Bối cảnh lịch sử Việt Nam trước năm 1945

Bối cảnh lịch sử Việt Nam trước năm 1945

1.1. Bối cảnh lịch sử
1.1.1. Bối cảnh Việt Nam dưới chính sách thống tr khai thác thuộc địa của
thực dân Pháp các phong trào yêu nước theo khuynh hướng chính trị phong kiến
sản
1.1.1.1. Bối cảnh Việt Nam
Chính sách cai trị của thực dân Pháp:
Năm 1858, thực dân Pháp nổ súng xâm lược Việt Nam. Sau khi tạm thời dập tắt được
các phong trào đấu tranh của nhân dân ta, thực dân Pháp từng bước thiết lập bộ máy
thống trị ở Việt Nam.
Về chính trị, thực dân Pháp áp đặt chính sách cai trị thực dân, tước bỏ quyền lực đối
nội và đối ngoại của chính quyền phong kiến nhà Nguyễn; chia Việt Nam ra thành ba xứ:
Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ thực hiện mỗi kỳ một chế độ cai trị riêng. Đồng thời với
chính sách nham hiểm này, thực dân Pháp câu kết với giai cấp địa chủ trong việc bóc lột
kinh tế và áp bức chính trị đối với nhân dân Việt Nam.
Về kinh tế, thực dân Pháp tiến hành cướp đoạt ruộng đất để lập đồn điền, đầu khai
thác tài nguyên, xây dựng một số cơ sở công nghiệp, xây dựng hệ thống đường giao
thông, bến cảng phục vụ cho lợi ích của chúng. Chính sách khai thác thuộc địa của Pháp
đã tạo sự chuyển biến đối với nền kinh tế Việt Nam (hình thành một số ngành kinh tế
mới…) những cũng dẫn đến hậu quả là nền kinh tế nước ta bị lệ thuộc vào tư bản Pháp,
bị kìm hãm trong vòng lạc hậu.
Về văn hóa, thực dân Pháp thực hiện chính sách văn hóa giáo dục thực dân, dung
túng, duy trì các hủ tục lạc hậu. Nguyễn Ái Quốc đã vạch tội ác của chế độ cai trị thực
dân Đông Dương, “chúng tôi không những bị áp bức và bóc lột một cách nhục nhã,
còn bị hành hạ và đầu độc một cách thê thảm... bằng thuốc phiện, bằng rượu… chúng tôi
phải sống trong cảnh ngu dốt tối tăm vì chúng tôi không có quyền tự do học tập”.
Tình hình giai cấp mâu thuẫn bản trong hội Việt Nam
Dưới tác động của chính sách cai trị và chính sách kinh tế, văn hóa, giáo dục thực
dân, xã hội Việt Nam diễn ra quá trình phân hóa sâu sắc.
Giai cấp địa chủ: Giai cấp địa chủ câu kết với thực dân Pháp tăng cường bóc lột, áp
bức nông dân. Tuy nhiên, trong nội bộ giai cấp địa chủ Việt Nam lúc này sự phân hóa,
một bộ phận địa chủ có lòng yêu nước, căm ghét chế độ thực dân đã tham gia đấu tranh
chống Pháp dưới các hình thức và mức độ khác nhau.
Giai cấp nông dân: Giai cấp nông dân là lực lượng đông đảo nhất trong xã hội Việt
Nam, bị thực dân và phong kiến áp bức, bóc lột nặng nề. Tình cảnh khốn khổ, bần cùng
của giai cấp nông dân Việt Nam đã làm tăng lòng m thù đế quốc phong kiến tay sai,
làm tăng thêm ý chí cách mạng của họ trong cuộc đấu tranh giành lại ruộng đấtquyền
sống tự do.
Giai cấp công nhân Việt Nam: Ra đời từ cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất của
thực dân Pháp, giai cấp công nhân tập trung nhiều các thành phố và vùng mỏ như:
Nội, Sài Gòn, Hải Phòng, Nam Định, Vinh, Quảng Ninh.
Đa số công nhân Việt Nam trực tiếp xuất thân từ giai cấp nông dân, là nạn nhân của
chính sách chiếm đoạt ruộng đất thực dân Pháp thi hành Việt Nam. vậy, giai cấp
công nhân có quan hệ trực tiếp và chặt chẽ với giai cấp nông dân. Giai cấp công nhân
Việt Nam bị đế quốc, phong kiến áp bức, bóc lột.
Giai cấp sản Việt Nam: Bao gồm sản công nghiệp, sản thương nghiệp… Ngay
từ khi ra đời, giai cấp tư sản Việt Nam đã bị tư sản Pháp và tư sản người Hoa cạnh tranh,
chèn ép, do đó thế lực kinh tế và địa vị của giai cấp tư sản Việt Nam nhỏ bé, yếu ớt. Vì
vậy, giai cấp tư sản Việt Nam không đủ điều kiện để lãnh đạo các cuộc cách mạng dân
tộc, dân chủ đi đến thành công.
Tầng lớp tiểu sản Việt Nam: Bao gồm học sinh, tri thức, viên chức và những người
làm nghề tự do. Trong đó giới tri thức học sinh bộ phận quan trọng của tầng lớp tiểu
tư sản. Đời sống của tiểu tư sản Việt Nam bấp bênh và dễ bị phá sản trở thành những
ngườisản. Tiểu sản Việt Nam lòng yêu nước căm thù đế quốc thực dân bị ảnh
hưởng bởi những tư tưởng tiến bộ từ bên ngoài. Vì vậy, đây là lực lượng có tinh thần
cách mạng cao.
Tóm lại chính sách thống trị của thực dân Pháp đã tác động mạnh mẽ đếnhội Việt
Nam trên các lĩnh vực chính trị kinh tế văn hóa xã hội. Trong đó đặc biệt là sự ra đời của
hai giai cấp mới: công nhân và tư sản Việt Nam. Các giai cấp tầng lớp trong xã hội Việt
Nam lúc này đều mang thân phận của người dân mất nước ở những mức độ khác nhau
đều bị thực dân Pháp áp bức, bóc lột. Chính sách cai trị áp bức bóc lột của thực dân Pháp
và phong kiến tay sai đã tạo ra hai mâu thuẫn cơ bản trong xã hội Việt Nam: mâu thuẫn
giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với thực n Pháp xâm lược và mâu thuẫn giữa nhân n
Việt Nam với giai cấp địa chủ phong kiến. Trong đó mâu thuẫn chủ yếu nhất là mâu
thuẫn giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với thực dân Pháp xâm lược. nh chất của xã hội
Việt Nam là xã hội thuộc địa nửa phong kiến. Thực tiễn lịch sử Việt Nam đặt ra hai
nhiệm vụ cách mạng: một là, phải đánh đuổi thực dân Pháp xâm lược giành độc lập cho
dân tộc, tự do cho nhân dân; hai là, xóa bỏ chế độ phong kiến giành quyền tự chủ cho
nhân dân, chủ yếu là đất cho nông dân. Trong đó chống đế quốc giải phóng dân tộc là
nhiệm vụ hàng đầu.
1.1.1.2. Các phong trào yêu nước trước khi Đảng ra đời
Phong trào yêu nước theo khuynh hướng phong kiến tiêu biểu là:
Phong trào Cần Vương (1885-1896) do vua Hàm Nghi và cụ Tôn Thất Thuyết lãnh
đạo, hoạt động tại Bắc Kỳ và Trung Kỳ. (Ngày 13/7/1885 Vua Hàm Nghi xuống chiếu
Cần Vương, phong trào Cần Vương phát triển mạnh mẽ ra nhiều địa phương ở Bắc K
Trung KỳNam Kỳ. Ngày 1/11/1888, vua Hàm Nghi bị Pháp bắt nhưng phong trào vẫn
tiếp tục phát triển cho đến năm 1896 mới kết thúc. Thất bại của các phong trào trên đã
chứng tỏ hệ tư tưởng phong kiến không đủ điều kiện để lãnh đạo phong trào yêu nước
giải quyết thành công nhiệm vụ dân tộc Việt Nam).
Khởi nghĩa Ba Đình (1886-1887) do Phạm Bành và Đinh Công Tráng lãnh đạo diễn
ra tại Thanh Hóa.
