Biện pháp dự thi giáo viên dạy giỏi 2025 mới cập nhật

Biện pháp dài không quá 10 trang A4 kể cả phụ lục (nếu có); sử dụng ngôn ngữ tiếng Việt (chỉ dùng tiếng nước ngoài đối với thuật ngữ chuyên môn); đảm bảo thể thức văn bản theo quy định hiện hành. Tài liệu giúp bạn tham khảo ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!

Môn:

Tài liệu Tổng hợp 1.8 K tài liệu

Trường:

Tài liệu khác 2 K tài liệu

Thông tin:
24 trang 1 ngày trước

Bình luận

Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để gửi bình luận.

Biện pháp dự thi giáo viên dạy giỏi 2025 mới cập nhật

Biện pháp dài không quá 10 trang A4 kể cả phụ lục (nếu có); sử dụng ngôn ngữ tiếng Việt (chỉ dùng tiếng nước ngoài đối với thuật ngữ chuyên môn); đảm bảo thể thức văn bản theo quy định hiện hành. Tài liệu giúp bạn tham khảo ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!

9 5 lượt tải Tải xuống
Biện pháp dự thi giáo viên dạy giỏi 2025 mới cập nhật
I. Hướng dẫn làm biện pháp thi giáo viên dạy giỏi
Nội dung biện pháp do chính giáo viên đúc t, sáng tạo, áp dụng trong thực tế giảng dạy
môn học nhằm góp phần nâng cao chất lượng công tác giảng dạy đáp ứng yêu cầu đổi
mới dạy học của nhân tại các nhà trường như: đổi mới phương pháp, hình thức tổ
chức dạy học; dạy học gắn liền với sản xuất kinh doanh; dạy học gắn liền với di sản; đổi
mới kiểm tra đánh giá; ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học;… hướng tới phát
triển phẩm chất năng lực của người học.
- Cấu trúc của biện pháp gồm có các phần chính:
+ Lý do hình thành biện pháp;
+ Nội dung biện pháp;
+ Hiệu quả thực hiện của việc áp dụng biện pháp trong thực tế dạy học;
+ Kết luận của biện pháp.
- Biện pháp dài không quá 10 trang A4 kể cả phụ lục (nếu có); sử dụng ngôn ngữ tiếng
Việt (chỉ dùng tiếng nước ngoài đối với thuật ngữ chuyên môn); đảm bảo thể thức văn
bản theo quy định hiện hành.
Trình bày biện pháp dự thi: Giáo viên lựa chọn nội dung hình thức để trình bày biện
pháp trước Ban giám khảo. Cần nêu rõ biện pháp có hiệu quả, đáp ứng yêu cầu đổi mới
dạy học phù hợp với các đối tượng học sinh và thực tiễn của nhà trường, địa phương
của nhân giáo viên tại sở giáo dục đang công tác; minh chứng về sự tiến bộ
của học sinh khi áp dụng biện pháp
Dưới đây mẫu i dự thi biện pháp nâng cao chất lượng học tập của học sinh tiểu học,
Bài dự thi biện pháp nâng cao chất lượng học tập của học sinh THCS, báo cáo biện pháp
thi giáo viên dạy giỏi, biện pháp thi giáo viên giỏi cấp tiể học, THCS. Thầy tải file về
máy để xem đầy đủ nội dung.
II. Biện pháp về công tác chủ nhiệm nhằm nâng cao chất
lượng học tập
1. Biện pháp 1: Khảo sát đối tượng học sinh để đưa ra những phương
pháp giáo dục phù hợp
- Khảo sát đối tượng thông qua hồ sơ học bạ, qua giáo viên chủ nhiệm cũ, qua học sinh
trong lớp hoặc qua phụ huynh.
- Tiến hành phân loại đối tượng để đưa vào sổ kế hoạch công tác chủ nhiệm, cụ thể: +
Học sinh gặp hoàn cảnh khó khăn.
+ Học sinh khuyết tật.
+ Học sinh các biệt về đạo đức.
+ Học sinh yếu.
+ Học sinh có những năng lực đặc biệt.
* Đối với những học sinh có hoàn cảnh gia đình khó khăn.
* Đối với những học sinh khuyết tật.
* Đối với học sinh cá biệt về đạo đức:
- Tìm hiểu nguyên nhân qua gia đình: Gia đình có sự mâu thuẫn giữa bố và mẹ, gia đình
thiếu quan tâm hoặc thbị bạn bè, kẻ xấu lôi kéo….Hoặc trẻ những tính xấu
bản thân gia đình chưa giáo dục được…
- Dùng phương pháp tác động tình cảm, nghiêm khắc đối với học sinh nhưng không cứng
nhắc. Tuyệt đối không sử dụng phương pháp trách phạt, chú ý gần gũi các em thường
xuyên nhắc nhở động viên khen chê kịp thời. Giao cho các em đó một chức vụ trong lớp
nhằm gắn với các em trách nhiệm để từng bước điều chỉnh mình.
* Đối với học sinh học yếu:
- Tìm hiểu nguyên nhân vì sao em đó học yếu, học yếu những môn nào. Có thể là ở gia
đình các em đó không có thời gian học tập vì phải làm nhiều việc hoặc em đó có lỗ hỏng
về kiến thức nên cảm thấy chán nản.
- Giáo viên lập kế hoạch giúp đỡ đối tượng bằng những việc cụ thể như sau:
+ Giảng lại bài mà các em chưa hiểu hay còn hiểu mù mờ vào những thời gian ngoài giờ
lên lớp .
+ Đưa ra những câu hỏi từ dễ đến khó để học sinh thể trả lời được nhằm tạo hứng
thú và củng cố niềm tin ở các em.
+ Thường xuyên kiểm tra các đối tượng đó trong qua trình lên lớp.
+ Tchức cho học sinh học theo nhóm để học sinh khá giỏi giúp đỡ học sinh yếu kém
tiến bộ.
+ Gặp gỡ phụ huynh học sinh trao đổi về tình hình học tập, cũng như sự tiến bộ của con
em để phụ huynh giúp đỡ thêm việc học ở nhà cho các em.
+ Chú ý tránh thái độ miệt thị, phân biệt đối xử làm cho các em nhụt chí, xấu hổ trước
bạn bè. Tóm lại với đối tượng nào bản thân giáo viên phải lưu ý dùng phương pháp
tác động tình cảm, động viên khích lệ kịp thời, phối hợp với phụ huynh để giáo dục
đặc biệt xác định vấn đề giáo dục đạo đức là then chốt.
2. Biện pháp 2:y dựng đội ngũ cán bộ lớp giỏi quản lý, tổ chức, kiểm tra.
Như chúng ta đã biết y dựng một đội ngũ cán bộ quản giỏi việc rất quan trọng
người giáo viên làm công c chủ nhiệm phải kế hoạch thực hiện.Hơn nữa, để đội ngũ
cán bộ lớp cùng giáo viên chủ nhiệm đôn đốc, nhắc nhở việc thực hiện nề nếp học tập
của các bạn là công việc cần thiết và có ích.
- Trước hết, những học sinh được chọn làm cán bộ lớp bao giờ cũng phải gương mẫu
trước các bạn về mọi mặt: Học tập, kỷ luật, tham gia các hoạt động, đối xử với bạn bè....
- Sau đó hằng ngày, hàng tuần, các cán bộ lớp bao gồm: lớp trưởng, 2 lớp phó, 4 tổ
trưởng, 4 tổ phó. sẽ tiến hành công việc của mình như sau:
*Đầu giờ (trước giờ truy bài):
Tổ trưởng, tổ phó kiểm tra những việc sau: soạn sách vở theo đúng thời khóa biểu, mang
đầy đủ đồ dùng dậy học,có ý thức xem bài trước, đi học đúng giò, không mang dép
lê....rồi tổ trưởng chấm điểm thi đua theo qui đinh như sau: (vi phạm 1 nội dung trừ: 2
điểm xấu)
*Trong giờ học:
Tổ trưởng, tổ phó theo dõi các bạn trong tổ thái độ học tập, phát biểu xây dựng bài, đạt
điểm cao trong học tập thì cộng điểm thưởng như sau: Đạt điểm 10 một môn thì cộng 5
điểm tốt, phát biểu xây dựng bài cộng /1lần. i chuyện trong giờ học thì bị trừ 2
điểm/1lần.
*Giờ ăn ngủ bán trú:
Tổ trưởng,Tổ phó theo dõi các tổ viên các nề nếp: ăn, ngủ đúng thời gian (nếu vi phạm
trừ 2đ/ 1 lần).
3. Biện pháp 3: Phối kết hợp thường xuyên với phụ huynh
* Đối vói Ban đại diện CMHS lớp: Từ đầu năm học. Tôi đã định hướng bầu chọn Ban đại
diện phụ huynh của lớp với các tiêu chuẩn sau:
- Phụ huynh có đời sống kinh tế ổn đinh.
- Có tâm huyết, nhiệt tình tất cả vì học sinh thân yêu.
- Am hiểu nhiều về lĩnh vực giáo dục - Có con em học khá giỏi.
* Ban phân hội lớp gồm 3 thành viên: Trưởng ban, phó ban, thư ký
* Nhiệm vụ ban phân hội lớp:
- Kết hợp với GVCN lớp theo i, động viên quá trình học tập, sinh hoạt của học sinh.
Đặc biệt quan tâm đến các phong trào lớp
- Nắm được hoàn cảnh gia đình, chỗ của từng học sinh để kịp thời thăm hỏi. -
kế hoạch khen thưởng kịp thời học sinh lớp tiến bộ theo từng tuần, tháng, theo các đợt
kiểm tra định kỳ của nhà trường.
* Đối với từng phụ huynh học sinh: Buổi họp phụ huynh đầu năm, tôi đã đề ra yêu cầu để
phụ huynh cùng GVCN rèn nề nếp học sinh như sau:
- Hằng ngày kiểm tra sách vở của con em mình.
- Nhắc nhở con em học bài cũ và chuẩn bị bài mới trước khi đến lớp.
- Chuẩn bị sách vở và đồ dùng học tập cho con em theo thời khoá biểu hằng ngày.
- Giáo dục con ý thức gọn gàng, ngăn nắp khi học tập, vui chơi.
- Sinh hoạt điều độ, đúng thời khoá biểu, giờ nào việc nấy tránh tình trạng vừa học vừa
chơi. - Thường xuyên trao đổi với GVCN qua trò chuyện trực tiếp, điện thoại hoặc qua
sổ liên lạc để kịp thời nhắc nhở, đôn đốc học sinh nề nếp học tập ở lớp cũng như ở nhà.
4. Biện pháp 4: Đầu tư các phong trào mũi nhọn nhà trường tổ chức
Từ đầu năm học GVCN dựa vào kế hoạch của nhà trường và các đoàn thể trong trường
phải đề ra chỉ tiêu cụ thể cho lớp cùng phấn đấu trong c phong trào chung của n
trường như: Vở sạch chữ đẹp, Vẽ tranh, Kể chuyện, cờ vua,....
- Điều quan trọng GVCN phải phát hiện những năng lực đặc biệt học sinh về văn
hoá văn nghệ, thể dục thể thao, hội hoạ…
- Phối hợp với phhuynh lập kế hoạch bồi dưỡng thường xuyên cho các học sinh
năng khiếu nói trên.
- Bồi dưỡng, khơi dậy các em lòng say hứng thú học tập thông qua những hội thi,Tổ
chức các sân chơi ở lớp như: Rung chuông vàng, đối mặt trong các tiết HĐNGLL để phát
huy và chọn lọc những HS năng khiếu để tham gia các hội thi do nhà trường tổ chức.
Biện pháp 5: Nêu gương và khen thưởng
- Nắm được tâm lý của học sinh tiểu học rất thích được khen, thích được động viên nên
tôi hướng dẫn Ban cán sự lớp lập bảng chấm điểm thi đua từng HS như sau:
- Trong cuộc họp phụ huynh đầu năm tôi đã đề xuất với Ban đại diện phụ huynh về việc
khen thưởng các học sinh trong lớp thực hiện tốt các phong trào học tập cũng như các
phong trào khác như sau:
+ Mỗi tuần tặng 1 cây bút cho mỗi HS đạt số điểm tốt cao nhất tổ.
+ Mỗi đợt kiểm tra định kỳ tặng một 1 bút/ 1HS đạt điểm 10 mỗi môn.
+ Tặng một phần quà cho HS đạt phong trào nhà trường đề ra.
- Sau mỗi tuần thi đua, Lớp trưởng đánh giá chung các mặt hoạt động, tổ trưởng đánh
giá cụ thcác mặt học tập cũng như hoạt động của từng thành viên trong tổ thông qua
bảng điểm. sau đó bầu chọn một HS tuyên dương trước lớp và nhận thưởng.
- Để tránh trường hợp một em nhận liên tục nhiều lần, theo qui ước 3 tuần mới được
nhận thưởng lại (nếu em đó điểm nhất tổ thì chọn em điểm nhì tổ..)
- Đặc biệt chú ý đến HS chậm trong học nhưng có tiến bộ thì tổ trưởng các tổ đề nghị
Ban thi đua lớp tuyên dương và khen thưởng. Trên đây là một số biện pháp về công tác
chủ nhiệm nhằm nâng cao chất lượng học tập đã được áp dụng ở rất nhiều lớp học và
đạt được kết quả tốt.
5. Biện pháp 5: Nêu gương và khen thưởng
Biện pháp 5: Nêu gương và khen thưởng
- Nắm được tâm lý của học sinh tiểu học rất thích được khen, thích được động viên nên
tôi hướng dẫn Ban cán sự lớp lập bảng chấm điểm thi đua từng HS như sau:
- Trong cuộc họp phụ huynh đầu năm tôi đã đề xuất với Ban đại diện phụ huynh về việc
khen thưởng các học sinh trong lớp thực hiện tốt các phong trào học tập cũng như các
phong trào khác như sau:
+ Mỗi tuần tặng 1 cây bút cho mỗi HS đạt số điểm tốt cao nhất tổ.
+ Mỗi đợt kiểm tra định kỳ tặng một 1 bút/ 1HS đạt điểm 10 mỗi môn.
+ Tặng một phần quà cho HS đạt phong trào nhà trường đề ra.
- Sau mỗi tuần thi đua, Lớp trưởng đánh giá chung các mặt hoạt động, tổ trưởng đánh
giá cụ thể các mặt học tập cũng như hoạt động của từng thành viên trong tổ thông qua
bảng điểm. sau đó bầu chọn một HS tuyên dương trước lớp và nhận thưởng.
- Để tránh trường hợp một em nhận liên tục nhiều lần, theo qui ước 3 tuần mới được
nhận thưởng lại (nếu em đó điểm nhất tổ thì chọn em điểm nhì tổ..)
- Đặc biệt chú ý đến HS chậm trong học nhưng có tiến bộ thì tổ trưởng các tổ đề nghị
Ban thi đua lớp tuyên dương và khen thưởng.Trên đây là một số biện pháp về công tác
chủ nhiệm nhằm nâng cao chất lượng dạy học đã được áp dụng ở rất nhiều lớp học và
đạt được kết quả tốt. Hy vọng đây sẽ là nguồn tài liệu tham khảo tốt dành cho thầy cô.
III. Biện pháp thi giáo viên giỏi mầm non: Nâng cao chất
lượng giáo dục thể chất cho trẻ 4 - 5 tuổi
1. Biện pháp 1: Lập kế hoạch tổ chức cho trẻ vận động khoa học, phù
hợp
Căn cứ vào nội dung trong chương trình theo độ tuổi. Căn cứ vào thời gian, thời điểm
thực hiện bài tập ở vào giai đoạn nào của chương trình năm học.
Căn cứ vào đặc điểm tâm sinh lý, khả năng thực tế của trẻ lớp 4 - 5 tuổi. Từ những căn
cứ trên tôi đã xây dựng kế hoạch nội dung các vận động tập luyện cho trẻ, xác định độ
khó của từng bài tập và sắp xếp theo trình tự để đưa vào hướng dẫn trẻ cho phù hợp đi
từ dễ đến khó, đảm bảo trẻ được tập từ những i tập mang tính củng cố, phát triển
những vận động đã biết. Đồng thời chuẩn bị cho những kỹ năng vận động cao hơn. Nội
dung trong chương trình đã được trình bày theo từng loại vận động và theo mức độ tăng
dần từ dễ đến khó, đầu năm thực hiện những bài tập nhẹ nhàng dễ thực hiện, tăng dần
độ khó, vận động tinh, khéo léo đồng thời phù hợp với từng chủ đề chủ điểm, phù hợp
với các hoạt động khác và các sự kiện. Khi lập được kế hoạch tổ chức, tôi thấy yên tâm
và thực hiện rất hiệu quả. Ví dụ kế hoạch tổ chức các hoạt động Giáo dục thể chất.
- Chủ đề “Trường Mầm non thân yêu”: Nhảy bật tại chỗ, đi kiễng gót, các chủ đề sau
mức độ nội dung vận động cao hơn.
- Chủ đề “Tổ ấm gia đình”: Bật liên tục qua 5 ô vòng, bò thấp chui qua cổng
- Chủ đề “Thế giới động vật”: Bật chụm tách chân qua 5 ô vòng, trườn sấp.
2. Biện pháp 2: Nâng cao chất lượng giáo dục thể chất cho trẻ thông qua các
hoạt động học có chủ đích
Để nâng cao chất lượng giáo dục thể chất cho trẻ thông qua hoạt động học có chủ đích,
chúng ta cần phải lên kế hoạch cụ thể từ khâu soạn giáo án đến khâu lên hoạt động dạy
thực hành, cụ thể:
- Xác định mục tiêu của đề tài:
Giáo viên cần phải nắm nhận thức của trẻ lớp mình sau đó đặt mục tiêu cụ thể
ràng phù hợp theo từng bài học: sau khi học bài vận động này thì trẻ nhận được kiến
thức gì? Kỹ năng gì? Cần củng cố những kỹ năng cần thiết? Lồng ghép giáo dục nội
dung dinh dưỡng trong i học này? Không nên đặt mục tiêu chung chung hay mục
tiêu quá thấp hoặc quá cao đối với trẻ của lớp mình.
- Chuẩn bị đồ dùng cho hoạt động:
Để hoạt động thể dục được thành công thì việc chuẩn bị đồ dùng đồ chơi phục vụ cho
hoạt động dạy một trong những việc làm hết sức quan trọng. Bởi ở lứa tuổi 4 - 5 tuổi
đồ dùng trực quan chiếm ưu thế, trẻ học qua hình nh, đồ chơi đồ dùng minh họa, những
bài học của trẻ gắn với đồ dùng trực quan sinh động. Nên khi thiết kế vận động hay trò
chơi vào trong hoạt động thể dục cho trẻ phải chú ý đến yếu t đồ dùng đồ chơi an toàn,
có tính thẩm mĩ cao. Có thể cho trẻ tự làm một số đồ dùng đồ chơi tự tạo từ phế thải để
cuốn hút trẻ tham gia bài tập với đồ dùng trẻ được làm.
Ngoài ra, giáo viên cũng cần chuẩn bị cho trẻ địa điểm phòng tập, không gian tập th
chất thoáng mát, đẹp mắt đầy đtrang thiết bị hiện đại phục vụ cho hoạt động dạy
thành công.
- Phương pháp dạy học:
Đối với hoạt động thể dục, đổi mới phương pháp dạy học sáng tạo theo hướng lấy trẻ
làm trung tâm là việc làm hết sức cần thiết. Trẻ phải được trải nghiệm, thực hành nhiều
trong hoạt động thể dục đó, giáo viên chỉ hướng dẫn gợi mở trẻ trên phương diện khách
quan giúp đỡ. Đồng thời giáo viên cần nắm bắt, đoán ý tưởng của trẻ kịp thời để gợi mở
