Bổ trợ pháp ? Khái niệm về b trợ
pháp ?
1. Khái niệm bổ tr pháp
“Judicial supplement” - Bổ trợ pháp
Bổ trợ pháp trợ giúp, tạo điều kiện cho hoạt động pháp tiến hành
được thuận lợi, nhanh chóng, chính xác bằng cách cung cấp hồ sơ, chứng cứ,
phản biện cho các khâu, đoạn trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử, đồng
thời giúp cho nhân công dân, tổ chức bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp
của mình.
Bổ trợ tư pháp liên quan chặt chẽ, hướng vào hoạt động pháp, tính chất
pháp nhưng không lẫn lộn với hoạt động pháp với cách là hoạt động
thực thi quyền lực nhà nước.
Các hoạt động bổ trợ pháp gồm hoạt động luật sư, vấn pháp luật, giám
định, công chứng, lịch pháp... Trong đó, luật sư, giám định hoạt động
mang tính chất điển hình cho bổ trợ pháp. Các hoạt động khác như công
chứng, tư vấn pháp luật, lịch tư pháp... ý nghĩa hoạt động mang tính
chất h trợ pháp, khi c hoạt động đó liên quan trực tiếp đến hoạt
động tố tụng những hoạt động này, trong nhiều trường hợp, giúp cho các
hoạt động quản khác.
quan tiến hành hoạt động bổ trợ pháp thể do Nhà nước thành lập,
cũng thể do nhân công dân, tổ chức thành lập thường không mang
tính... quyền lực nhà nước, không mang nh bắt buộc chỉ ý nghĩa phụ
giúp, h trợ cho hoạt động pháp. Trước đây, Việt Nam ta sử dụng thuật
ngữ “hỗ trợ pháp” song cùng với sự phát triển của hội, từ “bổ trợ
pháp” đã được sử dụng để thay thế do phạm vi sử dụng được mở rộng
hơn.
Hoạt động bổ trợ pháp một mặt góp phần nâng cao hiệu lực quản của
nhà nước, mặt khác góp phần bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của quan
nhà nước, tổ chức hội, tổ chức kinh tế công dân.
Hiện tại, chưa một văn bản luật chuyên biệt nào quy định chi tiết, giải thích
cụ thể khái niệm “bổ trợ tư pháp”. Tuy nhiên, theo quy định tại điểm a Khoản
1 Điều 1 của Ngh định 110/2013/NĐ-CP thì b trợ pháp, bao gồm: Luật ,
vấn pháp luật, ng chứng, giám định pháp, bán đấu giá tài sản, trọng
tài thương mại.
2. Vai trò của bổ trợ pháp
Mặc ch đóng vai trò bổ trợ, nhưng thể khẳng định c hoạt động bổ trợ,
trong đó “chủ đạo” luật sư, công chứng, giám định pháp trợ giúp pháp
đóng vai trò rất quan trọng trong cải cách pháp nói chung hoạt động
tố tụng, xét xử nói riêng. Các hoạt động bổ trợ pháp được triển khai
nghiêm túc, hiệu qu tác động mang tính hiệu quả, bền vững tầm chiến
lược cho cải cách tư pháp”. Khi các hoạt động b trợ pháp được triển khai
nghiêm túc, hiệu quả sẽ giúp nâng cao chất lượng của nền pháp Việt Nam
giảm tải được nhiều áp lực công việc cho các quan Nhà nước.
Theo khoản 20 Điều 2, Nghị định số 22/2013/NĐ-CP ngày 13/3/2003 của
Chính ph quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn cấu tổ chức của
Bộ Tư pháp thì b tr pháp bao gồm luật sư, vấn pháp luật, công chứng,
giám định pháp, bán đấu giá tài sản, trọng tài thương mại. Với góc độ bổ
trợ cho hoạt động tố tụng thì bổ trợ pháp được hiểu một cách đơn giản
các hoạt động của các tổ chức bổ trợ pháp nhằm mục đích giúp cho
quan điều tra, kiểm sát, xét xử thực hiện tốt hơn chức năng, nhiệm vụ của
mình, bảo vệ pháp luật ng là bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của công
dân, của tổ chức.
Với cách hiểu trên đã hoàn toàn đáp ứng các yêu cầu xây dựng n nước
pháp quyền hội chủ nghĩa, của nhân dân, do nhân dân nhân dân; đề
cao khẳng định vai trò c hoạt động bổ trợ pháp. Với Tòa án trung
tâm của cải cách pháp, n bổ trợ pháp quan hệ tác động trực
tiếp đến chất lượng t xử của Tòa án, là công cụ không thể thiếu để hỗ trợ
người dân các quan tiến hành tố tụng trong một nền pháp dân chủ,
pháp quyền.
Xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không bỏ lọt tội phạm, không
làm oan người tội những nguyên tắc quan trọng trong việc thực hiện
quyền lực pháp đã được Đảng nhà nước đề ra. Song để thực hiện
được các nguyên tắc trên thì cần tới vai trò, vị trí của hoạt động bổ trợ
pháp. Pháp luật ch thể được bảo vệ tốt khi đề cao hoạt động bổ trợ
pháp. Tổ chức tốt hoạt động bổ trợ pháp sẽ sở, tiền đề nhằm ngăn
ngừa các hành vi lạm dụng, vi phạm pháp luật trong quá trình thực hiện
quyền lực pháp, qua đó góp phần bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của tổ
chức công dân, bảo vệ pháp chế hội chủ nghĩa.
3. Tổ chức luật - tổ chức bổ trợ pháp
Luật người đủ tiêu chuẩn, điều kiện nh nghề theo quy định của
Luật Luật sư, thực hiện dịch vụ pháp theo yêu cầu của nhân, quan,
tổ chức (gọi chung khách hàng). Hoạt động nghề nghiệp của luật góp
phần bảo vệ công lý, các quyền tự do, dân ch của công dân, quyền, lợi ích
hợp pháp của nhân, quan, tổ chức, phát triển kinh tế hội, y dựng
Nhà ớc pháp quyền Việt Nam hội chủ nghĩa, hội dân chủ, công bằng,
văn minh.
Về các dịch vụ pháp của luật sẽ bao gồm: tham gia tố tụng, vấn pháp
luật, đại diện ngoài tố tụng cho khách hàng các dịch vụ pháp khác.
Về hình thức hành nghề của luật sư, mỗi luật thể lựa chọn hành nghề
trong tổ chức hành nghề luật hoặc hành nghề với cách nhân.
Về tổ chức hành nghề luật sẽ bao gồm: văn phòng luật hoặc công ty
luật (công ty luật hợp danh hoặc công ty luật trách nhiệm hữu hạn).
4. Tổ chức hành ngh công chứng - tổ chức bổ trợ pháp
Công chứng việc công chứng viên của một tổ chức nh nghề công chứng
chứng nhận tính xác thực, hợp pháp của hợp đồng, giao dịch dân sự khác
bằng văn bản, tính chính xác, hợp pháp, không trái đạo đức hội của bản
dịch giấy tờ, văn bản từ tiếng Việt sang tiếng nước ngoài hoặc từ tiếng nước
ngoài sang tiếng Việt theo quy định của pháp luật phải ng chứng hoặc
nhân, tổ chức tự nguyện yêu cầu công chứng.
Người hành nghề ng chứng được gọi Công chứng viên. Người này
đủ tiêu chuẩn theo quy định của Luật Công chứng, được B trưởng Bộ
pháp bổ nhiệm. Sau khi được bổ nhiệm, công chứng viên sẽ tham gia cung
cấp dịch vụ ng do Nhà nước ủy nhiệm thực hiện nhằm bảo đảm an toàn
pháp cho các bên tham gia hợp đồng, giao dịch; phòng ngừa tranh chấp;
góp phần bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của nhân, tổ chức; ổn định
phát triển kinh tế hội.
Về tổ chức hành nghề công chứng sẽ bao gồm: Phòng công chứng Văn
phòng công chứng. Phòng công chứng sẽ do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết
định thành lập n Văn phòng ng chứng do các Công chứng viên
nguyện vọng đăng thành lập theo hình tổ chức của công ty hợp danh.
5. Tổ chức bán đấu giá tài sản - tổ chức bổ trợ pháp
Đấu giá tài sản hình thức bán tài sản t hai người trở lên tham gia đấu
giá theo nguyên tắc, trình tự thủ tục được quy định tại Luật này, trừ trường
hợp đấu g chỉ một người đăng tham gia đấu giá, một người tham gia
đấu giá, một người trả giá, một người chấp nhận giá.
Người hành nghề đấu giá được gọi đấu giá viên. Đấu giá viên thể hành
nghề tại Trung tâm dịch vụ đấu giá tài sản; doanh nghiệp đấu giá tài sản;
hoặc tổ chức Nhà nước sở hữu 100% vốn điều lệ do Chính phủ thành lập
để xử nợ xấu của t chức tín dụng.