Khởi nghĩa Bãi Sậy (1883-1892) do Nguyễn Thiện Thuật lãnh đạo, diễn ra các tỉnh
Hải Dương, Hải Phòng, Hưng Yên, Thái Bình.
Khởi nghĩa Hương Khê (1885-1896) do Phan Đình Phùng và Cao Thắng lãnh đạo,
diễn ra ở địa bàn Thanh Hóa, Nghệ An, Quảng Bình, Hà Tĩnh.
Khởi nghĩa nông dân Yên Thế (1885-1913) do Hoàng Hoa Thám và ơng Văn Nắm
lãnh đạo diễn ra tại Bắc Giang. Khởi nghĩa đã đánh thắng Pháp nhiều trận và gây cho
chúng nhiều có khó khăn, thiệt hại nhưng đến năm 1913 thì bị dập tắt.
Phong trào yêu nước theo khuynh hướng dân chủ tư sản: Đầu thế k XX phong trào
yêu nước ới sự lãnh đạo của tầng lớp phu tiến bộ chịu ảnh hưởng của tưởng dân
chủ sản diễn ra sôi nổi. Về mặt phương pháp, tầng lớp phu lãnh đạo phong trào giải
phóng dân tộc đầu thế kỷ XX có sự phân hóa thành hai xu hướng:
Đại diện của xu hướng bạo động là Phan Bội Châu ( 1867-1941)-quê Nghệ An với
chủ trương dùng biện pháp bạo động để đánh đuổi thực dân Pháp khôi phục nền độc lập
cho dân tộc - Phát động phong trào Đông Du đưa du học sinh Việt Nam sang Nhật học
tập. Chọn Nhật đây quốc gia “đồng văn, đồng chủng”, nền kinh tế phát triển mạnh,
hùng mạnh về quân sự.
Đại diện cho khuynh hướng cải cách là Phan Châu Trinh, với chủ trương vận động
cải cách văn hóa, xã hội; động viên lòng yêu nước cho nhân dân; đả kích bọn vua quan
phong kiến thối nát, đề xướng tư tưởng dân chủ tư sản; thực hiện khai dân trí, chấn dân
trí, hậu dân sinh, mở mang dân quyền; phản đối đấu tranh trang cầu viện nước ngoài,
cầu xin Pháp đến khai hóa cho Việt Nam.
Ngoài ra, trong thời kỳ này ở Việt nam còn nhiều phong trào đấu tranh khác như:
Phong trào Đông Kinh nghĩa thục (1907); Phong trào “tẩy chay Khách trú”(1919); Phong
trào chống độc quyền xuất nhập ở cảng Sài Gòn (1923); đấu tranh trong các hội đồng
quản hạt, hội đồng thành phố… đòi cải cách tự do dân chủ…
Từ trong phong trào đấu tranh các tổ chức Đảng phái ra đời: Đảng Lập hiến (năm
1923); Đảng Thanh niên (tháng 3-1926); Đảng Thanh niên cao vọng (năm 1926); Việt
Nam nghĩa đoàn (năm 1925). Sau nhiều lần đổi tên, tháng 7-1928 lấy tên Tân Việt cách
mạng Đảng; Việt Nam quốc dân Đảng (tháng 12-1927). Các đảng phái chính trị tư sản
tiểu tư sản trên đây đã góp phần thúc đẩy phong trào yêu nước chống Pháp trong đó nổi
bật là Tân Việt cách mạng Đảng và và Việt Nam Quốc dân Đảng.
Tóm lại trước yêu cầu lịch sử của xã hội Việt Nam, các phong trào đấu tranh chống
Pháp diễn ra sôi nổi. Mục tiêu của các cuộc đấu tranh ở thời kỳ này đều hướng tới giành
độc lập cho dân tộc nhưng trên các lập trường giai cấp khác nhau nhằm khôi phục chế đ
phong kiến hoặc thiết lập chế độ quân chủ lập hiến hoặc cao hơn là thiết lập chế độ cộng
hòa sản. Các phong trào đấu tranh diễn ra với các phương thứcbiện pháp khác nhau
bạo động hoặc cải cách với quan điểm và tập hợp lực lượng bên ngoài khác nhau: dựa
vào Pháp để thực hiện cải cách hoặc dựa vào ngoại viện để đánh Pháp nhưng cuối cùng
các cuộc đấu tranh đều thất bại.
Mặc dù thất bại nhưng sự phát triển mạnh mẽ của phong trào yêu nước cuối thế k
XIX đầu thế kỷ XX có ý nghĩa rất quan trọng. Nó là sự tiếp nối truyền thống yêu nước
kiên cường bất khuất vì độc lập tự do của dân tộc Việt Nam và chính sự phát triển của
phong trào yêu nước đã tạo sở thuận lợi cho việc tiếp nhận chủ nghĩa Mác-Lênin, quan
điểm cách mạng Hồ Chí Minh. Phong trào yêu nước trở thành một trong ba nhân tố dẫn
đến sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam.
1.1.2. Quá trình phát triển của các phong trào yêu nước theo khuynh hướng
sản sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam
1.1.2.1. Sự lựa chọn con đường cách mạng sản xây dựng luận về cách
mạng giải phóng dân tộc của Nguyễn Ái Quốc
Năm 1911 Nguyễn Tất Thành ra đi tìm đường cứu nước. Trong quá trình tìm đường
cứu nước, Người đã tìm hiểu kỹ các cuộc cách mạng điển hình trên thế giới. Người đánh
giá cao tưởng tự do bình đẳng bác áiquyền con người của cuộc cách mạng tiêu biểu
như cách mạng Mỹ (1776) cách mạng Pháp (1789) nhưng cũng nhận thức rõ những hạn
chế của các cuộc cách mạng tư sản. Từ đó Nguyễn Ái Quốc khẳng định con đường cách
mạng tư sản không thể đem lại độc lập và hạnh phúc thật sự cho nhân dân các nước nói
chung, nhân dân Việt Nam nói riêng.
Nguyễn Ái Quốc đặc biệt quan tâm, tìm hiểu cách mạng tháng 10 Nga năm 1917.
Người rút ra kết luận: “Trong thế giới bây giờ chỉ cách mệnh Nga là đã thành công
thành công đến nơi, nghĩa dân chúng được hưởng cái hạnh phúc tự do bình đẳng thật”.
Vào tháng 7-1920, Nguyễn Ái Quốc đọc bản thảo lần thứ nhất những luận
cương về vấn đề dân tộc vấn đề thuộc địa của Lênin đăng trên báo Nhân đạo. Người
tìm thấy trong luận cương của Lênin lời giải và con đường giải phóng cho nhân dân Việt
Nam và vấn đề thuộc địa trong mối quan hệ với phong trào cách mạng thế giới… Nguyễn
Ái Quốc đã đến với chủ nghĩa Mác Lênin.
Tại Đại hội Đảng Xã hội Pháp (tháng 12-1920). Nguyễn Ái Quốc bỏ phiếu tán
thành việc gia nhập quốc tế cộng sảntham gia thành lập Đảng Cộng sản Pháp. Sự kiện
này đánh dấu bước ngoặt trong cuộc đời hoạt động cách mạng của Nguyễn Ái Quốc từ
người yêu nước trở thành người cộng sản và tìm thấy con đường cứu nước đúng đắn:
“Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác ngoài con đường
cách mạng vô sản “.
Từ đây cùng với việc thực hiện nhiệm vụ đối với phong trào cộng sản quốc tế
Nguyễn Ái Quốc xúc tiến truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin, vạch phương hướng chiến
lược cách mạng Việt Nam và chuẩn bị điều kiện để thành lập Đảng cộng sản Việt Nam.
Tháng 11-1924, Nguyễn Ái Quốc đến Quảng Châu (Trung Quốc). Tháng 6-1925
người thành lập Hội Việt Nam cách mạng thanh niên. Chương trình điều lệ của hội nêu
rõ mục đích là: làm cách mạng dân tộc và cách mạng thế giới. Sau khi cách mạng thành
công, hội chủ trương thành lập chính phủ nhân dân, mưu cầu hạnh phúc cho nhân dân,
tiến lên xây dựng xã hội cộng sản chủ nghĩa thực hiện, đoàn kết với giai cấp vô sản các
nước, với phong trào cách mạng thế giới.
