doanh nghiệp vẫn
lọt qua được tầm kiểm soát của các quan quản nhà nước. Do vậy cần phải sự
quản lý, giám sát chặt chẽ hơn hữa của các quan chức năng để đảm bảo quyền lợi
chính đáng cho người tiêu dùng và các thương nhân khác...
Về việc bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng trong các chương trình khuyến
mại mang tính may rủi:
trong các chương trình khuyến mại mang tính may rủi, thì việc bảo vệ quyền lợi
của người tiêu dùng là việc rất khó bởi lẽ: Luật thương mại 2005 chỉ quy định thương
nhân nghĩa vụ “thực hiện đúng chương trình khuyến mại đã thông báo cam kết
với khách hàng” (Khoản 3 Điều 96 LTM). Chỉ với quy định này thì việc kiểm soát tính
trung thực của thương nhân khi thực hiện khuyến mại bằng hình thức này cùng
khó khăn. dụ như trong chương trình khuyến mại “bật nắp chai trúng thưởng” với
cấu 200.000 giải thưởng trong đó có 06 xe ô tô BMW của một công ty bia, không ai có
lOMoARcPSD| 59908026
8
thể chắc chắn rằng đủ 200.000 giải thưởng với 06 nắp chai in hình xe BMW trong
số sản phẩm được bán trong đợt khuyến mại?
(1)
. Như vậy, quyền lợi của người tiêu
dùng không thể đảm bảo trong khi hàng hoá vẫn được tiêu thụ trong thời gian khuyến
mại.
Về chế tài áp dụng để xử lý hành vi vi phạm trong hoạt động khuyến mại:
Theo Điều 29 Nghị định 06/2008/NĐ - CP ngày 16/01/2008 của Chính phủ về xử
phạt vi phạm hành chính trong hoạt động thương mại thì mức phạt cao nhất đối với hành
vi vi phạm quy định về khuyến mại là 60.000.000 đồng nếu hành vi vi phạm được thực
hiện trên địa bàn thai tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trở lên, còn đối với các
hành vi vi phạm được thực hiện trên địa bàn một tỉnh, thành phố trực
1
thuộc trung ương thì mức phạt cao nhất 30.000.000. Mức phạt như vậy dường như
còn thấp nên sẽ không đủ sức răn đe. Do đó, tình trạng vi phạm quy định về khuyến
mại còn rất phổ biến. Trước đó, Nghị định 175/2004 vể xphạt vi phạm hành chính
trong lĩnh vực thương mại quy định mức cao nhất 70.000.000 đồng và 35.000.000
đồng, với mức phạt này các hành vi vi phạm vẫn diễn ra thường xuyên thì liệu pháp
luật quy định giảm mức xử phạt như vậy có phù hợp với thực tiễn? Trong khi xu hướng
chung của pháp luật hầu hết tăng các chế tài xử phạt (bằng tiền) đối với các hành vi
vi phạm pháp luật để phù hợp với tình hình kinh tế hội, tpháp luật về xử phạt
hành vi vi phạm trong hoạt động khuyến mại lại quy định mức phạt tiền giảm xuống.
Do đó không phù hợp với thực tiễn, đồng thời khó thể trở thành công cụ để bảo vệ
người tiêu dùng hữu hiệu.
Vấn đề trách nhiệm pháp lý trong việc vi phạm pháp luật về hoạt động khuyến
mại của thương nhân:
Quy định của pháp luật về trách nhiệm pháp lý của thương nhân khuyến mại chưa
thật sự đầy đủ để đảm bảo lợi ích của khách hàng. Trong thực tế khách hàng người
phải chịu thiệt thòi do những gian lận trong khuyến mại, do các sai sót kỹ thuật trong in
ấn tem, phiếu, vật phẩm có chứa đựng thông tin về lợi ích vật chất khách hàng được
hưởng trong đợt khuyến mại. Và trong hệ thống pháp luật hiện hành đang rất thiếu các
quy định làm spháp để bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng trong những trường
hợp này.
Như phần trên đã nêu, một trong những đặc điểm của hoạt động khuyến mại đó là
chủ thể thực hiện hành vi khuyến mại thương nhân, các quy định của pháp luật về
khuyến mại hiện hành chủ yếu điều chỉnh các hành vi khuyến mại của thương nhân, do
đó hầu như không cụ thể hóa trách nhiệm nhân của thương nhân trong việc để
xảy ra hành vi vi phạm trong hoạt động khuyến mại. Cần phải thấy rằng, nhà nước
có đề ra các chế tài, biện pháp để quản lý, kiểm soát hoạt động khuyến mại của thương
nhân thì một thực trạng đócác hành vi vi phạm trong hoạt động khuyến mại như đã
đề cập ở phần thực trạng trên đây vẫn diễn ra và không xu hướng thuyên giảm, thậm
chí ngày một phức tạp, tinh vi bất chấp pháp luật, xâm phạm nghiêm trọng đến quyền
lợi của người tiêu dùng.
lOMoARcPSD| 59908026
9
Một vấn đề quan trọng nữa, đó là hiện nay vẫn đang thiếu quy định để xử lý hình
sự đối với thương nhân pháp nhân khi vi phạm pháp luật trong hoạt động khuyến mại
và các hoạt động xúc tiến thương mại khác. Bộ luật hình sự hiện hành quy định chủ th
của trách nhiệm hình sự nhân, trong khi đó, thể xuất hiện các hành vi nguy hiểm
cho xã hội do cá nhân thực hiện nhưng với danh nghĩa của pháp nhân, theo yêu cầu
lợi ích của pháp nhân. Chẳng hạn: hành vi lừa dối khách hàng, hành vi làm tem, vé giải
của pháp nhân, hành vi quảng cáo gian dối...Trong những trường hợp đó, việc xử
hình sự đối với cá nhân sẽ thiếu cơ sở, không công bằng và không có tác dụng tích cực
ngăn ngừa đối với pháp nhân.
Về các hình thức khuyến mại:
Mặc quy định của pháp luật thương mại bổ sung thêm mục đích xúc tiến việc
mua hàng nhưng quy định về các cách thức khuyến mại vẫn chỉ tập trung vào hoạt động
xúc tiến việc bán hàng. Trong số tám cách thức khuyến mại được quy định tại Điều 92
Luật thương mại năm 2005, chỉ thể áp dụng hình thức tặng quà, hình thức tổ chức
chương trình khách hàng thường xuyên và tổ chức các sự kiện quy định tại khoản 2
khoản 7, 8 cho hoạt động khuyến mại để mua hàng. Trong thực tế, nếu như việc giảm
giá để tiêu thụ hàng hóa có thể làm nảy sinh hiện tượng bán phá giá thì việc nâng giá đ
thu mua, gom hàng cũng thể làm xuất hiện những nguy đáng kể cho hoạt động
kinh doanh của thương nhân trong cùng lĩnh vực hoạt động . Tuy nhiên pháp luật thương
mại hiện hành lại không quy định về hành vi này.
Vấn đề xác định hình thức khuyến mại “tặng quà” và “hàng mẫu”:
Khi thương nhân dùng hàng hóa, dịch vụ mà mình được kinh doanh hợp pháp để
phát tặng khách hàng không kèm theo hành vi mua bán hàng hóa thì khi nào hàng
mẫu, khi nào qtặng? Một ví dđầu tháng 9/2011, tại hồ Thành Công, Ba Đình,
Nội đã diễn ra chương trình khuyến mại: “samurai - thưởng thức miễn phí”, công ty
TNHH nước giải khát coca-cola tổ chức uống tại chỗ miễn phí số lượng lớn chai samurai
loại 250ml cho khách hàng. Đó hình thức “quà tặng” hay “hàng mẫu”? Nếu hàng
mẫu, thương nhân không phải thực hiện bất cứ quy định nào về hạn mức khuyến mại,
nếu là quà tặng thì phải thực hiện quy định về hạn mức tối đa giá trị hàng hóa dùng để
khuyến mại (tổng giá trị hàng hóa, dịch vụ dùng để khuyến mại trong mt chương trình
khuyến mại không được vượt quá 50% tổng giá trị của hàng hóa, dịch vụ được khuyến
mại - Khoản 2 Điều 5 Nghị định 37/2006).
Vấn đề này, ý kiến cho rằng pháp luật chỉ nên quy định việc tặng quà kèm theo
việc mua bán hàng hóa, sử dụng dịch vụ, còn các trường hợp đưa hàng hóa cho khách
hàng mà không thu tiền sẽ được coi là hình thức hàng mẫu, bởi vì mục đích của thương
nhân khi đưa hàng mẫu cho khách hàng là muốn giới thiệu với họ về hàng hóa, dịch vụ
của mình, định hướng hành vi mua bán của họ sau khi kiểm nghiệm chất lượng của
hàng mẫu. Khác với điều này, mục đích của hình thức quà tặng là dùng giá trị của quà
tặng để thu hút khách hàng mua hàng hóa, dịch vụ của thương nhân, bởi cùng loại
hàng hóa chất lượng tương đương khách hàng sẽ tâm lý muốn chọn mua hàng hóa
đang được khuyến mại.
