






Preview text:
lOMoAR cPSD| 59773091
1. Định nghĩa, đặc điểm của bồi thường thiệt hại do súc vật gây ra. 1.1. Định nghĩa
Bồi thường thiệt hại do súc vật gây ra là là trách nhiệm dân sự ngoài hợp đồng của
chủ sở hữu, người chiếm hữu hoặc người thứ ba khi họ có lỗi để súc vật gây thiệt hại về
tính mạng, sức khỏe và tài sản cho cá nhân hoặc các tổ chức khác.
1.2. Định nghĩa “súc vật”
Súc vật được hiểu đó là “thú vật nhà”, hay “thú vật nuôi trong nhà”, “con vật nuôi
trong nhà”. Như vậy, có thể hiểu một cách chung nhất thì “súc vật là những loại vật nuôi
trong nhà”. Tuy nhiên, vật nuôi trong nhà có thể là thú hoặc chim, mà súc vật là động vật
thuộc lớp thú, đó là “một loài động vật có 4 chân, có vú và sinh con”, khác với gia cầm là
“giống vật có cánh nuôi trong nhà như gà, vịt, ngỗng”. Ngoài ra, súc vật còn được hiểu là
“thú dữ được thuần hóa, ...”.
Như vậy, Bộ luật dân sự năm 2015 không đưa ra khái niệm súc vật, nhưng đã có rất
nhiều định nghĩa khác nhau về súc vật được đưa ra. Nhìn chung, các cách định nghĩa này
đều khẳng định súc vật là loài thú đã được thuần dưỡng để nuôi ở trong nhà.
Thú dữ có những đặc điểm khác biệt so với súc vật, trong đó đặc điểm đặc biệt quan
trọng đó là con người chưa thể thuần dưỡng được thú dữ. Còn những loài thú mà có thể
thuần dưỡng để nuôi trong nhà thì về bản chất đều “không dữ”. Do đó, ta chỉ nên coi súc
vật là một loài thú (không dữ) chứ không nên coi chúng là thú dữ. Từ những phân tích này,
có thể đưa ra khái niệm súc vật như sau:
“Súc vật là những loài động vật đã được con người thuần dưỡng để trở thành
những vật nuôi trong nhà, sống thân thiện với con người và môi trường xung quanh,
con người có thể điều khiển được hoạt động của chúng để phục vụ cho các nhu cầu của mình.”
1.3 . Đặc điểm pháp lý
Đặc điểm pháp lý của loại trách nhiệm bồi thường thiệt hại này là phát sinh theo quy
định của pháp luật và là hậu quả pháp lý nằm ngoài mong muốn của chủ thể (Chủ sở hữu
súc vật, người chiếm hữu, sử dụng súc vật, người thứ ba và bên bị thiệt hại) mà không có
sự thỏa thuận trước giữa bên gây thiệt hại và bên bị thiệt hại, đồng thời bên gây thiệt hại
có lỗi. Khác với các trường hợp bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng khác, chủ sở hữu súc
vật, người chiếm hữu, sử dụng súc vật, người thứ ba gây thiệt hại không trực tiếp bằng
hành vi của mình mà lại thông qua hoạt động của súc vật và họ bị suy đoán là có lỗi trong
quản lý hoạt động của chúng. Việc gây thiệt hại của súc vật trong quá trình hoạt động xuất
phát từ nhiều yếu tố khác nhau. -
Con người dù đã thuần hóa, kiểm soát được hoạt động của súc vật, nhưng
súc vật vẫn mang những bản tính tự nhiên của động vật hoang dã, nếu con người thiếu ý
thức trong quản lý chúng, chúng có thể gây thiệt hại. Ví dụ: trâu, bò đến thời kỳ động dục
thường hay có động thái nhảy cuồng, khi đói chúng thường ăn rau cỏ mà chúng gặp, chó
nuôi khi sinh con thường hay dữ tính để bảo vệ con… lOMoAR cPSD| 59773091 -
Sự quản lý của con người đối với súc vật có thể thông qua các phương thức
quản lý và các công cụ quản lý khác nhau. Ở Việt Nam, hình thức chăn nuôi mang tính
chất quảng canh (chăn nuôi trong phạm vi gia đình, thả rông…) còn phổ biến. Do vậy, chủ
sở hữu hoặc người chiếm hữu súc vật nhiều khi có sự lơi lỏng hoặc rất khó quản lý hoạt
động của súc vật dẫn tới súc vật gây thiệt hại cho chủ thể khác. -