cùng trẻ xây dựng bài tập phù hợp dựa trên nền tảng trẻ cung cấp.
- Cách tiến hành:
Sau khi chuẩn bcác nội dung trước chu đáo, để tiến hành vào bài học của hoạt động
thể dục thì giáo viên cần tạo cho trẻ chơi một số trò chơi nhẹ nhàng, một số u đố vui
để giúp trẻ cuốn hút vào hoạt động học đưa ra một số biện pháp cụ thể cho từng phần.
Với mỗi một giáo viên đều có cách thiết kế bài giảng hoặc xây dựng kế hoạch hoạt động
lĩnh vực thể chất riêng. Nhưng để nâng cao được hoạt động dạy hiệu quả đạt chất lượng
thì giáo viên cần phải chủ động trong việc sáng tạo, đổi mới phương pháp, đồ dùng trực
quan, cách xây dựng thiết kế bài giảng linh hoạt theo từng lứa tuổi, thời điểm phù hợp.
Đồ dùng đồ chơi cũng phong phú hấp dẫn trẻ để tăng lôi cuốn trẻ tham gia.
3. Biện pháp 3: Tích hợp lồng ghép nội dung giáo dục thể chất cho trẻ thông
qua các hoạt động khác
Đối với chương trình giáo dục thể chất cho trẻ ngoài việc đổi mới nâng cao hoạt động
thể chất trong giờ hoạt động chủ đích thì giáo viên thể lồng ghép nội dung giáo dục
thể chất vào trong các hoạt động khác trong ngày của trẻ, hay các hoạt động hội thi,
ngoại trải nghiệm, cụ thể:
- Thể dục sáng Buổi sáng:
Trẻ được tập thể dục s nâng cao hoạt động của các cơ quan trong cơ thể, phát triển kỹ
năng vận động cn thiết tạo cho trẻ trạng thái sảng khoái, vui tươi. Thể dục sáng giúp trẻ
khôi phục khả năng làm việc của toàn bộ các quan, cuốn t trẻ vào các hoạt động.
Đặc biệt khi trẻ được tham gia thể dục sáng thường xuyên sẽ giúp trẻ tự tin, mạnh dạn
hơn trong cuộc sống, trong học tập, nâng cao tinh thần tập thể, ý thức lao động tinh thần
trách nhiệm với công việc cho trẻ.
Trong giờ thể dục sáng tôi lựa chọn, sắp xếp các động tác phù hợp hấp dẫn đối với
trẻ. Bài tập phải các động tác hoàn thiện các kỹ năng đi, chạy nhảy để hình thành
thế đúng, giúp cho các cơ quan hô hấp, tuần hoàn và các nhóm cơ hoạt động tích cực.
4. Biện pháp 4: Sưu tầm thiết kế một số bài tập thể chất thông qua tchơi
dân gian
Hoạt động vui chơi luôn đóng vai trò chủ đạo đối với lứa tuổi mầm non. Trò chơi dân gian
là một trong những trò chơi rất hấp dẫn, lôi cuốn trẻ. Chính vì vy thông qua trò chơi dân
gian, tôi vận dụng linh hoạt sáng tạo thiết thế một số bài tập đơn giản thông qua một số
trò chơi dân gian, chẳng hạn muốn củng cố bài tập vận động “đi trong đường hẹp” thì tôi
sẽ cho trẻ thực hiện vận động đó dưới một hình thức trò chơi dân gian “Đi cầu đi quán”.
Bài tập “Bò thấp chui qua cổng” i sẽ chuyển tải thành trò chơi dân gian “Bọ dừa”, cụ
thể:
- Trò chơi “đi cầu đi quán”
+ Luật chơi: Trẻ biết đi trong đường hẹp không chạm cỏ cây hai bên đường. Trẻ đi theo
tổ. Tổ nào đi không chạm cỏ cây hai bên đường đọc thuộc bài đồng dao tổ đó chiến
thắng.
+ Cách chơi: Trẻ sẽ đi theo tổ. Vừa đi vừa đọc bài đi cầu đi quán, trẻ đi mắt nhìn thẳng
đi sao cho không chạm vạch và vừa đi vừa đọc bài đồng dao“Đi cầu đi quán”.
- Trò chơi “Bọ dừa”
+ Luật chơi: Trẻ bò thấp bằng bàn tay cẳng chân. Trẻ vừa vừa đọc bài đồng dao
“Bọ dừa”. Khi hết bài đồng dao đội nào bò nhanh về đích trước đội đó giành chiến thắng
+ Cách chơi: Cô chia lớp làm 3 tổ. Các thành viên trong tổnối tiếp nhau thành hàng.
Bò bằng bàn tay và cẳng chân. Vừa bò vừa đọc bài “Bọ dừa”.
IV. Biện pháp thi giáo viên giỏi cấp Tiểu học
1. Bài dự thi biện pháp nâng cao chất lượng học tập của học sinh Tiểu học
* Bài dự thi được chia sẻ bởi giáo Thị Thảo.
MỘT SỐ BIỆN PHÁP CỦA GIÁO VIÊN CHỦ NHIỆM NHẰM NÂNG CAO CHẤT
LƯỢNG GIÁO DỤC NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH.
Họ và tên giáo viên: .......................
Dạy tại lớp: 3A
Trường: Tiểu học ............................
Huyện (TX, TP): .............................
1. Mục đích của biện pháp:
Xuất phát từ mục tiêu giáo dục tiểu học
Để nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện thế hệ trẻ, đáp ứng nguồn nhân lực phục vụ
sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế
nhu cầu phát triển của người học, giáo dục phổ thông đã và đang được đổi mới mạnh
mẽ theo bốn trụ cột của giáo dục thế kỉ XXI, thực chất đó cách tiếp cận năng
sống, đó là: Học để biết, học để làm, học để tự khẳng định mình học để cùng chung
sống.
Bác Hồ đã từng nói:
“Vì lợi ích mười năm trồng cây.
lợi ích trăm năm trồng người”.
Câu nói ấy đã thấm nhuần vào đường lối của Đảng nhà nước ta. Nhà nước ta xác
định mục tiêu của giáo dục tiểu học nhằm hình thành những sở ban đầu cho sự
phát triển toàn diện v đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mĩ, năng lực của học sinh. Vì vậy,
để đạt được mục tiêu này, ở các trường học không chỉ cung cấp cho học sinh kiến thức
mà còn dạy các em kĩ năng sống.
Cùng với các biện pháp để nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện cho học sinh trong
nhà trường, giáo dục kỹ năng sống cho học sinh là yêu cầu vô cùng quan trọng, một nội
dung không thể tách rời của quá trình giáo dục.
Xuất phát từ thực tế tại trường Tiểu học Thị trấn Tiên Yên
Tại trường Tiểu học Thị trấn Tiên Yên, Ban giám hiệu nhà trường luôn quan tâm, tạo điều
kiện để giáo viên được trau dồi kĩ năng và chuyên môn nghiệp vụ.Học sinh trong trường
luônđược các thầy cô chú trọng giáo dục năng sống thông qua các bài học và các hoạt
động giáo dục ngoài giờ lên lớp.
Học sinh khối 1,2 các em còn nhỏ không phải quét lớp, quét sân trường, không phải
bàn ghế và gấp chăn gối bán trú. Lên lớp 3 các em cần có những kĩ năng sống cần thiết
đó để tự chăm sóc bản thân làm tốt các nhiệm vụ của mình.Các năng như tương
trợ nhau, giao tiếp, diễn đạt trước đám đông được các thầy giáo tích cực hình thành
củng cố nhưng các em chưa thể hiện được nhiều.Đồng thời kỹ năng thực hành, kỹ
năng giao tiếp, kỹ năng giải quyết vấn đề, khả năng tự phục vbản thâncòn hạn chế.Các
em chưa nhiều năng sống nên hoạt động nền nếp giáo viên còn phải nhắc nhở
thường xuyên như: tình trạng đi học muộn, ôn bài đầu giờ chưa tự giác, hoạt động múa
hát tập thể còn chưa khẩn trương nghiêm túc, quên đồ dùng học tập, lao động n trường
còn chưa chủ động, ăn bán trú còn chưa hết suất, kĩ năng cất ghế và sắp xếp ngăn bàn
chưa gọn gàng.
Với những hạn chế trong năng sống của học sinh, tôi đã quan tâm đặc biệt đến việc
giáo dục năng sống cho các em.Nhưng làm thế nào để các em những năng sống
tốt thì đó vấn đề không chỉ tôi tất cả các giáo viên khác đều quan tâm.Với suy
nghĩđó tôi thực hiện biện pháp“Một số biện pháp của giáo viên chủ nhiệm nhằm nâng cao
chất lượng giáo dục năng sống cho học sinhmong muốn chia sẻ với bạn bè, đồng
nghiệp.
......................
Do nội dung bài dự thi giáo viên dạy giỏi quá dài, mời các bạn Tải file Bài dự thi biện pháp
nâng cao chất lượng giáo dục năng sống cho học sinh về máy để xem bản đầy đủ.
2. Biện pháp nâng cao chất lượng bộ môn Tiếng Việt lớp 4
Nguồn: Cô Dương Thị Mỹ
Một số biện pháp rèn năng đọc diễn cảm góp phần nâng cao chất lượng dạy học phân
môn tập đọc cho học sinh lớp 4
PHẦN A: ĐẶT VẤN ĐỀ
Làm thế nào để học sinh khả năng đọc diễn cảm tốt trong giờ tập đọc để từ đó phát
triển năng lực cảm thụ văn học cho học sinh, các em thấy được cái hay cái đẹp của văn
học, của cuộc sống xung quanh... Xuất phát từ những do trên, tôi đã mạnh dạn đề
xuất Một số biện pháp rèn năng đọc diễn cảm góp phần nâng cao chất lượng dạy học phân
môn tập đọc cho học sinh lớp 4”.
Mục đích khi thực hiện biện pháp để rèn kĩ năng đọc diễn cảm trong phân môn Tập đọc
lớp 5 nhằm nâng cao hiệu quả giờ dạy. Tôi đã áp dụng biện pháp tại lớp 4B - Trường
Tiểu học Tiên Sơn. Từ tháng 9 năm 20... đến tháng 4 năm 20...
Trong quá trình nghiên cứu, i đã sử dụng các phương pháp phân tích tổng hợp
thuyết, điều tra, so sánh, thực nghiệm giáo dục, nghiên cứu tài liệu sản phẩm hoạt
động sư phạm.
PHẦN B: GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. THỰC TRẠNG CÔNG TÁC DẠY HỌC PHÂN MÔN TẬP ĐỌC TRƯỜNG TIỂU
HỌC TIÊN N
1. Ưu điểm
- Nhà trường trang bị đầy đủ cơ sở vật chất, trang thiết bị thuận lợi cho việc dạy và học.
Ban giám hiệu nhà trường, tổ chuyên n 4+5 năng lực, sẵn sàng giúp đỡ, chia sẻ
những khó khăn trong công tác chuyên môn
- Trong giảng dạy phân môn Tập đọc, giáo viên xác định được yêu cầu cần đạt khi dạy
từng dạng bài, được trang bị về phương pháp giảng dạy bộ môn, vận dụng những ưu
điểm của phương pháp dạy học với những mặt tích cực của phương pháp dạy học
mới để giảng dạy đạt hiệu quả.
- Trong gidạy tập đọc, phần tổ chức cho học sinh luyện đọc diễn cảm giáo viên đều đã
làm theo một quy trình như sau:
+Đưa đoạn văn (thơ)
+ Học sinh phát hiện cách đọc
+ Học sinh khác bổ sung
+ Giáo viên chia sẻ cách đọc đúng
+ Một học sinh đọc lại
+ Học sinh luyện đọc theo cặp
+ Thi đọc
+ Giáo viên cùng học sinh khác nhận xét đánh giá
- Bản thân là một giáo viên trẻ, có tinh thần học hỏi, khả năng tiếp cận nhanh với những
đổi mới trong phương pháp dạy học. Thường xuyên được tham gia các buổi tập huấn về
phương pháp dạy học, chương trình GDPT mới. Trong khi dạy tôi đã chú trọng tới việc
rèn đọc, khả năng cảm thụ các tác phẩm văn học cho các em, chú ý đến khâu làm mẫu.
- Học sinh: ý thức tham gia tích cực trong học tập. Yêu thích môn học. Ham đọc ch,
truyện.
- Phụ huynh: Đa phần phhuynh trẻ, quan tâm, thường xuyên trao đổi với giáo viên về
tình hình học tập của con em mình.
2. Hạn chế và nguyên nhân hạn chế
2.1. Giáo viên
- Giáo viên cũng đã quan tâm đến việc giáo dục thẩm mỹ, giáo dục tưởng tình cảm
nhưng chưa sâu sắc thường rất chung chung, ép theo một tuýp nhất định. Việc
khai thác các từ ngữ và các yêu tố nghệ thuật đặc sắc, việc phân loại, chỉnh sửa bài đọc
cho đối tượng học sinh (do trình độ đọc của các em không đồng đều) còn hạn chế.
- Nguyên nhân dẫn đến từ nhiều phía, trong đó việc giáo viên chưa thực sự chú trọng
đến việc rèn đọc diễn cảm cho học sinh, trong một tiết tập đọc, thời gian dành cho luyện
đọc vỡ, tìm hiểu nội dung văn bản thường quá nhiều, do vậy sang phần đọc diễn cảm
chỉ đọc lướt qua.
2.2. Học sinh
năng đọc đúng, đọc diễn cảm của học sinh không đồng đều (Có học sinh đọc hay,
diễn cảm; học sinh còn đọc chưa đúng tốc độ). Thực tế nhiều học sinh không
năng đọc diễn cảm nhưng cứ cố đọc nên xy ra tình trạng các em đọc nâng cao, hạ thấp
hay nhấn giọng một cách tùy tiện
Phần lớn các em chưa ý thức rèn đọc diễn cảm. Khả năng cảm thụ văn thơ chưa
được phát huy qua đó vốn từ ngữ, vốn hiểu biết của các em còn nhiều hạn chế.
Số lượng học sinh chuẩn bị kĩ lưỡng cho một bài đọc không cao, nhiều em chuẩn bị qua
loa, sơ sài, chỉ đọc trước một đến hai lượt, có em còn không đọc.
Ngay từ đầu năm học 20...-20... khi nhận lớp 4B, học sinh của lớp tôi chưa năng
đọc, đc biệt kĩ năng đọc hay, đọc diễn cảm. Tôi đã tiến hành khảo t kĩ năng đọc lưu
loát, diễn cảm sau 3 tuần học đầu năm học ở bài đọc:
Cánh diều tuổi thơ
Tuổi thơ của tôi được nâng lên từ những cánh diều.
Chiều chiều, trên bãi thả, đám trẻ mục đồng chúng tôi hò hét nhau thả diều thi. Cánh diều mềm
mại như cánh bướm. Chúng tôi vui sướng đến phát dại nhìn lên trời. Tiếng sáo diều vi vu trầm
bổng. Sáo đơn, rồi sáo kép, sáo bè,... như gọi thấp xuống những vì sao sớm.
Ban đêm, trên bãi thả diều thật không còn gì huyền ảo hơn. Có cảm giác diều đang trôi trên dải
Ngân Hà. Bầu trời tự do đẹp như một thảm nhung khổng lồ. Có cái gì cứ cháy lên, cháy mãi
trong tâm hồn chúng tôi. Sau này, tôi mới hiểu đấy là khát vọng. Tôi đã ngửa cổ suốt một thời
mới lớn để chờ đợi một nàng tiên áo xanh bay xuống từ trời và bao giờ cũng hy vọng khi tha
thiết cầu xin: "Bay đi diều ơi! Bay đi!" Cánh diều tuổi ngọc ngà bay đi, mang theo nỗi khát khao
của tôi.
Theo Tạ Duy Anh
Sau khi khảo sát tôi tổng hợp được kết quả như sau:
Tổng số học
sinh
Đọc diễn cảm
Đọc lưu loát,
chưa diễn cảm
Đọc chưa lưu loát
Số lượng
%
%
Số lượng
%
37
6
16,2
64,9
7
18,9
Qua kết quả khảo sát trên cho thấy, mặc dù học sinh cuối cấp nhưng số học sinh đạt
yêu cầu ở mức độ đọc diễm cảm là quá thấp.
- Tôi đã tìm hiểu và nhận thấy là do những nguyên nhân sau:
+ Một số học sinh chưa biết cách đọc với từng dạng bài. Chưa nắm vững cách ngắt hơi,
nghỉ hơi, ngữ điệu, chưa biết nhấn giọng, lên giọng xuống giọng những từ cần thiết.
+ Phát âm theo phương ngữ lẫn lộn l/n; s/x, lỗi về dấu thanh.
+ Học sinh chưa hứng thú trong rèn đọc diễn cảm, đọc diễn cảm tuỳ ý. Các em chưa
thực sự chú ý nghe giảng nên chưa phát huy được khả năng đọc của mình.
................
Tải file về máy để xem đầy đủ nội dung
3. Biện pháp nâng cao chất lượng bộ môn Toán lớp 2
Nguồn: Cô Phạm Lệ Huyền
CỘNG HÒA HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập Tự do Hạnh phúc
....................., ngày 28 tháng 11 năm 20...
BÁO CÁO:
BIỆN PHÁP “TẠO HỨNG THÚ CHO HỌC SINH LỚP 2B TRƯỜNG TIỂU HỌC
..................... THÔNG QUA
MỘT SỐ TRÒ CHƠI TOÁN HỌC”
- Tên biện pháp: Tạo hứng thú cho học sinh lớp 2B trường Tiểu học xã .....................
thông qua một số trò chơi toán học.
- Họ và tên: …………..
- Đơn vị công tác: Trường Tiểu học xã .....................
- Thời gian triển khai thực hiện: Từ 9/20... đến 28/11/20...
A. ĐẶT VẤN ĐỀ:
1. Tên biện pháp: Tạo hứng thú cho học sinh lớp 2B trường Tiểu học xã ..................... thông
qua một số trò chơi toán học.
2. Sự cần thiết, mục đích của việc thực hiện biện pháp:
Trong chương trình giáo dục phổ thông 2018, môn Toán cùng với các môn học khác
trong nhà trường Tiểu học những vai trò góp phần hết sức quan trọng đào tạo nên
những con người phát triển toàn diện.
Toán học môn khoa học tự nhiên nh lôgíc và tính chính xác cao, chìa khóa
mở ra sự phát triển của các bộ khoa học khác.
Muốn học sinh Tiểu học học tốt được môn Toán thì mỗi người giáo viên không phải chỉ
truyền đạt, giảng giải theo c tài liệu đã có sẵn trong sách giáo khoa, sách hướng dẫn
thiết kế bài giảng một cách dập khuôn, máy móc làm cho học sinh học tập một cách
thụ đng. Nếu chỉ dạy học như vậy thì việc học tập của học sinh sẽ diễn ra thật đơn điệu,
tẻ nhạt và kết quả học tập sẽ không cao. Nó là một trong những nguyên nhân gây ra cản
trở việc đào tạo các em thành những con người năng động, tự tin, ng tạo sẵn sàng
thích ứng với những đổi mới diễn ra hàng ngày.
Để đáp ứng được nhu cầu của giáo dục theo sự đổi mới của chương trình giáo dục phổ
thông 2018 đòi hỏi người giáo viên phải tích cực phải đổi mới phương pháp, hình thức
dạy học hướng tới “ Trường học thân thiện Học sinh tích cực”. Môn Toán ở bậc Tiểu học
theo hướng phát huy "học sinh học tập tích cực, chủ động, sáng tạo". Đổi mới phương pháp