Về quy định nghĩa vụ của thương nhân trong việc thực hiện đúng chương
trình khuyến mại đã thông báo và cam kết với khách hàng:
lOMoARcPSD| 59908026
10
Để đảm bảo sự trung thực của thương nhân về giải thưởng trong các chương trình
khuyến mại mang tính may rủi, pháp luật quy định “thương nhân nghĩa vụ thực hiện
đúng chương trình khuyến mại đã thông báo cam kết với khách hàng” (Khoản 3 Điều
96 Luật thương mại năm 2005) chưa đủ. Trên trang điên tử Vietbao (vietbao.vn), ông
Đỗ Thắng Hải - Phó cục trưởng Cục xúc tiến thương mại cho biết: “Trong các chương
trình đăng ký với Cục Xúc tiến thương mại (Bộ Thương mại), tổng số tiền, hàng dành
cho khuyến mãi trị giá tới 215 tỷ đồng. Trong đó, chỉ riêng 10 doanh nghiệp hàng đầu
đã chiếm hơn nửa (khoảng 121 tỷ đồng). Tuy nhiên, đúng như luận phản ánh, tổng
số giá trị giải thưởng đã trao rất thấp, chỉ đạt hơn 6 tỷ đồng, chỉ chiếm 3% tổng số tiền
dành cho khuyến mãi đã đăng ký)”
(2)
. Trong khi thương nhân vẫn tiêu thụ được hàng
hóa mà số lượng giải thưởng đã trao quá ít như vậy chắc chắn có sự vi phạm nghĩa vụ
thực hiện đúng chương trình khuyến mại đã thông báo. Làm thế nào để kiểm soat tính
trung thực của thương nhân khi thực hiện khuyến mại
2
bằng hình thức này, đảm bảo cạnh tranh lành mạnhquyền lợi của khách hàng là vấn
đề khó mà pháp luật hiện hành về xúc tiến thương mại vẫn chưa làm được.
Vấn đề hạn mức tối đa về giá trị hàng hoá, dịch vụ dùng để khuyến mại:
Pháp luật thương mại quy định tổng giá trị của hàng hoá, dịch vụ dùng đế khuyến
mại thương nhân thực hiện trong một chương trình khuyến mại không được vượt
quá 50% tổng giá trị của hàng hoá, dịch vụ được khuyến mại, trừ trường hợp khuyến
mại bằng hình thức đưa hàng mẫu, cung ứng dịch vụ mẫu để khách hàng dùng thử không
phải trả tiền (Khoản 2 Điều 5 Nghị định 37/2006). Quy định này gặp khá nhiều vướng
mắc khi thi hành. Đối với các chương trình khuyến mại của thương nhân kinh doanh
dịch vụ, việc xác định hạn mức giá trị dùng để khuyến mại rất kthực hiện. Nếu thương
nhân tặng dịch vụ cho khách hàng không thu tiền thì hạn mức tổng giá trị dịch vụ dùng
để khuyến mại không được vượt quá 50% tổng giá trị dịch vụ được khuyến mại. Cả hai
mức tổng giá trị này chỉ có thể xác định sau khi kết thúc thời gian khuyến mại. Nếu xác
định vi phạm và xử lý vi phạm khi chưa hết thời gian khuyến mại sẽ không tránh khỏi
bất đồng giữa quan quản nhà nước thương nhân do mọi số liệu thể chỉ
ước tính. Chẳng hạn, một thương nhân kinh doanh trong ngành du lịch, nếu đề ra một
chương trình khuyến mại 3 chuyến du lịch miễn phí trọn gói ra nước ngoài cho các
khách hàng khi sử dụng dịch vụ của thương nhân (trong các dịch vụ của thương nhân
đưa ra trong thời gian khuyến mại), trong trường hợp này khó thể xác định được một
cách chính xác tổng giá trị các gói dịch vụ đưa ra trong thời gian triển khai chương trình
khuyến mại đó là bao nhiêu, 3 chuyến du lịch miễn phí khuyến mại đó vượt hạn mức
tối đa pháp luật quy định hay không khi tổng doanh số của các gói dịch vụ
thường vẫn không cụ thể, công khai; hơn nữa đặc trưng của dịch vụ là tiêu dùng ngay,
do đó khi chưa hết thời gian khuyến mại chỉ có thể ước tính giá trị các gói dịch vụ miễn
phí tổng giá trị các gói dịch vụ đã được thực hiện trong thời gian đó. Nếu như áp
dụng các quy định hiện hành về hạn mức tối đa giá trị dịch vụ dùng để khuyến mại
(50%) sẽ gặp phải vướng mắc này. Một dụ điển hình khác là trong ngành viễn thông,
các mạng di động mobile lớn trong cả nước thường triển khai các chương trình khuyến
lOMoARcPSD| 59908026
11
mại theo từng giai đoạn; trong đó thể thấy phổ biến các cuộc gọi nội mạng miễn
phí, trong trường hợp này chúng ta cũng khó thể xác định trong thời gian khuyến mại
đó, tổng giá trị dịch vụ dùng để khuyến mại đó vượt quá 50% tổng giá trị dịch vụ
được khuyến mại hay không, con số doanh thu thường là lý do để thương nhân đưa
ra để phản đối kết luận của các cơ quan nhà nước.
3.2 Một số giải pháp hoàn thiện quy định của pháp luật về hoạt động
khuyến mại
Thứ nhất, cần bổ sung quy định trách nhiệm nhân của thương nhân hay người
đại diện hợp pháp của thương nhân trách nhiệm nhân của người được giao tổ chức
chương trình khuyến mại để đảm bảo tính trung thực vgiải thưởng và chọn người trúng
giải thưởng. Bao gồm: trách nhiệm trung thực trong tổ chức, trong thực hiện các cam
kết với khách hàng trách nhiệm tôn trọng tối đa lợi ích của người tiêu dùng. Quy
định ràng hơn nữa các hành vi bị cấm trong hoạt động khuyến mại, quy định về
trách nhiệm cũng như nghĩa vụ của thương nhân thực hiện hoạt động khuyến mại.
Thứ hai, cần quy định bổ sung pháp nhân là chủ thể của trách nhiệm hình sự. Việc
quy định bổ sung pháp nhân chủ thể của trách nhiệm hình sự sở sẽ cho
phép xử lí hình sự đối với nhiều hành vi vi phạm trong trường hợp cần thiết, góp phần
tăng cường ý thức pháp luật của thương nhân trong hoạt động xúc tiến thương mại.
Thực tiễn pháp luật hình sự của nhiều quốc gia trên thế giới cũng có quy định tương t
như vậy.
Thứ ba, nên bỏ quy định về hạn mức khuyến mại, bởi trên thực tế một số thương
nhân kinh doanh dịch vụ (ví dụ kinh doanh dịch vụ du lịch, thông tin di động...) thì khó
thể tính được hạn mức để áp dụng. Hơn nữa, đây quyền tự do kinh doanh, tự do
cạnh tranh của thương nhân. Thương nhân khi áp dụng chương trình khuyến mại giảm
giá hay tặng quà, nếu thực sự họ thu hút được khách hàng, bản thân họ khuyến
mại nhiều hơn hạn mức vần tồn tại được. Ngược lại, nếu không thu hút được khách
hàng tham gia vào chương trình khuyến mại của họ, tự họ sẽ bị đào thải. Pháp luật
không cần thiết phải quy định. Cũng không sở khoa học để nói rằng hạn mức
khuyến mại là bao nhiêu % thì sẽ tạo ra cạnh tranh không lành mạnh, bao nhiêu % thì
không. Do đó, nên bỏ hạn mức này và dành quyền tự do hơn nữa cho thương nhân.
Thứ tư, pháp luật chỉ nên quy định việc tặng quà kèm theo việc mua bán hàng hóa,
sử dụng dịch vụ. Còn lại, các trường hợp đưa hàng hóa cho khách hàng không thu
tiền sẽ được coi hình thức hàng mẫu. Việc xác định bản chất của hình thức tặng
quà thể hiện trong quy định của pháp luật cho phép phân biệt với hình thức
xúc tiến thương mại khác. dụ: Hãng điện tử Panasonic phát tặng bóng bay in dòng
chữ “panasonic” tại một trung tâm thương mại, hành vi này thực chất là quảng cáo chứ
không phải tặng quà, lợi ích khách hàng được từ quả bóng bay không thể sức
hút họ đến với các sản phẩm của công ty.
Thứ năm, về các hình thức khuyến mại: Như trên đã nêu, quy định của pháp luật
thương mại có bổ sung thêm mục đích xúc tiến việc mua hàng nhưng quy định về các
cách thức khuyến mại vẫn chỉ tập trung vào hoạt động xúc tiến việc bán hàng. Trong
thực tế, nếu như việc giảm giá để tiêu thụ hàng hóa có thể làm nảy sinh hiện tượng bán
phá giá thì việc nâng giá để thu mua, gom hàng cũng có thể làm xuất hiện những nguy
lOMoARcPSD| 59908026
12
cơ đáng kể cho hoạt động kinh doanh của thương nhân trong cùng lĩnh vực hoạt động.
