Các câu hỏi ôn tập về lịch sử Việt Nam giai đoạn 1930-1945 | Lịch sử Đảng | Đại học Khoa học tự nhiên, Đại học quốc gia Hà Nội

Các câu hỏi ôn tập về lịch sử Việt Nam giai đoạn 1930-1945 | Lịch sử Đảng | Đại học Khoa học tự nhiên, Đại học quốc gia Hà Nội. Tài liệu được biên soạn giúp các bạn tham khảo, củng cố kiến thức, ôn tập và đạt kết quả cao kết thúc học phần. Mời các bạn đọc đón xem!

Câu 96. Nêu tình hình Việt Nam trong khủng hoảng kinh tế 1929-1933
Cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới 1929-1933 hết sức nặng nề. Thực dân
Pháp tìm cách trút hậu quả khủng hoảng lên nước ta. Cuộc khủng hoảng nổ ra trước
hết trong nông nghiệp. Giá lúa gạo giảm sút, ruộng đất bị bỏ hoang, 1930
200.000 ha đến 1933 là 500.000 ha.
Sau nông nghiệp công nghiệp, các nhà máy xí nghiệp phải đóng cửa hoặc
sản xuất cầm chừng. Giá trị sản phẩm công nghiệp khai khoáng năm 1929 18
triệu đồng. Đến năm 1933 còn 10 triệu đồng.
Thương nghiệp bị đình đốn, hàng hoá tiêu dùng khan hiếm, đất đỏ.
Các ngành nghề thủ công bị phá sản.
Đời sống của các tầng lớp nhân dân trở nên điêu đứng, cực khổ. Nông dân bị
bần cùng hoá cao độ. Công nhân bị thất nghiệp, riêng ở Bắc kì đã có 25.000 người,
những người việc làm tiền lương cũng bị cắt giảm, chỉ còn khoảng 30-50% so
với trước. Tiểu sản, viên chức, thợ thủ công cũng bị thất nghiệp, phá sản, đời
sống đắt đỏ. Ngay cả một bộ phận sản, địa chủ cũng điêu đứng do khủng hoảng
kinh tế.
Hai mâu thuẫn bản trong hội Việt Nam tiếp tục gay gắt mâu thuẫn
giữa dân tộc ta với thực dân Pháp mâu thuẫn giữa nông dân với địa chủ phong
kiến, trong đó, mâu thuẫn chủ yếu là giữa dân tộc ta với đế quốc tay sai.
Sau cuộc khởi nghĩa Yên Bái thất bại, thực dân Pháp tăng cường khủng bố,
càng làm cho mâu thuẫn hội tiếp tục gay gắt. Đó nguyên nhân đưa đến sự
bùng nổ phong trào cách mạng 1930-1931.
Câu 97. Nêu khái quát diễn biến, kết quả, ý nghĩa của phong trào cách
mạng 1930-1931
Giữa lúc cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới đang tác động nặng nề đến nước
ta thì Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời đã kịp thời phát động một phong trào cách
mạng trong những năm 1930-1931.
Từ đầu năm 1930, nhiều cuộc đấu tranh của côngnhân, nông dân đã nổ ra
trên phạm vi cả nước. Nội, truyền đơn, cờ đỏ búa liềm đã xuất hiện trên các
đường phố. Bên cạnh các yêu sách kinh tế, còn có khẩu hiệu chính trị như: “Đả đảo
đế quốc”, “Đả đảo phong kiến”, “ thả tù chính trị”.
Nhân ngày quốc tế lao động 1/5/1930, phong trào tiếp tục lên cao. Lần đầu
tiên nước ta, công nhân nông dân lao động dưới sự lãnh đạo của Đảng đã kỉ
niệm ngày Quốc tế lao động nhằm biểu dương sức mạnh của mình đoàn kết với
sản thế giới. Các cuộc đấu tranh này đánh dấu bước ngoặt của phong trào. Từ
sau tháng 5 hàng trăm cuộc đấu tranh của công nhân, nông dân các tầng lớp
nhân dân khác nổ ra trên phạm vi cả nước.
Đến tháng 9/1930, phong trào lên tới đỉnh cao, tiêu biểu Nghệ An,
Tĩnh. Nông dân các huyện như Nam Đàn, Thanh Chương, Anh Sơn, Can Lộc, Đô
Lương đã biểu tình trang kéo đến các huyện lị, đưa yêu sách, đập phá các công
sở, nhà lao… Ngày 12/9/1930 đã diễn ra cuộc biểu tình khổng lồ của nông dân
huyện Hưng Nguyên, bị thực dân Pháp cho máy bay ném bom đàn áp làm 217
người chết, 125 người bị thương. Các cuộc biểu tình đó sự ủng hộ của công
nhân Vinh- Bến Thuỷ.
Trước khí thế cách mạng, nhiều n trưởng, chánh tổng phải bỏ trốn
hoặc đầu hàng. Chính quyền địch nhiều huyện bị liệt, nhiều xã tan rã.ới
sự lãnh đạo của các tổ chc Đảng, nhân n đã đứng ra làm chủ mọi hoạt động ở
địa phương nh, thực hiện chức ng chính quyền ch mạng theo kiểu Xô
viết.
Thực dân Pháp đã đưa binh lính về đóng ở nhiều nơi Nghệ An, Hà Tĩnh, tiến
hành “khủng bố trắng” kết hợp với các thủ đoạn mua chuộc, chia rẽ. Từ nửa sau
1931, phong trào thu hẹp dần rồi chấm dứt.
Tuy chỉ tồn tại trong một thời gian ngắn nhưng phong trào cách mạng 1930-
1931 mà đỉnh cao là Xô Viết Nghệ - Tĩnh là sự kiện trọng đại trong lịch sử nước ta.
Kế tục truyền thống đấu tranh bất khuất của dân tộc, phong trào đã vùng lên với
một khí thế tiến công chưa từng có, giáng đòn nặng nề vào bộ máy thống trị của đế
quốc phong kiến.
Phong trào cách mạng 1930-1931 đã khẳng định sự đúng đắn về đường lối
chính trị vai trò lãnh đạo của Đảng trong thực tiễn, biểu dương sức mạnh to lớn
của công nhân, nông dân liên minh với các tầng lớp nhân dân khác. Khối liên minh
công - nông được hình thành.
Phong trào cách mạng 1930-1931 Viết Nghệ Tĩnh đã được đánh giá
cao trong phong trào cộng sản công nhân quốc tế. Quốc tế cộng sản đã công
nhận Đảng Cộng sản Đông Dương là một phân bộ trực thuộc Quốc tế cộng sản.
Qua phong trào cách mạng 1930-1931, Đảng Cộng sản Đông Dương đã rút
ra nhiều bài học kinh nghiệm quý báu như về công tác tư tưởng, về liên minh công
- nông, về lãnh đạo đấu tranh… Đây là cuộc tập dượt đầu tiên cho Tổng khởi nghĩa
tháng Tám sau này.
Câu 98. Nêu hoàn cảnh ra đời, hoạt động ý nghĩa của Viết Nghệ
Tĩnh
Dưới ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế 1929-1933, một phong trào cách
mạng mới đã nổ ra từ đầu 1930. Đến tháng 9/1930, phong trào lên tới đỉnh cao,
điển hình là ở Nghệ An và Hà Tĩnh.
Trước khí thế cách mạng, bộ máy chính quyền địch nhiều vùng nông thôn
bị tê liệt, tan rã. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân đã đứng ra quản lý mọi hoạt
động địa phương mình, thực hiện chức năng của chính quyền cách mạng theo
kiểu Xô viết.
Tại Nghệ An, viết ra đời từ tháng 9/1930 các huyện Thanh Chương,
Nam Đàn, một phần huyện Anh Sơn, Nghi Lộc, Hưng Nguyên, Diễn Châu.