dạy học là: "Phát huy tích tích cực, chủ động sáng tạo của học sinh trên sở khai
thác triệt để các đặc điểm tâm sinh lý của học sinh tiểu học". Xuất phát từ đặc điểm tâm
sinh của học sinh Tiểu học luôn luôn hiếu động, ham chơi, thích cái mới lạ nhưng lại
chóng chán. Đối với trẻ trò chơi một phát hiện mới, kích thích mò, muốn tìm hiểu,
khám phá. Do vậy quan điểm "Thông qua hot động vui chơi để tiến hành hoạt động học
tập " là phù hợp với trường Tiểu học.
Trò ci toán học nhằm mục đích là thông qua trò chơi để củng cố kiến thức của bài học,
luyện tập lại kiến thức của bài mới, phát hiện ra kiến thức mới của bài học. Thông qua
trò chơi học sinh nắm được kiến thức của bài học một cách nhẹ nhàng.
Các trò chơi nội dung Toán học thú bổ ích phù hợp với việc nhận thức của các
em. Thông qua các trò chơi các em sẽ lĩnh hội tri thức toán học một cách dễ dàng, củng
cố, khắc sâu kiến thức một cách vững chắc, tạo cho các em niềm say , hứng thú trong
học tập, trong việc làm. Khi chúng ta đưa ra được các trò chơi Toán học một cách thường
xuyên, khoa học thì chắc chắn chất lượng dạy học môn Toán sẽ ngày càng nâng cao.
Từ đó tôi đã thiết kế các trò chơi trong giờ học toán lớp 2 và áp dụng vào giờ toán ngay
từ đầu năm thấy kết quả học tập của các em tiến bộ hẳn lên. Đến giờ học toán các
em không còn cảm thấy căng thẳng nên kết quả học tập cao hơn. Chính vì những do
nêu trên mà tôi đã vn dụng biện pháp "Tạo hứng thú học Toán cho học sinh lớp 2 qua một
số trò chơi Toán học" nhằm gây hứng thú học tập cho học sinh.
B. NỘI DUNG BIỆN PHÁP:
1. Biện pháp thư
nhất: Chuẩn bị trò chơi
1.1. Nghiên cứu tài liệu:
Điều đầu tiên để thực hiện đạt hiệu quả về việc tổ chức trò chơi Toán cho học sinh lớp
2, tôi đã đọc i liệu, sách báo, tạp chí giáo dục… liên quan đến nội dung của sáng
kiến. Chính sự nghiên cứu, tìm tòi i liệu giúp cho các tiết học Toán sử dụng trò
chơi đạt kết quả tốt.
1.2. Nghiên cứu thực tế:
Thông qua các tiết dự giờ i đã trao đổi thêm, vấn với các bạn đồng nghiệp về nội
dung các trò chơi phục vụ cho môn Toán 2 để áp dụng cùng nhau tổng kết, đúc rút kinh
nghiệm trong quá trình dạy học.
Tổ chức tiến hành thực nghiệm phạm để kiểm tra tính khả thi của sáng kiến. Thông
qua các tiết dạy thực tế trên lớp, bản thân tôi đã phân loại các đối tượng học sinh, tìm
hiểu xem học sinh thường yếu ở mạch kiến thức nào, để lựa chọn trò chơi cho phù hợp,
giúp các em củng cố kiến thức để hiểu bài một cách chắc chắn.
2. Biện pháp thư
hai: Lựa chọn các trò chơi.
- Việc lựa chọn các trò chơi học tập trong môn Toán lớp 2 phải đáp ứng những yêu cầu
của mục đích dạy học. Các trò chơi phải đặt ra cho học sinh các nhiệm vụ học tập tương
ứng với nội dung dạy học. Mỗi trò chơi cần có một vị trí đóng góp cụ thể trong tiến trình
thực hiện mục đích dạy học. Vì vậy, để đáp ứng yêu cầu dạy học bộ môn Toán lớp 2, hệ
thống các trò chơi phải được lựa chọn sao cho đa dạng về chủ đề, phong phú về cách
chơi. Dựa vào hình thức, cách chơi và luật chơi của trò chơi có thể thay thế các trò chơi
một cách linh hoạt (thay số bằng chữ, câu cá, mèo bắt chuột, tìm hoa hái quả, cánh hoa
tìm nhụy, …) từ sự thay thế linh hoạt tạo cho giáo viên hội tổ chức trò chơi phù
hợp với đối tượng học sinh của mình. Để từ đó các em cảm thấy: Mỗi ngày đến trường
một ngày vui”.
....................
4. Biện pháp thi giáo viên giỏi môn Toán: Ứng dụng CNTT trong dạy học
THUYẾT MINH TẢ GIẢI PHÁP
1. Tên giải pháp: Ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học Toán 2 gây hứng thú học tập
cho học sinh.
2. Ngày giải phápđược áp dụng lần đầu hoặc áp dụng thử: Tháng 10/20...
3. tả các giải pháp thường làm
3.1. Những giải pháp đang sử dụng
Trước kia, trong quá trình dạy học Toán 2, tôi sử dụng một sphương pháp truyền thống
như: bảng đen, phấn trắng hoặc kết hợp trực quan bằng tranh ảnh, sử dụng bảng phụ,
phiếu bài tập lớn chưa gây hứng thú học tập cho HS.
3.2. Hạn chế của những giải pháp đó
Qua những giải pháp ấy, bên cạnh ưu điểm, tôi nhận thấy còn tồn tại những hạn chế như
sau:
* Đối với học sinh:
- Học sinh chưa hứng thú và tích cực trong giờ học.
- Học sinh ít hội bộc lộ suy nghĩ của mình, học sinh hoạt động chưa hiệu quả khi
hoạt động nhóm...
- Học sinh chưa có nhiều cơ hội tiếp cận công nghệ thông tin trong học tập.
* Đối với giáo viên:
- Phần lớn GV thường tập trung truyền tải kiến thức với các thao tác nghe, làm mẫu khiến
cho không khí lớp học trở nên nặng ncác em dễ mất tập trung, không hứng thú
với môn học, dẫn đến hiệu quả giờ học không cao, HS mệt mỏi, uể oải sau mỗi tiết học.
- Việc chuẩn bị đồ dùng học tập cũng khiến giáo viên mất nhiều công sức, thời gian, tốn
kém về tiền bạc.
- Giáo viên viết bảng truyền thống cũng gây mất nhiều thời gian trong giờ học, không có
thời gian để bao quát học sinh.
4. Sự cần thiết phải áp dụng giải pháp
Mục tiêu của chương trình GDPT 2018 là giúp học sinh phát triển toàn diện về kiến thức,
năng lực và phẩm chất. Mục tiêu trong kế hoạch dạy học của giáo viên cũng luôn hướng
tới điều đó. Tuy nhiên, mục tiêu đặt ra có đạt được hay không còn phụ thuộc vào yếu tố
học sinh thích thú, hào hứng tham gia vào các hoạt động học tập hay không. Trong
các môn học thì môn Toán ít được học sinh sự quan tâm, thích thú giờ học toán
thường khô khan. Các em sẽ nhanh chán nản, không chú ý dẫn đến kết quả giờ học
không cao. Vậy làm thế nào để các em yêu thích hứng thú học tập môn Toán
nỗi trăn trở của bản thân tôi mỗi khi giảng dạy. Chính vì điều đó mà tôi đã mạnh dạn lựa
chọn giải pháp: Ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học Toán 2 gây hứng thú học tập
cho học sinh.
....................
V. Biện pháp thi giáo viên giỏi cấp THCS
1. Bài dự thi biện pháp nâng cao chất lượng học tập của học sinh THCS
Bài dự thi biện pháp nâng cao chất lượng học tập của học sinh
I. Mở đầu :
Mục tiêu của giáo dục THCS giúp cho học sinh củng cố phát triển những kết quả
giáo dục Tiểu học; có học vn phổ thông trình độ cơ sở và những hiểu biết ban đầu về
kỹ thuật và hướng nghiệp để tiếp tục học trung học phổ thông, trung cấp, học nghề hoặc
đi vào cuộc sống lao động
Trong thời gian qua Bộ Giáo dục và Đào tạo đã có nhiều chủ trương, biện pháp tích cực
để nâng cao chất lượng dạy học. Đặc biệt thực hiện c cuộc vận động lớn như:
"Hai không", "Mỗi thầy cô giáo là một tấm gương tự học và sáng tạo", "Xây dựng trường
học thân thiện, học sinh tích cực". Qua thực hiện các cuộc vận động này đã làm thay đổi
khá nhiều về chất lượng giáo dục. Tuy nhiều tiến bộ nhưng chất lượng thật sự của
giáo dục hiện nay bậc THCS còn khá nhiều yếu kém. Yêu cầu đặt ra cho chúng ta
phải tìm những nguyên nhân yếu kém một cách chính xác, phải nhìn thẳng vào sự thật
một cách khách quan .Từ đó bình tỉnh đưa ra những giải pháp tích cực sát với thực tế đ
từng bước nâng cao chất lượng. Vấn đề này cần phải thời gian, ng sức của mọi
người trong toàn xã hội.
Phụ đạo cho học sinh yếu một hoạt động bình thường và không thể thiếu được trong
bất kỳ trường THCS nào. Đây chính một trong những nhiệm vụ trọng tâm của người
thầy, của nhà trường để góp phần giúp cho các học sinh không theo kịp bạn thể
nắm bắt được những kiến thức cơ bản nhằm lấp lỗ hổng kiến thức của bản thân. Trong
đơn vị trường học việc tổ chức các lớp học phụ đạo cho học sinh yếu kém việc làm
thường xuyên chứ không phải chỉ là phong trào thi đua hoặc để đối phó với một đợt thi
hoặc kiểm tra.
II/ Nguyên nhân chất lượng học tập của học sinh yếu kém :
1/ Đối với học sinh:
Học sinh chưa tự giác học, chưa có động cơ học tập, chưa có quyết tâm học tập.
Mất căn bản kiến thức ngay từ lớp dưới. Nhiều học sinh đuối sức trong học tập, không
theo kịp các bạn (thiếu kiến thức, kỹ ng, khả năng để học tập lớp đang học (ngồi nhầm
lớp), sinh ra chán học, sợ học (hội chứng sợ học).
Khả năng phân tích tổng hợp, so sánh còn hạn chế, chưa mạnh dạn trong học tập do
hiểu chưa sâu, nắm kiến thức chưa chắc, thiếu tự tin. Khả năng chú ý tập trung vào
bài giảng của giáo viên không bền, lười suy nghĩ, còn trông chờ thầy giải giúp, trình
độ tư duy, vn kiến thức cơ bản lớp dưới còn hạn chế, chưa biết phát huy khả năng của
mình. Khả năng học tập của HS rất khác nhau, cùng một độ tuổi và 1 lớp nhưng trình độ
các em có thể chênh nhau khá lớn. Đọc chậm, đọc sai, viết chậm, viết sai đặc biệt n
ngoại ngữ .Không biết làm tính, yếu các kỹ năng tính toán cơ bản, cần thiết .
Một số học sinh đi học thất thường, ham chơi, la cà quán xá .
Học sinh chưa có phương pháp học tập khoa học, hầu hết là học thụ động, lệ thuộc vào
các loại sách bài giải (chép bài tập vào vở nhưng không hiểu cả) , học vẹt, không
khả năng vận dụng kiến thức, trong thi cử thì quay cóp và tài liệu .
Thì giờ học thêm quá nhiều, học sinh không "tiêu hóa" hết sinh ra uể oải, nhàm chán
.Còn phân biệt môn chính, môn phụ nên học lệch .
Học sinh yếu không chịu đi học phụ đạo .
2/ Phụ huynh :
Tỷ lệ học sinh đi học chuyên cần thấp, thái độ học tập của học sinh, chất lượng học tập
cho thấy nhận thức và thái độ của phụ huynh trong việc hợp tác với nhà trường là chưa
cao.Qua đó cho thấy một bộ phận phụ huynh chưa thật sự quan tâm, chăm lo đôn đốc
con em mình học tập, còn pthác cho nhà trường, cho thầy cô. Việc phụ huynh vùng
biển đi làm ăn trên biển lâu lâu mới về nên việc phối hợp giáo dục là rất hạn chế .Một số
gia đình không hạnh phúc ảnh hưởng đến học tập của học sinh. Người lớn chưa làm
gương về chuyện học .
3/ Giáo viên
Đa số đều tận tụy với công tác giảng dạy, chăm chút học sinh nhưng cũng trường hợp
chỉ thành công trong đối tượng là học sinh khá trở lên, còn đối với học sinh yếu kém thì
chưa hiệu quả, hoặc ngược lại. Trong quá trình dạy học còn mắc phải :
Hệ thống câu hỏi gợi mở, dẫn dắt chưa logic, chưa phù hợp cho từng đối tượng;
những tiết giáo viên còn nói lan man, ngoài lề chưa khắc sâu kiến thức trọng tâm .
Việc sử dụng đồ dùng dạy học trực quan, tranh ảnh, SGK, tnghiệm còn hạn chế, chưa
khai thác hết tác dụng của ĐDDH.- Chưa xử lý hết các tình huống trong tiết dạy, việc tổ
chức các hoạt động còn mang tính hình thức chưa phù hợp.
Phương pháp giảng dạy chưa phù hợp, năng lực tổ chức giờ học theo nhóm đối tượng
còn hạn chế.
Chưa động viên tuyên dương kịp thời khi HS có một biểu hiện tích cực hay sáng tạo dù
rất nhỏ. Chưa quan tâm đến tất cả HS trong lớp, GV chỉ chú trọng vào các em HS khá,
giỏi và coi đây là chất lượng chung của lớp.
Một số giáo viên không làm tròn trách niệm trong việc kiểm tra đánh giá học sinh, cho
học sinh lên lớp khi các em chưa đủ chuẩn hậu quả các em phải gánh chịu khi học lên
lớp trên
Còn lúng túng, chưa mạnh dạn tìm các giải pháp mạnh giải quyết vấn đề chất lượng học
tập của HS, còn tâm lí trông chờ chỉ đạo của cấp trên.Tinh thần trách nhiệm một số đồng
chí chưa cao, thiếu quyết tâm, bệnh thành tích vẫn còn, không đánh giá đúng thực chất
của lớp mình giảng dạy.
đồng chí thì quá khắt khe làm các em lo sợ khi học giờ của mình, thậm chí còn làm
các em thui chột tinh thần học tập .Một số giáo viên giảng dạy thiếu nhiệt tình do hội
và các em xem nhẹ bộ môn mình đang dạy .
Một số GV còn hạn chế về chuyên môn nghiệp vụ, chưa nhiệt tình giảng dạy, chưa tích
cực đổi mới phương pháp dạy học, chưa nắm chắc chuẩn kiến thức cần đánh giá nên
nhiều lúc yêu cầu quá cao so với chuẩn, chưa đầu tư cho việc ra đề kiểm tra, chỉ dạy tốt
những giờ thao gỉang .
Việc dạy cho học sinh tự học sáng tạo hình như ít thực hiện, chỉ lo dạy hết nội dung
đã qui định, lo cháy giáo án. Một số đồng chí còn lệ thuộc vào sách tham khảo, coi đây
là "sách gối đầu giường". Khi giảng bài trên lớp còn phụ thuộc quá nhiều vào SGK, giáo
án, ít khi xuống gần học sinh, giọng nói một số giáo viên còn hạn chế .
4/ Đối với chương trình và sách giáo khoa:
Chương trình học quá ôm đồm nhiều thứ nặng nề, thiếu thực hành, cung cấp kiến
thức sự kiện chính, một số nội dung chưa phù hợp với lứa tuổi học sinh, nhiều học
sinh không theo kịp chương trình vì nặng kiến thức nhiều môn, nội dung nhiều trong
một tiết học nên giáo viên khó thực hiện đổi mới PP dạy học theo hướng phát huy tính
tích cực của HS vì sợ cháy giáo án .
5/ Đối với nhà trường :
Còn thiếu thốn quá nhiều về sở vật chất các trang thiết bị dạy học .Số học sinh
trong một lớp n quá nhiều nên làm cho giáo viên khó khăn trong việc quan tâm đầy đủ
đến các đôí tượng HS và các em dễ quay cóp trong thi cử .
Chưa thực hiện tốt việc kiểm tra đánh giá chất lượng học sinh (ngân hàng đề, bốc thăm
đề kiểm tra, quản lý đề, duyệt đề ....).
Nội dung sinh hoạt chuyên n còn nghèo nàn, nặng về hành chính, chưa tập trung thảo
luận, bàn bạc để tìm ra những biện pháp tốt nhằm nâng cao chất lượng dạy học của bộ
môn, một số môn nhiều năm liền chất lượng thấp vẫn chưa chuyển biến. Kế hoạch
bôì dưỡng đội ngũ (tổ chức hội thảo, mchuyên đề, BDTX,..) làm còn qua loa, chưa triển
khai tốt các chuyên đề để phục vụ nâng cao chất lượng dạy học .Đánh giá xếp loại
đội ngũ đôi khi mang tính hình thức, chưa thực chất .
Kế hoạch phụ đạo học sinh yếu còn chậm .
6/ Đối với Phòng vá Sở :
Lịch kiểm tra cuối HK chưa phù hợp. Chỉ đạo công tác kiểm tra đánh giá chất lượng học
sinh chưa được cụ thể. Cần xem xét lại mức độ khó của đề kiểm tra học kỳ .
7/ Đối với địa phương và các lực lượng xã hội :
Chưa có chương trình, kế hoạch cụ thể để tham gia giáo dục học sinh ở địa phương .
Quản lý các quán Internet chưa tốt .
Nhiều biểu hiện tiêu cực trong hội, nhiều thanh thiếu niên vi phạm pháp luật, sống
thiếu lành mạnh vẫn chưa được xử lý đúng mức làm tác động xấu đến quá trình học tập
và rèn luyện của các em. Nhiều quán xá còn lợi dụng học sinh để kinh doanh .
III/ Một số biện pháp để nâng cao chất lượng dạy học :
1/ Đối với Nhà nước:
Cần kế hoạch xây dựng cơ sở vật chất giáo dục đảm bảo theo tiêu chuẩn qui định của
Quốc gia cho tất cả các trường học để điều kiện tổ chức tốt các hoạt động giáo dục
theo mục tiêu GD&ĐT qui định, trang bị đủ các trang thiết bị để thực hiện chương trình
giáo dục (có nơi dạy dỗ học tập đường hoàn sẽ tchức dạy học nền nếp chất
lượng hơn).
2/ Đối với các cấp quản lý giáo dục :
Cần xác định lại triết lý Giáo dục của Việt Nam .
kế họach nâng cao chất lượng đội ngũ quản lý, giáo viên nhân viên để đáp ứng
yêu cầu của từng vị trí công tác một ch tốt nhất (ai không đảm bảo yêu cầu thì cho đi
học lại, chuyển làm công tác khác hoặc cho nghỉ theo chế độ qui định, đừng để người
yếu kém trong ngành GD)