Do đó pháp luật thương mại cũng cần có quy định để điều chỉnh về hoạt động khuyến
mại nhằm nâng giá để thu mua, gom hàng để phù hợp với thực tiễn.
Thứ sáu, Về trình tự, thủ tục thực hiện khuyến mại: pháp luật khuyến mại hiện
hành không quy định các điều kiện để thương nhân được sự xác nhận của quan
quản lí nhà nước thẩm quyền và trong trường hợp bị từ chối xác nhận thì luật cũng
không quy định những quyền của thương nhân trong trường hợp này. Và như đã đề cập
trên, việc quy định quan quản nhà nước thẩm quyền khi nhận hồ đăng kí
thực hiện chương trình khuyến mại phải xem xét, xác nhận bằng văn bản về việc đăng
kí thực hiện chương trình khuyến mại, trường hợp không xác nhận phải thông báo bằng
văn bản và nêu rõ lí do nhưng không quy định các điều kiện để thương nhân có được sự
xác nhận của quan quản nhà nước thẩm quyền những quyền của thương nhân
trong trường hợp bị từ chối xác nhận đã biến thủ tục “đăng kí” thành thủ tục “xin phép”,
làm hạn chế quyền tự do hoạt động khuyến mại của thương nhân, qua đó gián tiếp ảnh
hưởng đến lợi ích của người tiêu dùng. Do vậy, cần phải bổ sung quy định về các điều
kiện để thương nhân có được sự xác nhận của cơ quan quản lí nhà nước có thẩm quyền
trong trường hợp bị từ chối xác nhận phải quy định những quyền của thương nhân
trong trường hợp này; đồng thời thực tiễn thi hành cũng cần phải sự quản lý, giám
sát chặt chẽ hơn hữa của các cơ quan chức năng để đảm bảo quyền lợi chính đáng cho
người tiêu dùng và các thương nhân khác...
Thứ bảy, cần tăng mức chế tài áp dụng để xử lý hành vi vi phạm trong hoạt động
khuyến mại. Theo đó thì mức phạt tiền cần phải được quy định cao hơn quy định của
pháp luật hiện hành, đđủ sức n đe các hành vi vi phạm quy định của pháp luật về
khuyến mại.
Thứ tám, Tạo điều kiện cho người tiêu dùng thành lập các Hội bảo vệ quyền loại
người tiêu dùng. Tuyên truyền pháp luật đến từng người dân một cách hệ thống
tích cực hơn nữa. Hoàn thiện pháp luật vkhiếu nại, tố o để người tiêu dùng thể
điều kiện thực hiện quyền công dân của mình hơn nữa. Hoạt động giải quyết khiếu
nại, tố cáo cần minh bạch hơn, quy định cụ thể thẩm quyền và mức xử phạt cụ thể hơn.
Thứ chín, trong hình thức khuyến mại, một vấn đề đặt ra về câu chữ là, nên dùng
từ “khuyến mại” theo ch hiểu phổ thông hiện nay của khách hàng hay dùng từ
“khuyến mãi” theo đúng nghĩa của nó. Bởi vì theo tình thần của hình thức khuyến mại
Luật thương mại đề cập là: thương nhân dùng các cách để tác động, khuyến khích
người mua hàng, nhằm xúc tiến việc mua hàng chứ không phải là khuyến khích người
bán. thực chất thì nghĩa của từ “mại” bán; còn nghĩa của từ “mãi” mới mua.
Cho nên để đảm bảo đúng nghĩa của từ ngữ thì phải dùng “khuyến mãi” chứ không
phải “khuyến mại”. Đó băn khoăn của một số không ít người trong thực tế hiện
nay. Thiết nghĩ pháp luật cũng cần sửa đổi để đảm bảo tính chính xác về mặt thuật ngữ.
KẾT LUẬN
Như vậy, thể nói pháp luật vkhuyến mại nước ta hiện nay đã những bước
phát triển nhất định, khắc phục được những hạn chế pháp luật khuyến mại trước đây
tồn tại, điều này xuất phát từ sự phát triển của nền kinh tế thị trường, kéo theo sự đa
dạng, phong phú các hoạt động khuyến mại, làm lộ bất cập trong sự điều chỉnh của
pháp luật và buộc Luật thương mại 2005 cùng các văn bản hướng dẫn, quy định chi tiết
lOMoARcPSD| 59908026
13
về khuyến mại phải có những bổ sung, điều chỉnh mới cho phù hợp với thực tiễn. Tuy
nhiên, việc nghiên cứu để hoàn thiện hệ các quy định pháp luật vkhuyến mại nhằm
quản một cách hiệu quả, đồng thời khuyến khích được các hoạt động khuyến mại
lành mạnh, hợp pháp phát triển thì đó là một vấn đề không hề đơn giản, vì bản thân các
hoạt động khuyến mại của thương nhân để Nhà nước kiểm soát được trên thực tế cũng
không hề dễ. Với hệ thống pháp luật điều chỉnh về hoạt động khuyến mại hiện hành thì
vẫn còn nhiều sơ hở, nhiều điểm bất hợp lý, thiếu sót hoặc chưa được quan tâm thực thi
nghiêm túc trên thực tế, do đó các hành vi vi phạm pháp luật về khuyến mại trong
thời gian qua vẫn xảy ra không có dấu hiệu giảm xuống, quyền lợi của người tiêu dùng
bị xâm hại. Chính vì vậy, cần phải tiếp tục nghiên cứu để hoàn thiện pháp luật về hoạt
động khuyến mại ở nước ta trong thời gian tới.

Preview text:

lOMoAR cPSD| 59908026
TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI KHOA LUẬT LÊ MINH HIẾU
TIỂU LUẬN GIỮA HỌC PHẦN
Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong hoạt động kh uyến mại
theo pháp luật Việt Nam HÀ NỘI, năm 2022 1 lOMoAR cPSD| 59908026 Mục lục
MỞ ĐẦU...............................................................................................................1
NỘI DUNG............................................................................................................2
CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG KHUYẾN MẠI............................2
1.1 Khái niệm của khuyến mại...........................................................................2
1.2 Đặc điểm của khuyến mại............................................................................2
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ HOẠT ĐỘNG
KHUYẾN MẠI.....................................................................................................3
2.1 Quy định pháp luật về hoạt động khuyến mại............................................3
2.2 Thực trạng các hoạt động khuyến mại ở nước ta hiện nay........................5
CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ NÂNG CAO
HIỆU QUẢ CỦA HOẠT ĐỘNG KHUYẾN MẠI..............................................7
3.1 Những bất cập của pháp luật hiện hành về hoạt động khuyến mại..........7
3.2 Một số giải pháp hoàn thiện quy định của pháp luật về hoạt động
khuyến mại........................................................................................................10
KẾT LUẬN.........................................................................................................13 MỞ ĐẦU
Hiện nay, tốc độ tăng trưởng kinh tế của đất nước ngày càng phát triển
nhanh và mạnh. Số lượng hàng hóa được sản xuất ngày càng nhiều, cùng với
nó là chất lượng hàng hóa ngày càng được nâng cao, mẫu mã, chủng loại của
các mặt hàng ngày càng phong phú, đa dạng. Điều đó đòi hỏi các nhà sản xuất
phải tích cực hơn trong khâu tiêu thụ sản phẩm, xúc tiến hoạt động thương
mại ở khâu tiêu thụ là một nhu cầu tất yếu đặt ra.
Nhằm mục đích tiêu thụ sản phẩm, các nhà sản xuất đã đưa ra nhiều
hình thức quảng cáo sản phẩm của mình. Cụ thể như: giới thiệu sản phẩm ,
dùng thử sản phẩm trong một thời gian,… Nền kinh tế hiện nay gọi đó là
khuyến mại và các hình thức này không còn xa lạ gì với người tiêu dùng. Ai
cũng đã ít nhất một lần quan tâm đến các hình thức khuyến mại sản phẩm của
các nhà sản xuất. Kinh tế ngày càng phát triển thì nhu cầu về thị trường cũng
ngày càng được nâng cao. Do chất lượng cuộc sống ngày càng được nâng cao,
người tiêu dùng ngày nay hiểu rất rõ về các sản phẩm mình mua, họ đòi hỏi
cao hơn về chất lượng cũng như giá cả của hàng hóa. Vì vậy, cuộc cạnh tranh
giữa các nhà sản xuất ngày càng quyết liệt hơn. Muốn đi đầu trong việc tiêu lOMoAR cPSD| 59908026
thụ hàng hóa đòi hỏi họ phải nâng cao chất lượng sản phẩm của mình đồng
thời tiếp thị và đưa ra các hình thức khuyến mại hấp dẫn dành cho khách hàng.