Tĩnh, viết hình thành các thuộc huyện Can Lộc, Nghi Xuân, Hương Khê
vào cuối năm 1930 - đầu năm 1931.
Lần đầu tiên trong lịch sử nước ta chính quyền nằm trong tay nhân dân lao
động. Các viết đã thực hiện một loạt các chính sách về chính trị, kinh tế -
hội:
+ Về chính trị. Nhân dân được tự do tham gia các đoàn thể cách mạng, các
đội tự vệ đỏ và Tòa án nhân dân thành lập.
+ Về kinh tế. Xóa bỏ thuế thân thuế chợ, chia lại ruộng công, giúp nhau sản
xuất, phối hợp làm thuỷ lợi, giao thông.
+ Văn hoá - xã hội. Khuyến khích học chữ quốc ngữ, bài trừ mê tín, dị đoan,
duy trì an ninh trật tự xã hội.
Hoảng sợ trước phong trào cách mạng ảnh hưởng của Đảng, thực dân
Pháp đã tiến hành khủng bố “trắng” kết hợp với các thủ đoạn mua chuộc, chia rẽ
thâm độc. Tuy chỉ tồn tại từ 4 - 5 tháng, nhưng Xô viết - Nghệ tĩnh đã thể hiện tinh
thần oanh liệt năng lực sáng tạo của nhân dân Việt Nam, thật sự chính quyền
của nhân dân, do nhân dân, nhân dân, sức cổ động viên to lớn cuộc đấu
tranh của nhân dân ta sau này.
Câu 99. Nêu nội dung Luận cương chính trị tháng 10/1930 hạn chế
của nó
Giữa lúc phong trào cách mạng 1930-1931 đang diễn ra quyết liệt thì Hội
nghị TW lâm thời lần thứ nhất đã được tiến hành tại Hương Cảng 10/1930 dưới sự
chủ trì của Trần Phú. Hội nghị đã đổi tên Đảng thành Đảng Cộng sản Đông Dương,
bầu Ban chấp hành Trung ương chính thức do Trần Phú làm Tổng bí thư, thảo luận
và thông qua Luận cương chính trị.
Nội dung của Luận cương chính trị gồm các điểm sau đây:
- Xác định tính chất của cách mạng Đông Dương lúc đầu sản dân
quyền, sau đó tiếp tục phát triển, bỏ qua giai đoạn bản chủ nghĩa, tiến thẳng lên
CNXH.
- Hai nhiệm vụ chống phong kiến và chống đế quốc có mối quan hệ mật thiết
với nhau.
- Động lực cách mạng nâng đân công nhân. Lãnh đạo giai cấp công
nhân với chính Đảng tiền phong.
- Luận cương xác định hình thức ương phương pháp đấu tranh, mối quan
hệ với cách mạng thế giới.
Tuy nhiên, Luận cương chính trị cũng bộc lộ một số sai lầm như không thấy
được mâu thuẫn chủ yếu của một xã hội thuộc địa, không nêu cao được vấn đề dân
tộc nặng về đấu tranh giai cấp cách mạng ruộng đất, không thấy được tính
tích cực của tiểu sản, khả năng liên minh điều kiện voi sản dân tộc, kha
năng phân hoá và lôi kéo một bộ phận trung tiểu địa chủ phong kiến.
Câu 100. Nêu nhận xét về lực lượng, tính chất, quy mô và hình thức đấu
tranh trong phong trào cách mạng 1930-1931
* Về lực lượng: Đông đảo không chỉ công nhân, nông dân mà còn nhiều tầng
lớp nhân dân khác..
* Tính chất: Mang tính cách mạng triệt để, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng
sản nhằm đúng hai kẻ thù đế quốc, phong kiến, khắc phục được tưởng cải
lương, thoả hiệp của thời kì trước.
* Quy mô: Rộng lớn, từ Nam đến Bắc, có những cuộc đấu tranh với sự tham
gia của hàng nghìn người.
* Hình thức đấu tranh quyết liệt, sử dụng cách mạng bạo lực mật, bất hợp
pháp, chủ yếu là bạo lực về chính trị.
Câu 101. Tại sao phong trào cách mạng 1930-1931 lên cao như vậy?
- Do hâu quả của khủng hoảng kinh tế nặng nề
- Đây là phong trào do Đảng Cộng sản lãnh đạo, có tổ chức chặt chẽ.
Câu 102. So sánh chính cương sách lược của Nguyễn Ái Quốc Luận
cương chính trị tháng 10/1930
* Giống nhau:
- Đều xác định tính chất của cách mạng trong giai đoạn trước mắt sản
dân quyền, sau đó bỏ qua giai đoạn bản chủ nghĩa, tiến thẳng lên CNXH
CNCS.
- Đều xác định nhiệm vụ của cách mạng tư sản dân quyền chống đế quốc,
chống phong kiến có mối quan hệ mật thiết với nhau.
- Đều xác định lãnh đạo giai cấp công nhân thông qua chính Đảng tiên
phong, cách mạng Việt Nam bộ phận, quan hệ mật thiết, gắn với cách
mạng thế giới.
* Khác nhau :
- Nhiệm vụ cách mạng : Luận cương chính trị nhấn mạnh về đấu tranh giai
cấp và cách mạng ruộng đất, cương lĩnh nhấn mạnh về độc lập tự do, coi đó là vấn
đề cốt lõi.
- Về lực lượng : Cương lĩnh chủ trương đoàn kết rộng rãi các tầng lớp nhân
dân có tinh thần yêu nước. Luận cương chính trị không thấy được tính tích cực của
tiểu tư sản, khả năng liên minh có điều kiện với tư sản dân tộc, phân hoá và lôi kéo
một bộ phận trung tiểu địa chủ.
Chính cương sách lược là cương lĩnh giải phóng dân tộc đúng đắn, sáng tạo,
phù hợp với đặc điểm tình hình nước ta, mâu thuẫn chủ yếu là giữa toàn thể dân tộc
Việt Nam với đế quốc tay sai.
Câu 103. Nêu cuộc đấu tranh phục hồi phong trào 1932-1935 Đại hội
Đảng lần thứ nhất
Hoảng sợ trước ảnh hưởng của Đảng phong trào cách mạng 1930-1931,
thực dân Pháp đã tiến hành khủng bố trắng hết sức tàn bạo, kết hợp với các thủ
đoạn mua chuộc, chia rẽ thâm độc, cách mạng Việt Nam đứng trước nhiều khó
khăn. Hàng nghìn đảng viên, hàng vạn người yêu nước bị bắt bớ, đày, giết hại.
Tổ chức Đảng và quần chúng từ Trung ương đến cơ sở bị tan rã. Từ 1932 là thời kì
đấu tranh phục hồi phong trào.
Trong nhà đế quốc, các cán bộ đảng viên đã nêu cao phẩm chất cách
mạng, biến nhà tù thành trường học, tổng kết kinh nghiệm đấu tranh, tổ chức vượt
ngục.
bên ngoài, các cán bộ đảng viên còn lại thay đổi hình thức đấu tranh cho
phù hợp, sử dụng một số hình thức đấu tranh hợp pháp như tham gia các quan
lập pháp, đấu tranh trên mặt trận văn hoá - tư tưởng.
Năm 1932, Hồng Phong một số đồng chí nhận chỉ thị của Quốc tế
cộng sản thành lập Ban lãnh đạo Trung ương của Đảng. Nhiều đảng viên hoạt động
ở nước ngoài cũng về nước. Chương trình hành động của Đảng được công bố năm
1932 nêu lên nhiệm vụ đấu tranh trước mắt. Nhờ đó, các cuộc đấu tranh dần dần nổ
ra. Các tổ chức Đảng và quần chúng từng bước lập lại. Năm 1934, ban lãnh đạo hải
ngoại được thành lập do Lê Hồng Phong đứng đầu. Cuối 1934 đầu 1935, xứ uỷ Bắc
Kì, Trung Kì, Nam kì cũng được lập lại.