Tập trung trí tuệ và nguồn lực để xây dựng một chương trình giáo dục mềm dẻo và phù
hợp; biên soạn sách giáo khoa chuẩn mực phù hợp với trình độ học sinh Việt Nam.
Đừng để học sinh phải học quá sức mình !
Tăng cường sự chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra chuyên môn các cơ sở giáo dục một cách
nghiêm túc .Bồi dưỡng nghiệp vụ cho CBQL nhà trường (Tổ trưởng, HT, PHT) và có kế
hoạch đánh giá đội ngũ quản lý các trường học một cách nghiêm túc và thường xuyên .
3/ Đối giáo viên :
Giáo viên là người chủ đạo trong việc khắc phục học sinh yếu, thành hay bại là phần lớn
do giáo viên. Vì vậy giáo viên là người hết sức quan trọng trong việc khắc phục hc sinh
yếu .
Đối tượng học sinh phi học phụ đạo những học sinh điểm kiểm tra không đạt trung
bình và những học sinh tuy có đạt trung bình nhưng do chính giáo viên bộ môn lập danh
sách đề nghị cho phụ đạo không chắc với kết quả y. vậy giáo viên cần lưu ý một
số biện pháp sau:
Lập danh sách học sinh yếu báo cáo cho Tổ trưởng theo mẫu :
TT
Họ tên HS
Lớp
Môn
Biểu hiện yếu kém
Con ông bà
Nơi ở
Kiến thức
kỹ năng
Phân loại học sinh: học sinh mất căn bản hoàn toàn từ lớp dưới và học sinh có khả năng
học được nhưng lười học, ít được sự quan tâm chăm sóc của phụ huynh nên mê chơi ít
dành thời gian cho học tập để thuận lợi trong quá trình phụ đạo.
Phân tích nguyên nhân từ đâu? Để từ đó có biện pháp khắc phục hợp lý và có hiệu quả.
Đề xuất vi Tổ Trưởng, nhà trường v cách khắc phụ để tt cả cùng tập trung giải quyết
có hiệu quả tốt nhất.
Giáo viên lập kế hoạch phụ đạo học sinh yếu ngoài giờ học chính khóa có thể ở trường,
nhà (đề xuất với Tổ trưởng, nhà trường, phụ huynh...) .Chủ động gặp phụ huynh trao
đổi về việc học tập của HS, cùng với phụ huynh tìm biện pháp khắc phục.
Trong tiết dạy học bình thường giáo viên soạn bài nhất thiết phải kế hoạch dạy học
cho những học sinh yếu. Kế hoạch dạy học cho học sinh yếu phải phù hợp với trình độ
học sinh đó.
Phân công HS khá, giỏi giúp đỡ bạn ở trường, ở nhà. Tạo ra c nhóm học tập, thi đua
trong các nhóm học sinh yếu. Động viên, tuyên dương kịp thời học sinh yếu tiến
bộ.
Trong quá trình giảng dạy giáo viên bộ môn cần hướng dẫn học sinh sắp xếp thời gian
tự học, chuẩn bị bài trước khi đến lớp... Trong giảng dạy cần xác định trọng tâm bài học,
nội dung chương trình, tránh tình trạng dạy tràn lan gây nặng nề cho học sinh, nắm chắc
các đối tượng trong từng lớp đẻ biện pháp giảng dạy phù hợp, tránh tình trạng dạy
học theo kiểu cào bằng (em nào cũng như em đó), đặc biệt chú ý giúp đỡ các em học
tập còn yếu kém để các em tiến bộ, sẵn sàng tham gia phụ đạo học sinh yếu theo phân
công.Phải thự hiện tốt việc đổi mới phương pháp và ứng dụng CNTT vào dạy học, tăng
cường giáo dục động thái độ học tập bộ môn, thầy phải giỏi, dạy hay, đánh giá chất
lượng học sinh phải đúng chuẩn kiến thức bộ môn, đề kiểm tra phải chính xác khoa
học. Cống hiến hết sức mình cho công việc mình phụ trách .Xây dựng tốt mối quan h
thân thiện tích cực trong thầy trò để dạy và học tốt hơn .
Trong buổi sinh hoạt chuyên môn hàng tháng giáo viên bộ môn báo cáo tiến độ tiếp thu
bài của những học sinh yếu cho Tổ trưởng và giáo viên trong tổ, từ đó giáo viên nào còn
vướn mắc thì được tập thể giáo viên trong tổ góp ý bổ sung.
4/Đối với Tổ trưởng
Tập hợp danh sách học sinh yếu báo cáo nhà trường.
Họp tổ, nhóm chuyên môn để phân tích nguyên nhân, bàn kế hoạch khắc phục HS yếu.
Đề xuất với nhà trường về cách khắc phục học sinh yếu.
Tổ chức chuyên đề “khắc phục học sinh yếu”.
Thường xuyên đôn đốc, kiểm tra các biện pháp khắc phục HS yếu.
Giao trách nhiệm cho từng giáo viên và báo cáo thường xuyên cho nhà trường .
Hàng tháng sinh hoạt chuyên môn với nhà trường Tổ trưởng báo cáo tiến độ tiếp thu của
những em học sinh yếu .
5/Đối với lãnh đạo nhà trường :
Tập trung nâng cao chất lượng đội ngũ về phẩm chất chính trị, đạo đức nghề nghiệp,
năng lực chuyên môn nghiệp .
Tổ chức tốt hoạt động dạy học và sinh hoạt chuyên môn để nâng cao chất lượng dạy và
học. Tập trung thực hiện tốt việc đổi mới phương pháp, ứng dụng CNTT, thay đổi cách
kiểm tra đánh giá, quản tốt dạy thêm học thêm, quản tốt chất lượng giảng dạy các
bộ môn giáo viên.
Tổ chức thực hiện tốt phong trào " xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực",
và các phong trào khác .
Lập kế hoạch phân công dạy phụ đạo học sinh yếu ngay từ đầu mỗi năm học phợp
với tình hình cơ sở vật chất và con người của nhà trường .
Việc chọn giáo viên phụ đạo rất quan trọng. Do đó lãnh đạo nhà trường phải thuyết phục
cho được những thầy kinh nghiệm, tâm huyết theo dạy những đối tượng này.
Có thể nói phải vừa dạy vừa dỗ các em đi từ những cái cơ bản nhất của bộ môn.
Thực tế nhiều thầy rất giỏi nhưng khi dạy những đối tượng học sinh này thì không
hiệu quả. Ngược lại có những thầy không phải siêu sao gì nhưng kỹ lưỡng, tỉ mỉ và kiên
trì với học sinh thì mới hiệu quả hơn. Chính vì thế, việc chọn giáo viên phụ đạo cho học
sinh yếu kém vừa trên sở tự nguyện vừa trên sở dựa vào tâm huyết, sự tận tụy,
chu đáo, quan tâm của từng giáo viên và tổ trưởng bộ môn cũng không đứng ngoài việc
này.
Phối hợp thật tốt với c tổ chức đoàn thban đại diện cha mhọc sinh, đặc biệt
những phụ huynh có con em thuộc diện phải phụ đạo. Phải trao đổi, giải thích rõ cho cha
mẹ học sinh hiểu được sức học c thể của con em họ, biết được slo lắng, quan tâm và
trách nhiệm của nhà trường để phối hợp, tạo điều kiện cho con em mình đi học đầy đủ.
Làm thế nào để họ thấy rằng việc phụ đạo việc làm giúp đỡ những học sinh yếu kém
không theo kịp bạn bè, không theo kịp chương trình học.
những hình thức khen thưởng những học sinh tiến bộ như: chế độ điểm thưởng
cho học sinh tiến bộ, tìm nguồn bồi dưỡng cho giáo viên phđạo. Đồng thời cần quan
tâm theo dõi đáp ứng nguyện vọng chính đáng của giáo viên học sinh về phòng
học, photo bài học, bài tập…
Nếu gặp trường hợp học sinh yếu không chịu học, ban giám hiệu, giáo viên chủ nhiệm
cần phải tiếp xúc với phụ huynh học sinh để giải thích, thuyết phục. Học sinh học phụ
đạo được miễn phí hoàn toàn .
Tổng hợp danh sách học sinh yếu theo khối lớp báo cáo UBND Phường, Ban đại diện
phụ huynh. Tổ chức hội thảo để tìm biện pháp tối ưu nhất khắc phục học sinh yếu.
Mời phụ huynh học sinh yếu, Ban đại diện phụ huynh, đại diện UBND Phường, Tổ
trưởng dân phố, giáo viên học sinh yếu, Ttrưởng để n biện pháp khắc phục học
sinh yếu, đây là nhiệm vụ hết sức quan trọng không chỉ của nhà trường mà toàn xã hội.
Thường xuyên kiểm tra việc giáo viên phụ đạo trường, ở nhà. Thường xuyên họp với
BĐDphụ huynh, UBND Phường, Tổ trưởng dân phố, giáo viên, phụ huynh học sinh
yếu để đánh giá kết quả đạt được, từ đó có kế hoạch điều chỉnh cho phù hợp.
6/ Đối với học sinh :
Cần xác định việc học là học đkiến thức cho mình, để làm người, để hoà nhập với
cộng đồng, để chiếm lĩnh tri thức của loài người, biến kiến thức của nhân loại thành kiến
thức của mình, học để lập thân, lập nghiệp; học để phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân
.
Đi học phải chuyên cần, nghỉ học phải có lý do chính đáng.
Học bài, làm bài, chuẩn bị bài trước khi đến lớp.
Trong giờ học tập trung nghe thầy cô giáo giảng bài, tích cực tham gia xây dựng bài.
Tham gia đầy đủ các buổi học phụ đạo do nhà trường tổ chức .
Thực hiện tốt đôi bạn cùng tiến .
7/ Đối với phụ huynh học sinh
Giúp đỡ HS trong quá trình học tập ở nhà, phải có thời gian biểu cho HS.
Đôn đốc, động viên con em đi học chuyên cần. Nhắc nhở con đi học phụ đạo.
Có sự kiểm tra và chuẩn bị cho con em trước khi đến trường.
Thường xuyên liên hệ với giáo viên chủ nhiệm lớp để nắm được tình hình học tập của
con em mình, từ đó giáo viên chủ nhiệm cùng trao đổi với phụ huynh để tìm biện pháp
tốt nhất cho con em mình học tập.
Theo dõi và kiểm tra bài vở của con em mình.
8/Đối với Ban đại diện phụ huynh
Ban đại diện phụ huynh mời phụ huynh có con em học yếu họp bàn về cách khắc phục.
Ban đại diện phụ huynh có biện pháp hỗ tr về vật chất cho giáo viên, học sinh (nếu có).
Ban đại diện phụ huynh thường xuyên trao đổi với phụ huynh con em học yếu, với
giáo viên, với nhà trường.
Đặc biệt thường xuyên động viên, đôn đốc phụ huynh cho con đi học chuyên cần.
8/Đối với Đảng và chính quyền địa phương :
Cần quan tâm đúng mức đến sự nghiệp GD&ĐT của địa phương, chú ý đến diện tích
sân trường, xây dựng sở vật chất, tăng cường các trang thiết bị, xây dựng tốt i
trường GD....
Huy động mọi nguồn lực của xã hội để chăm lo cho giáo dục. Cần phải nêu cao tinh thần
trách nhiệm và lòng nhiệt tình trong việc phối hợp với nhà trường để giáo dục học sinh .
Nhà trường thường xuyên báo cáo về những phụ huynh không quan tâm hoặc để con
em nhà đi học không chuyên cần. T đó Tổ trưởng dân phố biện pháp nhắc nhở,
động viên những phụ huynh này.
Cần có biện pháp hỗ trợ vật chất cho những gia đình gặp khó khăn.
IV/ Kết luận:
Học sinh yếu một tồn tại khách quan, một phần do giáo viên chưa quan tâm đúng mức,
chưa giúp đỡ kịp thời để các em hổng kiến thức bản. Một phần do các em không
thích học, không biết cách học dẫn đến ngày một tụt hậu so với trình độ chung của lớp….
Không kể nguyên nhân do đâu, giúp đỡ học sinh yếu việc làm cần thiết, không nóng
vội, có lộ trình hợp lý, có biện pháp hiệu quả và kịp thời, kế hoạch riêng cho mỗi học
sinh.
Phụ đạo cho học sinh yếu kém trong nhà trường là việc làm hết sức tế nhị và đòi hỏi có
nhiều công sức, sự yêu thương tận tụy và cố gắng của thầy và trò.
Giáo viên là người ch đạo trong việc khắc phục học sinh yếu, thành hay bại là phần lớn
do giáo viên. Vì vậy giáo viên là người hết sức quan trọng trong việc khắc phục học sinh
yếu.
Có thể nói giáo viên là yếu tố quyết định về kết quả phụ đạo học sinh yếu. Nếu có được
những thầy cô tâm huyết, có kinh nghiệm dạy học sinh yếu, tận tụy với từng học sinh t
kết quả mới khả quan được.
Làm thế nào để Nâng cao chất lượng giáo dục?" một câu hỏi đặt ra suy nghĩ rất
nhiều của những người thầy Tận Tâm với nghề giáo trong thời điểm hiện nay khi chúng
ta đã làm nhiều biện pháp nhưng vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu của xã hội, của nhà
trường, của bộ môn.
Tùy vào hoàn cảnh cụ thể của từng năm ở từng khối lớp mà nhà trường có kế hoạch và
biện pháp thích hợp để nâng cao được trình độ cho học sinh lỡ mất căn bản trong học
tập - giúp c em hội hội nhập cùng với bạn bè. Kế hoạch phải được lập ngay từ
đầu năm và phải tổ chức thực hiện thật chu đáo. Để thành công trong công tác phụ đạo
học sinh yếu nhà trường phải biết huy động mọi nguồn lực của hội để cùng làm cho
hiệu quả .
Phải xác định: Mỗi thầy cô giáo phải có trách nhiệm giúp đỡ học sinh yếu kém để các em
này cải thiện tình hình học tập của mình một cách tốt nhất (Dạy học dạy cho người
chưa biết để họ được biết).
2. Biện pháp nâng cao chất lượng bộ môn Sinh học
Thay đổi cách kiểm tra bài
Thông thường, phần kiểm tra bài cũ được giáo viên tiến hành đầu giờ. Đây là việc làm
theo đúng tiến trình dạy học.
Tuy nhiên, sự lặp đi lặp lại cách làm đó sẽ khiến học sinh nhàm chán, đôi khi gây áp lực,
tạo sự căng thẳng cho học sinh trong suốt tiết học hôm đó.
Theo tôi giáo viên có thể lồng ghép các câu hỏi kiểm tra kiến thức đã học trong quá trình
dạy bài mới để làm giảm bớt đi sự căng thẳng không đáng có.
Ví dụ: Khi dạy mục I bài 29. Hấp thụ chất dinh dưỡng và thải phân, giáo viên có thể treo
tranh phóng to về Cấu tạo trong của ruột non. Sau đó yêu cầu học sinh nhắc lại cấu tạo
của ruột non phù hợp với chức năng tiêu hóa; kiểm tra kiến thức của học sinh về cấu tạo
của ruột non, sau đó nhận xét và cho điểm.
Thay đổi cách đặt vấn đề vào bài mới
Trong một giờ học, nếu ngay từ phần vào bài giáo viên đã tạo ra sự hứng thú cho học
sinh, chắc chắn trong những phút tiếp theo, các em sẽ hào hứng n với những hoạt
động do giáo viên tổ chức.
Do đó phần vào bài vai trò quan trọng đến hoạt động dạy cũng nkích thích quá
trình tiếp thu kiến thức của học sinh trong một tiết dạy.
Kinh nghiệm của tôi để cách dẫn dắt vào i mới hấp dẫn hơn là: Mở đầu bằng một
câu chuyện vui; mở đầu bằng một đoạn phim hay hình ảnh; hay mở đầu bằng một câu
chuyện li kì, hấp dẫn…
Một điều cần lưu ý là: đặt vấn đhay góp phần làm ng tính hấp dẫn cho bài học, tạo
hứng thú cũng nlàm cho không khí học tập trở nên thoải mái hơn. Tuy nhiên, giáo
viên cũng cần chú ý đến thời gian cho phần vào bài để tránh ảnh hưởng đến thời lượng
dành cho bài mới.
Thay đổi cách giao tiếp
Trong hoạt động dạy học luôn đòi hỏi sự tương tác qua lại thường xuyên giữa thầy
trò. Một trong những điều kiện để học sinh thể học sâu các em phải cảm giác
thoải mái.
Trong quá trình giao tiếp với học sinh, giáo viên cần có thái độ nhẹ nhàng, vui vẻ, tạo cho
học sinh cảm giác được yêu thương, nhưng khi cần vẫn phải nghiêm khắc để học sinh
hiểu được giới hạn của sự thoải mái. nếu quá dễ dãi, học sinh không kính nể sẽ rất
khó dạy; quá nghiêm khắc, học sinh sẽ bị ức chế khó tiếp thu bài học.
Hơn ai hết, giáo viên phải nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề trên đối với công
tác giáo dục. Khi cảm thấy mình được tôn trọng có nghĩa các em sẽ thêm phần tự tin
vào bản thân mình, sẽ đáp lại bằng thái độ tôn trọng, yêu quý đối vi thầy cô, nhđó mà
cũng sẽ yêu thích hơn bộ môn những thầy cô giáo đó đang giảng dạy.
Bên cạnh đó, người giáo viên cũng cần quan tâm đến những học sinh chậm tiến của lớp,
quan tâm nhắc nhở các em học bài và chỉ cách học bài cho học sinh; kịp thời khen ngợi
khi học sinh tiến bộ.
Ví dụ, có em học sinh chậm tiến lần thứ nhất kiểm tra bài cũ chỉ được 3 điểm, nhưng lần
thứ hai được 5 điểm, giáo viên cần khen ngợi để học sinh cảm thấy mình tiến bộ, từ
đó sẽ cố gắng nhiều hơn.
Đổi mới cách thức soạn bài và thiết kế các hoạt động dạy học
Trước hết, giáo viên cần nghiên cứu nội dung của i học trong sách giáo khoa, kết
hợp nghiên cứu những tài liệu tham khảo khác như sách giáo viên, sách giải bài tập sinh
học, chuẩn kiến thức năng,… để chỉ ra được mục tiêu chính là những yêu cầu về kiến
thức, kĩ năng và thái độ cần hướng học sinh tìm hiểu và đạt được.
Tiếp theo, giáo viên xác định số lượng hoạt động, hình thức tổ chức nội dung c hoạt
động nhằm đạt được các mục tiêu ở trên.
Tuy nhiên, để hướng đến sự thích thú, say của học sinh với mỗi hoạt động đó thì giáo
viên cần lựa chọn ch tổ chức phù hợp nhất, làm sao để học sinh phát huy tối đa khả
năng và hiểu biết của bản thân, đồng thời có sự liên kết chặt chẽ với tập thể.
| 1/24