Về các tổ chức đấu giá tài sản thì cụ thể trung tâm dịch vụ đấu giá tài sản do
Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định thành lập còn doanh nghiệp đấu giá tài
sản do các thành viên nguyện vọng đăng thành lập theo hình doanh
nghiệp tư nhân hoặc công ty hợp danh.
6. Tổ chức giám định pháp - tổ chức bổ trợ pháp
Giám định pháp việc người giám định pháp sử dụng kiến thức,
phương tiện, phương pháp khoa học, kỹ thuật, nghiệp vụ để kết luận về
chuyên môn những vấn đề liên quan đến hoạt động khởi tố, điều tra, truy
tố, xét xử thi hành án hình sự, giải quyết vụ việc dân sự, vụ án hành chính
theo trưng cầu của quan thẩm quyền tiến hành tố tụng, người thẩm
quyền tiến hành tố tụng hoặc theo yêu cầu của người yêu cầu giám định theo
quy định của Luật Giám định pháp.
Người hành nghề giám định pháp được gọi giám định viên pháp, nơi
làm việc của họ các tổ chức giám định pháp hoặc được chỉ định nhân
giám định pháp theo vụ việc.
Về pháp y: Viện pháp y quốc gia thuộc B Y tế; Trung tâm pháp y cấp tỉnh;
Viện pháp y quân đội thuộc Bộ Quốc phòng; Trung tâm giám định pháp y
thuộc Viện khoa học hình sự, Bộ Công an.
Về pháp y tâm thần: Viện pháp y tâm thần trung ương thuộc Bộ Y tế; Trung
tâm pháp y tâm thần khu vực thuộc Bộ Y tế. Căn cứ yêu cầu giám định pháp
y tâm thần của hoạt động tố tụng điều kiện thực tế của c khu vực, vùng
miền trong cả nước, Bộ trưởng B Y tế xem xét, quyết định thành lập Trung
tâm pháp y tâm thần khu vực sau khi thống nhất ý kiến với Bộ trưởng Bộ Tư
pháp.
Về kỹ thuật hình sự: Viện khoa học hình sự thuộc Bộ Công an; Phòng kỹ
thuật hình sự thuộc Công an cấp tỉnh; Phòng giám định kỹ thuật hình sự
thuộc Bộ Quốc phòng.
Tổ chức giám định pháp ngoài công lập được gọi các văn phóng giám
định pháp, được thành lập trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng, y dựng,
cổ vật, di vật, bản quyền tác giả.
7. Trọng tài thương mại - tổ chức bổ trợ pháp
Trọng tài thương mại phương thức giải quyết tranh chấp do các bên thỏa
thuận được tiến hành theo quy định của Luật Trọng tài thương mại.
Người hành nghề trong lĩnh vực này được gọi c trọng tài viên, làm việc
tại các trung tâm trọng tài. Trung tâm trọng tài chức năng tổ chức, điều
phối hoạt động giải quyết tranh chấp bằng trọng tài quy chế h trợ trọng tài
viên về các mặt hành chính, văn phòng các trợ giúp khác trong quá trình tố
tụng trọng tài.
dụ một số trung tâm trọng tài Việt Nam: Trung tâm trọng tài quốc tế Việt
Nam (VIAC), trung tâm Trọng tài Thương mại Phía Nam (STAC), Trung tâm
trọng tài thương mại Á Châu (ACIAC)…
Trọng tài một trong c phương thức giải quyết tranh chấp rất được ưa
chuộng nhiều nước do tính bảo mật thông tin thời gian giải quyết
phần nhanh chóng hơn so với phương thức giải quyết tranh chấp bằng Tòa
án. Tuy nhiên, Việt Nam thì phương thức này chưa được thực sự coi trọng
do pháp luật hiện tại chưa thực sự tạo điều kiện cho trọng tài phát triển khi
còn lệ thuộc nhiều việc vào Tòa án (biện pháp khẩn cấp tạm thời,…)

Preview text:

Bổ trợ tư pháp là gì ? Khái niệm về bổ trợ tư pháp ?
1. Khái niệm bổ trợ tư pháp
“Judicial supplement” -
Bổ trợ tư pháp
Bổ trợ tư pháp là trợ giúp, tạo điều kiện cho hoạt động tư pháp tiến hành
được thuận lợi, nhanh chóng, chính xác bằng cách cung cấp hồ sơ, chứng cứ,
phản biện cho các khâu, đoạn trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử, đồng
thời giúp cho cá nhân công dân, tổ chức bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
Bổ trợ tư pháp liên quan chặt chẽ, hướng vào hoạt động tư pháp, có tính chất
tư pháp nhưng không lẫn lộn với hoạt động tư pháp với tư cách là hoạt động
thực thi quyền lực nhà nước.