Trên đó từ ngày 27 đến 31/3/1935 Đại hội Đảng lần thứ nhất được
triệu tập tại Ma Cao - Trung Quốc, có 13 đại biểu thay mặt cho 500 đảng viên. Đại
hội đánh giá tình hình nêu lên nhiệm vụ củng cố phát triển Đảng, vận động
quần chúng, chống chiến tranh đế quốc, thông qua cương lĩnh, Điều lệ Đảng, bầu
Ban chấp hành do Hồng Phong làm Tổngthư. Nguyễn Ái Quốc được cử làm
đại diện của Đảng, bên cạnh quốc tế cộng sản.
Đại hội Đảng lần thứ nhất ý nghĩa to lớn, đánh dấu phong trào ch
mạng đã được phục hồi, tổ chức Đảng được khôi phục từ Trung ương đến cơ sở.
Trải qua cuộc đấu tranh phục hồi phong trào, Đảng Cộng sản Đông Dương
đã trưởng thành nhanh chóng. Các cán bộ đảng viên được tôi luyện trong ngọn lửa
đấu tranh rút ra nhiều bài học kinh nghiệm quý báu, nói lên sức sống mãnh liệt
năng lực sáng tạo của Đảng.
Câu 104. Điều kiện bùng nổ phong trào cách mạng 1930 - 1931 :
Phong trào 1930 -1931 bùng nổ do những nguyên nhân sau:
-Khủng hoảng kinh tế 1929 - 1933, đời sống nhân dân khó khăn.
- Về chính trị, Pháp tăng cường đàn áp sau khởi nghĩa Yên Bái
-Phong trào dân tộc, dân chủ lên cao cuối những năm 20
-Đảng Cộng sản VN ra đời đầu năm 1930
Câu 105. Nêu tình hình thế giới, trong nước chủ trương của Đảng
thời kì 1936-1939
* Về chính trị: Thời 1936-1939 tình hình thế giới trong nước nhiều
thay đổi to lớn:
Do hậu quả khủng hoảng kinh tế, chủ nghĩa phát xít ra đời và lên nắm chính
quyền ở Đức, Italia, Nhật Bản, chuẩn bị chiến tranh thế giới.
Đại hội VII Quốc tế cộng sản 7/1935 nhận định kẻ tchủ yếu trước mắt
chủ nghĩa phát xít nguy chiến tranh, chủ trương thành lập mặt trận nhân dân
chống phát xít, chống chiến tranh. Đoàn đại biểu Đảng Cộng sản Đông Dương do
Tổng bí thư Lê Hồng Phong dẫn đầu tham dự Đại hội.
Pháp, mặt trận nhân dân giành được thắng lợi, n nắm chính quyền từ
mùa hè 1936 thực hiện một số chính sách tiến bộ cả chính quốc và thuộc địa.
Ở Đông Dương, Pháp thay toàn quyền mới, lập uỷ ban điều tra thuộc địa sửa
đổi luật bầu cử, báo chí, ân xá tù chính trị.
nước ta nhiều Đảng phái chính trị thành lập hoạt động, cách mạng
có, phản động có, cải lương có… Các Đảng phái đều tìm cách lôi kéo quần chúng
nhưng chỉ Đảng Cộng sản Đông Dương đường lối ràng tổ chức chặt
chẽ.
* Về kinh tế-xã hội
Nhìn chung, các ngành kinh tế có được phục hồi nhưng vẫn mất cân đối, chủ
yếu tập trung vào các ngành phục vụ chiến tranh.
Đời sống của các tầng lớp nhân dân vẫn gặp nhiều khó khăn. Nông dân bị
tước đoạt ruộng đất, sưu cao, thuế nặng. Công nhân thất nghiệp, tiểu sản, viên
chức đời sống bấp bênh, sản dân tộc bị cạnh tranh chèn ép. Ngay cả một bộ
phận địa chủ cũng gặp nhiều khó khăn.
Đứng trước tình hình đó, Đảng Cộng sản Đông Dương kịp thời chủ
trương, nhiệm vụ đấu tranh cho phù hợp. Tháng 7/1936 Ban chấp hành Trung ương
họp tại Thượng Hải - Trung Quốc dưới sự chủ trì của Hồng Phong. Sau khi
nhận định tình hình thế giới, trong nước, Hội nghị xác định nhiệm vụ chiến lược
của cách mạng sản dân quyền là chống đế quốc, phong kiến. Nhiệm vụ chủ yếu
trước mắt là chống phản động thuộc địa, chống phát xít và nguy cơ chiến tranh, đòi
dân sinh, dân chủ, tự do, cơm áo, hoà bình…
Để thực hiện nhiệm vụ đó, Đảng chủ trương thành lập Mặt trận thống nhất
nhân dân phản đế Đông Dương đoàn kết rộng rãi các tầng lớp nhân dân có tinh thần
chống phát xít, chống chiến tranh.
Phương pháp đấu tranh: triệt để lợi dụng hình thức hợp pháp công khai.
Sau Hội nghị, Đảng kêu gội các tầng lớp nhân dân đấu trang chống phát xít,
chống chiến tranh.
Hội nghị TƯ 1937. 1938 tiếp tục phát triển chủ trương đó, Tháng 3/1938 Mặt
trận nhân dân... đổi thành Mặt trận thống nhất dân chủ Đông dương, gọi tắt Mặt
trận dân chủ Đông Dương.
Câu 106. Nêu diễn biến, kết quả, ý nghĩa của phong trào dân chủ 1936-
1939
Từ 1936-1939 dưới ảnh hưởng của tình hình thế giới, trong nước, thực hiện
chủ trương của Đảng, một phong trào dân chủ quy rộng lớn, hình thức đấu
tranh phong phú đã diễn ra trên cả nước.
Mùa năm 1936, được tin chính phủ Pháp cử uỷ ban sang điều tra thuộc
địa, Đảng đã kêu gọi các tầng lớp nhân dân nêu yêu sách kiến nghị tiến tới diễn đàn
Đông Dương Đại hội (8/1936). Các uỷ ban hành động được thành lập khắp cả
nước, đặc biệt là ở Nam Kì. Các cuộc hội họp, mít tinh được tổ chức nhằm thu thập
chữ kí, nguyện vọng của nhân dân.
Trước quy của phong trào, thực dân Pháp đã cấm các uỷ ban hoạt động,
giải tán các cuộc hội họp. Mặc phái đoàn điều tra thuộc địa không sang
phong trào bị đàn áp, nhưng phong trào Đông Dương Đại hội ý nghĩa to lớn :
Nhân dân được giác ngộ về cách mạng, Đảng Cộng sản Đông Dương thu được
nhiều bài học kinh nghiệm quý báu nhất đấu tranh hợp pháp, công khai. Thực
dân Pháp buộc phải nhân nhượng một số quyền lợi dân sinh dân chủ như ân
chính trị.
Song song với phong trào Đông Dương Đại hội cả khi phong trào Đông
Dương Đại hội bị cấm hoạt động, các cuộc đấu tranh của công nhân và nhân dân ta
diễn ra mạnh mẽ. Chỉ riêng 6 tháng cuối năm 1936 đã 361 cuộc bãi công của
công nhân.
Sang năm 1937, cả nước 400 cuộc đấu tranh cuả công nhân. Đầu năm
1937, nhân dịp toàn quyền Đông Dương mới Brêviê phái viên chính phủĐa
sang nước ta, Đảng đã lãnh đạo các cuộc "đón rước" tiếp tục đưa yêu sách kiến
nghị.
Tháng 3, 7 năm 1937, Ban chấp hành Trung ương đã họp, đưa ra các nghị
quyết về công tác mặt trận, thay công hội đỏ bằng công hội, đoàn TNCS bằng đoàn
thanh niên phản đế, cứu tế đỏ bằng cứu tế bình dân. nông thôn, các hội cấy, hội
cày, hội hiếu hỉ… được thành lập với những hình thức linh hoạt, mềm dẻo.