Preview text:

Biện pháp dự thi giáo viên dạy giỏi 2025 mới cập nhật
I. Hướng dẫn làm biện pháp thi giáo viên dạy giỏi
Nội dung biện pháp do chính giáo viên đúc rút, sáng tạo, áp dụng trong thực tế giảng dạy
môn học nhằm góp phần nâng cao chất lượng công tác giảng dạy đáp ứng yêu cầu đổi
mới dạy học của cá nhân tại các nhà trường như: đổi mới phương pháp, hình thức tổ
chức dạy học; dạy học gắn liền với sản xuất kinh doanh; dạy học gắn liền với di sản; đổi
mới kiểm tra đánh giá; ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học;… hướng tới phát
triển phẩm chất năng lực của người học.
- Cấu trúc của biện pháp gồm có các phần chính:
+ Lý do hình thành biện pháp; + Nội dung biện pháp;
+ Hiệu quả thực hiện của việc áp dụng biện pháp trong thực tế dạy học;
+ Kết luận của biện pháp.
- Biện pháp dài không quá 10 trang A4 kể cả phụ lục (nếu có); sử dụng ngôn ngữ tiếng
Việt (chỉ dùng tiếng nước ngoài đối với thuật ngữ chuyên môn); đảm bảo thể thức văn
bản theo quy định hiện hành.
Trình bày biện pháp dự thi: Giáo viên lựa chọn nội dung và hình thức để trình bày biện
pháp trước Ban giám khảo. Cần nêu rõ biện pháp có hiệu quả, đáp ứng yêu cầu đổi mới
dạy học phù hợp với các đối tượng học sinh và thực tiễn của nhà trường, địa phương và
của cá nhân giáo viên tại cơ sở giáo dục đang công tác; có minh chứng về sự tiến bộ
của học sinh khi áp dụng biện pháp
Dưới đây là mẫu Bài dự thi biện pháp nâng cao chất lượng học tập của học sinh tiểu học,
Bài dự thi biện pháp nâng cao chất lượng học tập của học sinh THCS, báo cáo biện pháp
thi giáo viên dạy giỏi, biện pháp thi giáo viên giỏi cấp tiể học, THCS. Thầy cô tải file về
máy để xem đầy đủ nội dung.
II. Biện pháp về công tác chủ nhiệm nhằm nâng cao chất lượng học tập
1. Biện pháp 1: Khảo sát đối tượng học sinh để đưa ra những phương pháp giáo dục phù hợp
- Khảo sát đối tượng thông qua hồ sơ học bạ, qua giáo viên chủ nhiệm cũ, qua học sinh
trong lớp hoặc qua phụ huynh.
- Tiến hành phân loại đối tượng để đưa vào sổ kế hoạch công tác chủ nhiệm, cụ thể: +
Học sinh gặp hoàn cảnh khó khăn. + Học sinh khuyết tật.
+ Học sinh các biệt về đạo đức. + Học sinh yếu.
+ Học sinh có những năng lực đặc biệt.
* Đối với những học sinh có hoàn cảnh gia đình khó khăn.
* Đối với những học sinh khuyết tật.
* Đối với học sinh cá biệt về đạo đức:
- Tìm hiểu nguyên nhân qua gia đình: Gia đình có sự mâu thuẫn giữa bố và mẹ, gia đình
thiếu quan tâm hoặc có thể bị bạn bè, kẻ xấu lôi kéo….Hoặc trẻ có những tính xấu mà
bản thân gia đình chưa giáo dục được…
- Dùng phương pháp tác động tình cảm, nghiêm khắc đối với học sinh nhưng không cứng
nhắc. Tuyệt đối không sử dụng phương pháp trách phạt, chú ý gần gũi các em và thường
xuyên nhắc nhở động viên khen chê kịp thời. Giao cho các em đó một chức vụ trong lớp
nhằm gắn với các em trách nhiệm để từng bước điều chỉnh mình.
* Đối với học sinh học yếu:
- Tìm hiểu nguyên nhân vì sao em đó học yếu, học yếu những môn nào. Có thể là ở gia
đình các em đó không có thời gian học tập vì phải làm nhiều việc hoặc em đó có lỗ hỏng
về kiến thức nên cảm thấy chán nản.
- Giáo viên lập kế hoạch giúp đỡ đối tượng bằng những việc cụ thể như sau:
+ Giảng lại bài mà các em chưa hiểu hay còn hiểu mù mờ vào những thời gian ngoài giờ lên lớp .
+ Đưa ra những câu hỏi từ dễ đến khó để học sinh có thể trả lời được nhằm tạo hứng
thú và củng cố niềm tin ở các em.
+ Thường xuyên kiểm tra các đối tượng đó trong qua trình lên lớp.
+ Tổ chức cho học sinh học theo nhóm để học sinh khá giỏi giúp đỡ học sinh yếu kém tiến bộ.
+ Gặp gỡ phụ huynh học sinh trao đổi về tình hình học tập, cũng như sự tiến bộ của con
em để phụ huynh giúp đỡ thêm việc học ở nhà cho các em.
+ Chú ý tránh thái độ miệt thị, phân biệt đối xử làm cho các em nhụt chí, xấu hổ trước
bạn bè. Tóm lại dù với đối tượng nào bản thân giáo viên phải lưu ý dùng phương pháp
tác động tình cảm, động viên khích lệ kịp thời, phối hợp với phụ huynh để giáo dục và
đặc biệt xác định vấn đề giáo dục đạo đức là then chốt.
2. Biện pháp 2: Xây dựng đội ngũ cán bộ lớp giỏi quản lý, tổ chức, kiểm tra.
Như chúng ta đã biết xây dựng một đội ngũ cán bộ quản lý giỏi là việc rất quan trọng
người giáo viên làm công tác chủ nhiệm phải có kế hoạch thực hiện.Hơn nữa, để đội ngũ
cán bộ lớp cùng giáo viên chủ nhiệm đôn đốc, nhắc nhở việc thực hiện nề nếp học tập
của các bạn là công việc cần thiết và có ích.
- Trước hết, những học sinh được chọn làm cán bộ lớp bao giờ cũng phải gương mẫu
trước các bạn về mọi mặt: Học tập, kỷ luật, tham gia các hoạt động, đối xử với bạn bè....
- Sau đó hằng ngày, hàng tuần, các cán bộ lớp bao gồm: lớp trưởng, 2 lớp phó, 4 tổ
trưởng, 4 tổ phó. sẽ tiến hành công việc của mình như sau:
*Đầu giờ (trước giờ truy bài):
Tổ trưởng, tổ phó kiểm tra những việc sau: soạn sách vở theo đúng thời khóa biểu, mang
đầy đủ đồ dùng dậy học,có ý thức xem bài trước, đi học đúng giò, không mang dép
lê....rồi tổ trưởng chấm điểm thi đua theo qui đinh như sau: (vi phạm 1 nội dung trừ: 2 điểm xấu) *Trong giờ học:
Tổ trưởng, tổ phó theo dõi các bạn trong tổ thái độ học tập, phát biểu xây dựng bài, đạt
điểm cao trong học tập thì cộng điểm thưởng như sau: Đạt điểm 10 một môn thì cộng 5
điểm tốt, phát biểu xây dựng bài cộng 1đ/1lần. nói chuyện trong giờ học thì bị trừ 2 điểm/1lần. *Giờ ăn ngủ bán trú:
Tổ trưởng,Tổ phó theo dõi các tổ viên các nề nếp: ăn, ngủ đúng thời gian (nếu vi phạm trừ 2đ/ 1 lần).
3. Biện pháp 3: Phối kết hợp thường xuyên với phụ huynh
* Đối vói Ban đại diện CMHS lớp: Từ đầu năm học. Tôi đã định hướng bầu chọn Ban đại
diện phụ huynh của lớp với các tiêu chuẩn sau:
- Phụ huynh có đời sống kinh tế ổn đinh.
- Có tâm huyết, nhiệt tình tất cả vì học sinh thân yêu.
- Am hiểu nhiều về lĩnh vực giáo dục - Có con em học khá giỏi.
* Ban phân hội lớp gồm 3 thành viên: Trưởng ban, phó ban, thư ký
* Nhiệm vụ ban phân hội lớp:
- Kết hợp với GVCN lớp theo dõi, động viên quá trình học tập, sinh hoạt của học sinh.
Đặc biệt quan tâm đến các phong trào lớp
- Nắm rõ được hoàn cảnh gia đình, chỗ ở của từng học sinh để kịp thời thăm hỏi. - Có
kế hoạch khen thưởng kịp thời học sinh lớp tiến bộ theo từng tuần, tháng, theo các đợt
kiểm tra định kỳ của nhà trường.
* Đối với từng phụ huynh học sinh: Buổi họp phụ huynh đầu năm, tôi đã đề ra yêu cầu để
phụ huynh cùng GVCN rèn nề nếp học sinh như sau:
- Hằng ngày kiểm tra sách vở của con em mình.
- Nhắc nhở con em học bài cũ và chuẩn bị bài mới trước khi đến lớp.
- Chuẩn bị sách vở và đồ dùng học tập cho con em theo thời khoá biểu hằng ngày.
- Giáo dục con ý thức gọn gàng, ngăn nắp khi học tập, vui chơi.
- Sinh hoạt điều độ, đúng thời khoá biểu, giờ nào việc nấy tránh tình trạng vừa học vừa
chơi. - Thường xuyên trao đổi với GVCN qua trò chuyện trực tiếp, điện thoại hoặc qua
sổ liên lạc để kịp thời nhắc nhở, đôn đốc học sinh nề nếp học tập ở lớp cũng như ở nhà.
4. Biện pháp 4: Đầu tư các phong trào mũi nhọn nhà trường tổ chức
Từ đầu năm học GVCN dựa vào kế hoạch của nhà trường và các đoàn thể trong trường
phải đề ra chỉ tiêu cụ thể cho lớp cùng phấn đấu trong các phong trào chung của nhà
trường như: Vở sạch chữ đẹp, Vẽ tranh, Kể chuyện, cờ vua,....
- Điều quan trọng là GVCN phải phát hiện những năng lực đặc biệt ở học sinh về văn
hoá văn nghệ, thể dục thể thao, hội hoạ…
- Phối hợp với phụ huynh lập kế hoạch bồi dưỡng thường xuyên cho các học sinh có năng khiếu nói trên.
- Bồi dưỡng, khơi dậy ở các em lòng say mê hứng thú học tập thông qua những hội thi,Tổ
chức các sân chơi ở lớp như: Rung chuông vàng, đối mặt trong các tiết HĐNGLL để phát
huy và chọn lọc những HS có năng khiếu để tham gia các hội thi do nhà trường tổ chức.
Biện pháp 5: Nêu gương và khen thưởng
- Nắm được tâm lý của học sinh tiểu học rất thích được khen, thích được động viên nên
tôi hướng dẫn Ban cán sự lớp lập bảng chấm điểm thi đua từng HS như sau:
- Trong cuộc họp phụ huynh đầu năm tôi đã đề xuất với Ban đại diện phụ huynh về việc
khen thưởng các học sinh trong lớp thực hiện tốt các phong trào học tập cũng như các phong trào khác như sau:
+ Mỗi tuần tặng 1 cây bút cho mỗi HS đạt số điểm tốt cao nhất tổ.
+ Mỗi đợt kiểm tra định kỳ tặng một 1 bút/ 1HS đạt điểm 10 mỗi môn.
+ Tặng một phần quà cho HS đạt phong trào nhà trường đề ra.
- Sau mỗi tuần thi đua, Lớp trưởng đánh giá chung các mặt hoạt động, tổ trưởng đánh
giá cụ thể các mặt học tập cũng như hoạt động của từng thành viên trong tổ thông qua
bảng điểm. sau đó bầu chọn một HS tuyên dương trước lớp và nhận thưởng.
- Để tránh trường hợp một em nhận liên tục nhiều lần, theo qui ước 3 tuần mới được
nhận thưởng lại (nếu em đó điểm nhất tổ thì chọn em điểm nhì tổ..)
- Đặc biệt chú ý đến HS chậm trong học nhưng có tiến bộ thì tổ trưởng các tổ đề nghị
Ban thi đua lớp tuyên dương và khen thưởng. Trên đây là một số biện pháp về công tác
chủ nhiệm nhằm nâng cao chất lượng học tập đã được áp dụng ở rất nhiều lớp học và
đạt được kết quả tốt.
5. Biện pháp 5: Nêu gương và khen thưởng
Biện pháp 5: Nêu gương và khen thưởng
- Nắm được tâm lý của học sinh tiểu học rất thích được khen, thích được động viên nên
tôi hướng dẫn Ban cán sự lớp lập bảng chấm điểm thi đua từng HS như sau:
- Trong cuộc họp phụ huynh đầu năm tôi đã đề xuất với Ban đại diện phụ huynh về việc
khen thưởng các học sinh trong lớp thực hiện tốt các phong trào học tập cũng như các phong trào khác như sau:
+ Mỗi tuần tặng 1 cây bút cho mỗi HS đạt số điểm tốt cao nhất tổ.
+ Mỗi đợt kiểm tra định kỳ tặng một 1 bút/ 1HS đạt điểm 10 mỗi môn.
+ Tặng một phần quà cho HS đạt phong trào nhà trường đề ra.
- Sau mỗi tuần thi đua, Lớp trưởng đánh giá chung các mặt hoạt động, tổ trưởng đánh
giá cụ thể các mặt học tập cũng như hoạt động của từng thành viên trong tổ thông qua
bảng điểm. sau đó bầu chọn một HS tuyên dương trước lớp và nhận thưởng.
- Để tránh trường hợp một em nhận liên tục nhiều lần, theo qui ước 3 tuần mới được
nhận thưởng lại (nếu em đó điểm nhất tổ thì chọn em điểm nhì tổ..)
- Đặc biệt chú ý đến HS chậm trong học nhưng có tiến bộ thì tổ trưởng các tổ đề nghị
Ban thi đua lớp tuyên dương và khen thưởng.Trên đây là một số biện pháp về công tác
chủ nhiệm nhằm nâng cao chất lượng dạy học đã được áp dụng ở rất nhiều lớp học và
đạt được kết quả tốt. Hy vọng đây sẽ là nguồn tài liệu tham khảo tốt dành cho thầy cô.
III. Biện pháp thi giáo viên giỏi mầm non: Nâng cao chất
lượng giáo dục thể chất cho trẻ 4 - 5 tuổi
1. Biện pháp 1: Lập kế hoạch tổ chức cho trẻ vận động có khoa học, phù hợp
Căn cứ vào nội dung trong chương trình theo độ tuổi. Căn cứ vào thời gian, thời điểm
thực hiện bài tập ở vào giai đoạn nào của chương trình năm học.
Căn cứ vào đặc điểm tâm sinh lý, khả năng thực tế của trẻ lớp 4 - 5 tuổi. Từ những căn
cứ trên tôi đã xây dựng kế hoạch nội dung các vận động tập luyện cho trẻ, xác định độ
khó của từng bài tập và sắp xếp theo trình tự để đưa vào hướng dẫn trẻ cho phù hợp đi
từ dễ đến khó, đảm bảo trẻ được tập từ những bài tập mang tính củng cố, phát triển
những vận động đã biết. Đồng thời chuẩn bị cho những kỹ năng vận động cao hơn. Nội
dung trong chương trình đã được trình bày theo từng loại vận động và theo mức độ tăng
dần từ dễ đến khó, đầu năm thực hiện những bài tập nhẹ nhàng dễ thực hiện, tăng dần
độ khó, vận động tinh, khéo léo đồng thời phù hợp với từng chủ đề chủ điểm, phù hợp
với các hoạt động khác và các sự kiện. Khi lập được kế hoạch tổ chức, tôi thấy yên tâm
và thực hiện rất hiệu quả. Ví dụ kế hoạch tổ chức các hoạt động Giáo dục thể chất.
- Chủ đề “Trường Mầm non thân yêu”: Nhảy bật tại chỗ, đi kiễng gót, ở các chủ đề sau
mức độ nội dung vận động cao hơn.
- Chủ đề “Tổ ấm gia đình”: Bật liên tục qua 5 ô vòng, bò thấp chui qua cổng
- Chủ đề “Thế giới động vật”: Bật chụm tách chân qua 5 ô vòng, trườn sấp.
2. Biện pháp 2: Nâng cao chất lượng giáo dục thể chất cho trẻ thông qua các
hoạt động học có chủ đích
Để nâng cao chất lượng giáo dục thể chất cho trẻ thông qua hoạt động học có chủ đích,
chúng ta cần phải lên kế hoạch cụ thể từ khâu soạn giáo án đến khâu lên hoạt động dạy thực hành, cụ thể:
- Xác định mục tiêu của đề tài:
Giáo viên cần phải nắm rõ nhận thức của trẻ ở lớp mình sau đó đặt mục tiêu cụ thể rõ
ràng phù hợp theo từng bài học: sau khi học bài vận động này thì trẻ nhận được kiến
thức gì? Kỹ năng gì? Cần củng cố những kỹ năng gì cần thiết? Lồng ghép giáo dục nội
dung dinh dưỡng gì trong bài học này? Không nên đặt mục tiêu chung chung hay mục
tiêu quá thấp hoặc quá cao đối với trẻ của lớp mình.
- Chuẩn bị đồ dùng cho hoạt động:
Để hoạt động thể dục được thành công thì việc chuẩn bị đồ dùng đồ chơi phục vụ cho
hoạt động dạy là một trong những việc làm hết sức quan trọng. Bởi ở lứa tuổi 4 - 5 tuổi
đồ dùng trực quan chiếm ưu thế, trẻ học qua hình ảnh, đồ chơi đồ dùng minh họa, những
bài học của trẻ gắn với đồ dùng trực quan sinh động. Nên khi thiết kế vận động hay trò
chơi vào trong hoạt động thể dục cho trẻ phải chú ý đến yếu tố đồ dùng đồ chơi an toàn,
có tính thẩm mĩ cao. Có thể cho trẻ tự làm một số đồ dùng đồ chơi tự tạo từ phế thải để
cuốn hút trẻ tham gia bài tập với đồ dùng trẻ được làm.
Ngoài ra, giáo viên cũng cần chuẩn bị cho trẻ địa điểm phòng tập, không gian tập thể
chất thoáng mát, đẹp mắt có đầy đủ trang thiết bị hiện đại phục vụ cho hoạt động dạy thành công.
- Phương pháp dạy học:
Đối với hoạt động thể dục, đổi mới phương pháp dạy học sáng tạo theo hướng lấy trẻ
làm trung tâm là việc làm hết sức cần thiết. Trẻ phải được trải nghiệm, thực hành nhiều
trong hoạt động thể dục đó, giáo viên chỉ hướng dẫn gợi mở trẻ trên phương diện khách
quan giúp đỡ. Đồng thời giáo viên cần nắm bắt, đoán ý tưởng của trẻ kịp thời để gợi mở
cùng trẻ xây dựng bài tập phù hợp dựa trên nền tảng trẻ cung cấp. - Cách tiến hành:
Sau khi chuẩn bị các nội dung trước chu đáo, để tiến hành vào bài học của hoạt động
thể dục thì giáo viên cần tạo cho trẻ chơi một số trò chơi nhẹ nhàng, một số câu đố vui
để giúp trẻ cuốn hút vào hoạt động học và đưa ra một số biện pháp cụ thể cho từng phần.
Với mỗi một giáo viên đều có cách thiết kế bài giảng hoặc xây dựng kế hoạch hoạt động
lĩnh vực thể chất riêng. Nhưng để nâng cao được hoạt động dạy hiệu quả đạt chất lượng
thì giáo viên cần phải chủ động trong việc sáng tạo, đổi mới phương pháp, đồ dùng trực
quan, cách xây dựng thiết kế bài giảng linh hoạt theo từng lứa tuổi, thời điểm phù hợp.
Đồ dùng đồ chơi cũng phong phú hấp dẫn trẻ để tăng lôi cuốn trẻ tham gia.
3. Biện pháp 3: Tích hợp lồng ghép nội dung giáo dục thể chất cho trẻ thông qua các hoạt động khác
Đối với chương trình giáo dục thể chất cho trẻ ngoài việc đổi mới nâng cao hoạt động
thể chất trong giờ hoạt động có chủ đích thì giáo viên có thể lồng ghép nội dung giáo dục
thể chất vào trong các hoạt động khác trong ngày của trẻ, hay các hoạt động hội thi, dã
ngoại trải nghiệm, cụ thể:
- Thể dục sáng Buổi sáng:
Trẻ được tập thể dục sẽ nâng cao hoạt động của các cơ quan trong cơ thể, phát triển kỹ
năng vận động cần thiết tạo cho trẻ trạng thái sảng khoái, vui tươi. Thể dục sáng giúp trẻ
khôi phục khả năng làm việc của toàn bộ các cơ quan, cuốn hút trẻ vào các hoạt động.
Đặc biệt khi trẻ được tham gia thể dục sáng thường xuyên sẽ giúp trẻ tự tin, mạnh dạn
hơn trong cuộc sống, trong học tập, nâng cao tinh thần tập thể, ý thức lao động tinh thần
trách nhiệm với công việc cho trẻ.
Trong giờ thể dục sáng tôi lựa chọn, sắp xếp các động tác phù hợp và hấp dẫn đối với
trẻ. Bài tập phải có các động tác hoàn thiện các kỹ năng đi, chạy nhảy để hình thành tư
thế đúng, giúp cho các cơ quan hô hấp, tuần hoàn và các nhóm cơ hoạt động tích cực.
4. Biện pháp 4: Sưu tầm thiết kế một số bài tập thể chất thông qua trò chơi dân gian
Hoạt động vui chơi luôn đóng vai trò chủ đạo đối với lứa tuổi mầm non. Trò chơi dân gian
là một trong những trò chơi rất hấp dẫn, lôi cuốn trẻ. Chính vì vậy thông qua trò chơi dân
gian, tôi vận dụng linh hoạt sáng tạo thiết thế một số bài tập đơn giản thông qua một số
trò chơi dân gian, chẳng hạn muốn củng cố bài tập vận động “đi trong đường hẹp” thì tôi
sẽ cho trẻ thực hiện vận động đó dưới một hình thức trò chơi dân gian “Đi cầu đi quán”.
Bài tập “Bò thấp chui qua cổng” tôi sẽ chuyển tải thành trò chơi dân gian “Bọ dừa”, cụ thể:
- Trò chơi “đi cầu đi quán”
+ Luật chơi: Trẻ biết đi trong đường hẹp không chạm cỏ cây hai bên đường. Trẻ đi theo
tổ. Tổ nào đi không chạm cỏ cây hai bên đường và đọc thuộc bài đồng dao tổ đó chiến thắng.
+ Cách chơi: Trẻ sẽ đi theo tổ. Vừa đi vừa đọc bài đi cầu đi quán, trẻ đi mắt nhìn thẳng
đi sao cho không chạm vạch và vừa đi vừa đọc bài đồng dao“Đi cầu đi quán”. - Trò chơi “Bọ dừa”
+ Luật chơi: Trẻ bò thấp bằng bàn tay và cẳng chân. Trẻ vừa bò vừa đọc bài đồng dao
“Bọ dừa”. Khi hết bài đồng dao đội nào bò nhanh về đích trước đội đó giành chiến thắng
+ Cách chơi: Cô chia lớp làm 3 tổ. Các thành viên trong tổ bò nối tiếp nhau thành hàng.
Bò bằng bàn tay và cẳng chân. Vừa bò vừa đọc bài “Bọ dừa”.
IV. Biện pháp thi giáo viên giỏi cấp Tiểu học
1. Bài dự thi biện pháp nâng cao chất lượng học tập của học sinh Tiểu học
* Bài dự thi được chia sẻ bởi cô giáo Vũ Thị Thảo.
MỘT SỐ BIỆN PHÁP CỦA GIÁO VIÊN CHỦ NHIỆM NHẰM NÂNG CAO CHẤT
LƯỢNG GIÁO DỤC KĨ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH.
Họ và tên giáo viên: ....................... Dạy tại lớp: 3A
Trường: Tiểu học ............................
Huyện (TX, TP): .............................
1. Mục đích của biện pháp:
Xuất phát từ mục tiêu giáo dục tiểu học
Để nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện thế hệ trẻ, đáp ứng nguồn nhân lực phục vụ
sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế
và nhu cầu phát triển của người học, giáo dục phổ thông đã và đang được đổi mới mạnh
mẽ theo bốn trụ cột của giáo dục thế kỉ XXI, mà thực chất đó là cách tiếp cận kĩ năng
sống, đó là: Học để biết, học để làm, học để tự khẳng định mình và học để cùng chung sống. Bác Hồ đã từng nói:
“Vì lợi ích mười năm trồng cây.
Vì lợi ích trăm năm trồng người”.
Câu nói ấy đã thấm nhuần vào đường lối của Đảng và nhà nước ta. Nhà nước ta xác
định mục tiêu của giáo dục tiểu học là nhằm hình thành những cơ sở ban đầu cho sự
phát triển toàn diện về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mĩ, năng lực của học sinh. Vì vậy,
để đạt được mục tiêu này, ở các trường học không chỉ cung cấp cho học sinh kiến thức
mà còn dạy các em kĩ năng sống.
Cùng với các biện pháp để nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện cho học sinh trong
nhà trường, giáo dục kỹ năng sống cho học sinh là yêu cầu vô cùng quan trọng, một nội
dung không thể tách rời của quá trình giáo dục.
Xuất phát từ thực tế tại trường Tiểu học Thị trấn Tiên Yên
Tại trường Tiểu học Thị trấn Tiên Yên, Ban giám hiệu nhà trường luôn quan tâm, tạo điều
kiện để giáo viên được trau dồi kĩ năng và chuyên môn nghiệp vụ.Học sinh trong trường
luônđược các thầy cô chú trọng giáo dục kĩ năng sống thông qua các bài học và các hoạt
động giáo dục ngoài giờ lên lớp.
Học sinh khối 1,2 các em còn nhỏ không phải quét lớp, quét sân trường, không phải kê
bàn ghế và gấp chăn gối bán trú. Lên lớp 3 các em cần có những kĩ năng sống cần thiết
đó để tự chăm sóc bản thân và làm tốt các nhiệm vụ của mình.Các kĩ năng như tương
trợ nhau, giao tiếp, diễn đạt trước đám đông được các thầy cô giáo tích cực hình thành
và củng cố nhưng các em chưa thể hiện được nhiều.Đồng thời kỹ năng thực hành, kỹ
năng giao tiếp, kỹ năng giải quyết vấn đề, khả năng tự phục vụ bản thâncòn hạn chế.Các
em chưa có nhiều kĩ năng sống nên hoạt động nền nếp giáo viên còn phải nhắc nhở
thường xuyên như: tình trạng đi học muộn, ôn bài đầu giờ chưa tự giác, hoạt động múa
hát tập thể còn chưa khẩn trương nghiêm túc, quên đồ dùng học tập, lao động sân trường
còn chưa chủ động, ăn bán trú còn chưa hết suất, kĩ năng cất ghế và sắp xếp ngăn bàn chưa gọn gàng.
Với những hạn chế trong kĩ năng sống của học sinh, tôi đã quan tâm đặc biệt đến việc
giáo dục Kĩ năng sống cho các em.Nhưng làm thế nào để các em có những kĩ năng sống
tốt thì đó là vấn đề không chỉ tôi mà tất cả các giáo viên khác đều quan tâm.Với suy
nghĩđó tôi thực hiện biện pháp“Một số biện pháp của giáo viên chủ nhiệm nhằm nâng cao
chất lượng giáo dục kĩ năng sống cho học sinh
” và mong muốn chia sẻ với bạn bè, đồng nghiệp. ......................
Do nội dung bài dự thi giáo viên dạy giỏi quá dài, mời các bạn Tải file Bài dự thi biện pháp
nâng cao chất lượng giáo dục kĩ năng sống cho học sinh về máy để xem bản đầy đủ.