Từ năm 1925 đến năm 1927, Hội Việt Nam cách mạng thanh niên đã mở các lớp
huấn luyện chính trị cho cán bộ cách mạng Việt Nam. Hội đã xây dựng được nhiều sở
các trung tâm kinh tế chính trị trong nước. Năm 1928, hội thực hiện chủ trương “vô sản
hóa”, đưa hội viên vào nhà máy, hầm mỏ, đồn điền để rèn luyện lập trường quan điểm
giai cấp công nhân, để truyền bá chủ nghĩa Mác Lênin và lý luận giải phóng dân tộc vào
phong trào cách mạng Việt Nam.
Ngoài việc trực tiếp huấn luyện cán bộ của Hội Việt Nam cách mạng thanh niên,
Nguyễn Ái Quốc còn lựa chọn những thanh niên Việt Nam ưu gửi đi học lại trường
Đại học Phương Đông( Liên Xô)trường Lục Quân Hoàng phố (Trung Quốc) nhằm
đào tạo cán bộ cho cách mạng Việt Nam.
Năm 1927 bộ tuyên truyền của Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức xuất bản tác
phẩm Đường Cách Mệnh (tập hợp các bài giảng của Nguyễn Ái Quốc lớp huấn luyện
chính trị của Hội Việt Nam cách mạng thanh niên).
Đường Cách Mệnh chỉ tính chất và trách nhiệm của cách mạng Việt Nam cách
mạng giải phóng dân tộc mở đường tiến lên ch nghĩahội. Hai cuộc cách mạng này
quan hệ mật thiết với nhau; cách mạng là sự nghiệp của quần chúng là việc chung của cả
dân chúng chứ không phải việc của một hai người, do đó phải đoàn kết toàn dân nhưng
cái cốt của công nông và phải luôn ghi nhớ rằng công nông người chủ cách mệnh
công nông là gốc cách mệnh.
Nguyễn Ái Quốc khẳng định: Muốn thắng lợi thì cách mạng phải một Đảng lãnh
đạo, Đảng có vững cách mạng mới thành công cũng như người cầm lái có vững thuyền
mới chạy. Đảng vững thì phải có chủ nghĩa m cốt, chủ nghĩa chín chắn nhất, chắc chắn
nhất, cách mạng nhất là chủ nghĩa Lênin.
Về phương pháp cách mạng, Người nhấn mạnh đến việc phải giác ngộ và tổ chức
quần chúng cách mạng, phải làm cho quần chúng hiểu mục đích của cách mạng, biết
đồng tâm hiệp lực để đánh đổ giai cấp áp bức mình, làm cách mạng phải biết cách làm,
phải có “mưu chước”, có như thế mới đảm bảo thành công cho cuộc khởi nghĩa với sự
nổi dậy của toàn dân.
1.1.2.2. Phong trào yêu nước theo khuynh hướng sản sự ra đời của Đảng
Cộng sản Việt Nam
Sự phát triển phong trào yêu nước theo khuynh hướng sản
Từ đầu thế kỷ XX, cùng với sự phát triển của phong trào dân tộc trên lập trường tư
sản, phong trào công nhân chống lại sự áp bức bóc lột của sản thực dân cũng diễn ra từ
rất sớm. Trước chiến tranh thế giới thứ nhất, các cuộc đấu tranh của công nhân Việt Nam
trong giới chủ diễn ra với hình thức sơ khai như: bỏ trốn tập thể, phá giao kèo, đưa đơn
phản kháng… về sau tiến đến hình thức đấu tranh cao hơn như bãi công. Trong những
năm 1919-1925, phong trào công nhân diễn ra dưới các hình thức đình công, bãi ng,
tiêu biểu như các cuộc bãi công của công nhân Ba Son (Sài Gòn) do Tôn Đức Thắng tổ
chức (1925) và cuộc bãi công của công nhân nhà máy sợi Nam Định 30-4-1925 đòi chủ
nghĩa tư bản phải tăng lương, phải bỏ đánh đập…
Nhìn chung, phong trào công nhân năm 1919-1925 đã những bước phát triển so
với trước chiến tranh thế giới thứ nhất. Hình thức bãi công đã trởn phổ biến, các cuộc
đấu tranh của công nhân diễn ra quy mô lớn hơn với thời gian lâu hơn.
Trong những năm 1926-1929 phong trào công nhân dân dưới sự lãnh đạo của các tổ
chức như Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên, công hội đỏ và các tổ chức cộng sản ra
đời từ năm 1929. Các cuộc đấu tranh của công nhân Việt Nam mang tính chất chính trị
rệt, mỗi cuộc đấu tranh đã sự liên kết giữa các nhà máy, các ngành, và các địa phương.
Phong trào công nhân có sức lôi cuốn phong trào dân tộc theo con đường cách mạng vô
sản.
Cùng vào thời gian y phong trào yêu nước phát triển mạnh mẽ đặc biệt phong
trào nông dân, diễn ra nhiều nơi trong cả nước. Năm 1927, nông dân làng Ninh Thạnh
Lợi (Rạch Giá) đấu tranh chống bọn thực dân và chủ nghĩa chiếm ruộng đất. Nông dân
các tỉnh Nam, Nam Định, Ninh Bình, Thái Bình, Nghệ An, Tĩnh đấu tranh chống
bọn địa chủ cướp đất đòi chia ruộng công. Phong trào nông dân và công nhân đã hỗ trợ
lẫn nhau trong cuộc đấu tranh chống thực dân, phong kiến.
Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam
Chủ nghĩa Mác-Lênin và những tài liệu tuyên truyền của Nguyễn Ái Quốc được giai
cấp công nhân và nhân dân Việt Nam đón nhận như "người đi đường đang khát mà có
nước uống, đang đói mà có cơm ăn". Nó lôi cuốn những người yêu nước Việt Nam đi
theo con đường cách mạng vô sản. Phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân và nhiều
tầng lớp nhân dân phát triển mạnh mẽ, đòi hỏi phải có tổ chức Đảng chính trị lãnh đạo.
Chỉ trong một thời gian ngắn Việt Nam đã ba tổ chức cộng sản được tuyên bố
thành lập: Ở Bắc Kỳ có Đông Dương Cộng sản Đảng (6-1929). Ở Nam Kỳ có An Nam
Cộng sản Đảng (7-1929). Ở Trung Kỳ có Đông Dương Cộng sản Liên đoàn (9-1929).
Điều đó phản ánh xu thế tất yếu của cách mạng Việt Nam. Song, sự tồn tại của ba tổ chức
cộng sản hoạt động biệt lập trong một quốc gia có nguy cơ dẫn đến chia rẽ lớn. Yêu cầu
bức thiết của cách mạng cần một đảng thống nhất lãnh đạo. Nguyễn Ái Quốc, người
chiến cách mạng lỗi lạc của dân tộc Việt Nam, người duy nhất đủ năng lực và uy tín
đáp ứng nhu cầu đó của lịch sử: thống nhất các tổ chức cộng sản thành Đảng Cộng sản
duy nhất ở Việt Nam.
Ngày 3-2-1930, Hội nghi hợp nhất ba tổ chức cộng sản họp tại Cửu Long (Hương
Cảng, Trung Quốc) dưới sự chủ trì của đồng chí Nguyễn Ái Quốc đã diễn ra. Hội nghị
nhất trí thành lập đảng thống nhất, lấy tên Đảng Cộng sản Việt Nam, thông qua Chánh
cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Chương trình tóm tắt Điều lệ vắn tắt của Đảng, Điều
lệ tóm tắt của các hội quần chúng.
Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản Việt Nam mang tầm vóc lịch sử như một
Đại hội thành lập Đảng. Đảng được thành lập là kết quả của cuộc đấu tranh giai cấp và
đấu tranh dân tộc nước ta trong những năm đầu thế kỷ XX; sản phẩm của sự kết hợp
chủ nghĩa Mác-Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước; là kết quả của
quá trình lựa chọn, sàng lọc nghiêm khắc của lịch sử kết quả của quá trình chuẩn bị
đầy đủ về chính trị, tư tưởng và tổ chức của một tập thể chiến sĩ cách mạng, đứng đầu
đồng chí Nguyễn Ái Quốc. Đó là một mốc lớn đánh dấu bước ngoặt trọng đại trong lịch
sử cách mạng Việt Nam, chấm dứt cuộc khủng hoảng về đường lối cứu nước.
Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam với Cương lĩnh, đường lối cách mng đúng
đắn chứng tỏ giai cấp công nhân Việt Nam đã trưởng thành, đủ sức lãnh đạo cách mạng.