Năm 1938, các cuộc đấu tranh của công nhân giảm đi về mặt số lượng
nhưng chất lượng lại được phát triển lên (131 cuộc).Nam kì diễn ra nạn đói đưa
đến cuộc biểu tình 1000 nông dân tỉnh Mau. Đặc biệt nhân ngày Quốc tế
lao động 1/5/1938, lần đầu tiên các cuộc mít tinh đã được tổ chức công khai
nhiều nơi trong cả nước, nhất là ở Hà Nội, Sài Gòn.
Sang năm 1939, các cuộc đấu tranh diễn ra chyếu các thành phlớn.
Điểm mới của phong trào cách mạng Việt Nam thời này đấu tranh nghị
viện. Trong các cuộc bầu cử vào quan lập pháp, Hội đồng quản hạt Nam kì,
Viện Dân biểu Bắc Kì, Trung Kì, Hội đồng kinh tế lí tài Đông Dương, Đảng và mặt
trận Dân chủ Đông Dương đã đưa người của mình ra ứng cử va giành thắng lợi như
Bắc kì, Trung kì. Lợi dụng diễn đàn hợp pháp công khai này, Đảng đã đấu tranh
để bác bỏ những dự luật phản động của đế quốc, bênh vực cho quyền lợi của nhân
dân.
Đấu tranh trên lĩnh vực báo chí công khai cũng nét mới của cách mạng
Việt Nam. Nhiều tờ báo tiến bộ, nhiều sách báo luận giới thiệu về Liên Xô, về
Quốc tế cộng sản, về chủ nghĩa Mác - Lênin nói chung đã được xuất bản công khai
bằng tiếng Việt tiếng Pháp, như : "Tin tức", "Tiên phong", "Dân chúng"... Các
tác phẩm văn học hiện thực phê phán được xuất bản như "Tắt đèn", "Bước đường
cùng", "Số đỏ...", thơ cách mạng của Tố Hữu.
Năm 1937 Đảng phát động phong trào truyền bá chữ Quốc ngữ.
Có thể nói báo chí đã trở thành mũi xung kích trong các hoạt động của phong
trào dân chủ 1936-1939.
Từ cuối 1938, Chính phủ mặt trận nhân dân Pháp ngày càng thiên sang hữu,
xoá bỏ các chính sách tiến btrước đây. Bọn Pp Đông ơng nhân cơ hội
đó đã đàn áp c hoạt động đấu tranh của nhân dân ta. Phong to n ch thu
hẹp dần và đến khi chiến tranh thế giới II bùng nổ thì chm dứt.
Câu 107. Nêu nhận xét về lực lượng tham gia, quy mô, mục tiêu hình
thức đấu tranh trong phong trào dân chủ 1936-1939
Phong trào dân chủ Đông Dương thực sự cũng một cao trào dân tộc dân
chủ lực lượng tham gia đông đảo, quy rộng lớn, mục tiêu hình thức đấu
tranh phong phú.
* Lực lượng: Ngoài tầng lớp bản công nhân nông dân, sự tham
gia đông đảo của các tầng lớp nhân dân khác tinh thần dân chủ chống phát xít,
chống chiến tranh như sản, tiểu sản, địa chủ vừa nhỏ cả ngoại kiểu
Đông Dương.
* Quy mô: Diễn ra khắp cả nước ta, rộng lớn, đặc biệt như phong trào Đông
Dương đại hội,, “đón rước”, các cuộc bãi công, hoạt động kỉ niệm Quốc tế lao động
1/5/1938.
* Về mục tiêu: Đấu tranh đòi dân sinh, dân chủ, cơm áo, hoà bình, chống
phát xít, chống chiến tranh.
* Về hình thức đấu tranh: phong phú, kết hợp đấu tranh hợp pháp, bất hợp
pháp, công khai, bí mật, đấu tranh kinh tế, văn hoá, chính trị v.v…
Câu 108. Tại sao lại khẳng định phong trào dân chủ Đông Dương 1936-
1939 thực chất cũng là một cao trào dân tộc dân chủ.
(trình bày phong trào dân chủ 1936 -1939)
Câu 109. Chứng minh rằng phong trào 1936-1939 cuộc diến tập cho
tổng khởi nghĩa tháng 8.
- Khái quát phong trào dân chủ 1936 -1939
- Ý nghĩa : Phong trào dân chủ thực sự là một phong trào rộng lớn có tổ chức
dưới sự lãnh đạo của Đảng. Trình độ giác ngộ chính trị của nhân dân được nâng
cao tập hợp trong đạo quân chính trị hùng hậu. Đội ngũ cán bộ được đào tạo và rèn
luyện.
Đảng Cộng sản Đông Dương trưởng thành nhanh chóng, cơ sở và ảnh hưởng
của Đảng được mở rộng và ăn sâu trong dân chúng. Phong trào dân chủ 1936-1939
đã để lại nhiều bài học kinh nghiệm quý báu như về vấn đề Mặt trận dân tộc thống
nhất, về phương pháp đấu tranh, nhất đấu tranh công khai, hợp pháp, đồng thời
Đảng cũng thấy được hạn chế của mình như công tác mặt trận, vấn đề dân tộc.
Phong trào dân chủ Đông Dương 1936-1939 được coi cuộc diễn tập cho
Tổng khởi nghĩa tháng Tám 1945.).
Câu 110. Nêu nhận xét về lực lượng, mục tiêu, hình thức đấu tranh qua
hai phong trào 1930-1931 và 1936-1939.
+Phong trào 1930 - 1931:
-Lực lượng: đông đảo các tầng lớp nhân dân, nhất là công nhân và nông dân
-Mục tiêu: Triệt để, chống đế quốc, phong kiến, độc lâp dân tộc, ruộng đất
dân cày, chính quyên Xô Viết
-Hình thức đấu tranh quyết liệt, sử dụng bạo lực cách mạng
+Phong trào dân chủ 1936 - 1939
-Lực lượng: Đông đảo các tầng lớp nhân dân có tinh thần dân chủ
-Mục tiêu: đòi dân sinh, dân chủ chống phát xít, chiến tranh
-Hình thức đấu tranh phong phú, hợp pháp, công khai, bí mật bất hợp pháp
Câu 111. Nêu tình hình Việt Nam trong chiến tranh thế giới thứ hai
1939-1945
+ Chính trị:1/9/1939 Đức tấn công Ba Lan, hai ngày sau Anh Pháp
tuyên chiến với Đức . Chiến tranh thế giới thứ 2 bùng nổ.
Chính phủ Pháp thi hành chính sách phản động chống lại các lực lượng cách
mạng trong nước thuộc địa, trong đó Đông Dương. Tháng 6/1940, Pháp đầu
hàng Đức. Ở Đông Dương, Pháp thay toàn quyền mới.
Tháng 9/1940, phát xít Nhật kéo vào nước ta, giữ nguyên bộ máy thống trị
của Pháp để đán áp phong trào cách mạng bóc lột nhân dân ta. Ngoài các đảng
phái tay sai của Pháp, phát xít Nhật đã thành lập các đảng phái chính trị thân Nhật
như Đại Việt, Phục Quốc nhằm dọn đường cho việc hất cẳng Pháp sau này, ra sức
tuyên truyền,lừa bịp nhân dân ta.
Tháng 6/1941, Đức tấn công Liên Xô, cuộc chiến tranh giữ nước của Liên
Xô đã cổ vũ phong trào cách mạng nước ta.
+ Kinh tế-xã hội: Từ khi chiến tranh bùng nổ, thực dân Pháp ban bố lệnh
tổng động viên chính sách “kinh tế chỉ huy”, vét sức người sức của phục
vụ cho chiến tranh. Sau khi phát xít Nhật vào nước ta, Pháp phải để cho Nhật sử
dụng các sân bay, bến cảng hàng năm phải đóng cho Nhật một khoản tiền lớn.