2. Biện pháp nâng cao chất lượng bộ môn Tiếng Việt lớp 4
Nguồn: Cô Dương Thị Mỹ
Một số biện pháp rèn kĩ năng đọc diễn cảm góp phần nâng cao chất lượng dạy học phân
môn tập đọc cho học sinh lớp 4
PHẦN A: ĐẶT VẤN ĐỀ
Làm thế nào để học sinh có khả năng đọc diễn cảm tốt trong giờ tập đọc để từ đó phát
triển năng lực cảm thụ văn học cho học sinh, các em thấy được cái hay cái đẹp của văn
học, của cuộc sống xung quanh... Xuất phát từ những lý do trên, tôi đã mạnh dạn đề
xuất Một số biện pháp rèn kĩ năng đọc diễn cảm góp phần nâng cao chất lượng dạy học phân
môn tập đọc cho học sinh lớp 4”.

Mục đích khi thực hiện biện pháp để rèn kĩ năng đọc diễn cảm trong phân môn Tập đọc
lớp 5 nhằm nâng cao hiệu quả giờ dạy. Tôi đã áp dụng biện pháp tại lớp 4B - Trường
Tiểu học Tiên Sơn. Từ tháng 9 năm 20... đến tháng 4 năm 20...
Trong quá trình nghiên cứu, tôi đã sử dụng các phương pháp phân tích và tổng hợp lí
thuyết, điều tra, so sánh, thực nghiệm giáo dục, nghiên cứu tài liệu và sản phẩm hoạt động sư phạm.
PHẦN B: GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. THỰC TRẠNG CÔNG TÁC DẠY VÀ HỌC PHÂN MÔN TẬP ĐỌC Ở TRƯỜNG TIỂU HỌC TIÊN SƠN 1. Ưu điểm
- Nhà trường trang bị đầy đủ cơ sở vật chất, trang thiết bị thuận lợi cho việc dạy và học.
Ban giám hiệu nhà trường, tổ chuyên môn 4+5 có năng lực, sẵn sàng giúp đỡ, chia sẻ
những khó khăn trong công tác chuyên môn
- Trong giảng dạy phân môn Tập đọc, giáo viên xác định được yêu cầu cần đạt khi dạy
từng dạng bài, được trang bị về phương pháp giảng dạy bộ môn, vận dụng những ưu
điểm của phương pháp dạy học cũ với những mặt tích cực của phương pháp dạy học
mới để giảng dạy đạt hiệu quả.
- Trong giờ dạy tập đọc, phần tổ chức cho học sinh luyện đọc diễn cảm giáo viên đều đã
làm theo một quy trình như sau: +Đưa đoạn văn (thơ)
+ Học sinh phát hiện cách đọc + Học sinh khác bổ sung
+ Giáo viên chia sẻ cách đọc đúng
+ Một học sinh đọc lại
+ Học sinh luyện đọc theo cặp + Thi đọc
+ Giáo viên cùng học sinh khác nhận xét đánh giá
- Bản thân là một giáo viên trẻ, có tinh thần học hỏi, khả năng tiếp cận nhanh với những
đổi mới trong phương pháp dạy học. Thường xuyên được tham gia các buổi tập huấn về
phương pháp dạy học, chương trình GDPT mới. Trong khi dạy tôi đã chú trọng tới việc
rèn đọc, khả năng cảm thụ các tác phẩm văn học cho các em, chú ý đến khâu làm mẫu.
- Học sinh: Có ý thức tham gia tích cực trong học tập. Yêu thích môn học. Ham đọc sách, truyện.
- Phụ huynh: Đa phần phụ huynh trẻ, quan tâm, thường xuyên trao đổi với giáo viên về
tình hình học tập của con em mình.
2. Hạn chế và nguyên nhân hạn chế 2.1. Giáo viên
- Giáo viên cũng đã quan tâm đến việc giáo dục thẩm mỹ, giáo dục tư tưởng tình cảm
nhưng chưa sâu sắc thường rất chung chung, gò ép theo một mô tuýp nhất định. Việc
khai thác các từ ngữ và các yêu tố nghệ thuật đặc sắc, việc phân loại, chỉnh sửa bài đọc
cho đối tượng học sinh (do trình độ đọc của các em không đồng đều) còn hạn chế.
- Nguyên nhân dẫn đến từ nhiều phía, trong đó việc giáo viên chưa thực sự chú trọng
đến việc rèn đọc diễn cảm cho học sinh, trong một tiết tập đọc, thời gian dành cho luyện
đọc vỡ, tìm hiểu nội dung văn bản thường quá nhiều, do vậy sang phần đọc diễn cảm chỉ đọc lướt qua. 2.2. Học sinh
Kĩ năng đọc đúng, đọc diễn cảm của học sinh không đồng đều (Có học sinh đọc hay,
diễn cảm; có học sinh còn đọc chưa đúng tốc độ). Thực tế nhiều học sinh không có kĩ
năng đọc diễn cảm nhưng cứ cố đọc nên xảy ra tình trạng các em đọc nâng cao, hạ thấp
hay nhấn giọng một cách tùy tiện
Phần lớn các em chưa có ý thức rèn đọc diễn cảm. Khả năng cảm thụ văn thơ chưa
được phát huy qua đó vốn từ ngữ, vốn hiểu biết của các em còn nhiều hạn chế.
Số lượng học sinh chuẩn bị kĩ lưỡng cho một bài đọc không cao, nhiều em chuẩn bị qua
loa, sơ sài, chỉ đọc trước một đến hai lượt, có em còn không đọc.
Ngay từ đầu năm học 20...-20... khi nhận lớp 4B, học sinh của lớp tôi chưa có kĩ năng
đọc, đặc biệt là kĩ năng đọc hay, đọc diễn cảm. Tôi đã tiến hành khảo sát kĩ năng đọc lưu
loát, diễn cảm sau 3 tuần học đầu năm học ở bài đọc:
Cánh diều tuổi thơ
Tuổi thơ của tôi được nâng lên từ những cánh diều.
Chiều chiều, trên bãi thả, đám trẻ mục đồng chúng tôi hò hét nhau thả diều thi. Cánh diều mềm
mại như cánh bướm. Chúng tôi vui sướng đến phát dại nhìn lên trời. Tiếng sáo diều vi vu trầm
bổng. Sáo đơn, rồi sáo kép, sáo bè,... như gọi thấp xuống những vì sao sớm.
Ban đêm, trên bãi thả diều thật không còn gì huyền ảo hơn. Có cảm giác diều đang trôi trên dải
Ngân Hà. Bầu trời tự do đẹp như một thảm nhung khổng lồ. Có cái gì cứ cháy lên, cháy mãi
trong tâm hồn chúng tôi. Sau này, tôi mới hiểu đấy là khát vọng. Tôi đã ngửa cổ suốt một thời
mới lớn để chờ đợi một nàng tiên áo xanh bay xuống từ trời và bao giờ cũng hy vọng khi tha
thiết cầu xin: "Bay đi diều ơi! Bay đi!" Cánh diều tuổi ngọc ngà bay đi, mang theo nỗi khát khao của tôi. Theo Tạ Duy Anh
Sau khi khảo sát tôi tổng hợp được kết quả như sau: Đọc lưu loát, Tổng số học Đọc diễn cảm Đọc chưa chưa lưu loát diễn cảm sinh Số lượng % Số lượng % Số lượng % 37 6 16,2 24 64,9 7 18,9
Qua kết quả khảo sát trên cho thấy, mặc dù là học sinh cuối cấp nhưng số học sinh đạt
yêu cầu ở mức độ đọc diễm cảm là quá thấp.
- Tôi đã tìm hiểu và nhận thấy là do những nguyên nhân sau:
+ Một số học sinh chưa biết cách đọc với từng dạng bài. Chưa nắm vững cách ngắt hơi,
nghỉ hơi, ngữ điệu, chưa biết nhấn giọng, lên giọng xuống giọng những từ cần thiết.
+ Phát âm theo phương ngữ lẫn lộn l/n; s/x, lỗi về dấu thanh.
+ Học sinh chưa hứng thú trong rèn đọc diễn cảm, đọc diễn cảm tuỳ ý. Các em chưa
thực sự chú ý nghe giảng nên chưa phát huy được khả năng đọc của mình. ................
Tải file về máy để xem đầy đủ nội dung
3. Biện pháp nâng cao chất lượng bộ môn Toán lớp 2
Nguồn: Cô Phạm Lệ Huyền
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
....................., ngày 28 tháng 11 năm 20... BÁO CÁO:
BIỆN PHÁP “TẠO HỨNG THÚ CHO HỌC SINH LỚP 2B TRƯỜNG TIỂU HỌC XÃ
..................... THÔNG QUA
MỘT SỐ TRÒ CHƠI TOÁN HỌC”
- Tên biện pháp: Tạo hứng thú cho học sinh lớp 2B trường Tiểu học xã .....................
thông qua một số trò chơi toán học.
- Họ và tên: …………..
- Đơn vị công tác: Trường Tiểu học xã .....................
- Thời gian triển khai thực hiện: Từ 9/20... đến 28/11/20... A. ĐẶT VẤN ĐỀ:
1. Tên biện pháp: Tạo hứng thú cho học sinh lớp 2B trường Tiểu học xã ..................... thông
qua một số trò chơi toán học.