Dưới tác động của môi trường, điều kiện sống, bệnh dịch mà động vật có
những động thái gây thiệt hại trái với bản tính tự nhiên của nó như trâu bò mắc bệnh điên,
chó dại…Do vậy, việc suy đoán lỗi đối với chủ sở hữu, người chiếm hữu, sử dụng súc vật
khi súc vật gây thiệt hại là cần thiết, qua đó nâng cao trách nhiệm quản lý của chủ sở hữu,
người chiếm hữu, sử dụng súc vật. Về nguyên tắc, khi súc vật gây thiệt hại về tính mạng,
sức khỏe và tài sản cho các chủ thể dân sự thì chủ sở hữu, người chiếm hữu, sử dụng súc
vật bị suy đoán có lỗi trong quản lý và phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Việc suy
đoán lỗi sẽ không áp dụng trong trường hợp, gia súc gây thiệt hại do lỗi hoàn toàn thuộc
về người chiếm hữu, sử dụng súc vật trái pháp luật, người thứ ba hoặc của chính người bị thiệt hại.
2. Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại do súc vật gây ra.
Vì trách nhiệm bồi thường thiệt hại do súc vật gây ra là một loại trách nhiệm bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng, nên các căn cứ làm phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt
hại ngoài hợp đồng cũng là căn cứ làm phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại do súc
vật gây ra. Điều 584 BLDS 2015 quy định về căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại như sau: 1.
Người nào có hành vi xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm,
uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác của người khác mà gây thiệt hại thì phải bồi
thường, trừ trường hợp Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định khác. 2.
Người gây thiệt hại không phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong
trường hợp thiệt hại phát sinh là do sự kiện bất khả kháng hoặc hoàn toàn do lỗi của bên bị
thiệt hại, trù trường hợp có thỏa thuận khác hoặc luật có quy định khác. 3.
Trường hợp tài sản gây thiệt hại thì chủ sở hữu, người chiếm hữu tài sản phải
chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại, trừ trường hợp thiệt hại phát sinh theo quy định tại khoản 2 Điều này”.
Ví dụ: Anh T nhà nghèo không vợ con sống với người mẹ già yếu, anh có một chiếc
xe máy mỗi ngày chạy xe ôm và đó cũng là nguồn thu nhập của hai mẹ con anh. Một ngày
nọ khi anh đang chở khách thì đột nhiên trâu của ông H thả rông cho ăn cỏ ven đường bất
ngờ nhảy ra anh T không thắng kịp nên té ngã, đầu va đập mạnh xuống đường làm anh trấn
thương phần đầu và anh bị liệt toàn thân không lao động được, sống như người thực vật.
Trong trường hợp này tuy anh T không chết nhưng không lao động được, người mẹ già yếu
không thể lao động và không ai chăm sóc dẫn đến hệ lụy như sự buồn tủi, đau thương, lo
âu… nên khi xét bồi thường thiệt hại ngoài thiệt hại vật chất còn phải bồi thường tổn thất
về tinh thần cho người thân người bị thiệt hại ở đây là mẹ của anh T.
=> Từ ví dụ trên ta có khoản đầu tiên trong Điều luật 603 là : lOMoAR cPSD| 59773091 1.
Chủ sở hữu súc vật phải bồi thường thiệt hại do súc vật gây ra cho
người khác. Người chiếm hữu, sử dụng súc vật phải bồi thường thiệt hại trong thời
gian chiếm hữu, sử dụng súc vật, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.
Mỗi chủ thể của chủ sở hữu với tư cách là chủ sở hữu thực hiện các quyền chiếm
hữu, sử dụng, định đoạt khác nhau; có thể trực tiếp thực hiện toàn bộ các quyền năng của
quyền sở hữu hoặc giao cho người khác thực hiện một số quyền năng nhất định của quyền sở hữu. 2.