1.2. Cương lĩnh chính trị đầu tiên
Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo và được Hội
nghị thành lập Đảng thông qua đã xác định phương hướng chiến lược của cách mạng Việt
Nam là “làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng
sản”. Đó một quá trình phát triển lâu dài, phải trải qua những giai đoạn chiến lược khác
nhau, mà trước tiên là giành độc lập dân tộc.
Nội dung bản trong Cương lĩnh đã xác định về đường lối, nhiệm vụ, lực lượng
và mối quan hệ của cách mạng Việt Nam trong bối cảnh sau khi thành lập Đảng. Cụ thể,
về đường lối chiến lược là làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi
tới xã hội cộng sản.
Cương lĩnh xác địnhc nhiệm vụ trước mắt của cách mạng Việt Nam bao gồm cả
hai nội dung dân tộc dân chủ, chống đế quốc và chống phong kiến, song nổi lên hàng
đầu là nhiệm vụ chống Đế Quốc giành độc lập dân tộc. Cụ thể:
Một là, Cương lĩnh xác định rõ nhiệm vụ, mục tiêu cơ bản của cách mạng tư sản
dân quyền (sau này gọi là cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân) là chống đế quốc, chống
phong kiến, thực hiện độc lập dân tộc và người cày có ruộng. Xuất phát từ chế độ thuộc
địa nửa phong kiến, Cương lĩnh đã phân tích mối quan hệ gắn bó giữa hai nhiệm vụ cơ
bản chống đế quốc chống phong kiến gắnchặt chẽ với nhau nhưng trước hết phải
đánh đổ đế quốc, “làm cho nước Việt Nam hoàn toàn độc lập”. Đây là cơ sở để giải
phóng giai cấp, giải phóng xã hội và giải phóng con người. Chỉ có độc lập tự do của đất
nước mới đủ điều kiện để thực hiện quyền con người, quyền công dân.
Hai là, chiến lược đại đoàn kết toàn dân tộc được xây dựng từ Cương lĩnh chính trị
đầu tiên là tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt cách mạng Việt Nam trong cách mạng dân tộc
dân chủ nhân dân đến xây dựng đất nước theo định hướng XHCN hiện nay. tưởng y
thể hiện rõ trong Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt của Đảng về các lực lượng cách
mạng. Những lực lượng như tiểu tư sản, trí thức, trung, tiểu địa chủ đều được Đảng chủ
trương tập hợp, đoàn kết lại trong lực lượng cách mạng do công nông làm nòng cốt.
Chủ nghĩa yêu nước là nền tảng cơ sở cho sự thống nhất trong khác biệt nhằm tập
hợp lực lượng, tạo ra sức mạnh tổng hợp của một đất nước tiềm lực kinh tế, quân sự
không lớn, người không đông, lại phải đối mặt với các thế lực đế quốc đầu sỏ. Hiện nay,
khi tình hình Biển Đông không bình yên, chủ quyền biển, đảo đang bị đe dọa, hơn bao
giờ hết việc phát huy sức mạnh toàn dân tộc, tranh thủ sức mạnh quốc tế yếu tố quyết
định để bảo vệ vững chắc chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ.
Ba là, xác định sứ mệnh lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Cùng với Chánh
cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt của Đảng, Hội nghị thông qua Điều lệ vắn tắtLời kêu
gọi nhân dịp thành lập Đảng. Các văn kiện này chỉ rõ: Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng
của giai cấpsản; Đảng được tổ chức ra để dìu dắt giai cấpsản lãnh đạo quần chúng
lao khổ đấu tranh giải phóng toàn thể anh chị em bị áp bức, bóc lột “để tiêu trừ tư bản đế
quốc chủ nghĩa, làm cho thực hiện xã hội cộng sản”.
Với cương lĩnh chính trị đúng đắn, ngay từ khi ra đời Đảng đã trở thành lực lượng
lãnh đạo, tập hợp xung quanh mình toàn thể dân tộc làm cách mạng. Chủ tịch Hồ Chí
Minh khẳng định: “Cương lĩnh ấy rất phù hợp với nguyện vọng thiết tha của đại đa số
nhân dân ta là nông dân. Vì vậy, Đảng đã đoàn kết được những lực lượng cách mạng to
lớn chung quanh giai cấp mình. Còn các đảng phái của các giai cấp khác thì hoặc bị phá
sản, hoặc bị cô lập. Do đó, quyền lãnh đạo của Đảng ta - Đảng của giai cấp công nhân -
không ngừng củng cố tăng cường”. Dưới ánh sáng soi đường của Cương lĩnh Đảng ta
đã dẫn dắt toàn dân tộc vượt qua mọi khó khăn, thử thách, thực hiện thắng lợi mục tiêu
giải phóng dân tộc, giải phóng hộiđang trên đườngy dựng nước Việt Nam giàu,
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Tiểu kết chương 1
Trước sự xâm lược của thực dân Pháp, các phong trào yêu nước của Nhân dân ta
chống thực dân Pháp diễn ra liên tục sôi nổi nhưng đều không mang lại kết quả. Phong
trào Cần ơng - phong trào yêu nước theo ý thức hệ phong kiến, do giai cấp phong kiến
lãnh đạo đã chấm dứt cuối thế kỷ XIX với cuộc khởi nghĩa của Phan Đình Phùng (năm
1896). Sang đầu thế kXX, khuynh hướng này không còn là khuynh ớng tiêu biểu
nữa. Phong trào nông dân, tiêu biểu cuộc khởi nghĩa Yên Thế của Hoàng Hoa Thám
kéo dài mấy chục năm cũng thất bại vào m 1913. Phong trào yêu nước theo khuynh
hướng dân chủ sản do các cụ Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh lãnh đạo cũng rơi vào bế
tắc. Cuộc khởi nghĩa Yên Bái do Nguyễn Thái Học lãnh đạo cũng bị thất bại.
Các phong trào yêu nước từ cuối thế kXIX đầu thế kỷ XX sự tiếp nối truyền
thống yêu ớc, bất khuất của dân tộc ta được hun đúc qua hàng ngàn m lịch sử.
Nhưng do thiếu đường lối đúng đắn, thiếu tchức lực lượng cần thiết nên các phong
trào đó đã lần lượt thất bại. Cách mạng Việt Nam chìm trong cuộc khủng hoảng sâu sắc
về đường lối cứu nước.
Tuy nhiên, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời với Cương lĩnh chính trị đầu tiên đã mở
ra thời mới cho cách mạng Việt Nam thời kì đấu tranh giành độc lập dân tộc tiến lên
chủ nghĩa hội. Cương lĩnh đầu tiên của Đảng ra đời, đã xác định được những nội dung
bản nhất của con đường cách mạng Việt Nam; đáp ng được những nhu cầu bức thiết
của lịch sử trthành ngọn cờ tập hợp, đoàn kết thống nhất các tổ chức cộng sản, các
lực lượng cách mạng và toàn thể dân tộc.
Sự kiện thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam một bước ngoặt cùng quan trọng
của lịch sử cách mạng Việt Nam, quyết định sự phát triển của dân tộc, chấm dứt sự khủng
hoảng về đường lối tổ chức lãnh đạo của phong trào yêu nước Việt Nam đầu thế kỷ
XX. Đó kết quả của sự vận động, phát triển thống nhất phong trào cách mạng trong
cả nước; sự chuẩn bị công phu về mọi mặt của Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc sự đoàn kết
nhất trí của những chiến sỹ tiên phong vì lợi ích của giai cấp, của dân tộc.
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là thành quả của sự kết hợp chủ nghĩa Mác-Lênin
với phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam; chứng tỏ giai cấp công nhân
Việt Nam đã trưởng thành, đủ sức lãnh đạo cách mạng.
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời và việc Đảng chủ trương cách mạng Việt Nam là
một bộ phận của phong trào cách mạng thế giới, đã tranh thủ được sự ủng hộ to lớn của
cách mạng thế giới, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh của thời đại làm nên những
thắng lợi vẻ vang; đồng thời đóng góp tích cực vào sự nghiệp đấu tranh vì hòa bình, độc
lập dân tộc và tiến bộ của nhân loại trên thế giới.
| 1/10

Preview text:

1.1. Bối cảnh lịch sử 1.1.1.
Bối cảnh Việt Nam dưới chính sách thống trị khai thác thuộc địa của
thực dân Pháp các phong trào yêu nước theo khuynh hướng chính trị phong kiến
sản 1.1.1.1.