Nhật buộc Pháp phải xuất khẩu các nguyên liệu chiến lược phục vụ cho chiến tranh
sang Nhật, bắt nhân dân ta phải nhổ lúa và hoa màu trồng đay, thầu dầu, lấy nguyên
liệu cho chiến tranh. Các công ty của Nhật được thành lập, chủ yếu về công nghiệp
và thương nghiệp.
Dưới hai tầng áp bức bóc lột Nhật - Pháp, đời sống của các tầng lớp nhân
dân trở nên điêu đứng, cực khổ, dẫn đến nạn đói cuối năm 1944 đầu năm 1945 làm
hai triệu người chết: Nông dân chịu sưu cao, thuế nặng phải đi phu, đi lính. Công
nhân bị sa thải, bị bắt đi lính, tiền lương giảm sút. Tiểu sản, viên chức bao gồm
cả thợ thủ công bị phá sản, đời sống đắt đỏ. Ngay cả một bộ phận sản, địa chủ
vừa và nhỏ cũng chịu hậu quả nặng nề của chiến tranh.
Tóm lại, trừ bọn đại bản, đại địa chủ còn mọi tầng lớp nhân dân đều rên
xiết dưới hai tầng áp bức bóc lột Nhật - Pháp. Mâu thuẫn dân tộc hết sức gay gắt.
Vì vậy, khi Đảng nêu cao ngọn cờ dân tộc thì đông đảo nhân dân đã hăng hái tham
gia.
Câu 112. Nêu chủ trương chuyển hướng đấu tranh của Đảng thời
1939-1945
Đứng trước những thay đổi của tình hình thế giớitrong nước từ khi chiến
tranh thế giới II bùng nổ. Đảng Cộng sản Đông Dương đã kịp thời chủ trương,
nhiệm vụ đấu tranh thích hợp. Hai tháng sau khi chiến tranh bùng nổ, Ban chấp
hành Trung ương đã họp tại Điểm, Hóc Môn. Gia Định từ 6 đến 8/11/1939,
dưới sự chủ trì của Tổng bí thư Nguyễn Văn Cừ.
Sau khi đánh giá tình hình, phân tích tính chất của chiến tranh, Hội nghị xác
định nhiệm vụ chiến lược trước mắt của cách mạng Đông Dương là giải phóng dân
tộc nhằm làm cho các dân tộc Đông Dương giành độc lập. Khẩu hiệu cách mạng
ruộng đất tạm thời gác lại, chỉ nêu tịch thu ruộng đất của đế quốc tay sai, chống
cao, thuế nặng. Khẩu hiệu thành lập chính quyền Công - nông - binh được thay
bằng Chính phủ Dân chủ cộng hoà.
Về hình thức đấu tranh: Đảng chủ trương chuyển từ đấu tranh hợp pháp công
khai đòi dân sinh, dân chủ sang đấu tranh bí mật, bất hợp pháp, trực tiếp lật đổ ách
thống trị của đế quốc, phong kiến, giành độc lập dân tộc.
Về lực lượng: Đảng chủ trương thành lập mặt trận thống nhất dân tộc phản
đế Đông Dương, gọi tắt Mặt trận phản đế Đông Dương thay cho Mặt trận dân
chủ Đông Dương không còn phù hợp, đoàn kết rộng rãi các tầng lớp nhân dân
tinh thần yêu nước. Các đoàn thể quần chúng đều lấy tên là "Hội phản đế”.
Hội nghị Trung ương 11/1939 đánh dấu sự chuyển hướng đấu tranh đúng
đắn của Đảng, nêu cao nhiệm vụ dân tộc.
Các hội nghị Trung ương 11/1940, đặc biệt Hội nghị Trung ương 8 tháng
5/1941 tiếp tục phát triển, bổ sung hoàn chỉnh chủ trương chuyển hướng đấu
tranh được đề ra từ Hội nghị Trung ương 11/1939.
Câu 113. Nêu hoàn cảnh, nội dung, ý nghĩa của Hội nghị Trung ương
11/1939.
(làm như câu 111)
Câu 114. Nêu khái quát khởi nghĩa Bắc Sơn, Nam binh biến Đô
Lương
Dưới ảnh hưởng của chiến tranh thế giới, cách mạng Việt Nam bước vào thời
mới, mđầu khởi nghĩa Bắc Sơn, Nam Binh biến Đô Lương.
22/9/1940, Nhật tiến vào Lạng Sơn nước ta, bọn Pháp đây nhanh chóng
đầu hàng hoặc bỏ chạy về xuôi, nhân hội đó, 27/9/1940, nhân dân Bắc Sơn đã
khởi nghĩa, thành lập chính quyền cách mạng đội du kích Bắc Sơn. Mấy ngày
sau được phát xít Nhật giúp đỡ, thực dân Pháp trở lại đàn áp cuộc khởi nghĩa.
Tại Nam kì, lúc này biên giới Thái Lan, Campuchia xung đột trang,
thực dân Pháp đưa binh lính người Việt sang làm bia đỡ đạn. Binh lính hoặc bỏ
trốn, hoặc liên lạc với cách mạng để khởi nghĩa. Hội nghị Trung ương 11/1940
nhận thấy thời chưa chín muồi đã quyết định hoãn khởi nghĩa nhưng do chỉ thị
của Đảng vào chậm, cuộc khởi nghĩa đã nổ ra vào đêm 22 rạng 23/11/1940, chính
quyền cách mạng được thành lậpnhiều nơi. cờ đỏ sao vàng lần đầu tiên xuất
hiện trong khởi nghĩa. Do kế hoạch bị lộ, cuộc khởi nghĩa đã bị đàn áp man.
Chúng cho máy bay ném bom xuống nhiều làng xóm, nhiều cán bộ ưu tú của Đảng
bị xử bắn.
Tại Nghệ An, thực dân Pháp cũng đưa binh lính người Việt sang chiến đấu
trên chiến trường Thái Lan - Campuchia. Do được giác ngộ từ trước, dưới sự lãnh
đạo của Đội Cung,13/1/1941, binh lính đồn Chợ Rạng đã nổi dậy đánh chiếm đồn
Đô Lương rồi lên xe tiến về Vinh, phối hợp với binh lính đây chiếm thành. Kế
hoạch bị thất bại, những người tham gia binh biến bị bắt. Đội Cung 10 người
khác bị xử bắn.
Trong vòng hơn 3 tháng, 3 cuộc nổi dậy đã liên tiếp nổ ra ở 3 miền, tuy thất
bại do thời chưa chín muồi nhưng đã nêu cao tinh thần đấu tranh bất khuất của
nhân dân ta, giáng một đòn nặng nề vào ách thống trị của thực dân Pháp, nghiêm
khắc cảnh cáo phát xít Nhật vừa đặt chân vào nước ta. Các cuộc khởi nghĩa và binh
biến đó đã để lại nhiều bài học kinh nghiệm quý báu những phát súng báo
hiệu mở đầu thời kì đấu tranh vũ trang mới của dân tộc.
Câu 115. Nêu hoàn cảnh, nội dung ý nghĩa của hội nghị Trung ương 8
Sang năm 1941, chiến tranh thế giới lan rộng. Tháng 6/1941, Đức tấn công
Liên Xô, tính chất của chiến tranh đã có sự thay đổi. Ở trong nước, dưới hai tầng áp
bức bóc lột, Nhật - Pháp, mâu thuẫn dân tộc hết sức gay gắt.
Đứng trước tình hình thế giới trong nước chuyển biến ngày một khẩn trương,
ngày 28/1/1941, Nguyễn Ái Quốc về nước trực tiếp lãnh đạo cách mạng. Người đặt
chân lên đất Quảng sau đó chuyển về hoạt động hang Pác Bó, Cao Bằng. Sau
một thời gian chuẩn bị, Hội nghị Trung ương VIII được triệu tập tại Pác Bó, Cao
Bằng dưới sự chủ trì củaNguyễn Ái Quốc từ 10-19/5/1941.