Với khoản 2 Điều luật này thì nhóm mình sẽ chia ra 2 ý phân tích : -
Trường hợp người thứ ba hoàn toàn có lỗi làm cho súc vật gây thiệt hại cho
người khác thì người thứ ba phải bồi thường thiệt hại; -
Nếu người thứ ba và chủ sở hữu cùng có lỗi thì phải liên đới bồi thường thiệt hại.
3 . Và khoản 3 Điều luật này thì nhóm mình cũng sẽ chia ra 2 ý phân tích : -
Trường hợp súc vật bị chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật gây thiệt hại thì
người chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật phải bồi thường;
(Ngoài ra, người chiếm hữu, sử dụng súc vật trái pháp luật còn phải chịu trách nhiệm
hoàn trả súc vật (nếu còn) hoặc phải bồi thường thiệt hại cho chủ sở hữu, người chiếm hữu
hợp pháp súc vật nếu có.) ý ngoài nói thêm. -
Khi chủ sở hữu, người chiếm hữu, sử dụng súc vật có lỗi trong việc để súc
vật bị chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật thì phải liên đới bồi thường thiệt hại.
4.Trường hợp súc vật thả rông theo tập quán mà gây thiệt hại thì chủ sở hữu súc vật
đó phải bồi thường theo tập quán nhưng không được trái pháp luật, đạo đức xã hội.
Do tập quán rất đa dạng và phong phú, vì vậy, để đảm bảo sự thống nhất trong áp
dụng pháp luật và trong giải quyết bồi thường thiệt hại do súc vật gây ra, cần tuân thủ các nguyên tắc sau:
Một là, phong tục, tập quán được áp dụng có nội dung không trái với các nguyên tắc
cơ bản của Luật dân sự.
Hai là, chỉ áp dụng những phong tục, tập quán đã trở thành thông dụng, được đông
đảo mọi người sinh sống trên cùng địa bàn, cùng dân tộc, cùng tôn giáo thừa nhận.
Ba là, phong tục, tập quán chỉ được áp dụng trên địa bàn có thói quen xử sự theo tập quán đó.
Bốn là, tôn trọng sự thoả thuận của đương sự trong việc áp dụng phong tục, tập quán về dân sự.
Năm là, phát huy vai trò của những người đứng đầu cộng đồng (già làng, trưởng
bản) hoặc các chức sắc tôn giáo trong việc áp dụng phong tục, tập quán giải quyết các tranh
chấp dân sự nói chung và bồi thường thiệt hại do súc vật gây ra.
3. Nguyên tắc bồi thường thiệt hại do súc vật gây ra. lOMoAR cPSD| 59773091
3.1. Nguyên tắc bồi thường theo thỏa thuận
Theo như nguyên tắc bồi thường thiệt hại được quy định tại khoản 1, 2, 3 Điều 585
BLDS năm 2015 thì các bên có thể thỏa thuận về mức bồi thường, hình thức bồi thường
bằng tiền, bằng hiện vật hoặc thực hiện một công việc, phương thức bồi thường một lần
hoặc nhiều lần sau khi có thiệt hại xảy ra nếu các bên không muốn ra Tòa giải quyết, nhưng
việc thỏa thuận không được trái pháp luật, đạo đức, các bên phải tự nguyện, không bên nào
áp đặt, cấm đoán, cưỡng ép đe dọa, ngăn cản bên nào. Đây là một trong những nguyên tắc
cơ bản của các đương sự trong quan hệ dân sự. Ngoài ra, tại Nghị quyết 03/2006 – HĐTP
cũng có quy định: “Các bên có thể thỏa thuận về mức bồi thường, hình thức bồi thường
bằng tiền, bằng hiện vật hoặc thực hiện một công việc, phương thức bồi thường một lần
hoặc nhiều lần, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác”. Theo tinh thần của Nghị quyết
thì khi giải quyết tranh chấp về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng cũng như bồi thường
thiệt hại do súc vật gây ra cần phải thực hiện đúng nguyên tắc bồi thường thiệt hại quy định
tại Điều 585 Bộ luật Dân sự 2015. Nguyên tắc bồi thường theo thoả thuận nhằm đảm bảo
việc bồi thường cho người bị thiệt hại nhanh chóng và kịp thời tránh được những sự cố
đáng tiếc xảy ra cho người bị thiệt hại, không phải mất thời gian ra Tòa giải quyết.