Bối cảnh Việt Nam
Chính sách cai trị của thực dân Pháp:
Năm 1858, thực dân Pháp nổ súng xâm lược Việt Nam. Sau khi tạm thời dập tắt được
các phong trào đấu tranh của nhân dân ta, thực dân Pháp từng bước thiết lập bộ máy thống trị ở Việt Nam.
Về chính trị, thực dân Pháp áp đặt chính sách cai trị thực dân, tước bỏ quyền lực đối
nội và đối ngoại của chính quyền phong kiến nhà Nguyễn; chia Việt Nam ra thành ba xứ:
Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ và thực hiện ở mỗi kỳ một chế độ cai trị riêng. Đồng thời với
chính sách nham hiểm này, thực dân Pháp câu kết với giai cấp địa chủ trong việc bóc lột
kinh tế và áp bức chính trị đối với nhân dân Việt Nam.
Về kinh tế, thực dân Pháp tiến hành cướp đoạt ruộng đất để lập đồn điền, đầu tư khai
thác tài nguyên, xây dựng một số cơ sở công nghiệp, xây dựng hệ thống đường giao
thông, bến cảng phục vụ cho lợi ích của chúng. Chính sách khai thác thuộc địa của Pháp
đã tạo sự chuyển biến đối với nền kinh tế Việt Nam (hình thành một số ngành kinh tế
mới…) những cũng dẫn đến hậu quả là nền kinh tế nước ta bị lệ thuộc vào tư bản Pháp,
bị kìm hãm trong vòng lạc hậu.
Về văn hóa, thực dân Pháp thực hiện chính sách văn hóa giáo dục thực dân, dung
túng, duy trì các hủ tục lạc hậu. Nguyễn Ái Quốc đã vạch rõ tội ác của chế độ cai trị thực
dân ở Đông Dương, “chúng tôi không những bị áp bức và bóc lột một cách nhục nhã, mà
còn bị hành hạ và đầu độc một cách thê thảm... bằng thuốc phiện, bằng rượu… chúng tôi
phải sống trong cảnh ngu dốt tối tăm vì chúng tôi không có quyền tự do học tập”.
Tình hình giai cấp mâu thuẫn bản trong hội Việt Nam
Dưới tác động của chính sách cai trị và chính sách kinh tế, văn hóa, giáo dục thực
dân, xã hội Việt Nam diễn ra quá trình phân hóa sâu sắc.
Giai cấp địa chủ: Giai cấp địa chủ câu kết với thực dân Pháp tăng cường bóc lột, áp
bức nông dân. Tuy nhiên, trong nội bộ giai cấp địa chủ Việt Nam lúc này có sự phân hóa,
một bộ phận địa chủ có lòng yêu nước, căm ghét chế độ thực dân đã tham gia đấu tranh
chống Pháp dưới các hình thức và mức độ khác nhau.
Giai cấp nông dân: Giai cấp nông dân là lực lượng đông đảo nhất trong xã hội Việt
Nam, bị thực dân và phong kiến áp bức, bóc lột nặng nề. Tình cảnh khốn khổ, bần cùng
của giai cấp nông dân Việt Nam đã làm tăng lòng căm thù đế quốc và phong kiến tay sai,
làm tăng thêm ý chí cách mạng của họ trong cuộc đấu tranh giành lại ruộng đất và quyền sống tự do.
Giai cấp công nhân Việt Nam: Ra đời từ cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất của
thực dân Pháp, giai cấp công nhân tập trung nhiều ở các thành phố và vùng mỏ như: Hà
Nội, Sài Gòn, Hải Phòng, Nam Định, Vinh, Quảng Ninh.
Đa số công nhân Việt Nam trực tiếp xuất thân từ giai cấp nông dân, là nạn nhân của
chính sách chiếm đoạt ruộng đất mà thực dân Pháp thi hành ở Việt Nam. Vì vậy, giai cấp
công nhân có quan hệ trực tiếp và chặt chẽ với giai cấp nông dân. Giai cấp công nhân
Việt Nam bị đế quốc, phong kiến áp bức, bóc lột.
Giai cấp tư sản Việt Nam: Bao gồm tư sản công nghiệp, tư sản thương nghiệp… Ngay
từ khi ra đời, giai cấp tư sản Việt Nam đã bị tư sản Pháp và tư sản người Hoa cạnh tranh,
chèn ép, do đó thế lực kinh tế và địa vị của giai cấp tư sản Việt Nam nhỏ bé, yếu ớt. Vì
vậy, giai cấp tư sản Việt Nam không đủ điều kiện để lãnh đạo các cuộc cách mạng dân
tộc, dân chủ đi đến thành công.
Tầng lớp tiểu tư sản Việt Nam: Bao gồm học sinh, tri thức, viên chức và những người
làm nghề tự do. Trong đó giới tri thức và học sinh là bộ phận quan trọng của tầng lớp tiểu
tư sản. Đời sống của tiểu tư sản Việt Nam bấp bênh và dễ bị phá sản trở thành những
người vô sản. Tiểu tư sản Việt Nam có lòng yêu nước căm thù đế quốc thực dân và bị ảnh
hưởng bởi những tư tưởng tiến bộ từ bên ngoài. Vì vậy, đây là lực lượng có tinh thần cách mạng cao.
Tóm lại chính sách thống trị của thực dân Pháp đã tác động mạnh mẽ đến xã hội Việt
Nam trên các lĩnh vực chính trị kinh tế văn hóa xã hội. Trong đó đặc biệt là sự ra đời của
hai giai cấp mới: công nhân và tư sản Việt Nam. Các giai cấp tầng lớp trong xã hội Việt
Nam lúc này đều mang thân phận của người dân mất nước ở những mức độ khác nhau
đều bị thực dân Pháp áp bức, bóc lột. Chính sách cai trị áp bức bóc lột của thực dân Pháp
và phong kiến tay sai đã tạo ra hai mâu thuẫn cơ bản trong xã hội Việt Nam: mâu thuẫn
giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với thực dân Pháp xâm lược và mâu thuẫn giữa nhân dân
Việt Nam với giai cấp địa chủ phong kiến. Trong đó mâu thuẫn chủ yếu nhất là mâu
thuẫn giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với thực dân Pháp xâm lược. Tính chất của xã hội
Việt Nam là xã hội thuộc địa nửa phong kiến. Thực tiễn lịch sử Việt Nam đặt ra hai
nhiệm vụ cách mạng: một là, phải đánh đuổi thực dân Pháp xâm lược giành độc lập cho
dân tộc, tự do cho nhân dân; hai là, xóa bỏ chế độ phong kiến giành quyền tự chủ cho
nhân dân, chủ yếu là đất cho nông dân. Trong đó chống đế quốc giải phóng dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu. 1.1.1.2.
Các phong trào yêu nước trước khi Đảng ra đời
Phong trào yêu nước theo khuynh hướng phong kiến tiêu biểu là:
Phong trào Cần Vương (1885-1896) do vua Hàm Nghi và cụ Tôn Thất Thuyết lãnh
đạo, hoạt động tại Bắc Kỳ và Trung Kỳ. (Ngày 13/7/1885 Vua Hàm Nghi xuống chiếu
Cần Vương, phong trào Cần Vương phát triển mạnh mẽ ra nhiều địa phương ở Bắc Kỳ
Trung Kỳ và Nam Kỳ. Ngày 1/11/1888, vua Hàm Nghi bị Pháp bắt nhưng phong trào vẫn
tiếp tục phát triển cho đến năm 1896 mới kết thúc. Thất bại của các phong trào trên đã
chứng tỏ hệ tư tưởng phong kiến không đủ điều kiện để lãnh đạo phong trào yêu nước
giải quyết thành công nhiệm vụ dân tộc Việt Nam).
Khởi nghĩa Ba Đình (1886-1887) do Phạm Bành và Đinh Công Tráng lãnh đạo diễn ra tại Thanh Hóa.
Khởi nghĩa Bãi Sậy (1883-1892) do Nguyễn Thiện Thuật lãnh đạo, diễn ra ở các tỉnh
Hải Dương, Hải Phòng, Hưng Yên, Thái Bình.