Tầm quan trọng và sức ảnh hưởng của hoạt động khuyến mại đối với
khâu tiêu thụ sản phẩm nói riêng và nền kinh tế nói chung là một nhân tố
không thể phủ nhận. Sẽ chẳng có gì để nói nếu tất cả các hoạt động khuyến
mại của nhà cung ứng là lành mạnh và không ảnh hưởng gì đến yếu tố cạnh
tranh của nền kinh tế thị trường. Tuy nhiên, thực tế cho thấy điều ngược lại,
vì hoạt động khuyến mại nếu không được điều tiết một cách hợp lý và chặt
chẽ bởi các quy định của pháp luật, có thể sẽ là “con dao hai lưỡi” đe dọa thị
trường tự do cạnh tranh, và hơn hết là quyền lợi của người tiêu dùng. Yêu cầu
tất yếu đặt ra đòi hỏi sự can thiệp của pháp luật về hoạt động khuyến mại, cùng
với sự hoàn thiện và những giải pháp sắc bén hơn để bảo vệ cũng như thúc
đẩy nền kinh tế thị trường, đảm bảo cạnh tranh lành mạnh và những quyền lợi
cơ bản của người tiêu dùng. Do đó, tác giả chọn đề tài: “Bảo vệ 1 lOMoAR cPSD| 59908026
quyền lợi người tiêu dùng trong hoạt động khuyến mại theo pháp luật Việt Nam”. 2 NỘI DUNG lOMoAR cPSD| 59908026
CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG KHUYẾN MẠI
1.1 Khái niệm của khuyến mại
Khuyến mại là cách thức, biện pháp thu hút khách hàng thông qua việc dành lợi
ích cho khách hàng, bao gồm lợi ích vật chất (tiền, hàng hóa) hay lợi ích phi vật chất
(được cung ứng dịch vụ miễn phí). Dấu hiệu dành cho khách hàng những lợi ích vật
chất nhất định để tác động tới thái độ và hành vi mua bán của họ là đặc trưng của khuyến
mại phân biệt vơi các hình thức xúc tiến thương mại khác.
So với Luật thương mại năm 1997, Luật thương mại hiện hành khi định nghĩa về
khuyến mại có bổ sung hai điểm về mục đích khuyến mại và cách thức khuyến mại
thông qua quan hệ dịch vụ. Mục đích của khuyến mại không chỉ nhằm xúc tiến việc bán
hàng mà còn nhằm xúc tiến việc mua hàng. Mặc dù khuyến mại để bán hàng là hoạt
động phổ biến của thương nhân, do thương nhân tiến hành như một nhu cầu tất yếu để
cạnh tranh mở rộng thị phần nhưng đối với doanh nghiệp thương mại, việc khuyến mại
để mua hàng, gom hàng cũng có thể trở thành nhu cầu cần thiết.
Đáp ứng yêu cầu thực tế này, pháp luật hiện hành quy định: khuyến mại là hoạt
động xúc tiến thương mại của thương nhân nhằm xúc tiến việc mua bán hàng, cung ứng
dịch vụ bằng cách dành cho khách hàng những lợi ích nhất định
. Cách thức thực hiện
xúc tiến thương mại, tạo ra những điều kiện thuận lợi để thúc đẩy mạnh mẽ việc bán
hàng và cung ứng dịch vụ là dành cho khách hàng những lợi ích nhất định. Đây chính
là dấu hiệu phân biệt hành vi khuyến mại với các hành vi xúc tiến thương mại khác.
1.2 Đặc điểm của khuyến mại
Theo quy định của Luật thương mại 2005, khuyến mại có các đặc điểm cơ bản sau đây:
- Chủ thể thực hiện hành vi khuyến mại là thương nhân. Để tăng cường cơ hội
thương mại, thương nhân được phép tự mình tổ chức thực hiện việc khuyến mại, cũng
có thể lựa chọn dịch vụ khuyến mại cho thương nhân khác để kinh doanh. Quan hệ dịch
vụ này hình thành trên cơ sở hợp đồng dịch vụ khuyến mại giữa thương nhân có nhu
cầu khuyến mại và thương nhân kinh doanh dịch vụ.
- Cách thức xúc tiến thương mại: Là dành cho khách hàng những lợi ích nhất định.
Tùy thuộc vào mục tiêu của đợt khuyến mại, tùy thuộc vào trạng thái cạnh tranh, phản
ứng của đối thủ cạnh tranh trên thương trường, tùy thuộc vào điều kiện kinh phí dành
cho khuyến mại, lợi ích mà thương nhân dành cho khách hàng có thể là quà tặng, hàng
mẫu để dùng thử, mua hàng giảm giá...hoặc là lợi ích phi vật chất khác. Khách hàng
được khuyến mại có thể là người tiêu dùng hoặc các trung gian phân phối, ví dụ các đại lý bán hàng.
- Mục đích của khuyến mại là xúc tiến việc bán hàng và cung ứng dịch vụ. Để thực
hiện mục đích này, các đợt khuyến mại có thể hướng tới mục tiêu lôi kéo hành vi mua
sắm, sử dụng dịch vụ của khách hàng, giới thiệu một sản phẩm mới, kích thích trung
gian phân phối chú ý hơn nữa đến hàng hóa của doanh nghiệp, tăng lượng hàng đặt
mua...thông qua đó tăng thị phần của doanh nghiệp trên thị trường hàng hóa, dịch vụ. lOMoAR cPSD| 59908026
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ HOẠT ĐỘNG KHUYẾN MẠI
2.1 Quy định pháp luật về hoạt động khuyến mại
Về hình thức thực hiện, thương nhân được tổ chức thực hiện khuyến mại hoặc thuê
dịch vụ khuyến mại do thương nhân khác cung cấp. Do đó, thương nhân thực hiện
khuyến mại gồm có thương nhân tự tổ chức thực hiện khuyến mại và thương nhân kinh
doanh dịch vụ khuyến mại.
a. Quy định của pháp luật về các hình thức khuyến mại
Theo quy định của Luật thương mại 2005 và Nghị định 37/2006 thì thương nhân
được thực hiện các hình thức khuyến mại sau đây:
Hàng mẫu: là hình thức khuyến mại, theo đó, thương nhân đưa hàng mẫu, cung
ứng dịch vụ mẫu để khách hàng dùng thử không phải trả tiền. Thông thường hàng mẫu
được sử dụng khi thương nhân cần giới thiệu một sản phẩm mới hoặc sản phẩm đã cải
tiến, do vậy hàng mẫu đưa cho khách hàng dùng thử là hàng đang bán hoặc sẽ được bán
trên thị trường. Trên thực tế hình thức khuyến mại này thường được áp dụng đối với
những hàng hóa, dịch vụ lần đầu được đưa ra thị trường hoặc trong một chiến dịch thâm
nhập vào một thị trường mới mà ở đó người tiêu dùng chưa biết tới chúng hoặc tiêu thụ
rất ít. Hình thức khuyến mại này có ý nghĩa là thương nhân tạo điều kiện cho khách
hàng được sử dụng sản phẩm miễn phí và phải chính là sản phẩm nằm trong chiến dịch
xúc tiến thương mại của thương nhân. Đây có thể xem là cách quảng cáo tốt, gây ấn
tượng rất mạnh đối với khách hàng: dùng sản phẩm để quảng cáo cho chính sản phẩm
đó.Hàng mẫu đưa cho khách hàng, dịch vụ mẫu cung ứng cho khách hàng dùng thử
phải là hàng hóa, dịch vụ được kinh doanh hợp pháp mà thương nhân đang hoặc sẽ bán,
cung ứng trên thị trường. Khi nhận hàng mẫu, dịch vụ mẫu, khách hàng không phải thực
hiện bất kỳ nghĩa vụ thanh toán nào. Thương nhân thực hiện chương trình khuyến mãi
theo hình thức đưa hàng mẫu, cung ứng dịch vụ mẫu phải chịu trách nhiệm về chất
lượng của hàng mẫu, dịch vụ mẫu và phải thông báo cho khách hàng đầy đủ thông tin
liên quan đến việc sử dụng hàng mẫu, dịch vụ mẫu.
Cách thức tiến hành khuyến mại đưa hàng hóa mẫu, cung ứng dịch vụ mẫu đê
khách hàng dùng thử không phải trả tiền chưa được quy định rõ ràng trong Luật Thương
mại Việt Nam 2005 nhưng thực tế các thương nhân thường sử dụng một số cách thức
sau: đưa hàng mẫu, cung ứng dịch vụ mẫu theo yêu cầu của khách hàng; phát hàng mẫu,
cung ứng dịch vụ mẫu tại nơi bán hàng, nơi cung cấp dịch vụ; tổ chức phân phát đến tận tay khách hàng: - Tặng quà - Giảm giá -
Bán hàng, cung ứng dịch vụ có kèm phiếu mua hàng, phiếu sử dụng dịch vụ, phiếu dự thi -
Tổ chức các sự kiện để thu hút khách hàng lOMoAR cPSD| 59908026
Ngoài ra, pháp luật không cấm thương nhân sử dụng các hình thức khác để khuyến
mại nhưng khi tiến hành phải được cơ quan quản lý nhà nước về thương mại chấp nhận.
b. Quyền và nghĩa vụ của thương nhân hoạt động khuyến mại
Quyền tự do kinh doanh cho phép thương nhân được áp dụng các kỹ thuật thuyết
phục khác nhau để tăng cường cơ hội bán hàng và cung ứng dịch vụ. Khi tổ chức hoạt
động khuyến mại, thương nhân có quyền: Lựa chọn hình thức, thời gian, địa điểm
khuyến mại, hàng hoá, dịch vụ dùng để khuyến mại. Quy định các lợi ích cụ thể mà
khách hàng được hưởng phù hợp với quy định của pháp luật. Thuê thương nhân kinh
doanh dịch vụ khuyến mại thực hiện việc khuyến mại cho mình. Tổ chức thực hiện các
hình thức khuyến mại quy định tại như đã nêu trên đây.