3.2. Nguyên tắc bồi thường toàn bộ và kịp thời
Khi bồi thường cần được đảm bảo là “thiệt hại phải được bồi thường toàn bộ kịp
thời”. Toàn bộ và kịp thời được hiểu như sau:
Toàn bộ: có nghĩa là gây ra thiệt hại đến đâu thì bồi thường đến đó. Tùy vào trường
hợp cụ thể mà xác định thiệt hại bao gồm những khoản nào và thiệt hại đã xảy ra là bao
nhiêu, mức độ lỗi của các bên để buộc người gây thiệt hại phải bồi thường các khoản thiệt hại tương xứng đó.
Kịp thời: Toà án phải giải quyết nhanh chóng yêu cầu đòi bồi thường thiệt hại trong thời hạn luật định.
Chính vì vậy, để đảm bảo tính kịp thời trong nguyên tắc bồi thường toàn bộ và kịp
thời, Nghị quyết số 03/2006 có quy định: “Để thiệt hại có thể bồi thường kịp thời, Tòa án
phải giải quyết nhanh chóng yêu cầu đòi bồi thường thiệt hại trong hạn luật định. Trong
một số trường hợp cần thiết có thể áp dụng một hoặc một số biện pháp khẩn cấp tạm thời
theo quy định của pháp luật tố tụng để giải quyết yêu cầu cấp bách của đương sự”. Với
quy định này buộc Tòa án phải nhanh chóng giải các yêu cầu bồi thường theo đúng pháp
luật, ngoài ra còn có thể áp dụng các biện pháp “khẩn cấp tạm thời” để giải quyết yêu cầu
bồi thường của người bị hại đúng lúc, đúng thời điểm nhằm khắc phục những mất mát,
thiệt hại đã xảy đối với họ, tránh việc dây dưa, trốn tránh nghĩa vụ bồi thường của chủ thể
có trách nhiệm bồi thường.
3.3 . Nguyên tắc giảm mức bồi thường
Khoản 2 Điều 585 BLDS quy định: “Người chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại
có thể được giảm mức bồi thường nếu không có lỗi hoặc có lỗi vô ý và thiệt hại quá lớn so
với khả năng kinh tế của mình”. Với quy định trên thì người gây thiệt hại có thể được giảm lOMoAR cPSD| 59773091
mức bồi thường thiệt hại nếu do lỗi vô ý và gây ra thiệt hại quá lớn so với khả năng kinh
tế trước mắt và lâu dài của mình. Như vậy để được giảm bồi thường cần có đủ 2 điều kiện: -
Gây thiệt hại với lỗi vô ý. -
Thiệt hại xảy ra quá lớn so với khả năng kinh tế trước mắt và lâu dài
của người gây thiệt hại.
Có nghĩa là thiệt hại xảy ra quá lớn so với hoàn cảnh kinh tế trước mắt của họ cũng
như về lâu dài họ không thể có khả năng bồi thường được toàn bộ hoặc phần lớn thiệt hại
đó, có thể là họ không có tài sản có giá trị lớn, thu nhập thấp hoặc không ổn định, phải nuôi
cha mẹ già hoặc con nhỏ…
Tuy nhiên, theo quy định này thì việc giảm mức bồi thường bao nhiêu thì không quy
định cụ thể. Việc giải quyết mức bồi thường phụ thuộc vào điều kiện, hoàn cảnh, mức độ
lỗi của người bị thiệt hại, người gây ra thiệt hại (vô ý nặng, nhẹ). Tòa án phải căn cứ vào
từng trường hợp cụ thể để quyết định giảm mức bồi thường.