Khởi nghĩa Hương Khê (1885-1896) do Phan Đình Phùng và Cao Thắng lãnh đạo,
diễn ra ở địa bàn Thanh Hóa, Nghệ An, Quảng Bình, Hà Tĩnh.
Khởi nghĩa nông dân Yên Thế (1885-1913) do Hoàng Hoa Thám và Lương Văn Nắm
lãnh đạo diễn ra tại Bắc Giang. Khởi nghĩa đã đánh thắng Pháp nhiều trận và gây cho
chúng nhiều có khó khăn, thiệt hại nhưng đến năm 1913 thì bị dập tắt.
Phong trào yêu nước theo khuynh hướng dân chủ tư sản: Đầu thế kỷ XX phong trào
yêu nước dưới sự lãnh đạo của tầng lớp sĩ phu tiến bộ chịu ảnh hưởng của tư tưởng dân
chủ tư sản diễn ra sôi nổi. Về mặt phương pháp, tầng lớp sĩ phu lãnh đạo phong trào giải
phóng dân tộc đầu thế kỷ XX có sự phân hóa thành hai xu hướng:
Đại diện của xu hướng bạo động là Phan Bội Châu ( 1867-1941)-quê Nghệ An với
chủ trương dùng biện pháp bạo động để đánh đuổi thực dân Pháp khôi phục nền độc lập
cho dân tộc - Phát động phong trào Đông Du đưa du học sinh Việt Nam sang Nhật học
tập. Chọn Nhật vì đây là quốc gia “đồng văn, đồng chủng”, nền kinh tế phát triển mạnh, hùng mạnh về quân sự.
Đại diện cho khuynh hướng cải cách là Phan Châu Trinh, với chủ trương vận động
cải cách văn hóa, xã hội; động viên lòng yêu nước cho nhân dân; đả kích bọn vua quan
phong kiến thối nát, đề xướng tư tưởng dân chủ tư sản; thực hiện khai dân trí, chấn dân
trí, hậu dân sinh, mở mang dân quyền; phản đối đấu tranh vũ trang cầu viện nước ngoài,
cầu xin Pháp đến khai hóa cho Việt Nam.
Ngoài ra, trong thời kỳ này ở Việt nam còn nhiều phong trào đấu tranh khác như:
Phong trào Đông Kinh nghĩa thục (1907); Phong trào “tẩy chay Khách trú”(1919); Phong
trào chống độc quyền xuất nhập ở cảng Sài Gòn (1923); đấu tranh trong các hội đồng
quản hạt, hội đồng thành phố… đòi cải cách tự do dân chủ…
Từ trong phong trào đấu tranh các tổ chức Đảng phái ra đời: Đảng Lập hiến (năm
1923); Đảng Thanh niên (tháng 3-1926); Đảng Thanh niên cao vọng (năm 1926); Việt
Nam nghĩa đoàn (năm 1925). Sau nhiều lần đổi tên, tháng 7-1928 lấy tên là Tân Việt cách
mạng Đảng; Việt Nam quốc dân Đảng (tháng 12-1927). Các đảng phái chính trị tư sản và
tiểu tư sản trên đây đã góp phần thúc đẩy phong trào yêu nước chống Pháp trong đó nổi
bật là Tân Việt cách mạng Đảng và và Việt Nam Quốc dân Đảng.
Tóm lại trước yêu cầu lịch sử của xã hội Việt Nam, các phong trào đấu tranh chống
Pháp diễn ra sôi nổi. Mục tiêu của các cuộc đấu tranh ở thời kỳ này đều hướng tới giành
độc lập cho dân tộc nhưng trên các lập trường giai cấp khác nhau nhằm khôi phục chế độ
phong kiến hoặc thiết lập chế độ quân chủ lập hiến hoặc cao hơn là thiết lập chế độ cộng
hòa tư sản. Các phong trào đấu tranh diễn ra với các phương thức và biện pháp khác nhau
bạo động hoặc cải cách với quan điểm và tập hợp lực lượng bên ngoài khác nhau: dựa
vào Pháp để thực hiện cải cách hoặc dựa vào ngoại viện để đánh Pháp nhưng cuối cùng
các cuộc đấu tranh đều thất bại.
Mặc dù thất bại nhưng sự phát triển mạnh mẽ của phong trào yêu nước cuối thế kỷ
XIX đầu thế kỷ XX có ý nghĩa rất quan trọng. Nó là sự tiếp nối truyền thống yêu nước
kiên cường bất khuất vì độc lập tự do của dân tộc Việt Nam và chính sự phát triển của
phong trào yêu nước đã tạo cơ sở thuận lợi cho việc tiếp nhận chủ nghĩa Mác-Lênin, quan
điểm cách mạng Hồ Chí Minh. Phong trào yêu nước trở thành một trong ba nhân tố dẫn
đến sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam. 1.1.2.
Quá trình phát triển của các phong trào yêu nước theo khuynh hướng
sản sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam
1.1.2.1. Sự lựa chọn con đường cách mạng sản xây dựng luận về cách
mạng giải phóng dân tộc của Nguyễn Ái Quốc
Năm 1911 Nguyễn Tất Thành ra đi tìm đường cứu nước. Trong quá trình tìm đường
cứu nước, Người đã tìm hiểu kỹ các cuộc cách mạng điển hình trên thế giới. Người đánh
giá cao tư tưởng tự do bình đẳng bác ái và quyền con người của cuộc cách mạng tiêu biểu
như cách mạng Mỹ (1776) cách mạng Pháp (1789) nhưng cũng nhận thức rõ những hạn
chế của các cuộc cách mạng tư sản. Từ đó Nguyễn Ái Quốc khẳng định con đường cách
mạng tư sản không thể đem lại độc lập và hạnh phúc thật sự cho nhân dân các nước nói
chung, nhân dân Việt Nam nói riêng.
Nguyễn Ái Quốc đặc biệt quan tâm, tìm hiểu cách mạng tháng 10 Nga năm 1917.
Người rút ra kết luận: “Trong thế giới bây giờ chỉ có cách mệnh Nga là đã thành công và
thành công đến nơi, nghĩa là dân chúng được hưởng cái hạnh phúc tự do bình đẳng thật”.
Vào tháng 7-1920, Nguyễn Ái Quốc đọc bản thảo lần thứ nhất những luận
cương về vấn đề dân tộc vấn đề thuộc địa của Lênin đăng trên báo Nhân đạo. Người
tìm thấy trong luận cương của Lênin lời giải và con đường giải phóng cho nhân dân Việt
Nam và vấn đề thuộc địa trong mối quan hệ với phong trào cách mạng thế giới… Nguyễn
Ái Quốc đã đến với chủ nghĩa Mác Lênin.
Tại Đại hội Đảng Xã hội Pháp (tháng 12-1920). Nguyễn Ái Quốc bỏ phiếu tán
thành việc gia nhập quốc tế cộng sản và tham gia thành lập Đảng Cộng sản Pháp. Sự kiện
này đánh dấu bước ngoặt trong cuộc đời hoạt động cách mạng của Nguyễn Ái Quốc từ
người yêu nước trở thành người cộng sản và tìm thấy con đường cứu nước đúng đắn:
“Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác ngoài con đường cách mạng vô sản “.
Từ đây cùng với việc thực hiện nhiệm vụ đối với phong trào cộng sản quốc tế
Nguyễn Ái Quốc xúc tiến truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin, vạch phương hướng chiến
lược cách mạng Việt Nam và chuẩn bị điều kiện để thành lập Đảng cộng sản Việt Nam.
Tháng 11-1924, Nguyễn Ái Quốc đến Quảng Châu (Trung Quốc). Tháng 6-1925
người thành lập Hội Việt Nam cách mạng thanh niên. Chương trình và điều lệ của hội nêu
rõ mục đích là: làm cách mạng dân tộc và cách mạng thế giới. Sau khi cách mạng thành
công, hội chủ trương thành lập chính phủ nhân dân, mưu cầu hạnh phúc cho nhân dân,
tiến lên xây dựng xã hội cộng sản chủ nghĩa thực hiện, đoàn kết với giai cấp vô sản các
nước, với phong trào cách mạng thế giới.