2. Sự cần thiết, mục đích của việc thực hiện biện pháp:
Trong chương trình giáo dục phổ thông 2018, môn Toán cùng với các môn học khác
trong nhà trường Tiểu học có những vai trò góp phần hết sức quan trọng đào tạo nên
những con người phát triển toàn diện.
Toán học là môn khoa học tự nhiên có tính lôgíc và tính chính xác cao, nó là chìa khóa
mở ra sự phát triển của các bộ khoa học khác.
Muốn học sinh Tiểu học học tốt được môn Toán thì mỗi người giáo viên không phải chỉ
truyền đạt, giảng giải theo các tài liệu đã có sẵn trong sách giáo khoa, sách hướng dẫn
và thiết kế bài giảng một cách dập khuôn, máy móc làm cho học sinh học tập một cách
thụ động. Nếu chỉ dạy học như vậy thì việc học tập của học sinh sẽ diễn ra thật đơn điệu,
tẻ nhạt và kết quả học tập sẽ không cao. Nó là một trong những nguyên nhân gây ra cản
trở việc đào tạo các em thành những con người năng động, tự tin, sáng tạo sẵn sàng
thích ứng với những đổi mới diễn ra hàng ngày.
Để đáp ứng được nhu cầu của giáo dục theo sự đổi mới của chương trình giáo dục phổ
thông 2018 đòi hỏi người giáo viên phải tích cực phải đổi mới phương pháp, hình thức
dạy học hướng tới “ Trường học thân thiện – Học sinh tích cực”. Môn Toán ở bậc Tiểu học
theo hướng phát huy "học sinh học tập tích cực, chủ động, sáng tạo". Đổi mới phương pháp
dạy học là: "Phát huy tích tích cực, chủ động và sáng tạo của học sinh trên cơ sở khai
thác triệt để các đặc điểm tâm sinh lý của học sinh tiểu học". Xuất phát từ đặc điểm tâm
sinh lý của học sinh Tiểu học luôn luôn hiếu động, ham chơi, thích cái mới lạ nhưng lại
chóng chán. Đối với trẻ trò chơi là một phát hiện mới, kích thích tò mò, muốn tìm hiểu,
khám phá. Do vậy quan điểm "Thông qua hoạt động vui chơi để tiến hành hoạt động học
tập " là phù hợp với trường Tiểu học.
Trò chơi toán học nhằm mục đích là thông qua trò chơi để củng cố kiến thức của bài học,
luyện tập lại kiến thức của bài mới, phát hiện ra kiến thức mới của bài học. Thông qua
trò chơi học sinh nắm được kiến thức của bài học một cách nhẹ nhàng.
Các trò chơi có nội dung Toán học lý thú và bổ ích phù hợp với việc nhận thức của các
em. Thông qua các trò chơi các em sẽ lĩnh hội tri thức toán học một cách dễ dàng, củng
cố, khắc sâu kiến thức một cách vững chắc, tạo cho các em niềm say mê, hứng thú trong
học tập, trong việc làm. Khi chúng ta đưa ra được các trò chơi Toán học một cách thường
xuyên, khoa học thì chắc chắn chất lượng dạy học môn Toán sẽ ngày càng nâng cao.
Từ đó tôi đã thiết kế các trò chơi trong giờ học toán lớp 2 và áp dụng vào giờ toán ngay
từ đầu năm và thấy kết quả học tập của các em tiến bộ hẳn lên. Đến giờ học toán các
em không còn cảm thấy căng thẳng nên kết quả học tập cao hơn. Chính vì những lý do
nêu trên mà tôi đã vận dụng biện pháp "Tạo hứng thú học Toán cho học sinh lớp 2 qua một
số trò chơi Toán học"
nhằm gây hứng thú học tập cho học sinh.
B. NỘI DUNG BIỆN PHÁP:
1. Biện pháp thứ nhất: Chuẩn bị trò chơi
1.1. Nghiên cứu tài liệu:
Điều đầu tiên để thực hiện đạt hiệu quả về việc tổ chức trò chơi Toán cho học sinh lớp
2, tôi đã đọc tài liệu, sách báo, tạp chí giáo dục… có liên quan đến nội dung của sáng
kiến. Chính sự nghiên cứu, tìm tòi ở tài liệu giúp cho các tiết học Toán có sử dụng trò
chơi đạt kết quả tốt.
1.2. Nghiên cứu thực tế:
Thông qua các tiết dự giờ tôi đã trao đổi thêm, tư vấn với các bạn đồng nghiệp về nội
dung các trò chơi phục vụ cho môn Toán 2 để áp dụng cùng nhau tổng kết, đúc rút kinh
nghiệm trong quá trình dạy học.
Tổ chức và tiến hành thực nghiệm sư phạm để kiểm tra tính khả thi của sáng kiến. Thông
qua các tiết dạy thực tế trên lớp, bản thân tôi đã phân loại các đối tượng học sinh, tìm
hiểu xem học sinh thường yếu ở mạch kiến thức nào, để lựa chọn trò chơi cho phù hợp,
giúp các em củng cố kiến thức để hiểu bài một cách chắc chắn.
2. Biện pháp thứ hai: Lựa chọn các trò chơi.
- Việc lựa chọn các trò chơi học tập trong môn Toán lớp 2 phải đáp ứng những yêu cầu
của mục đích dạy học. Các trò chơi phải đặt ra cho học sinh các nhiệm vụ học tập tương
ứng với nội dung dạy học. Mỗi trò chơi cần có một vị trí đóng góp cụ thể trong tiến trình
thực hiện mục đích dạy học. Vì vậy, để đáp ứng yêu cầu dạy học bộ môn Toán lớp 2, hệ
thống các trò chơi phải được lựa chọn sao cho đa dạng về chủ đề, phong phú về cách
chơi. Dựa vào hình thức, cách chơi và luật chơi của trò chơi có thể thay thế các trò chơi
một cách linh hoạt (thay số bằng chữ, câu cá, mèo bắt chuột, tìm hoa hái quả, cánh hoa
tìm nhụy, …) từ sự thay thế linh hoạt tạo cho giáo viên có cơ hội tổ chức trò chơi phù
hợp với đối tượng học sinh của mình. Để từ đó các em cảm thấy: “Mỗi ngày đến trường
là một ngày vui”.
....................
4. Biện pháp thi giáo viên giỏi môn Toán: Ứng dụng CNTT trong dạy học
THUYẾT MINH MÔ TẢ GIẢI PHÁP
1. Tên giải pháp: Ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học Toán 2 gây hứng thú học tập cho học sinh.
2. Ngày giải phápđược áp dụng lần đầu hoặc áp dụng thử: Tháng 10/20...
3. Mô tả các giải pháp cũ thường làm
3.1. Những giải pháp đang sử dụng
Trước kia, trong quá trình dạy học Toán 2, tôi sử dụng một số phương pháp truyền thống
như: bảng đen, phấn trắng hoặc kết hợp trực quan bằng tranh ảnh, sử dụng bảng phụ,
phiếu bài tập lớn chưa gây hứng thú học tập cho HS.
3.2. Hạn chế của những giải pháp đó
Qua những giải pháp ấy, bên cạnh ưu điểm, tôi nhận thấy còn tồn tại những hạn chế như sau: * Đối với học sinh:
- Học sinh chưa hứng thú và tích cực trong giờ học.
- Học sinh ít có cơ hội bộc lộ suy nghĩ của mình, học sinh hoạt động chưa hiệu quả khi hoạt động nhóm...
- Học sinh chưa có nhiều cơ hội tiếp cận công nghệ thông tin trong học tập. * Đối với giáo viên:
- Phần lớn GV thường tập trung truyền tải kiến thức với các thao tác nghe, làm mẫu khiến
cho không khí lớp học trở nên nặng nề và các em dễ mất tập trung, không có hứng thú
với môn học, dẫn đến hiệu quả giờ học không cao, HS mệt mỏi, uể oải sau mỗi tiết học.
- Việc chuẩn bị đồ dùng học tập cũng khiến giáo viên mất nhiều công sức, thời gian, tốn kém về tiền bạc.
- Giáo viên viết bảng truyền thống cũng gây mất nhiều thời gian trong giờ học, không có
thời gian để bao quát học sinh.
4. Sự cần thiết phải áp dụng giải pháp
Mục tiêu của chương trình GDPT 2018 là giúp học sinh phát triển toàn diện về kiến thức,
năng lực và phẩm chất. Mục tiêu trong kế hoạch dạy học của giáo viên cũng luôn hướng
tới điều đó. Tuy nhiên, mục tiêu đặt ra có đạt được hay không còn phụ thuộc vào yếu tố
học sinh có thích thú, hào hứng tham gia vào các hoạt động học tập hay không. Trong
các môn học thì môn Toán ít được học sinh có sự quan tâm, thích thú vì giờ học toán
thường khô khan. Các em sẽ nhanh chán nản, không chú ý dẫn đến kết quả giờ học
không cao. Vậy làm thế nào để các em yêu thích và có hứng thú học tập môn Toán là
nỗi trăn trở của bản thân tôi mỗi khi giảng dạy. Chính vì điều đó mà tôi đã mạnh dạn lựa
chọn giải pháp: Ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học Toán 2 gây hứng thú học tập cho học sinh. ....................
V. Biện pháp thi giáo viên giỏi cấp THCS
1. Bài dự thi biện pháp nâng cao chất lượng học tập của học sinh THCS