Hội nghị khẳng định nhiệm vụ chủ yếu trước mắt của cách mạng giải
phóng dân tộc, tiếp tục tạm gác khẩu hiệu ruộng đất, chỉ nêu tịch thu ruộng đất của
đế quốc tay sai chia cho dân nghèo, chia lại ruộng công, giảm tô, giảm tức, tiến
tới thực hiện “người cày có ruộng”.
Hội nghị cũng nhấn mạnh sau khi đánh đổ đế quốc phát xít sẽ thành lập
chính phủ nhân dân của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà.
Theo sáng kiến của Nguyễn Ái Quốc, hội nghị quyết định thành lập mặt trận
“Việt Nam độc lập đồng minh” thay cho mặt trận phản đế Đông Dương, thành lập
các “Hội cứu quốc” thay cho “Hội phản đế”, đồng thời giúp đỡ Lào và Campuchia
thành lập mặt trận riêng.
Hội nghị xác định hình thái của cuộc khởi nghĩa đi từ khởi nghĩa từng
phần lên tổng khởi nghĩa, đồng thời nhấn mạnh coi chuẩn bị khởi nghĩa nhiệm
vụ trung tâm của toàn Đảng, toàn dân trong giai đoạn hiện tại.
Hội nghị bầu BCH Trung ương mới do Trường Chinh làm Tổng bí thư.
Hội nghị Trung ương 8 ý nghĩa lịch sử to lớn đã hoàn chỉnh chủ trương
chuyển hướng đấu tranh của Đảng được đề ra từ tháng 11/1939 nhằm giải quyết
mục tiêu số một của cách mạng dân tộc giải phóng đề ra nhiều chủ trương
sáng tạo để thực hiện mục tiêu ấy. Hội nghị vai trò quyết định, động viên toàn
Đảng, toàn dân tích cực chuẩn bị lực lượng mọi mặt tiến tới tổng khởi nghĩa.
Ngày 19/5/1941, “Mặt trận Việt Minh” được thành lập, 5 tháng sau công bố
Tuyên ngôn, Chương trình Điều lệ đoàn kết rộng rãi các tầng lớp nhân dân giành
độc lập cho dân tộc.
Câu 116. Nêu công cuộc chuẩn bị khởi nghĩa t sau Hội nghị Trung
ương 8 đến trước khi Nhật đảo chính Pháp
Cách mạng không tự đến phải chuẩn bị giành lấy nó. Từ sau hội
nghị Trung ương 8, công tác chuẩn bị khởi nghĩa được coi nhiệm vụ trung tâm
của toàn Đảng, toàn dân để sẵn sàng nắm bắt thời cơ.
1. Về lực lượng chính trị: nhiệm vụ trung tâm lúc nàyphải đẩy mạnh xây
dựng Mặt trận Việt Minh, nhất là ở căn cứ địa. Cao Bằng là nơi thí điểm, xây dựng
các hội cứu quốc, đến năm 1942, khắp các châu Cao Bằng đều các tổ chức
Việt Minh, có 3 châu “hoàn toàn” nghĩa là toàn dân tham gia Việt Minh. Tiếp đó uỷ
ban Việt minh tỉnh Cao Bằng Uỷ ban Việt minh lâm thời liên tỉnh Cao - Bắc -
Lạng được thành lập.
các tỉnh Bắc thành phố lớn như Nội, Hải Phòng, các “Hội phản
đế” được chuyển thành “Hội cứu quốc”. Nhiều hội cứu quốc mới được thành lập.
Bên cạnh tầng lớp cơ bảncông nhân và nông dân, Mặt trận Việt minh chú ý vận
động các tầng lớp nhân dân khác, kể cả binh lính trong quân đội Pháp và ngoại kiều
Đông Dương có tinh thần chống phát xít.
Năm 1943, Đảng công bố bản “Đề cương văn hoá Việt Nam” nhằm vận
động văn nghệ sĩ, thành lập “Hội Văn hoá cứu quốc” và “Đảng dân chủ Việt Nam”
(1944) đứng trong mặt trận Việt Minh.
Báo chí của Đảng Mặt trận phát triển sôi nổi như báo “Cứu quốc”, “Việt
Nam độc lập”, “Giải phóng”, “Cờ giải phóng”…, góp phần to lớn đập tan các luận
điệu phản động của địch, giác ngộ quần chúng đấu tranh.
2. Về lực lượng trang: Cùng với lực lượng chính trị, lực lượng trang
cũng được chú trọng xây dựng. Trên sở đội du kích Bắc Sơn, ngày 14/2/1941
trung đội Cứu quốc quân I được thành lập, tiến hành 8 tháng chiến tranh du kích để
mở rộng ảnh hưởng. Đến ngày 15/9/1941, trung đội Cứu quốc quân II ra đời.
Cao Bằng, sau khi về nước, Nguyễn Ái Quốc đã cho xây dựng các đội tự
vệ vũ trang, biên soạn tài liệu, luyện tập quân sự.
3. Căn cứ địa: Sau khởi nghĩa Bắc Sơn, Đảng quyết định xây dựng căn cứ địa
Bắc Sơn - Nhai. Sau khi về nước, Nguyễn Ái Quốc cho xây dựng Cao Bằng
thành căn cứ địa thứ 2.
Sang năm 1943, chiến tranh thế giới II chuyển hướng có lợi cho ta, Liên
bắt đầu phản công. Ban Thường vụ Trung ương Đảng đã họp Võng La, Đông
Anh nhằm gấp rút chuẩn bị khởi nghĩa.
Việc chuẩn bị khởi nghĩa được đẩy mạnh, nhất căn cứ địa Trung ương.
Tại Bắc Sơn - Võ Nhai, ngày 12/2/1944, trung đội Cứu quốc quân III ra đời. Ở Cao
Bằng các hội cứu quốc phát triển mạnh mẽ. Năm 1943, Ban Việt minh liên tỉnh
Cao - Bắc - Lạng đã thành lập 19 ban xung phong “Nam tiến” nối liền với Bắc Sơn
- Võ Nhai và các tỉnh miền xuôi.
7/5/1944, tổng bộ Việt Minh ra chỉ thị “Sửa soạn khởi nghĩa”. Ngày
10/8/1944, Đảng ra lời kêu gọi “Sắm vũ khí, đuổi thù chung”. Không khí chuẩn bị
khởi nghĩa sục sôi.
Ngày 22/12/1944, theo chỉ thị của Nguyễn Ái Quốc, đội Việt Nam tuyên
truyền giải phóng quân được thành lập do Nguyên Giáp chỉ huy. Vừa ra đời,
Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân đã diệt đồn Phay Khắt và Nà Ngần. Căn cứ
địa được củng cố.
Công cuộc chuẩn bị khởi nghĩa còn được tiếp tục sau khi Nhật đảo chính
Pháp cho đến sát ngày tổng khởi nghĩa.
Câu 117. Tại sao liên tiếp từ 1939-1941 ba hội nghị Trung ương đã được
triệu tập? Nội dung chủ yếu của các hội nghị này là gì?
Từ khi chiến tranh thế giới II bùng nổ đến đầu 1941 đã diễn ra ba Hội nghị
Ban chấp hành Trung ương: tháng 11/1939, 11/1940 và tháng 5/1941.
Sở dĩ có tình hình đó là do tình hình thế giới và trong nước thay đổi một cách
nhanh chóng dưới ảnh hưởng của chiến tranh thế giới II, đòi hỏi Đảng phải kịp thời
có nhận định, đánh giá chính xác để ra chủ trương, nhiệm vụ đúng đắn.
Nội dung chủ yếu ở các hội nghị Trung ương này là chuyển hướng đấu tranh,
nêu cao vấn đề giải phóng dân tộc, đẩy mạnh chuẩn bị lực lượng để nắm bắt thời cơ
khởi nghĩa giành chính quyền.