Các hoạt động bổ trợ tư pháp gồm hoạt động luật sư, tư vấn pháp luật, giám
định, công chứng, lí lịch tư pháp... Trong đó, luật sư, giám định là hoạt động
mang tính chất điển hình cho bổ trợ tư pháp. Các hoạt động khác như công
chứng, tư vấn pháp luật, lý lịch tư pháp... có ý nghĩa là hoạt động mang tính
chất hỗ trợ tư pháp, khi các hoạt động đó có liên quan trực tiếp đến hoạt
động tố tụng mà những hoạt động này, trong nhiều trường hợp, giúp cho các
hoạt động quản lý khác.
Cơ quan tiến hành hoạt động bổ trợ tư pháp có thể do Nhà nước thành lập,
cũng có thể do cá nhân công dân, tổ chức thành lập và thường không mang
tính.. quyền lực nhà nước, không mang tính bắt buộc và chỉ có ý nghĩa phụ
giúp, hỗ trợ cho hoạt động tư pháp. Trước đây, Việt Nam ta sử dụng thuật
ngữ “hỗ trợ tư pháp” song cùng với sự phát triển của xã hội, từ “bổ trợ tư
pháp” đã được sử dụng để thay thế do có phạm vi sử dụng được mở rộng hơn.
Hoạt động bổ trợ tư pháp một mặt góp phần nâng cao hiệu lực quản lý của
nhà nước, mặt khác góp phần bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan
nhà nước, tổ chức xã hội, tổ chức kinh tế và công dân.
Hiện tại, chưa có một văn bản luật chuyên biệt nào quy định chi tiết, giải thích
cụ thể khái niệm “bổ trợ tư pháp”. Tuy nhiên, theo quy định tại điểm a Khoản
1 Điều 1 của Nghị định 110/2013/NĐ-CP thì bổ trợ tư pháp, bao gồm: Luật sư,
tư vấn pháp luật, công chứng, giám định tư pháp, bán đấu giá tài sản, trọng tài thương mại.
2. Vai trò của bổ trợ tư pháp
Mặc dù chỉ đóng vai trò bổ trợ, nhưng có thể khẳng định các hoạt động bổ trợ,
trong đó “chủ đạo” là luật sư, công chứng, giám định tư pháp và trợ giúp pháp
lý đóng vai trò rất quan trọng trong cải cách tư pháp nói chung và hoạt động
tố tụng, xét xử nói riêng. Các hoạt động bổ trợ tư pháp được triển khai
nghiêm túc, hiệu quả là tác động mang tính hiệu quả, bền vững tầm chiến
lược cho cải cách tư pháp
”. Khi các hoạt động bổ trợ tư pháp được triển khai
nghiêm túc, hiệu quả sẽ giúp nâng cao chất lượng của nền tư pháp Việt Nam
và giảm tải được nhiều áp lực công việc cho các cơ quan Nhà nước.
Theo khoản 20 Điều 2, Nghị định số 22/2013/NĐ-CP ngày 13/3/2003 của
Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của
Bộ Tư pháp thì bổ trợ tư pháp bao gồm luật sư, tư vấn pháp luật, công chứng,
giám định tư pháp, bán đấu giá tài sản, trọng tài thương mại. Với góc độ bổ
trợ cho hoạt động tố tụng thì bổ trợ tư pháp được hiểu một cách đơn giản là
các hoạt động của các tổ chức bổ trợ tư pháp nhằm mục đích giúp cho cơ
quan điều tra, kiểm sát, xét xử thực hiện tốt hơn chức năng, nhiệm vụ của
mình, bảo vệ pháp luật và cũng là bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, của tổ chức.
Với cách hiểu trên đã hoàn toàn đáp ứng các yêu cầu xây dựng nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa, của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân; đề
cao và khẳng định vai trò các hoạt động bổ trợ tư pháp. Với Tòa án là trung
tâm của cải cách tư pháp, còn bổ trợ tư pháp có quan hệ và tác động trực
tiếp đến chất lượng xét xử của Tòa án, là công cụ không thể thiếu để hỗ trợ
người dân và các cơ quan tiến hành tố tụng trong một nền tư pháp dân chủ, pháp quyền.
Xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không bỏ lọt tội phạm, không
làm oan người vô tội là những nguyên tắc quan trọng trong việc thực hiện
quyền lực tư pháp đã được Đảng và nhà nước đề ra. Song để thực hiện
được các nguyên tắc trên thì cần tới vai trò, vị trí của hoạt động bổ trợ tư
pháp. Pháp luật chỉ có thể được bảo vệ tốt khi đề cao hoạt động bổ trợ tư
pháp. Tổ chức tốt hoạt động bổ trợ tư pháp sẽ là cơ sở, tiền đề nhằm ngăn
ngừa các hành vi lạm dụng, vi phạm pháp luật trong quá trình thực hiện
quyền lực tư pháp, qua đó góp phần bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của tổ
chức và công dân, bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa.
3. Tổ chức luật sư - tổ chức bổ trợ tư pháp
Luật sư là người có đủ tiêu chuẩn, điều kiện hành nghề theo quy định của
Luật Luật sư, thực hiện dịch vụ pháp lý theo yêu cầu của cá nhân, cơ quan,
tổ chức (gọi chung là khách hàng). Hoạt động nghề nghiệp của luật sư góp
phần bảo vệ công lý, các quyền tự do, dân chủ của công dân, quyền, lợi ích
hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức, phát triển kinh tế – xã hội, xây dựng
Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh.
Về các dịch vụ pháp lý của luật sư sẽ bao gồm: tham gia tố tụng, tư vấn pháp
luật, đại diện ngoài tố tụng cho khách hàng và các dịch vụ pháp lý khác.
Về hình thức hành nghề của luật sư, mỗi luật sư có thể lựa chọn hành nghề
trong tổ chức hành nghề luật sư hoặc hành nghề với tư cách là cá nhân.
Về tổ chức hành nghề luật sư sẽ bao gồm: văn phòng luật sư hoặc công ty
luật (công ty luật hợp danh hoặc công ty luật trách nhiệm hữu hạn).
4. Tổ chức hành nghề công chứng - tổ chức bổ trợ tư pháp
Công chứng là việc công chứng viên của một tổ chức hành nghề công chứng
chứng nhận tính xác thực, hợp pháp của hợp đồng, giao dịch dân sự khác
bằng văn bản, tính chính xác, hợp pháp, không trái đạo đức xã hội của bản
dịch giấy tờ, văn bản từ tiếng Việt sang tiếng nước ngoài hoặc từ tiếng nước
ngoài sang tiếng Việt mà theo quy định của pháp luật phải công chứng hoặc
cá nhân, tổ chức tự nguyện yêu cầu công chứng.
Người hành nghề công chứng được gọi là Công chứng viên. Người này có
đủ tiêu chuẩn theo quy định của Luật Công chứng, được Bộ trưởng Bộ Tư
pháp bổ nhiệm. Sau khi được bổ nhiệm, công chứng viên sẽ tham gia cung
cấp dịch vụ công do Nhà nước ủy nhiệm thực hiện nhằm bảo đảm an toàn
pháp lý cho các bên tham gia hợp đồng, giao dịch; phòng ngừa tranh chấp;
góp phần bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức; ổn định và
phát triển kinh tế – xã hội.
Về tổ chức hành nghề công chứng sẽ bao gồm: Phòng công chứng và Văn
phòng công chứng. Phòng công chứng sẽ do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết
định thành lập còn Văn phòng công chứng do các Công chứng viên có
nguyện vọng đăng ký thành lập theo mô hình tổ chức của công ty hợp danh.
5. Tổ chức bán đấu giá tài sản - tổ chức bổ trợ tư pháp
Đấu giá tài sản là hình thức bán tài sản có từ hai người trở lên tham gia đấu
giá theo nguyên tắc, trình tự và thủ tục được quy định tại Luật này, trừ trường
hợp đấu giá chỉ có một người đăng ký tham gia đấu giá, một người tham gia
đấu giá, một người trả giá, một người chấp nhận giá.
Người hành nghề đấu giá được gọi là đấu giá viên. Đấu giá viên có thể hành
nghề tại Trung tâm dịch vụ đấu giá tài sản; doanh nghiệp đấu giá tài sản;
hoặc tổ chức mà Nhà nước sở hữu 100% vốn điều lệ do Chính phủ thành lập
để xử lý nợ xấu của tổ chức tín dụng.
Về các tổ chức đấu giá tài sản thì cụ thể trung tâm dịch vụ đấu giá tài sản do
Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định thành lập còn doanh nghiệp đấu giá tài
sản do các thành viên có nguyện vọng đăng ký thành lập theo mô hình doanh
nghiệp tư nhân hoặc công ty hợp danh.