Bài dự thi biện pháp nâng cao chất lượng học tập của học sinh I. Mở đầu :
Mục tiêu của giáo dục THCS là giúp cho học sinh củng cố và phát triển những kết quả
giáo dục ở Tiểu học; có học vấn phổ thông trình độ cơ sở và những hiểu biết ban đầu về
kỹ thuật và hướng nghiệp để tiếp tục học trung học phổ thông, trung cấp, học nghề hoặc
đi vào cuộc sống lao động
Trong thời gian qua Bộ Giáo dục và Đào tạo đã có nhiều chủ trương, biện pháp tích cực
để nâng cao chất lượng dạy và học. Đặc biệt là thực hiện các cuộc vận động lớn như:
"Hai không", "Mỗi thầy cô giáo là một tấm gương tự học và sáng tạo", "Xây dựng trường
học thân thiện, học sinh tích cực". Qua thực hiện các cuộc vận động này đã làm thay đổi
khá nhiều về chất lượng giáo dục. Tuy có nhiều tiến bộ nhưng chất lượng thật sự của
giáo dục hiện nay ở bậc THCS còn khá nhiều yếu kém. Yêu cầu đặt ra cho chúng ta là
phải tìm những nguyên nhân yếu kém một cách chính xác, phải nhìn thẳng vào sự thật
một cách khách quan .Từ đó bình tỉnh đưa ra những giải pháp tích cực sát với thực tế để
từng bước nâng cao chất lượng. Vấn đề này cần phải có thời gian, công sức của mọi
người trong toàn xã hội.
Phụ đạo cho học sinh yếu là một hoạt động bình thường và không thể thiếu được trong
bất kỳ trường THCS nào. Đây chính là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của người
thầy, của nhà trường để góp phần giúp cho các học sinh không theo kịp bạn bè có thể
nắm bắt được những kiến thức cơ bản nhằm lấp lỗ hổng kiến thức của bản thân. Trong
đơn vị trường học việc tổ chức các lớp học phụ đạo cho học sinh yếu kém là việc làm
thường xuyên chứ không phải chỉ là phong trào thi đua hoặc để đối phó với một đợt thi hoặc kiểm tra.
II/ Nguyên nhân chất lượng học tập của học sinh yếu kém : 1/ Đối với học sinh:
Học sinh chưa tự giác học, chưa có động cơ học tập, chưa có quyết tâm học tập.
Mất căn bản kiến thức ngay từ lớp dưới. Nhiều học sinh đuối sức trong học tập, không
theo kịp các bạn (thiếu kiến thức, kỹ năng, khả năng để học tập lớp đang học (ngồi nhầm
lớp), sinh ra chán học, sợ học (hội chứng sợ học).
Khả năng phân tích tổng hợp, so sánh còn hạn chế, chưa mạnh dạn trong học tập do
hiểu chưa sâu, nắm kiến thức chưa chắc, thiếu tự tin. Khả năng chú ý và tập trung vào
bài giảng của giáo viên không bền, lười suy nghĩ, còn trông chờ thầy cô giải giúp, trình
độ tư duy, vốn kiến thức cơ bản lớp dưới còn hạn chế, chưa biết phát huy khả năng của
mình. Khả năng học tập của HS rất khác nhau, cùng một độ tuổi và 1 lớp nhưng trình độ
các em có thể chênh nhau khá lớn. Đọc chậm, đọc sai, viết chậm, viết sai đặc biệt là môn
ngoại ngữ .Không biết làm tính, yếu các kỹ năng tính toán cơ bản, cần thiết .
Một số học sinh đi học thất thường, ham chơi, la cà quán xá .
Học sinh chưa có phương pháp học tập khoa học, hầu hết là học thụ động, lệ thuộc vào
các loại sách bài giải (chép bài tập vào vở nhưng không hiểu gì cả) , học vẹt, không có
khả năng vận dụng kiến thức, trong thi cử thì quay cóp và tài liệu .
Thì giờ học thêm quá nhiều, học sinh không "tiêu hóa" hết sinh ra uể oải, nhàm chán
.Còn phân biệt môn chính, môn phụ nên học lệch .
Học sinh yếu không chịu đi học phụ đạo . 2/ Phụ huynh :
Tỷ lệ học sinh đi học chuyên cần thấp, thái độ học tập của học sinh, chất lượng học tập
cho thấy nhận thức và thái độ của phụ huynh trong việc hợp tác với nhà trường là chưa
cao.Qua đó cho thấy một bộ phận phụ huynh chưa thật sự quan tâm, chăm lo và đôn đốc
con em mình học tập, còn phó thác cho nhà trường, cho thầy cô. Việc phụ huynh vùng
biển đi làm ăn trên biển lâu lâu mới về nên việc phối hợp giáo dục là rất hạn chế .Một số
gia đình không hạnh phúc ảnh hưởng đến học tập của học sinh. Người lớn chưa làm gương về chuyện học . 3/ Giáo viên
Đa số đều tận tụy với công tác giảng dạy, chăm chút học sinh nhưng cũng có trường hợp
chỉ thành công trong đối tượng là học sinh khá trở lên, còn đối với học sinh yếu kém thì
chưa hiệu quả, hoặc ngược lại. Trong quá trình dạy học còn mắc phải :
Hệ thống câu hỏi gợi mở, dẫn dắt chưa logic, chưa phù hợp cho từng đối tượng; có
những tiết giáo viên còn nói lan man, ngoài lề chưa khắc sâu kiến thức trọng tâm .
Việc sử dụng đồ dùng dạy học trực quan, tranh ảnh, SGK, thí nghiệm còn hạn chế, chưa
khai thác hết tác dụng của ĐDDH.- Chưa xử lý hết các tình huống trong tiết dạy, việc tổ
chức các hoạt động còn mang tính hình thức chưa phù hợp.
Phương pháp giảng dạy chưa phù hợp, năng lực tổ chức giờ học theo nhóm đối tượng còn hạn chế.
Chưa động viên tuyên dương kịp thời khi HS có một biểu hiện tích cực hay sáng tạo dù
là rất nhỏ. Chưa quan tâm đến tất cả HS trong lớp, GV chỉ chú trọng vào các em HS khá,
giỏi và coi đây là chất lượng chung của lớp.
Một số giáo viên không làm tròn trách niệm trong việc kiểm tra đánh giá học sinh, cho
học sinh lên lớp khi các em chưa đủ chuẩn hậu quả các em phải gánh chịu khi học lên lớp trên
Còn lúng túng, chưa mạnh dạn tìm các giải pháp mạnh giải quyết vấn đề chất lượng học
tập của HS, còn tâm lí trông chờ chỉ đạo của cấp trên.Tinh thần trách nhiệm một số đồng
chí chưa cao, thiếu quyết tâm, bệnh thành tích vẫn còn, không đánh giá đúng thực chất
của lớp mình giảng dạy.
Có đồng chí thì quá khắt khe làm các em lo sợ khi học giờ của mình, thậm chí còn làm
các em thui chột tinh thần học tập .Một số giáo viên giảng dạy thiếu nhiệt tình do xã hội
và các em xem nhẹ bộ môn mình đang dạy .
Một số GV còn hạn chế về chuyên môn nghiệp vụ, chưa nhiệt tình giảng dạy, chưa tích
cực đổi mới phương pháp dạy học, chưa nắm chắc chuẩn kiến thức cần đánh giá nên
nhiều lúc yêu cầu quá cao so với chuẩn, chưa đầu tư cho việc ra đề kiểm tra, chỉ dạy tốt những giờ thao gỉang .
Việc dạy cho học sinh tự học và sáng tạo hình như ít thực hiện, chỉ lo dạy hết nội dung
đã qui định, lo cháy giáo án. Một số đồng chí còn lệ thuộc vào sách tham khảo, coi đây
là "sách gối đầu giường". Khi giảng bài trên lớp còn phụ thuộc quá nhiều vào SGK, giáo
án, ít khi xuống gần học sinh, giọng nói một số giáo viên còn hạn chế .
4/ Đối với chương trình và sách giáo khoa:
Chương trình học quá ôm đồm nhiều thứ và nặng nề, thiếu thực hành, cung cấp kiến
thức sự kiện là chính, một số nội dung chưa phù hợp với lứa tuổi học sinh, nhiều học
sinh không theo kịp chương trình vì nặng kiến thức và nhiều môn, nội dung nhiều trong
một tiết học nên giáo viên khó thực hiện đổi mới PP dạy học theo hướng phát huy tính
tích cực của HS vì sợ cháy giáo án .
5/ Đối với nhà trường :
Còn thiếu thốn quá nhiều về cơ sở vật chất và các trang thiết bị dạy học .Số học sinh
trong một lớp còn quá nhiều nên làm cho giáo viên khó khăn trong việc quan tâm đầy đủ
đến các đôí tượng HS và các em dễ quay cóp trong thi cử .
Chưa thực hiện tốt việc kiểm tra đánh giá chất lượng học sinh (ngân hàng đề, bốc thăm
đề kiểm tra, quản lý đề, duyệt đề ....).
Nội dung sinh hoạt chuyên môn còn nghèo nàn, nặng về hành chính, chưa tập trung thảo
luận, bàn bạc để tìm ra những biện pháp tốt nhằm nâng cao chất lượng dạy học của bộ
môn, một số môn nhiều năm liền chất lượng thấp mà vẫn chưa có chuyển biến. Kế hoạch
bôì dưỡng đội ngũ (tổ chức hội thảo, mở chuyên đề, BDTX,..) làm còn qua loa, chưa triển
khai tốt các chuyên đề để phục vụ nâng cao chất lượng dạy và học .Đánh giá xếp loại
đội ngũ đôi khi mang tính hình thức, chưa thực chất .
Kế hoạch phụ đạo học sinh yếu còn chậm .
6/ Đối với Phòng vá Sở :
Lịch kiểm tra cuối HK chưa phù hợp. Chỉ đạo công tác kiểm tra đánh giá chất lượng học
sinh chưa được cụ thể. Cần xem xét lại mức độ khó của đề kiểm tra học kỳ .
7/ Đối với địa phương và các lực lượng xã hội :
Chưa có chương trình, kế hoạch cụ thể để tham gia giáo dục học sinh ở địa phương .
Quản lý các quán Internet chưa tốt .
Nhiều biểu hiện tiêu cực trong xã hội, nhiều thanh thiếu niên vi phạm pháp luật, sống
thiếu lành mạnh vẫn chưa được xử lý đúng mức làm tác động xấu đến quá trình học tập
và rèn luyện của các em. Nhiều quán xá còn lợi dụng học sinh để kinh doanh .
III/ Một số biện pháp để nâng cao chất lượng dạy học : 1/ Đối với Nhà nước:
Cần có kế hoạch xây dựng cơ sở vật chất giáo dục đảm bảo theo tiêu chuẩn qui định của
Quốc gia cho tất cả các trường học để có điều kiện tổ chức tốt các hoạt động giáo dục
theo mục tiêu GD&ĐT qui định, trang bị đủ các trang thiết bị để thực hiện chương trình
giáo dục (có nơi dạy dỗ và học tập đường hoàn sẽ tổ chức dạy học có nền nếp và chất lượng hơn).
2/ Đối với các cấp quản lý giáo dục :
Cần xác định lại triết lý Giáo dục của Việt Nam .
Có kế họach nâng cao chất lượng đội ngũ quản lý, giáo viên và nhân viên để đáp ứng
yêu cầu của từng vị trí công tác một cách tốt nhất (ai không đảm bảo yêu cầu thì cho đi
học lại, chuyển làm công tác khác hoặc cho nghỉ theo chế độ qui định, đừng để người yếu kém trong ngành GD)
Tập trung trí tuệ và nguồn lực để xây dựng một chương trình giáo dục mềm dẻo và phù
hợp; biên soạn sách giáo khoa chuẩn mực và phù hợp với trình độ học sinh Việt Nam.
Đừng để học sinh phải học quá sức mình !
Tăng cường sự chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra chuyên môn các cơ sở giáo dục một cách
nghiêm túc .Bồi dưỡng nghiệp vụ cho CBQL nhà trường (Tổ trưởng, HT, PHT) và có kế
hoạch đánh giá đội ngũ quản lý các trường học một cách nghiêm túc và thường xuyên . 3/ Đối giáo viên :
Giáo viên là người chủ đạo trong việc khắc phục học sinh yếu, thành hay bại là phần lớn
do giáo viên. Vì vậy giáo viên là người hết sức quan trọng trong việc khắc phục học sinh yếu .
Đối tượng học sinh phải học phụ đạo là những học sinh có điểm kiểm tra không đạt trung
bình và những học sinh tuy có đạt trung bình nhưng do chính giáo viên bộ môn lập danh
sách đề nghị cho phụ đạo vì không chắc với kết quả ấy. Vì vậy giáo viên cần lưu ý một số biện pháp sau:
Lập danh sách học sinh yếu báo cáo cho Tổ trưởng theo mẫu : Biểu hiện yếu kém TT Họ tên HS Lớp Môn Con ông bà Nơi ở Kiến thức kỹ năng
Phân loại học sinh: học sinh mất căn bản hoàn toàn từ lớp dưới và học sinh có khả năng
học được nhưng lười học, ít được sự quan tâm chăm sóc của phụ huynh nên mê chơi ít
dành thời gian cho học tập để thuận lợi trong quá trình phụ đạo.
Phân tích nguyên nhân từ đâu? Để từ đó có biện pháp khắc phục hợp lý và có hiệu quả.
Đề xuất với Tổ Trưởng, nhà trường về cách khắc phụ để tất cả cùng tập trung giải quyết
có hiệu quả tốt nhất.
Giáo viên lập kế hoạch phụ đạo học sinh yếu ngoài giờ học chính khóa có thể ở trường,
ở nhà (đề xuất với Tổ trưởng, nhà trường, phụ huynh...) .Chủ động gặp phụ huynh trao
đổi về việc học tập của HS, cùng với phụ huynh tìm biện pháp khắc phục.
Trong tiết dạy học bình thường giáo viên soạn bài nhất thiết phải có kế hoạch dạy học
cho những học sinh yếu. Kế hoạch dạy học cho học sinh yếu phải phù hợp với trình độ học sinh đó.
Phân công HS khá, giỏi giúp đỡ bạn ở trường, ở nhà. Tạo ra các nhóm học tập, thi đua
trong các nhóm có học sinh yếu. Động viên, tuyên dương kịp thời học sinh yếu có tiến bộ.
Trong quá trình giảng dạy giáo viên bộ môn cần hướng dẫn học sinh sắp xếp thời gian
tự học, chuẩn bị bài trước khi đến lớp... Trong giảng dạy cần xác định trọng tâm bài học,
nội dung chương trình, tránh tình trạng dạy tràn lan gây nặng nề cho học sinh, nắm chắc
các đối tượng trong từng lớp đẻ có biện pháp giảng dạy phù hợp, tránh tình trạng dạy
học theo kiểu cào bằng (em nào cũng như em đó), đặc biệt chú ý giúp đỡ các em học
tập còn yếu kém để các em tiến bộ, sẵn sàng tham gia phụ đạo học sinh yếu theo phân
công.Phải thự hiện tốt việc đổi mới phương pháp và ứng dụng CNTT vào dạy học, tăng
cường giáo dục động cơ thái độ học tập bộ môn, thầy phải giỏi, dạy hay, đánh giá chất
lượng học sinh phải đúng chuẩn kiến thức bộ môn, đề kiểm tra phải chính xác và khoa
học. Cống hiến hết sức mình cho công việc mình phụ trách .Xây dựng tốt mối quan hệ
thân thiện tích cực trong thầy trò để dạy và học tốt hơn .
Trong buổi sinh hoạt chuyên môn hàng tháng giáo viên bộ môn báo cáo tiến độ tiếp thu
bài của những học sinh yếu cho Tổ trưởng và giáo viên trong tổ, từ đó giáo viên nào còn
vướn mắc thì được tập thể giáo viên trong tổ góp ý bổ sung. 4/Đối với Tổ trưởng
Tập hợp danh sách học sinh yếu báo cáo nhà trường.
Họp tổ, nhóm chuyên môn để phân tích nguyên nhân, bàn kế hoạch khắc phục HS yếu.
Đề xuất với nhà trường về cách khắc phục học sinh yếu.
Tổ chức chuyên đề “khắc phục học sinh yếu”.
Thường xuyên đôn đốc, kiểm tra các biện pháp khắc phục HS yếu.
Giao trách nhiệm cho từng giáo viên và báo cáo thường xuyên cho nhà trường .
Hàng tháng sinh hoạt chuyên môn với nhà trường Tổ trưởng báo cáo tiến độ tiếp thu của những em học sinh yếu .
5/Đối với lãnh đạo nhà trường :
Tập trung nâng cao chất lượng đội ngũ về phẩm chất chính trị, đạo đức nghề nghiệp,
năng lực chuyên môn nghiệp .
Tổ chức tốt hoạt động dạy học và sinh hoạt chuyên môn để nâng cao chất lượng dạy và
học. Tập trung thực hiện tốt việc đổi mới phương pháp, ứng dụng CNTT, thay đổi cách
kiểm tra đánh giá, quản lý tốt dạy thêm học thêm, quản lý tốt chất lượng giảng dạy các bộ môn giáo viên.
Tổ chức thực hiện tốt phong trào " xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực", và các phong trào khác .
Lập kế hoạch và phân công dạy phụ đạo học sinh yếu ngay từ đầu mỗi năm học phù hợp
với tình hình cơ sở vật chất và con người của nhà trường .
Việc chọn giáo viên phụ đạo rất quan trọng. Do đó lãnh đạo nhà trường phải thuyết phục
cho được những thầy cô có kinh nghiệm, có tâm huyết theo dạy những đối tượng này.
Có thể nói phải vừa dạy vừa dỗ các em đi từ những cái cơ bản nhất của bộ môn.
Thực tế có nhiều thầy rất giỏi nhưng khi dạy những đối tượng học sinh này thì không
hiệu quả. Ngược lại có những thầy không phải siêu sao gì nhưng kỹ lưỡng, tỉ mỉ và kiên
trì với học sinh thì mới hiệu quả hơn. Chính vì thế, việc chọn giáo viên phụ đạo cho học
sinh yếu kém vừa trên cơ sở tự nguyện vừa trên cơ sở dựa vào tâm huyết, sự tận tụy,
chu đáo, quan tâm của từng giáo viên và tổ trưởng bộ môn cũng không đứng ngoài việc này.
Phối hợp thật tốt với các tổ chức đoàn thể và ban đại diện cha mẹ học sinh, đặc biệt là
những phụ huynh có con em thuộc diện phải phụ đạo. Phải trao đổi, giải thích rõ cho cha
mẹ học sinh hiểu được sức học cụ thể của con em họ, biết được sự lo lắng, quan tâm và
trách nhiệm của nhà trường để phối hợp, tạo điều kiện cho con em mình đi học đầy đủ.
Làm thế nào để họ thấy rằng việc phụ đạo là việc làm giúp đỡ những học sinh yếu kém
không theo kịp bạn bè, không theo kịp chương trình học.
Có những hình thức khen thưởng những học sinh tiến bộ như: có chế độ điểm thưởng
cho học sinh tiến bộ, tìm nguồn bồi dưỡng cho giáo viên phụ đạo. Đồng thời cần quan
tâm theo dõi và đáp ứng nguyện vọng chính đáng của giáo viên và học sinh về phòng
học, photo bài học, bài tập…
Nếu gặp trường hợp học sinh yếu không chịu học, ban giám hiệu, giáo viên chủ nhiệm
cần phải tiếp xúc với phụ huynh học sinh để giải thích, thuyết phục. Học sinh học phụ
đạo được miễn phí hoàn toàn .
Tổng hợp danh sách học sinh yếu theo khối lớp báo cáo UBND Phường, Ban đại diện
phụ huynh. Tổ chức hội thảo để tìm biện pháp tối ưu nhất khắc phục học sinh yếu.
Mời phụ huynh có học sinh yếu, Ban đại diện phụ huynh, đại diện UBND Phường, Tổ
trưởng dân phố, giáo viên có học sinh yếu, Tổ trưởng để bàn biện pháp khắc phục học
sinh yếu, đây là nhiệm vụ hết sức quan trọng không chỉ của nhà trường mà toàn xã hội.
Thường xuyên kiểm tra việc giáo viên phụ đạo ở trường, ở nhà. Thường xuyên họp với
BĐDphụ huynh, UBND Phường, Tổ trưởng dân phố, giáo viên, phụ huynh có học sinh
yếu để đánh giá kết quả đạt được, từ đó có kế hoạch điều chỉnh cho phù hợp. 6/ Đối với học sinh :
Cần xác định việc học là học để có kiến thức cho mình, để làm người, để hoà nhập với
cộng đồng, để chiếm lĩnh tri thức của loài người, biến kiến thức của nhân loại thành kiến
thức của mình, học để lập thân, lập nghiệp; học để phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân .
Đi học phải chuyên cần, nghỉ học phải có lý do chính đáng.
Học bài, làm bài, chuẩn bị bài trước khi đến lớp.
Trong giờ học tập trung nghe thầy cô giáo giảng bài, tích cực tham gia xây dựng bài.
Tham gia đầy đủ các buổi học phụ đạo do nhà trường tổ chức .
Thực hiện tốt đôi bạn cùng tiến .
7/ Đối với phụ huynh học sinh
Giúp đỡ HS trong quá trình học tập ở nhà, phải có thời gian biểu cho HS.
Đôn đốc, động viên con em đi học chuyên cần. Nhắc nhở con đi học phụ đạo.
Có sự kiểm tra và chuẩn bị cho con em trước khi đến trường.
Thường xuyên liên hệ với giáo viên chủ nhiệm lớp để nắm được tình hình học tập của
con em mình, từ đó giáo viên chủ nhiệm cùng trao đổi với phụ huynh để tìm biện pháp
tốt nhất cho con em mình học tập.
Theo dõi và kiểm tra bài vở của con em mình.
8/Đối với Ban đại diện phụ huynh
Ban đại diện phụ huynh mời phụ huynh có con em học yếu họp bàn về cách khắc phục.
Ban đại diện phụ huynh có biện pháp hỗ trợ về vật chất cho giáo viên, học sinh (nếu có).
Ban đại diện phụ huynh thường xuyên trao đổi với phụ huynh có con em học yếu, với
giáo viên, với nhà trường.
Đặc biệt thường xuyên động viên, đôn đốc phụ huynh cho con đi học chuyên cần.
8/Đối với Đảng và chính quyền địa phương :
Cần quan tâm đúng mức đến sự nghiệp GD&ĐT của địa phương, chú ý đến diện tích
sân trường, xây dựng cơ sở vật chất, tăng cường các trang thiết bị, xây dựng tốt môi trường GD....
Huy động mọi nguồn lực của xã hội để chăm lo cho giáo dục. Cần phải nêu cao tinh thần
trách nhiệm và lòng nhiệt tình trong việc phối hợp với nhà trường để giáo dục học sinh .
Nhà trường thường xuyên báo cáo về những phụ huynh không quan tâm hoặc để con
em ở nhà đi học không chuyên cần. Từ đó Tổ trưởng dân phố có biện pháp nhắc nhở,
động viên những phụ huynh này.
Cần có biện pháp hỗ trợ vật chất cho những gia đình gặp khó khăn. IV/ Kết luận:
Học sinh yếu là một tồn tại khách quan, một phần do giáo viên chưa quan tâm đúng mức,
chưa giúp đỡ kịp thời để các em hổng kiến thức cơ bản. Một phần là do các em không
thích học, không biết cách học dẫn đến ngày một tụt hậu so với trình độ chung của lớp….
Không kể nguyên nhân do đâu, giúp đỡ học sinh yếu là việc làm cần thiết, không nóng
vội, có lộ trình hợp lý, có biện pháp hiệu quả và kịp thời, có kế hoạch riêng cho mỗi học sinh.
Phụ đạo cho học sinh yếu kém trong nhà trường là việc làm hết sức tế nhị và đòi hỏi có
nhiều công sức, sự yêu thương tận tụy và cố gắng của thầy và trò.
Giáo viên là người chủ đạo trong việc khắc phục học sinh yếu, thành hay bại là phần lớn
do giáo viên. Vì vậy giáo viên là người hết sức quan trọng trong việc khắc phục học sinh yếu.
Có thể nói giáo viên là yếu tố quyết định về kết quả phụ đạo học sinh yếu. Nếu có được
những thầy cô tâm huyết, có kinh nghiệm dạy học sinh yếu, tận tụy với từng học sinh thì
kết quả mới khả quan được.
Làm thế nào để Nâng cao chất lượng giáo dục?" là một câu hỏi đặt ra và suy nghĩ rất
nhiều của những người thầy Tận Tâm với nghề giáo trong thời điểm hiện nay khi chúng
ta đã làm nhiều biện pháp nhưng vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu của xã hội, của nhà trường, của bộ môn.
Tùy vào hoàn cảnh cụ thể của từng năm ở từng khối lớp mà nhà trường có kế hoạch và
biện pháp thích hợp để nâng cao được trình độ cho học sinh lỡ mất căn bản trong học
tập - giúp các em có cơ hội hội nhập cùng với bạn bè. Kế hoạch phải được lập ngay từ
đầu năm và phải tổ chức thực hiện thật chu đáo. Để thành công trong công tác phụ đạo
học sinh yếu nhà trường phải biết huy động mọi nguồn lực của xã hội để cùng làm cho hiệu quả .
Phải xác định: Mỗi thầy cô giáo phải có trách nhiệm giúp đỡ học sinh yếu kém để các em
này cải thiện tình hình học tập của mình một cách tốt nhất (Dạy học là dạy cho người
chưa biết để họ được biết).
2. Biện pháp nâng cao chất lượng bộ môn Sinh học
Thay đổi cách kiểm tra bài cũ

Thông thường, phần kiểm tra bài cũ được giáo viên tiến hành ở đầu giờ. Đây là việc làm
theo đúng tiến trình dạy học.
Tuy nhiên, sự lặp đi lặp lại cách làm đó sẽ khiến học sinh nhàm chán, đôi khi gây áp lực,
tạo sự căng thẳng cho học sinh trong suốt tiết học hôm đó.
Theo tôi giáo viên có thể lồng ghép các câu hỏi kiểm tra kiến thức đã học trong quá trình
dạy bài mới để làm giảm bớt đi sự căng thẳng không đáng có.
Ví dụ: Khi dạy mục I bài 29. Hấp thụ chất dinh dưỡng và thải phân, giáo viên có thể treo
tranh phóng to về Cấu tạo trong của ruột non. Sau đó yêu cầu học sinh nhắc lại cấu tạo
của ruột non phù hợp với chức năng tiêu hóa; kiểm tra kiến thức của học sinh về cấu tạo
của ruột non, sau đó nhận xét và cho điểm.
Thay đổi cách đặt vấn đề vào bài mới
Trong một giờ học, nếu ngay từ phần vào bài giáo viên đã tạo ra sự hứng thú cho học
sinh, chắc chắn trong những phút tiếp theo, các em sẽ hào hứng hơn với những hoạt
động do giáo viên tổ chức.
Do đó phần vào bài có vai trò quan trọng đến hoạt động dạy cũng như kích thích quá
trình tiếp thu kiến thức của học sinh trong một tiết dạy.
Kinh nghiệm của tôi để có cách dẫn dắt vào bài mới hấp dẫn hơn là: Mở đầu bằng một
câu chuyện vui; mở đầu bằng một đoạn phim hay hình ảnh; hay mở đầu bằng một câu
chuyện li kì, hấp dẫn…
Một điều cần lưu ý là: đặt vấn đề hay góp phần làm tăng tính hấp dẫn cho bài học, tạo
hứng thú cũng như làm cho không khí học tập trở nên thoải mái hơn. Tuy nhiên, giáo
viên cũng cần chú ý đến thời gian cho phần vào bài để tránh ảnh hưởng đến thời lượng dành cho bài mới.
Thay đổi cách giao tiếp
Trong hoạt động dạy học luôn đòi hỏi sự tương tác qua lại thường xuyên giữa thầy và
trò. Một trong những điều kiện để học sinh có thể học sâu là các em phải có cảm giác thoải mái.
Trong quá trình giao tiếp với học sinh, giáo viên cần có thái độ nhẹ nhàng, vui vẻ, tạo cho
học sinh cảm giác được yêu thương, nhưng khi cần vẫn phải nghiêm khắc để học sinh
hiểu được giới hạn của sự thoải mái. Vì nếu quá dễ dãi, học sinh không kính nể sẽ rất
khó dạy; quá nghiêm khắc, học sinh sẽ bị ức chế khó tiếp thu bài học.
Hơn ai hết, giáo viên phải nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề trên đối với công
tác giáo dục. Khi cảm thấy mình được tôn trọng có nghĩa là các em sẽ thêm phần tự tin
vào bản thân mình, sẽ đáp lại bằng thái độ tôn trọng, yêu quý đối với thầy cô, nhờ đó mà
cũng sẽ yêu thích hơn bộ môn những thầy cô giáo đó đang giảng dạy.
Bên cạnh đó, người giáo viên cũng cần quan tâm đến những học sinh chậm tiến của lớp,
quan tâm nhắc nhở các em học bài và chỉ cách học bài cho học sinh; kịp thời khen ngợi khi học sinh tiến bộ.
Ví dụ, có em học sinh chậm tiến lần thứ nhất kiểm tra bài cũ chỉ được 3 điểm, nhưng lần
thứ hai được 5 điểm, giáo viên cần khen ngợi để học sinh cảm thấy mình có tiến bộ, từ
đó sẽ cố gắng nhiều hơn.
Đổi mới cách thức soạn bài và thiết kế các hoạt động dạy học
Trước hết, giáo viên cần nghiên cứu kĩ nội dung của bài học trong sách giáo khoa, kết
hợp nghiên cứu những tài liệu tham khảo khác như sách giáo viên, sách giải bài tập sinh
học, chuẩn kiến thức kĩ năng,… để chỉ ra được mục tiêu chính là những yêu cầu về kiến
thức, kĩ năng và thái độ cần hướng học sinh tìm hiểu và đạt được.
Tiếp theo, giáo viên xác định số lượng hoạt động, hình thức tổ chức và nội dung các hoạt
động nhằm đạt được các mục tiêu ở trên.
Tuy nhiên, để hướng đến sự thích thú, say mê của học sinh với mỗi hoạt động đó thì giáo
viên cần lựa chọn cách tổ chức phù hợp nhất, làm sao để học sinh phát huy tối đa khả
năng và hiểu biết của bản thân, đồng thời có sự liên kết chặt chẽ với tập thể.