Câu 118. Tại sao các Hội nghị Trung ương 1939, 1940, 1941 đã đặt vấn
đề giải phóng dân tộc lên hàng đầu?
(câu 110. VN trong chiến tranh)
Câu 119. Mặt trận dân tộc thống nhất phản đế Đông Dương ra đời trong
điều kiện lịch sử nào?
- Tình hình 9/1939, chiến tranh thế giới II bùng nổ, thực dân Pháp đề ra
chính sách kinh tế chỉ huy ban bố lệnh tổng động viên nhằm vét sức người,
sức của phục vụ cho chiến tranh. Về chính trị, chúng tăng cường khủng bố đàn áp
phong trào yêu nước. Đời sống của các tầng lớp nhân dân trở nên điêu đứng cực
khổ. Mâu thuẫn dân tộc gay gắt.
- Trước tình hình đó, Ban chấp hànhTrung ương đã họp từ 6-8/11/1939 dưới
sự chủ trì của Tổng thư Nguyễn Văn Cừ đã nêu cao nhiệm vụ giải phóng dân
tộc, tạm gác khẩu hiệu ruộng đất, chuyển từ đấu tranh hợp pháp, công khai sang
trực tiếp đánh đổ đế quốc tay sai.
- Để phù hợp với tình hình nhiệm vụ đó, Đảng đã quyết định thành lập
Mặt trận thống nhất dân tộc phản đế Đông Dương thay cho Mặt trận dân chủ Đông
Dương không còn phù hợp.
Câu 120. Hoàn cảnh ra đời và vai trò của Mặt trận Việt Minh trong quá
trình chuẩn bị và tổng khởi nghĩa tháng 8/1945
- Hoàn cảnh: Từ khi chiến tranh thế giới bùng nổ, đặc biệt là sau khi phát xít
Nhật tiến vào nước ta, cấu kết với thực dân Pháp bóc lột nhân dân ta, đời sống của
các tầng lớp nhân dân trở nên điêu đứng, cực khổ hơn lúc nào hết. Mâu thuẫn dân
tộc hết sức gay gắt. Cả nước Việt Nam như một “đồng cỏ khô” chỉ một tàn lửa rơi
vào là thổi bùng lên thiêu cháy lũ cướp nước và bán nước.
Trên thế giới, đầu năm 1941, phe phát xít chiếm đóng hầu hết các nước châu
Âu và chuẩn bị tấn công Liên Xô.
Đứng trước tình hình thế giới, trong nước ngày một khẩn trương, đầu năm
1941, Nguyễn Ái Quốc về nước trực tiếp lãnh đạo cách mạng. Hội nghị Trung
ương 8 nêu cao vấn đề dân tộc hơn lúc nào hết và chủ trương giải quyết vấn đề dân
tộc trong khuôn khổ từng nước Đông Dương.
Thích hợp với tình hình nhiệm vụ đó, theo sáng kiến của Nguyễn Ái
Quốc, Hội nghị đã quyết định thành lập Mặt trận Việt Nam độc lập đồng minh
(Việt Minh) thay cho Mặt trận phản đế Đông Dương, thay các hội phản đế bằng
Hội cứu quốc.
19/5/1941 Mặt trận Việt Minh được thành lập, 5 tháng sau công bố chương
trình, Tuyên ngôn và Điều lệ.
- Vai trò: Mặt trận Việt Minh đã đoàn kết rộng rãi các tầng lớp nhân dân vào
các Hội cứu quốc, bên cạnh công nhân, nông dân còn các tầng lớp nhân dân
khác, kể cả binh lính trong quân đội Pháp và ngoại kiều có tinh thần chống phát xít.
Từ đây, toàn bộ cách mạng Việt Nam đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Mặt trận
Việt Minh. Mặt trận đã đẩy mạnh xây dựng lực lượng về mọi mặt, lãnh đạo cao
trào kháng Nhật cứu nước Tổng khởi nghĩa thắng lợi, lập nên nước Việt Nam
dân chủ cộng hoà.
Câu 121. Nêu hoàn cảnh, diễn biến, kết quả, ý nghĩa của cao trào kháng
Nhật cứu nước
Sang năm 1945, quân đồng minh đã phản công trên các mặt trận. Ở châu Âu,
một loạt nước Đông Âu được giải phóng, Liên Xô đang trên đường tiến vào Beclin.
Ở châu Á, phát xít Nhật cũng bại trận liên tiếp.
Đông Dương, lực lượng Pháp Đờ Gôn chiếm ưu thế, tìm cách phản kích
lại Nhật. Mâu thuẫn Nhật - Pháp trở nên gay gắt.
Để tránh nguy bị quân Pháp bắn sau lưng khi quân đồng minh vào Đông
Dương, Nhật tiến hành cuộc đảo chính hất cẳng Pháp ngày 9/3/1945, độc chiếm
Đông Dương.
Sau đảo chính, Nhật ra sức tuyên truyền giúp các dân tộc Đông Dương gìanh
độc lập. Tuy nhiên, chính sách thống trị củ Nhật không khác trước, chúng
thành lập chính phủ nhìn do Trần Trọng Kim đứng đầu, đưa Bảo Đại lên làm
Quốc trưởng. Về kinh tế, chúng tiếp tục bóc lột, vét sức người sức của phục vụ
cho chiến tranh. Về chính trị, tiến hành các vụ đàn áp, khủng bố nhân dân ta. Về
văn hoá - tư tưởng ra sức tuyên truyền, là bịp đồng văn đồng chủng.
Trong khi cuộc đảo chính đang nổ ra thì Ban thường vụ Trung ương Đảng
họp Đình Bảng, Từ Sơn, Bắc Ninh đến ngày 12/3/1945 ra chỉ thị “Nhật - Pháp
bắn nhau hành động của chúng ta”. Bản chỉ thị đã phân tích nguyên nhân, tính
chất cuộc đảo chính, nhận định cuộc đảo chính đã tạo ra sự khủng hoảng gay gắt
nhưng điều kiện tổng khởi nghĩa chưa chín muồi. Xác định kẻ thù cụ thể lúc này
phát xít Nhật, thay kẩu hiệu đánh đuổi Pháp Nhật bằng đánh đuổi phát xít Nhật,
đánh đổ chính phủ bù nhìn Trần Trọng Kim.
Về hình thức đấu tranh từ bất hợp tác, bãi công, bãi thị, đến biểu tình tuần
hành thị uy vũ trang du kích và sẳn sàng chuyển qua hình thức tổng khởi nghĩa khi
có điều kiện.
Hội nghị quyết định phát động cao trào kháng Nhật cứu nước mạnh mẽ làm
tiền đề cho tổng khởi nghĩa.
Từ sau cuộc đảo chính Nhật - Pháp, cách mạng Việt Nam chuyển sang giai
đoạn cao trào.
căn cứ địa, Cứu quốc quân Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân đã
phối hợp với lực lượng quân chúng đánh chiếm nhiều đồn bốt địch, thành lập chính
quyền cách mạng.
Bắc Bắc Trung kì, lúc này nạn đói diễn ra trầm trọng. Đảng đề ra
khẩu hiệu: “Phá kho thóc, cứu đói” lôi cuốn hàng triệu người đứng lên.
Song song với phong trào phá kho thóc cứu đói, các cuộc khởi nghĩa từng
phần cũng diễn ra nhiều nơi. Ngày 11/3/1945, chính trị Ba Tơ khởi nghĩa,
thành lập đội du kích Ba tơ.
Ở những nơi khác như Nghĩa Lộ, Sơn La, Hoả - Nội, Lao Bảo, Buôn
Ma Thuột, chính trcũngm cách vượt ngục hoặc đấu tranh đòi trả t do, trở
thành nguồn bổ sung quan trọng vền bchoch mạng.