6. Tổ chức giám định tư pháp - tổ chức bổ trợ tư pháp
Giám định tư pháp là việc người giám định tư pháp sử dụng kiến thức,
phương tiện, phương pháp khoa học, kỹ thuật, nghiệp vụ để kết luận về
chuyên môn những vấn đề có liên quan đến hoạt động khởi tố, điều tra, truy
tố, xét xử và thi hành án hình sự, giải quyết vụ việc dân sự, vụ án hành chính
theo trưng cầu của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người có thẩm
quyền tiến hành tố tụng hoặc theo yêu cầu của người yêu cầu giám định theo
quy định của Luật Giám định tư pháp.
Người hành nghề giám định tư pháp được gọi là giám định viên tư pháp, nơi
làm việc của họ là các tổ chức giám định tư pháp hoặc được chỉ định cá nhân
giám định tư pháp theo vụ việc.
Về pháp y: Viện pháp y quốc gia thuộc Bộ Y tế; Trung tâm pháp y cấp tỉnh;
Viện pháp y quân đội thuộc Bộ Quốc phòng; Trung tâm giám định pháp y
thuộc Viện khoa học hình sự, Bộ Công an.
Về pháp y tâm thần: Viện pháp y tâm thần trung ương thuộc Bộ Y tế; Trung
tâm pháp y tâm thần khu vực thuộc Bộ Y tế. Căn cứ yêu cầu giám định pháp
y tâm thần của hoạt động tố tụng và điều kiện thực tế của các khu vực, vùng
miền trong cả nước, Bộ trưởng Bộ Y tế xem xét, quyết định thành lập Trung
tâm pháp y tâm thần khu vực sau khi thống nhất ý kiến với Bộ trưởng Bộ Tư pháp.
Về kỹ thuật hình sự: Viện khoa học hình sự thuộc Bộ Công an; Phòng kỹ
thuật hình sự thuộc Công an cấp tỉnh; Phòng giám định kỹ thuật hình sự thuộc Bộ Quốc phòng.
– Tổ chức giám định tư pháp ngoài công lập được gọi là các văn phóng giám
định tư pháp, được thành lập trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng, xây dựng,
cổ vật, di vật, bản quyền tác giả.
7. Trọng tài thương mại - tổ chức bổ trợ tư pháp
Trọng tài thương mại là phương thức giải quyết tranh chấp do các bên thỏa
thuận và được tiến hành theo quy định của Luật Trọng tài thương mại.
Người hành nghề trong lĩnh vực này được gọi là các trọng tài viên, làm việc
tại các trung tâm trọng tài. Trung tâm trọng tài có chức năng tổ chức, điều
phối hoạt động giải quyết tranh chấp bằng trọng tài quy chế và hỗ trợ trọng tài
viên về các mặt hành chính, văn phòng và các trợ giúp khác trong quá trình tố tụng trọng tài.
Ví dụ một số trung tâm trọng tài ở Việt Nam: Trung tâm trọng tài quốc tế Việt
Nam (VIAC), trung tâm Trọng tài Thương mại Phía Nam (STAC), Trung tâm
trọng tài thương mại Á Châu (ACIAC)…
Trọng tài là một trong các phương thức giải quyết tranh chấp rất được ưa
chuộng ở nhiều nước do tính bảo mật thông tin và thời gian giải quyết có
phần nhanh chóng hơn so với phương thức giải quyết tranh chấp bằng Tòa
án. Tuy nhiên, ở Việt Nam thì phương thức này chưa được thực sự coi trọng
do pháp luật hiện tại chưa thực sự tạo điều kiện cho trọng tài phát triển khi
còn lệ thuộc nhiều việc vào Tòa án (biện pháp khẩn cấp tạm thời,…)
Document Outline

  • Bổ trợ tư pháp là gì ? Khái niệm về bổ trợ tư pháp
    • 1. Khái niệm bổ trợ tư pháp
    • 2. Vai trò của bổ trợ tư pháp
    • 3. Tổ chức luật sư - tổ chức bổ trợ tư pháp
    • 4. Tổ chức hành nghề công chứng - tổ chức bổ trợ t
    • 5. Tổ chức bán đấu giá tài sản - tổ chức bổ trợ tư
    • 6. Tổ chức giám định tư pháp - tổ chức bổ trợ tư p
    • 7. Trọng tài thương mại - tổ chức bổ trợ tư pháp