Tương tự như trên. Quy định về thiệt hại xảy ra quá lớn so với khả năng kinh tế
trước mắt và lâu dài của người gây thiệt hại là cơ sở để giảm mức bồi thường là quá lớn vì
nhiều khi đối với cá nhân này là rất lớn nhưng với người khác lại không coi là lớn.
3.4 . Nguyên tắc thay đổi mức bồi thường
Mức bồi thường có thể do các bên thỏa thuận hoặc Tòa án quyết định. Tuy nhiên,
mức bồi thường thiệt hại đã thỏa thuận và quyết định có thể bị thay đổi nếu mức bồi thường
“không còn phù hợp với thực tế”. Trên cơ sở Nghị quyết 03/2006 HĐTP hướng dẫn về
điều kiện mức bồi thường không còn phù hợp, có nhiều khả năng có thể xảy ra dẫn đến
việc mức bồi thường mà tòa quyết định không còn phù hợp với thực tiễn và do đó cần được
điều chỉnh theo yêu cầu của các bên: -
Sự thay đổi của vật giá. -
Sự thay đổi hay diễn biến khác đi của thiệt hại, trường hợp này thường
xảy ra đối với các thiệt hại về sức khỏe, theo hướng xấu đi hoặc tốt hơn. -
Thay đổi về khả năng lao động của người bị thiệt hại hoặc tình hình
tài sản của người gây thiệt hại.
3.5 . Nguyên tắc miễn việc bồi thường
3.5.1. Thiệt hại xảy ra do phòng vệ chính đáng
Theo luật hình sự “Phòng vệ chính đáng là hành vi của người vì bảo vệ quyền hoặc
lợi ích chính đáng của mình, của người khác hoặc lợi ích của Nhà nước, của cơ quan, tổ
chức mà chống trả lại một cách cần thiết người đang có hành vi xâm phạm các lợi ích nói
trên. Phòng vệ chính đáng không phải là tội phạm”. Theo quy định trên thì phòng vệ chính
đáng nhằm để bảo vệ lợi ích của mình và lợi ích của người khác thì không phải chịu trách
nhiệm hình sự. Còn đối với luật dân sự phòng vệ chính đáng được quy định tại Điều 594,
“Người gây thiệt hại trong trường hợp phòng vệ chính đáng không phải bồi thường cho
người bị thiệt hại”. Như quy định trên thì phòng vệ chính đáng không phải bồi thường thiệt lOMoAR cPSD| 59773091
hại, trong trường hợp bồi thường thiệt hại do súc vật gây ra thuộc phòng vệ chính đáng thì
chủ sở hữu, người chiếm hữu súc vật sẽ không bồi thường thiệt hại. Tuy nhiên nếu vượt
quá giới hạn phòng vệ chính đáng thì phải bồi thường.
3.5.2. Thiệt hại do tình thế cấp thiết
Điều 23 BLHS năm 2015 quy định “Tình thế cấp thiết là tình thế của người vì muốn
tránh gây thiệt hại cho quyền, lợi ích hợp pháp của mình, của người khác hoặc lợi ích của
Nhà nước, của cơ quan, tổ chức mà không còn cách nào khác là phải gây một thiệt hại nhỏ
hơn thiệt hại cần ngăn ngừa. Hành vi gây thiệt hại trong tình thế cấp thiết không phải là tội phạm”.