Thương nhân tổ chức hoạt động khuyến mại có các nghĩa vụ cơ bản theo luật định
sau đây: Thực hiện đầy đủ các trình tự, thủ tục theo quy định của pháp luật để thực hiện
các hình thức khuyến mại. Thông báo công khai các nội dung thông tin về hoạt động
khuyến mại cho khách hàng theo quy định của pháp luật. Thực hiện đúng chương trình
khuyến mại đã thông báo và các cam kết với khách hàng. Đối với các hình thức khuyến
mại: bán hàng, cung ứng dịch vụ kèm theo việc tham dự các chương trình mang tính
may rủi mà việc tham gia chương trình gắn liền với việc mua hàng hoá, dịch vụ và việc
trúng thưởng dựa trên sự may mắn của người tham gia theo thể lệ và giải thưởng đã
công bố thì thương nhân phải trích 50% giá trị giải thưởng đã công bố vào ngân sách
nhà nước trong trường hợp không có người trúng thưởng. Tuân thủ các thoả thuận trong
hợp đồng dịch vụ khuyến mại nếu thương nhân thực hiện khuyến mại là thương nhân
kinh doanh dịch vụ khuyến mại.
c. Các hành vi bị cấm trong hoạt động khuyến mại
Khuyến mại là quyền của thương nhân trong hoạt động kinh doanh. Cơ hội khuyến
mại mà thương nhân khuyến mại có được là vấn đề “nhạy cảm” vì nó có thể tạo ra
những khó khăn cho thương nhân khác, có thể “đụng chạm” đến lợi ích của khách hàng
và tính lành mạnh của môi trường kinh doanh. Để ngăn ngừa những tác động tiêu cực
này, một số hành vi sau đây bị cấm trong hoạt động khuyến mại: Khuyến mại cho hàng
hoá, dịch vụ cấm kinh doanh, hàng hoá, dịch vụ hạn chế kinh doanh, hàng hoá chưa
được phép lưu thông, dịch vụ chưa được phép cung ứng; sử dụng hàng hoá, dịch vụ
dùng để khuyến mại là hàng hoá, dịch vụ cấm kinh doanh, hàng hoá, dịch vụ hạn chế
kinh doanh, hàng hoá chưa được phép lưu thông, dịch vụ chưa được phép cung ứng;
khuyến mại hoặc sử dụng rượu, bia để khuyến mại cho người dưới 18 tuổi; khuyến mại
hoặc sử dụng thuốc lá, rượu có độ cồn từ 30 độ trở lên để khuyến mại dưới mọi hình
thức; khuyến mại thiếu trung thực hoặc gây hiểu lầm về hàng hoá, dịch vụ để lừa dối
khách hàng; khuyến mại để tiêu thụ hàng hoá kém chất lượng, làm phương hại đến môi
trường, sức khoẻ con người và lợi ích công cộng khác; khuyến mại tại trường học, bệnh
viện, trụ sở của cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, đơn vị
vũ trang nhân dân; hứa tặng, thưởng nhưng không thực hiện hoặc thực hiện không đúng;
khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh; thực hiện khuyến mại mà giá trị hàng
hoá, dịch vụ dùng để khuyến mại vượt quá hạn mức tối đa hoặc giảm giá hàng hoá, dịch
vụ được khuyến mại quá mức tối đa theo quy định của pháp luật. 5 lOMoAR cPSD| 59908026
Việc pháp luật quy định nghiêm cấm các hoạt động khuyến mại trên đây là hoàn
toàn cần thiết, với mục đích bảo vệ lợi ích nhà nước, người tiêu dùng cũng như việc gìn
giữ đạo đức kinh doanh của các thương nhân, đảm bảo quyền tự do kinh doanh của các
thương nhân trong môi trường cạnh tranh lành mạnh. Khuyến mại không phải chỉ là
một hình thức pháp lý để xúc tiến thương mại ở Việt Nam mà còn được ghi nhận và
chịu sự điều chỉnh của luật pháp phần đa các nước có nền kinh tế thị trường phát triển
2.2 Thực trạng các hoạt động khuyến mại ở nước ta hiện nay
Để bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng, Luật thương mại 2005 và Nghị định số
37 /2006/NĐ - CP đã quy định về hàng hoá, dịch vụ được khuyến mại; về hàng hoá,
dịch vụ dùng để khuyến mại; quyền và nghĩa vụ pháp lý của thương nhân thực hiện
khuyến mại; các hành vi bị cấm trong hoạt động khuyến mại; về nguyên tắc thực hiện
khuyến mại. Tuy nhiên, những quy định này chưa thực sự đầy đủ để đảm bảo lợi ích
của khách hàng. Do đó, hiện nay, các hoạt động khuyến mại ở nước ta diễn ra phức tạp,
vì mục tiêu doanh thu, thương nhân bằng nhiều cách không chấp hành các quy định của
pháp luật về khuyến mại, gây ảnh hưởng không nhỏ tới quyền lợi của người tiêu dùng.
Về vấn đề kiểm soát giá cả và chất lượng sản phẩm khuyến mại, một thực tế là do
các điểm kinh doanh hàng hoá quá nhiều, thời gian khuyến mãi ngắn nên có nhiều
chương trình khuyến mãi mà các cơ quan quản lý nhà nước không thể nắm rõ hết được.
Việc quản lý các chương trình khuyến mãi theo Luật Khuyến mãi hiện rất khó khăn. Vì
vậy, đây cũng là một kẽ hở để tư thương “làm liều”, không thông báo với cơ quan quản
lý trước 7 ngày, trước khi áp dụng các chương trình khuyến mãi theo quy định. Người
tiêu dùng thường phải chấp nhận một giá cả và chất lượng sản phẩm không đúng như
thông tin khuyến mãi mà các thương nhân đưa ra khi mua hàng “thanh lý”, “xả hàng tồn” hiện nay.
Đơn cử trong lĩnh vực điện máy, có thể nhận thấy trên địa bàn Hà Nội hiện nay
không phải trung tâm điện máy nào cũng có thể vừa bán sản phẩm với giá ưu đãi rất
thấp lại vừa có thể đảm bảo quyền lợi cho khách hàng từ chất lượng sản phẩm đã mua
đến các dịch vụ hậu mãi, bảo hành. Hầu như toàn bộ hệ thống siêu thị đều rầm rộ quảng
cáo trên các phương tiện truyền thông những thông điệp giảm giá gây sốc, trong đó có
những đơn vị đưa ra mức giảm giá tới 50%. Điều đó làm cho người tiêu dùng lại có thể
dễ dàng khi lựa chọn cho mình những sản phẩm điện máy với mức giá hấp dẫn. Nhưng
bên cạnh điều này không ít người tiêu dùng vẫn e ngại bởi tìm được một điểm bán hàng
thật sự tin cậy để mua sắm là một vấn đề không nhỏ.
Hoặc là các cửa hàng, đại lý bán lẽ thì các mặt hàng được cửa hàng chọn “thanh
lý”, “xả hàng” chủ yếu tập trung vào nhóm hàng hoá mỹ phẩm, quần áo, giày dép, kính
mắt...Một trong những chiêu mà chủ hàng thường áp dụng là nâng giá niêm yết hàng
trước khi áp dụng chương trình “thanh lý”, “xả hàng”. Khi khách chấp nhận mua hàng,
nhân viên sẽ giảm trực tiếp trên giá đã tăng, khiến cho khách hàng tưởng mua được giá
rẻ, nhưng thực chất giá sản phẩm vẫn giữ nguyên, thậm chí còn cao hơn giá chưa được
“thanh lý”. Cách thức thứ hai mà các cửa hàng cũng đang thực hiện là chỉ quảng cáo
chung chung là “thanh lý hàng tồn từ 30 – 40%” hoặc “xả hàng giá sốc tới 50%”. Khi
khách hàng hỏi, mới biết chỉ có một lượng hàng nhỏ áp dụng “thanh lý”, số hàng còn
lại vẫn bán với giá đã niêm yết. Nhìn số lượng hàng quá ít, thiếu size, nhiều khách hàng 6 lOMoAR cPSD| 59908026
nản lòng, lúc đó nhân viên mới hướng khách sang những mặt hàng không giảm giá. Một
số trường hợp, khách hàng chấp nhận mua hàng không thanh lý để khỏi mất thời gian.