Từ năm 1925 đến năm 1927, Hội Việt Nam cách mạng thanh niên đã mở các lớp
huấn luyện chính trị cho cán bộ cách mạng Việt Nam. Hội đã xây dựng được nhiều cơ sở
ở các trung tâm kinh tế chính trị trong nước. Năm 1928, hội thực hiện chủ trương “vô sản
hóa”, đưa hội viên vào nhà máy, hầm mỏ, đồn điền để rèn luyện lập trường quan điểm
giai cấp công nhân, để truyền bá chủ nghĩa Mác Lênin và lý luận giải phóng dân tộc vào
phong trào cách mạng Việt Nam.
Ngoài việc trực tiếp huấn luyện cán bộ của Hội Việt Nam cách mạng thanh niên,
Nguyễn Ái Quốc còn lựa chọn những thanh niên Việt Nam ưu tú gửi đi học lại trường
Đại học Phương Đông( Liên Xô) và trường Lục Quân Hoàng phố (Trung Quốc) nhằm
đào tạo cán bộ cho cách mạng Việt Nam.
Năm 1927 bộ tuyên truyền của Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức xuất bản tác
phẩm Đường Cách Mệnh (tập hợp các bài giảng của Nguyễn Ái Quốc ở lớp huấn luyện
chính trị của Hội Việt Nam cách mạng thanh niên).
Đường Cách Mệnh chỉ rõ tính chất và trách nhiệm của cách mạng Việt Nam là cách
mạng giải phóng dân tộc mở đường tiến lên chủ nghĩa xã hội. Hai cuộc cách mạng này có
quan hệ mật thiết với nhau; cách mạng là sự nghiệp của quần chúng là việc chung của cả
dân chúng chứ không phải là việc của một hai người, do đó phải đoàn kết toàn dân nhưng
cái cốt của nó là công nông và phải luôn ghi nhớ rằng công nông là người chủ cách mệnh
công nông là gốc cách mệnh.
Nguyễn Ái Quốc khẳng định: Muốn thắng lợi thì cách mạng phải có một Đảng lãnh
đạo, Đảng có vững cách mạng mới thành công cũng như người cầm lái có vững thuyền
mới chạy. Đảng vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt, chủ nghĩa chín chắn nhất, chắc chắn
nhất, cách mạng nhất là chủ nghĩa Lênin.
Về phương pháp cách mạng, Người nhấn mạnh đến việc phải giác ngộ và tổ chức
quần chúng cách mạng, phải làm cho quần chúng hiểu rõ mục đích của cách mạng, biết
đồng tâm hiệp lực để đánh đổ giai cấp áp bức mình, làm cách mạng phải biết cách làm,
phải có “mưu chước”, có như thế mới đảm bảo thành công cho cuộc khởi nghĩa với sự nổi dậy của toàn dân.
1.1.2.2. Phong trào yêu nước theo khuynh hướng sản sự ra đời của Đảng
Cộng sản Việt Nam
Sự phát triển phong trào yêu nước theo khuynh hướng sản
Từ đầu thế kỷ XX, cùng với sự phát triển của phong trào dân tộc trên lập trường tư
sản, phong trào công nhân chống lại sự áp bức bóc lột của tư sản thực dân cũng diễn ra từ
rất sớm. Trước chiến tranh thế giới thứ nhất, các cuộc đấu tranh của công nhân Việt Nam
trong giới chủ diễn ra với hình thức sơ khai như: bỏ trốn tập thể, phá giao kèo, đưa đơn
phản kháng… về sau tiến đến hình thức đấu tranh cao hơn như bãi công. Trong những
năm 1919-1925, phong trào công nhân diễn ra dưới các hình thức đình công, bãi công,
tiêu biểu như các cuộc bãi công của công nhân Ba Son (Sài Gòn) do Tôn Đức Thắng tổ
chức (1925) và cuộc bãi công của công nhân nhà máy sợi Nam Định 30-4-1925 đòi chủ
nghĩa tư bản phải tăng lương, phải bỏ đánh đập…
Nhìn chung, phong trào công nhân năm 1919-1925 đã có những bước phát triển so
với trước chiến tranh thế giới thứ nhất. Hình thức bãi công đã trở nên phổ biến, các cuộc
đấu tranh của công nhân diễn ra quy mô lớn hơn với thời gian lâu hơn.
Trong những năm 1926-1929 phong trào công nhân dân dưới sự lãnh đạo của các tổ
chức như Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên, công hội đỏ và các tổ chức cộng sản ra
đời từ năm 1929. Các cuộc đấu tranh của công nhân Việt Nam mang tính chất chính trị rõ
rệt, mỗi cuộc đấu tranh đã có sự liên kết giữa các nhà máy, các ngành, và các địa phương.
Phong trào công nhân có sức lôi cuốn phong trào dân tộc theo con đường cách mạng vô sản.
Cùng vào thời gian này phong trào yêu nước phát triển mạnh mẽ đặc biệt là phong
trào nông dân, diễn ra ở nhiều nơi trong cả nước. Năm 1927, nông dân làng Ninh Thạnh
Lợi (Rạch Giá) đấu tranh chống bọn thực dân và chủ nghĩa chiếm ruộng đất. Nông dân
các tỉnh Hà Nam, Nam Định, Ninh Bình, Thái Bình, Nghệ An, Hà Tĩnh đấu tranh chống
bọn địa chủ cướp đất đòi chia ruộng công. Phong trào nông dân và công nhân đã hỗ trợ
lẫn nhau trong cuộc đấu tranh chống thực dân, phong kiến.
Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam
Chủ nghĩa Mác-Lênin và những tài liệu tuyên truyền của Nguyễn Ái Quốc được giai
cấp công nhân và nhân dân Việt Nam đón nhận như "người đi đường đang khát mà có
nước uống, đang đói mà có cơm ăn". Nó lôi cuốn những người yêu nước Việt Nam đi
theo con đường cách mạng vô sản. Phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân và nhiều
tầng lớp nhân dân phát triển mạnh mẽ, đòi hỏi phải có tổ chức Đảng chính trị lãnh đạo.
Chỉ trong một thời gian ngắn ở Việt Nam đã có ba tổ chức cộng sản được tuyên bố
thành lập: Ở Bắc Kỳ có Đông Dương Cộng sản Đảng (6-1929). Ở Nam Kỳ có An Nam
Cộng sản Đảng (7-1929). Ở Trung Kỳ có Đông Dương Cộng sản Liên đoàn (9-1929).
Điều đó phản ánh xu thế tất yếu của cách mạng Việt Nam. Song, sự tồn tại của ba tổ chức
cộng sản hoạt động biệt lập trong một quốc gia có nguy cơ dẫn đến chia rẽ lớn. Yêu cầu
bức thiết của cách mạng là cần có một đảng thống nhất lãnh đạo. Nguyễn Ái Quốc, người
chiến sĩ cách mạng lỗi lạc của dân tộc Việt Nam, người duy nhất có đủ năng lực và uy tín
đáp ứng nhu cầu đó của lịch sử: thống nhất các tổ chức cộng sản thành Đảng Cộng sản duy nhất ở Việt Nam.
Ngày 3-2-1930, Hội nghi hợp nhất ba tổ chức cộng sản họp tại Cửu Long (Hương
Cảng, Trung Quốc) dưới sự chủ trì của đồng chí Nguyễn Ái Quốc đã diễn ra. Hội nghị
nhất trí thành lập đảng thống nhất, lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam, thông qua Chánh
cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Chương trình tóm tắt và Điều lệ vắn tắt của Đảng, Điều
lệ tóm tắt của các hội quần chúng.
Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản Việt Nam mang tầm vóc lịch sử như là một
Đại hội thành lập Đảng. Đảng được thành lập là kết quả của cuộc đấu tranh giai cấp và
đấu tranh dân tộc ở nước ta trong những năm đầu thế kỷ XX; là sản phẩm của sự kết hợp
chủ nghĩa Mác-Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước; là kết quả của
quá trình lựa chọn, sàng lọc nghiêm khắc của lịch sử và là kết quả của quá trình chuẩn bị
đầy đủ về chính trị, tư tưởng và tổ chức của một tập thể chiến sĩ cách mạng, đứng đầu là
đồng chí Nguyễn Ái Quốc. Đó là một mốc lớn đánh dấu bước ngoặt trọng đại trong lịch
sử cách mạng Việt Nam, chấm dứt cuộc khủng hoảng về đường lối cứu nước.
Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam với Cương lĩnh, đường lối cách mạng đúng
đắn chứng tỏ giai cấp công nhân Việt Nam đã trưởng thành, đủ sức lãnh đạo cách mạng.
1.2. Cương lĩnh chính trị đầu tiên
Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo và được Hội
nghị thành lập Đảng thông qua đã xác định phương hướng chiến lược của cách mạng Việt
Nam là “làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng
sản”. Đó là một quá trình phát triển lâu dài, phải trải qua những giai đoạn chiến lược khác
nhau, mà trước tiên là giành độc lập dân tộc.
Nội dung cơ bản trong Cương lĩnh đã xác định rõ về đường lối, nhiệm vụ, lực lượng
và mối quan hệ của cách mạng Việt Nam trong bối cảnh sau khi thành lập Đảng. Cụ thể,
về đường lối chiến lược là làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản.
Cương lĩnh xác định các nhiệm vụ trước mắt của cách mạng Việt Nam bao gồm cả
hai nội dung dân tộc và dân chủ, chống đế quốc và chống phong kiến, song nổi lên hàng
đầu là nhiệm vụ chống Đế Quốc giành độc lập dân tộc. Cụ thể:
Một là, Cương lĩnh xác định rõ nhiệm vụ, mục tiêu cơ bản của cách mạng tư sản
dân quyền (sau này gọi là cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân) là chống đế quốc, chống
phong kiến, thực hiện độc lập dân tộc và người cày có ruộng. Xuất phát từ chế độ thuộc
địa nửa phong kiến, Cương lĩnh đã phân tích mối quan hệ gắn bó giữa hai nhiệm vụ cơ
bản là chống đế quốc và chống phong kiến gắn bó chặt chẽ với nhau nhưng trước hết phải
đánh đổ đế quốc, “làm cho nước Việt Nam hoàn toàn độc lập”. Đây là cơ sở để giải
phóng giai cấp, giải phóng xã hội và giải phóng con người. Chỉ có độc lập tự do của đất
nước mới đủ điều kiện để thực hiện quyền con người, quyền công dân.
Hai là, chiến lược đại đoàn kết toàn dân tộc được xây dựng từ Cương lĩnh chính trị
đầu tiên là tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt cách mạng Việt Nam trong cách mạng dân tộc
dân chủ nhân dân đến xây dựng đất nước theo định hướng XHCN hiện nay. Tư tưởng này
thể hiện rõ trong Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt của Đảng về các lực lượng cách
mạng. Những lực lượng như tiểu tư sản, trí thức, trung, tiểu địa chủ đều được Đảng chủ
trương tập hợp, đoàn kết lại trong lực lượng cách mạng do công nông làm nòng cốt.
Chủ nghĩa yêu nước là nền tảng cơ sở cho sự thống nhất trong khác biệt nhằm tập
hợp lực lượng, tạo ra sức mạnh tổng hợp của một đất nước tiềm lực kinh tế, quân sự
không lớn, người không đông, lại phải đối mặt với các thế lực đế quốc đầu sỏ. Hiện nay,
khi tình hình Biển Đông không bình yên, chủ quyền biển, đảo đang bị đe dọa, hơn bao
giờ hết việc phát huy sức mạnh toàn dân tộc, tranh thủ sức mạnh quốc tế là yếu tố quyết
định để bảo vệ vững chắc chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ.
Ba là, xác định rõ sứ mệnh lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Cùng với Chánh
cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt của Đảng, Hội nghị thông qua Điều lệ vắn tắt và Lời kêu
gọi nhân dịp thành lập Đảng. Các văn kiện này chỉ rõ: Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng
của giai cấp vô sản; Đảng được tổ chức ra để dìu dắt giai cấp vô sản lãnh đạo quần chúng
lao khổ đấu tranh giải phóng toàn thể anh chị em bị áp bức, bóc lột “để tiêu trừ tư bản đế
quốc chủ nghĩa, làm cho thực hiện xã hội cộng sản”.
Với cương lĩnh chính trị đúng đắn, ngay từ khi ra đời Đảng đã trở thành lực lượng
lãnh đạo, tập hợp xung quanh mình toàn thể dân tộc làm cách mạng. Chủ tịch Hồ Chí
Minh khẳng định: “Cương lĩnh ấy rất phù hợp với nguyện vọng thiết tha của đại đa số
nhân dân ta là nông dân. Vì vậy, Đảng đã đoàn kết được những lực lượng cách mạng to
lớn chung quanh giai cấp mình. Còn các đảng phái của các giai cấp khác thì hoặc bị phá
sản, hoặc bị cô lập. Do đó, quyền lãnh đạo của Đảng ta - Đảng của giai cấp công nhân -
không ngừng củng cố và tăng cường”. Dưới ánh sáng soi đường của Cương lĩnh Đảng ta
đã dẫn dắt toàn dân tộc vượt qua mọi khó khăn, thử thách, thực hiện thắng lợi mục tiêu
giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội và đang trên đường xây dựng nước Việt Nam giàu,
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Tiểu kết chương 1
Trước sự xâm lược của thực dân Pháp, các phong trào yêu nước của Nhân dân ta
chống thực dân Pháp diễn ra liên tục và sôi nổi nhưng đều không mang lại kết quả. Phong
trào Cần Vương - phong trào yêu nước theo ý thức hệ phong kiến, do giai cấp phong kiến
lãnh đạo đã chấm dứt ở cuối thế kỷ XIX với cuộc khởi nghĩa của Phan Đình Phùng (năm
1896). Sang đầu thế kỷ XX, khuynh hướng này không còn là khuynh hướng tiêu biểu
nữa. Phong trào nông dân, tiêu biểu là cuộc khởi nghĩa Yên Thế của Hoàng Hoa Thám
kéo dài mấy chục năm cũng thất bại vào năm 1913. Phong trào yêu nước theo khuynh
hướng dân chủ tư sản do các cụ Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh lãnh đạo cũng rơi vào bế
tắc. Cuộc khởi nghĩa Yên Bái do Nguyễn Thái Học lãnh đạo cũng bị thất bại.
Các phong trào yêu nước từ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX là sự tiếp nối truyền
thống yêu nước, bất khuất của dân tộc ta được hun đúc qua hàng ngàn năm lịch sử.
Nhưng do thiếu đường lối đúng đắn, thiếu tổ chức và lực lượng cần thiết nên các phong
trào đó đã lần lượt thất bại. Cách mạng Việt Nam chìm trong cuộc khủng hoảng sâu sắc
về đường lối cứu nước.
Tuy nhiên, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời với Cương lĩnh chính trị đầu tiên đã mở
ra thời kì mới cho cách mạng Việt Nam – thời kì đấu tranh giành độc lập dân tộc tiến lên
chủ nghĩa xã hội. Cương lĩnh đầu tiên của Đảng ra đời, đã xác định được những nội dung
cơ bản nhất của con đường cách mạng Việt Nam; đáp ứng được những nhu cầu bức thiết
của lịch sử và trở thành ngọn cờ tập hợp, đoàn kết thống nhất các tổ chức cộng sản, các
lực lượng cách mạng và toàn thể dân tộc.
Sự kiện thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam là một bước ngoặt vô cùng quan trọng
của lịch sử cách mạng Việt Nam, quyết định sự phát triển của dân tộc, chấm dứt sự khủng
hoảng về đường lối và tổ chức lãnh đạo của phong trào yêu nước Việt Nam đầu thế kỷ
XX. Đó là kết quả của sự vận động, phát triển và thống nhất phong trào cách mạng trong
cả nước; sự chuẩn bị công phu về mọi mặt của Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc và sự đoàn kết
nhất trí của những chiến sỹ tiên phong vì lợi ích của giai cấp, của dân tộc.
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là thành quả của sự kết hợp chủ nghĩa Mác-Lênin
với phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam; chứng tỏ giai cấp công nhân
Việt Nam đã trưởng thành, đủ sức lãnh đạo cách mạng.
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời và việc Đảng chủ trương cách mạng Việt Nam là
một bộ phận của phong trào cách mạng thế giới, đã tranh thủ được sự ủng hộ to lớn của
cách mạng thế giới, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh của thời đại làm nên những
thắng lợi vẻ vang; đồng thời đóng góp tích cực vào sự nghiệp đấu tranh vì hòa bình, độc
lập dân tộc và tiến bộ của nhân loại trên thế giới.