Tại Điều 595 BLDS năm 2015 quy đinh: “Trường hợp thiệt hại xảy ra do vượt quá
yêu cầu của tình thế cấp thiết thì người gây thiệt hại phải bồi thường phần thiệt hại xảy ra
do vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết cho người bị thiệt hại. Người đã gây ra tình thế
cấp thiết dẫn đến thiệt hại xảy ra thì phải bồi thường cho người bị thiệt hại”. BLDS 2015
không quy định rõ thiệt hại xảy ra do vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết thì người gây
ra thiệt hại không phải bồi thường. Tuy nhiên, theo quy định trên có thể suy luận rằng thiệt
hại do vượt quá yêu cầu tình thế cấp thiết thì người gây ra thiệt hại phải bồi thường thiệt
hại do phần vượt quá yêu cầu tình thế cấp thiết mà thôi, còn về phần thiệt hại nằm trong
tình thế cấp thiết thì người gây ra thiệt hại không phải bồi thường. Trong trường hợp bồi
thường thiệt hại do súc vật gây ra thì chủ sở hữu, người chiếm hữu, sử dụng súc vật có thể
buộc phải thông qua hoạt động của súc vật để gây ra thiệt hại nhỏ hơn thiệt hại cần ngăn
ngừa và khi xem xét miễn trách nhiệm thì cần phải đảm bảo hai điều kiện về tình thế cấp
thiết theo luật định là: việc gây thiệt hại để tránh một thiệt hại khác là sự lựa chọn duy nhất
và thiệt hại gây ra trong tình thế cấp thiết bao giờ cũng phải nhỏ hơn thiệt hại muốn tránh.
3.5.3. Thiệt hại do sự kiện bất khả kháng
Điều 156 BLDS 2015 quy định: “Sự kiện bất khả kháng là sự kiện xảy ra một cách
khách quan không thể lường trước được và không thể khắc phục được mặc dù đã áp dụng
mọi biện pháp cần thiết và khả năng cho phép”.
Ngoài ra BLDS năm 2015 có quy định các trường hợp bồi thường thiệt hại ngoài
hợp đồng do sự kiện bất khả kháng được ghi nhận ở khoản 2 Điều 584 như sau: “Người
gây thiệt hại không phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong trường hợp thiệt hại
phát sinh do sự kiện bất khả kháng”. Với những quy định trên, trường hợp súc vật gây thiệt
hại do sự kiện bất khả kháng thì chủ sở hữu, người chiếm hữu, sử dụng súc vật đã có ý thức
trông coi, quản lý cũng như sử dụng tất cả các biện pháp có thể để phòng tránh tình trạng
súc vật gây thiệt hại cho người khác nhưng súc vật vẫn gây ra thiệt hại, thì những chủ thể
này được miễn trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Nhưng để được miễn trách nhiệm bồi
thường thiệt hại thì sự kiện bất khả kháng phải thỏa đầy đủ các yếu tố sau: -
Xảy ra một cách khách quan: xảy ra do hoàn cảnh khách quan mà con người không thể biết -
Không thể lường trước được. -
Đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết và khả năng cho phép. lOMoAR cPSD| 59773091
3.5.4 . Thiệt hại xảy ra do lỗi người bị thiệt hại và người thứ ba.
Theo quy định tại khoản 4 Điều 585 BLDS năm 2015 thì: “Khi bên bị thiệt hại có
lỗi trong việc gây thiệt hại thì không được bồi thường phần thiệt hại do lỗi của mình gây
ra”. Theo quy định này, trường hợp thiệt hại do súc vật gây ra mà thiệt hại xảy ra do lỗi
của người bị thiệt hại bao nhiêu thì họ chỉ phải bồi thường bấy nhiêu căn cứ vào việc xác
định lỗi của họ. Nếu thiệt hại hoàn toàn do lỗi của người bị thiệt hại thì chủ sở hữu, người
chiếm hữu, sử dụng súc vật không phải bồi thường.
Ngoài thiệt hại do lỗi của người bị thiệt còn có thiệt hại do lỗi của người thứ ba,
trường hợp này quy định tại khoản 2 Điều 603 BLDS năm 2015 như sau: “Trường hợp
người thứ ba hoàn toàn có lỗi làm cho súc vật gây thiệt hại cho người khác thì người thứ
ba phải bồi thường thiệt hại; nếu người thứ ba và chủ sở hữu cùng có lỗi thì phải liên đới
bồi thường thiệt hại”. Theo quy định này, nếu người thứ ba hoàn toàn có lỗi thì chủ sở hữu,
người chiếm hữu, sử dụng súc vật sẽ miễn trừ trách nhiệm bồi thường hoặc chỉ chịu trách
nhiệm bồi thường theo phần lỗi của mình. Trường hợp người thứ ba và chủ sở hữu cùng có
lỗi thì phải liên đới bồi thường thiệt hại.