Như vậy, một vấn đề đặt ra qua những thực trạng nêu trên đó là, pháp luật về
khuyến mại hiện hành đã đủ các chế tài để quản lý hiệu quả các hành vi khuyến mại nêu
trên? Giải pháp nào là hữu hiệu? Luật thương mại 2005 có quy định “cấm hành vi
khuyến mại thiếu trung thực hoặc gây hiểu lầm về hàng hoá, dịch vụ để lừa dối khách
hàng”, tuy nhiên Luật quy định là một chuyện còn cơ chế để kiểm soát được các hành
vi khuyến mại tương tự thì ở nước ta hiện nay còn chưa được quan tâm đúng mức. Do
đó, các quy định của Nhà nước còn chưa đủ để có thể quản lý, kiểm soát hết được thực
trạng các hoạt động khuyến mại không đảm bảo về giá cả và chất lượng sản phẩm
khuyến mại như hiện nay.
CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ NÂNG CAO
HIỆU QUẢ CỦA HOẠT ĐỘNG KHUYẾN MẠI
Qua khái quát tình hình, thực trạng hoạt động khuyến mại ở nước ta hiện nay trên
đây cho chúng ta thấy, trong hệ thống các quy định của pháp luật hiện hành về khuyến
mại rõ ràng có những hạn chế, bất cập, chưa tương thích và chưa đủ các cơ chế, biện
pháp để giúp nhà nước quản lý, kiểm soát chặt chẽ được các hoạt động khuyến mại hiện nay.
3.1 Những bất cập của pháp luật hiện hành về hoạt động khuyến mại
Về trình tự, thủ tục thực hiện khuyến mại:
Luật thương mại 2005 và Nghị định số 37/2006/NĐ - CP đã có những quy định
hợp lý. Tuy nhiên, theo khoản 3 điều 16 và khoản 3 điều 17 của Nghị định số
37/2006/NĐ - CP thì cơ quan quản lí nhà nước có thẩm quyền khi nhận hồ sơ đăng kí
thực hiện chương trình khuyến mại phải xem xét, xác nhận bằng văn bản về việc đăng
kí thực hiện chương trình khuyến mại, trường hợp không xác nhận phải thông báo bằng
văn bản và nêu rõ lí do. Nhưng luật lại không quy định các điều kiện để thương nhân
có được sự xác nhận của cơ quan quản lí nhà nước có thẩm quyền và trong trường hợp
bị từ chối xác nhận thì luật cũng không quy định những quyền của thương nhân trong
trường hợp này. Quy định như trên đã biến thủ tục “đăng kí” thành thủ tục “xin phép”.
Như vậy sẽ hạn chế quyền tự do hoạt động khuyến mại của thương nhân, qua đó gián
tiếp ảnh hưởng đến lợi ích của người tiêu dùng. Trên thực tế không ít doanh nghiệp vẫn
lọt qua được tầm kiểm soát của các cơ quan quản lý nhà nước. Do vậy cần phải có sự
quản lý, giám sát chặt chẽ hơn hữa của các cơ quan chức năng để đảm bảo quyền lợi
chính đáng cho người tiêu dùng và các thương nhân khác...
Về việc bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng trong các chương trình khuyến
mại mang tính may rủi:
trong các chương trình khuyến mại mang tính may rủi, thì việc bảo vệ quyền lợi
của người tiêu dùng là việc rất khó bởi lẽ: Luật thương mại 2005 chỉ quy định thương
nhân có nghĩa vụ “thực hiện đúng chương trình khuyến mại đã thông báo và cam kết
với khách hàng” (Khoản 3 Điều 96 LTM). Chỉ với quy định này thì việc kiểm soát tính
trung thực của thương nhân khi thực hiện khuyến mại bằng hình thức này là vô cùng
khó khăn. Ví dụ như trong chương trình khuyến mại “bật nắp chai trúng thưởng” với cơ
cấu 200.000 giải thưởng trong đó có 06 xe ô tô BMW của một công ty bia, không ai có 7 lOMoAR cPSD| 59908026
thể chắc chắn rằng có đủ 200.000 giải thưởng với 06 nắp chai in hình xe BMW trong
số sản phẩm được bán trong đợt khuyến mại? (1). Như vậy, quyền lợi của người tiêu
dùng là không thể đảm bảo trong khi hàng hoá vẫn được tiêu thụ trong thời gian khuyến mại.
Về chế tài áp dụng để xử lý hành vi vi phạm trong hoạt động khuyến mại:
Theo Điều 29 Nghị định 06/2008/NĐ - CP ngày 16/01/2008 của Chính phủ về xử
phạt vi phạm hành chính trong hoạt động thương mại thì mức phạt cao nhất đối với hành
vi vi phạm quy định về khuyến mại là 60.000.000 đồng nếu hành vi vi phạm được thực
hiện trên địa bàn từ hai tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trở lên, còn đối với các
hành vi vi phạm được thực hiện trên địa bàn một tỉnh, thành phố trực 1
thuộc trung ương thì mức phạt cao nhất là 30.000.000. Mức phạt như vậy dường như
còn thấp nên sẽ không đủ sức răn đe. Do đó, mà tình trạng vi phạm quy định về khuyến
mại còn rất phổ biến. Trước đó, Nghị định 175/2004 vể xử phạt vi phạm hành chính
trong lĩnh vực thương mại quy định mức cao nhất là 70.000.000 đồng và 35.000.000
đồng, với mức phạt này mà các hành vi vi phạm vẫn diễn ra thường xuyên thì liệu pháp
luật quy định giảm mức xử phạt như vậy có phù hợp với thực tiễn? Trong khi xu hướng
chung của pháp luật hầu hết là tăng các chế tài xử phạt (bằng tiền) đối với các hành vi
vi phạm pháp luật để phù hợp với tình hình kinh tế – xã hội, thì pháp luật về xử phạt
hành vi vi phạm trong hoạt động khuyến mại lại quy định mức phạt tiền giảm xuống.
Do đó không phù hợp với thực tiễn, đồng thời khó có thể trở thành công cụ để bảo vệ
người tiêu dùng hữu hiệu.
Vấn đề trách nhiệm pháp lý trong việc vi phạm pháp luật về hoạt động khuyến
mại của thương nhân:
Quy định của pháp luật về trách nhiệm pháp lý của thương nhân khuyến mại chưa
thật sự đầy đủ để đảm bảo lợi ích của khách hàng. Trong thực tế khách hàng là người
phải chịu thiệt thòi do những gian lận trong khuyến mại, do các sai sót kỹ thuật trong in
ấn tem, phiếu, vật phẩm có chứa đựng thông tin về lợi ích vật chất mà khách hàng được
hưởng trong đợt khuyến mại. Và trong hệ thống pháp luật hiện hành đang rất thiếu các
quy định làm cơ sở pháp lý để bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng trong những trường hợp này.
Như phần trên đã nêu, một trong những đặc điểm của hoạt động khuyến mại đó là
chủ thể thực hiện hành vi khuyến mại là thương nhân, các quy định của pháp luật về
khuyến mại hiện hành chủ yếu điều chỉnh các hành vi khuyến mại của thương nhân, do
đó mà hầu như không cụ thể hóa trách nhiệm cá nhân của thương nhân trong việc để
xảy ra hành vi vi phạm trong hoạt động khuyến mại. Cần phải thấy rằng, dù nhà nước
có đề ra các chế tài, biện pháp để quản lý, kiểm soát hoạt động khuyến mại của thương
nhân thì một thực trạng đó là các hành vi vi phạm trong hoạt động khuyến mại như đã
đề cập ở phần thực trạng trên đây vẫn diễn ra và không có xu hướng thuyên giảm, thậm
chí ngày một phức tạp, tinh vi và bất chấp pháp luật, xâm phạm nghiêm trọng đến quyền
lợi của người tiêu dùng. 8 lOMoAR cPSD| 59908026
Một vấn đề quan trọng nữa, đó là hiện nay vẫn đang thiếu quy định để xử lý hình
sự đối với thương nhân là pháp nhân khi vi phạm pháp luật trong hoạt động khuyến mại
và các hoạt động xúc tiến thương mại khác. Bộ luật hình sự hiện hành quy định chủ thể
của trách nhiệm hình sự là cá nhân, trong khi đó, có thể xuất hiện các hành vi nguy hiểm
cho xã hội do cá nhân thực hiện nhưng với danh nghĩa của pháp nhân, theo yêu cầu và
lợi ích của pháp nhân. Chẳng hạn: hành vi lừa dối khách hàng, hành vi làm tem, vé giải
của pháp nhân, hành vi quảng cáo gian dối...Trong những trường hợp đó, việc xử lý
hình sự đối với cá nhân sẽ thiếu cơ sở, không công bằng và không có tác dụng tích cực
ngăn ngừa đối với pháp nhân.
Về các hình thức khuyến mại:
Mặc dù quy định của pháp luật thương mại có bổ sung thêm mục đích xúc tiến việc
mua hàng nhưng quy định về các cách thức khuyến mại vẫn chỉ tập trung vào hoạt động
xúc tiến việc bán hàng. Trong số tám cách thức khuyến mại được quy định tại Điều 92
Luật thương mại năm 2005, chỉ có thể áp dụng hình thức tặng quà, hình thức tổ chức
chương trình khách hàng thường xuyên và tổ chức các sự kiện quy định tại khoản 2 và
khoản 7, 8 cho hoạt động khuyến mại để mua hàng. Trong thực tế, nếu như việc giảm
giá để tiêu thụ hàng hóa có thể làm nảy sinh hiện tượng bán phá giá thì việc nâng giá để
thu mua, gom hàng cũng có thể làm xuất hiện những nguy cơ đáng kể cho hoạt động
kinh doanh của thương nhân trong cùng lĩnh vực hoạt động . Tuy nhiên pháp luật thương
mại hiện hành lại không quy định về hành vi này.
Vấn đề xác định hình thức khuyến mại “tặng quà” và “hàng mẫu”:
Khi thương nhân dùng hàng hóa, dịch vụ mà mình được kinh doanh hợp pháp để
phát tặng khách hàng mà không kèm theo hành vi mua bán hàng hóa thì khi nào hàng
mẫu, khi nào quà tặng? Một ví dụ là đầu tháng 9/2011, tại hồ Thành Công, Ba Đình, Hà
Nội đã diễn ra chương trình khuyến mại: “samurai - thưởng thức miễn phí”, công ty
TNHH nước giải khát coca-cola tổ chức uống tại chỗ miễn phí số lượng lớn chai samurai
loại 250ml cho khách hàng. Đó là là hình thức “quà tặng” hay “hàng mẫu”? Nếu là hàng
mẫu, thương nhân không phải thực hiện bất cứ quy định nào về hạn mức khuyến mại,
nếu là quà tặng thì phải thực hiện quy định về hạn mức tối đa giá trị hàng hóa dùng để
khuyến mại (tổng giá trị hàng hóa, dịch vụ dùng để khuyến mại trong một chương trình
khuyến mại không được vượt quá 50% tổng giá trị của hàng hóa, dịch vụ được khuyến
mại - Khoản 2 Điều 5 Nghị định 37/2006).
Vấn đề này, có ý kiến cho rằng pháp luật chỉ nên quy định việc tặng quà kèm theo
việc mua bán hàng hóa, sử dụng dịch vụ, còn các trường hợp đưa hàng hóa cho khách
hàng mà không thu tiền sẽ được coi là hình thức hàng mẫu, bởi vì mục đích của thương
nhân khi đưa hàng mẫu cho khách hàng là muốn giới thiệu với họ về hàng hóa, dịch vụ
của mình, định hướng hành vi mua bán của họ sau khi kiểm nghiệm chất lượng của
hàng mẫu. Khác với điều này, mục đích của hình thức quà tặng là dùng giá trị của quà
tặng để thu hút khách hàng mua hàng hóa, dịch vụ của thương nhân, bởi vì cùng loại
hàng hóa có chất lượng tương đương khách hàng sẽ có tâm lý muốn chọn mua hàng hóa
đang được khuyến mại.
Về quy định nghĩa vụ của thương nhân trong việc thực hiện đúng chương
trình khuyến mại đã thông báo và cam kết với khách hàng: 9 lOMoAR cPSD| 59908026
Để đảm bảo sự trung thực của thương nhân về giải thưởng trong các chương trình
khuyến mại mang tính may rủi, pháp luật quy định “thương nhân có nghĩa vụ thực hiện
đúng chương trình khuyến mại đã thông báo và cam kết với khách hàng” (Khoản 3 Điều
96 Luật thương mại năm 2005) là chưa đủ. Trên trang điên tử Vietbao (vietbao.vn), ông
Đỗ Thắng Hải - Phó cục trưởng Cục xúc tiến thương mại cho biết: “Trong các chương
trình đăng ký với Cục Xúc tiến thương mại (Bộ Thương mại), tổng số tiền, hàng dành
cho khuyến mãi trị giá tới 215 tỷ đồng. Trong đó, chỉ riêng 10 doanh nghiệp hàng đầu
đã chiếm hơn nửa (khoảng 121 tỷ đồng). Tuy nhiên, đúng như dư luận phản ánh, tổng
số giá trị giải thưởng đã trao rất thấp, chỉ đạt hơn 6 tỷ đồng, chỉ chiếm 3% tổng số tiền
dành cho khuyến mãi đã đăng ký)” (2). Trong khi thương nhân vẫn tiêu thụ được hàng
hóa mà số lượng giải thưởng đã trao quá ít như vậy chắc chắn có sự vi phạm nghĩa vụ
thực hiện đúng chương trình khuyến mại đã thông báo. Làm thế nào để kiểm soat tính
trung thực của thương nhân khi thực hiện khuyến mại 2
bằng hình thức này, đảm bảo cạnh tranh lành mạnh và quyền lợi của khách hàng là vấn
đề khó mà pháp luật hiện hành về xúc tiến thương mại vẫn chưa làm được.
Vấn đề hạn mức tối đa về giá trị hàng hoá, dịch vụ dùng để khuyến mại:
Pháp luật thương mại quy định tổng giá trị của hàng hoá, dịch vụ dùng đế khuyến
mại mà thương nhân thực hiện trong một chương trình khuyến mại không được vượt
quá 50% tổng giá trị của hàng hoá, dịch vụ được khuyến mại, trừ trường hợp khuyến
mại bằng hình thức đưa hàng mẫu, cung ứng dịch vụ mẫu để khách hàng dùng thử không
phải trả tiền (Khoản 2 Điều 5 Nghị định 37/2006). Quy định này gặp khá nhiều vướng
mắc khi thi hành. Đối với các chương trình khuyến mại của thương nhân kinh doanh
dịch vụ, việc xác định hạn mức giá trị dùng để khuyến mại rất khó thực hiện. Nếu thương
nhân tặng dịch vụ cho khách hàng không thu tiền thì hạn mức tổng giá trị dịch vụ dùng
để khuyến mại không được vượt quá 50% tổng giá trị dịch vụ được khuyến mại. Cả hai
mức tổng giá trị này chỉ có thể xác định sau khi kết thúc thời gian khuyến mại. Nếu xác
định vi phạm và xử lý vi phạm khi chưa hết thời gian khuyến mại sẽ không tránh khỏi
bất đồng giữa cơ quan quản lý nhà nước và thương nhân do mọi số liệu có thể chỉ là
ước tính. Chẳng hạn, một thương nhân kinh doanh trong ngành du lịch, nếu đề ra một
chương trình khuyến mại là 3 chuyến du lịch miễn phí trọn gói ra nước ngoài cho các
khách hàng khi sử dụng dịch vụ của thương nhân (trong các dịch vụ của thương nhân
đưa ra trong thời gian khuyến mại), trong trường hợp này khó có thể xác định được một
cách chính xác tổng giá trị các gói dịch vụ đưa ra trong thời gian triển khai chương trình
khuyến mại đó là bao nhiêu, 3 chuyến du lịch miễn phí khuyến mại đó có vượt hạn mức
tối đa mà pháp luật quy định hay không khi mà tổng doanh số của các gói dịch vụ
thường vẫn không cụ thể, công khai; hơn nữa đặc trưng của dịch vụ là tiêu dùng ngay,
do đó khi chưa hết thời gian khuyến mại chỉ có thể ước tính giá trị các gói dịch vụ miễn
phí và tổng giá trị các gói dịch vụ đã được thực hiện trong thời gian đó. Nếu như áp
dụng các quy định hiện hành về hạn mức tối đa giá trị dịch vụ dùng để khuyến mại
(50%) sẽ gặp phải vướng mắc này. Một ví dụ điển hình khác là trong ngành viễn thông,
các mạng di động mobile lớn trong cả nước thường triển khai các chương trình khuyến 10 lOMoAR cPSD| 59908026
mại theo từng giai đoạn; trong đó có thể thấy phổ biến là các cuộc gọi nội mạng miễn
phí, trong trường hợp này chúng ta cũng khó có thể xác định trong thời gian khuyến mại
đó, tổng giá trị dịch vụ dùng để khuyến mại đó có vượt quá 50% tổng giá trị dịch vụ
được khuyến mại hay không, vì con số doanh thu thường là lý do để thương nhân đưa
ra để phản đối kết luận của các cơ quan nhà nước.
3.2 Một số giải pháp hoàn thiện quy định của pháp luật về hoạt động khuyến mại
Thứ nhất, cần bổ sung quy định trách nhiệm cá nhân của thương nhân hay người
đại diện hợp pháp của thương nhân và trách nhiệm cá nhân của người được giao tổ chức
chương trình khuyến mại để đảm bảo tính trung thực về giải thưởng và chọn người trúng
giải thưởng. Bao gồm: trách nhiệm trung thực trong tổ chức, trong thực hiện các cam
kết với khách hàng và trách nhiệm tôn trọng tối đa lợi ích của người tiêu dùng. Quy
định rõ ràng hơn nữa các hành vi bị cấm trong hoạt động khuyến mại, quy định rõ về
trách nhiệm cũng như nghĩa vụ của thương nhân thực hiện hoạt động khuyến mại.
Thứ hai, cần quy định bổ sung pháp nhân là chủ thể của trách nhiệm hình sự. Việc
quy định bổ sung pháp nhân là chủ thể của trách nhiệm hình sự là có cơ sở và sẽ cho
phép xử lí hình sự đối với nhiều hành vi vi phạm trong trường hợp cần thiết, góp phần
tăng cường ý thức pháp luật của thương nhân trong hoạt động xúc tiến thương mại.
Thực tiễn pháp luật hình sự của nhiều quốc gia trên thế giới cũng có quy định tương tự như vậy.
Thứ ba, nên bỏ quy định về hạn mức khuyến mại, bởi vì trên thực tế một số thương
nhân kinh doanh dịch vụ (ví dụ kinh doanh dịch vụ du lịch, thông tin di động...) thì khó
có thể tính được hạn mức để áp dụng. Hơn nữa, đây là quyền tự do kinh doanh, tự do
cạnh tranh của thương nhân. Thương nhân khi áp dụng chương trình khuyến mại giảm
giá hay tặng quà, nếu thực sự họ thu hút được khách hàng, bản thân họ dù có khuyến
mại nhiều hơn hạn mức vần tồn tại được. Ngược lại, nếu không thu hút được khách
hàng tham gia vào chương trình khuyến mại của họ, tự họ sẽ bị đào thải. Pháp luật
không cần thiết phải quy định. Cũng không có cơ sở khoa học để nói rằng hạn mức
khuyến mại là bao nhiêu % thì sẽ tạo ra cạnh tranh không lành mạnh, bao nhiêu % thì
không. Do đó, nên bỏ hạn mức này và dành quyền tự do hơn nữa cho thương nhân.
Thứ tư, pháp luật chỉ nên quy định việc tặng quà kèm theo việc mua bán hàng hóa,
sử dụng dịch vụ. Còn lại, các trường hợp đưa hàng hóa cho khách hàng mà không thu
tiền sẽ được coi là hình thức hàng mẫu. Việc xác định rõ bản chất của hình thức tặng
quà và thể hiện trong quy định của pháp luật cò cho phép phân biệt nó với hình thức
xúc tiến thương mại khác. Ví dụ: Hãng điện tử Panasonic phát tặng bóng bay có in dòng
chữ “panasonic” tại một trung tâm thương mại, hành vi này thực chất là quảng cáo chứ
không phải tặng quà, vì lợi ích khách hàng có được từ quả bóng bay không thể là sức
hút họ đến với các sản phẩm của công ty.
Thứ năm, về các hình thức khuyến mại: Như trên đã nêu, quy định của pháp luật
thương mại có bổ sung thêm mục đích xúc tiến việc mua hàng nhưng quy định về các
cách thức khuyến mại vẫn chỉ tập trung vào hoạt động xúc tiến việc bán hàng. Trong
thực tế, nếu như việc giảm giá để tiêu thụ hàng hóa có thể làm nảy sinh hiện tượng bán
phá giá thì việc nâng giá để thu mua, gom hàng cũng có thể làm xuất hiện những nguy 11 lOMoAR cPSD| 59908026
cơ đáng kể cho hoạt động kinh doanh của thương nhân trong cùng lĩnh vực hoạt động.
Do đó pháp luật thương mại cũng cần có quy định để điều chỉnh về hoạt động khuyến
mại nhằm nâng giá để thu mua, gom hàng để phù hợp với thực tiễn.
Thứ sáu, Về trình tự, thủ tục thực hiện khuyến mại: pháp luật khuyến mại hiện
hành không quy định các điều kiện để thương nhân có được sự xác nhận của cơ quan
quản lí nhà nước có thẩm quyền và trong trường hợp bị từ chối xác nhận thì luật cũng
không quy định những quyền của thương nhân trong trường hợp này. Và như đã đề cập
ở trên, việc quy định cơ quan quản lí nhà nước có thẩm quyền khi nhận hồ sơ đăng kí
thực hiện chương trình khuyến mại phải xem xét, xác nhận bằng văn bản về việc đăng
kí thực hiện chương trình khuyến mại, trường hợp không xác nhận phải thông báo bằng
văn bản và nêu rõ lí do nhưng không quy định các điều kiện để thương nhân có được sự
xác nhận của cơ quan quản lí nhà nước có thẩm quyền và những quyền của thương nhân
trong trường hợp bị từ chối xác nhận đã biến thủ tục “đăng kí” thành thủ tục “xin phép”,
làm hạn chế quyền tự do hoạt động khuyến mại của thương nhân, qua đó gián tiếp ảnh
hưởng đến lợi ích của người tiêu dùng. Do vậy, cần phải bổ sung quy định về các điều
kiện để thương nhân có được sự xác nhận của cơ quan quản lí nhà nước có thẩm quyền
và trong trường hợp bị từ chối xác nhận phải quy định những quyền của thương nhân
trong trường hợp này; đồng thời thực tiễn thi hành cũng cần phải có sự quản lý, giám
sát chặt chẽ hơn hữa của các cơ quan chức năng để đảm bảo quyền lợi chính đáng cho
người tiêu dùng và các thương nhân khác...
Thứ bảy, cần tăng mức chế tài áp dụng để xử lý hành vi vi phạm trong hoạt động
khuyến mại. Theo đó thì mức phạt tiền cần phải được quy định cao hơn quy định của
pháp luật hiện hành, để đủ sức răn đe các hành vi vi phạm quy định của pháp luật về khuyến mại.
Thứ tám, Tạo điều kiện cho người tiêu dùng thành lập các Hội bảo vệ quyền loại
người tiêu dùng. Tuyên truyền pháp luật đến từng người dân một cách có hệ thống và
tích cực hơn nữa. Hoàn thiện pháp luật về khiếu nại, tố cáo để người tiêu dùng có thể
có điều kiện thực hiện quyền công dân của mình hơn nữa. Hoạt động giải quyết khiếu
nại, tố cáo cần minh bạch hơn, quy định cụ thể thẩm quyền và mức xử phạt cụ thể hơn.
Thứ chín, trong hình thức khuyến mại, một vấn đề đặt ra về câu chữ là, nên dùng
từ “khuyến mại” theo cách hiểu phổ thông hiện nay của khách hàng hay dùng từ
“khuyến mãi” theo đúng nghĩa của nó. Bởi vì theo tình thần của hình thức khuyến mại
mà Luật thương mại đề cập là: thương nhân dùng các cách để tác động, khuyến khích
người mua hàng, nhằm xúc tiến việc mua hàng chứ không phải là khuyến khích người
bán. Mà thực chất thì nghĩa của từ “mại” là bán; còn nghĩa của từ “mãi” mới là mua.
Cho nên để đảm bảo đúng nghĩa của từ ngữ thì phải dùng là “khuyến mãi” chứ không
phải là “khuyến mại”. Đó là băn khoăn của một số không ít người trong thực tế hiện
nay. Thiết nghĩ pháp luật cũng cần sửa đổi để đảm bảo tính chính xác về mặt thuật ngữ. KẾT LUẬN
Như vậy, có thể nói pháp luật về khuyến mại ở nước ta hiện nay đã có những bước
phát triển nhất định, khắc phục được những hạn chế mà pháp luật khuyến mại trước đây
tồn tại, điều này xuất phát từ sự phát triển của nền kinh tế thị trường, kéo theo sự đa
dạng, phong phú các hoạt động khuyến mại, làm lộ rõ bất cập trong sự điều chỉnh của
pháp luật và buộc Luật thương mại 2005 cùng các văn bản hướng dẫn, quy định chi tiết 12 lOMoAR cPSD| 59908026
về khuyến mại phải có những bổ sung, điều chỉnh mới cho phù hợp với thực tiễn. Tuy
nhiên, việc nghiên cứu để hoàn thiện hệ các quy định pháp luật về khuyến mại nhằm
quản lý một cách hiệu quả, đồng thời khuyến khích được các hoạt động khuyến mại
lành mạnh, hợp pháp phát triển thì đó là một vấn đề không hề đơn giản, vì bản thân các
hoạt động khuyến mại của thương nhân để Nhà nước kiểm soát được trên thực tế cũng
không hề dễ. Với hệ thống pháp luật điều chỉnh về hoạt động khuyến mại hiện hành thì
vẫn còn nhiều sơ hở, nhiều điểm bất hợp lý, thiếu sót hoặc chưa được quan tâm thực thi
nghiêm túc trên thực tế, do đó mà các hành vi vi phạm pháp luật về khuyến mại trong
thời gian qua vẫn xảy ra không có dấu hiệu giảm xuống, quyền lợi của người tiêu dùng
bị xâm hại. Chính vì vậy, cần phải tiếp tục nghiên cứu để hoàn thiện pháp luật về hoạt
động khuyến mại ở nước ta trong thời gian tới. 13