Ý nghĩa: Cao trào kháng Nhật cứu nước một bước phát triển mạnh mẽ cả
về quy mô, tính chất, thực sự đã tạo tiền đề cho tổng khởi nghĩa. Lực lượng cách
mạng được đẩy mạnh, chuẩn bị chu đáo, quần chúng tập dượt đấu tranh giành
chính quyền đi từ thấp đến cao. Kẻ địch lâm vào khủng hoảng và suy yếu toàn diện.
Câu 122. Nêu quá trình chuẩn bị lực lượng từ sau Nhật đảo chính Pháp
cho đến tổng khởi nghĩa
Sau khi Nhật đảo chính Pháp, công cuộc chuẩn bị khởi nghĩa được đẩy
mạnh, nhất là lực lượng vũ trang.
Từ 15-20/4/1945 Hội nghị quân sự cách mạng Bắc được triệu tập nhằm
đẩy mạnh xây dựng lực lượng trang, nửa trang, thống nhất lực lượng
trang, mở trường đào tạp cấp tốc cán bộ chính trị, quân sự, mua sắm, rèn đúc vũ khí
luyện tập quân sự. Uỷ ban quân sự cách mạng Bắc được thành lập để chỉ huy
các chiến khu và giúp đỡ toàn quốc về mặt quân sự.
Ngày 16/4/1945, tổng bộ Việt Minh ra chỉ thị thành lập uỷ ban dân tộc giải
phóng các cấp tiến tới thành lập Uỷ ban dân tộc giải phóng Việt Nam.
Ngày 15/5/1945, Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân Cứu quốc quân
đã thống nhất thành Việt Nam giải phóng quân… Hồ Chí Minh chuyển từ Cao
Bằng về Tân Trào để trực tiếp lãnh đạo cuộc tổng khởi nghĩa đang đến gần.
Theo chỉ thị của Hồ Chí Minh, 4/6/1945 khu giải phóng Việt Bắc được thành
lập bao gồm hầu hết các tỉnh trung du và thượng du Bắc Bộ: Cao - Bắc - Lạng, Hà -
Tuyên - Thái, thủ phủ là Tân Trào. Uỷ ban lâm thời khu giải phóng được thành lập,
10 chính sách của Việt Minh được thực hiện trong khu giải phóng. Khu giải phóng
Việt Bắc trở thành căn cứ địa chủ yếu của cách mạng tháng Tám hình ảnh thu
nhỏ của nước Việt Nam độc lập sau này.
Câu 123 Nêu hoàn cảnh và chủ trương tổng khởi nghĩa của Đảng
Điều kiện chủ quan: lực lượng cách mạng chuẩn bị chu đáo. Cao trào kháng
Nhật cứu nước đã tạo tiền đề cho Tổng khởi nghĩa.
Điều kiện khách quan: Ngày 9/5/1945, phát xít Đức đầu hàng không điều
kiện, chiến tranh châu Âu kết thúc. 8/8/1945, Liên tuyên chiến với Nhật, đến
ngày 9/8 Hồng quân Liên tiến vào Đông Bắc Trung Quốc, tiêu diệt đạo quân
Quan Đông của Nhật. Trước đó, 6/8, Mỹ ném quả bom nguyên tử thứ nhất xuống
thành phố Hirôsima 9/8 ném xuống Nagaxaki của Nhật giết hại hàng chục vạn
người. Trước tình hình đó, từ 9/8 nội các của Nhật họp để thảo luận tuyên bố của
Hội nghị Pôtxđam về việc đầu hàng của Nhật. Đến ngày 15/8/1945, Nhật đã chính
thức đầu hàng không điều kiện.
Đây thời “ngàn năm một". Quân Nhật Đông Dương hoang mang,
rệu rã, chính phủ bù nhìn Trần Trọng Kim mất chỗ dựa. Điều kiện tổng khởi nghĩa
đã chín muồi.
Ngay từ 13/8/1945 được tin chính phủ Nhật sắp đầu hàng, Đảng tổng bộ
Việt Minh đã thành lập Uỷ ban khởi nghĩa toàn quốc và đến 23h cùng ngày thì ban
bố quân lệnh số 1, chính thức phát lệnh tổng khởi nghĩa.
Từ 14-15/8 Hội nghị toàn quốc của Đảng được triệu tập để thảo luận về kế
hoạch tổng khởi nghĩa quyết định các chính sách đối nội, đối ngoại sau tổng
khởi nghĩa.
Tiếp đó, từ 16-17/8/1945 Đại hội quốc dân đã họp tại Tân Trào tán thành chủ
trương tổng khởi nghĩa của Đảng, bầu ra Uỷ ban dân tộc giải phóng Việt Nam do
Hồ Chí Minh đứng đầu, thông qua chính sách đối nội, đối ngoại của nước Việt
Nam độc lập.
Hội nghị toàn quốc của Đảng Đại hội quốc dân Tân Trào, Đảng, Mặt
trận Việt Minh Hồ Chí Minh đã thông qua kế hoạch đúng đắn, sáng tạo kịp
thời tổng khởi nghĩa giành chính quyền toàn quốc trước khi quân đồng minh vào
nước ta, đứng ở địa vị làm chủ nước nhà để đón tiếp quân đồng minh.
Câu 124. Nêu diễn biến của Tổng khởi nghĩa sự thành lập nước Việt
Nam dân chủ cộng hoà
Từ giữa tháng 8/1945, không khí khởi nghĩa đã sục sôi. Ngay từ ngày 14/8
nhiều địa phương tuy chưa nhận được lệnh tổng khởi nghĩa nhưng căn cứ vào điều
kiện cụ thể chỉ thị "Nhật - Pháp bắn nhau hành động của chúng ta” đã đứng
lên khởi nghĩa.
Ngày 16/8, một đơn vị quân giải phóng do Nguyên Giáp chỉ huy xuất
phát từ Tân Trào tiến về giải phóng thị xã Thái Nguyên.
Hải Dương, Bắc Giang, Tĩnh, Quảng Nam những tỉnh đầu biến thành
được chính quyền ở tỉnh lị vào 18/8.
Tạị Nội, ngày 17/8, một cuộc mít tinh diễn ra nhà hát lớn, sau đó tiến
hành một cuộc biểu tình với những khẩu hiệu "Ủng hộ Việt Minh", "Việt Nam độc
lập"... Uỷ ban khởi nghĩa Nội được thành lập, quyết định sẽ tiến hành khởi
nghĩa vào 19/8.
18/8 không khí chuẩn bị khởi nghĩa đã tràn ngập Hà Nội.
19/8 hàng vạn nhân dân nội, ngoại thành lực lượng trang hỗ trợ đã
đánh chiếm Toà thị chính, Bắc Bộ phủ, Sở cảnh sát Trung ương, nhà Bưu điện bờ
hồ, trại lính Bảo An... Đến chiều tối ngày 19/8 khởi nghĩa đã thắng lợi ở Hà Nội.
Huế, 20/8 Uỷ ban khởi nghĩa được thành lập, quyết định khởi nghĩa vào
23/8, Nhân dân nội ngoại thành đã đánh chiếm các công sở của chính quyền
nhìn.
Sài Gòn, Uỷ ban khởi nghĩa quyết định sẽ khởi nghĩa vào ngày 25/8. Các
đơn vị "xung phong công đoàn", "Thanh niên tiền phong" phối hợp với nhân dân
các tỉnh Nam Bộ đã đánh chiếm sở mật thám Trung ương, sở cảnh sát, nhà ga
các công sở của địch.
Thắng lợi của Nội, Huế, Sài Gòn đã cổ tạo điều kiện cho các tỉnh
thành đứng lên khởi nghĩa giành chính quyền. Đến ngày 28/8 thìTiên và Đồng
Nai Thượng là hai tỉnh cuối cùng giành được chính quyền.
Như vậy, trừ một số vùng do quân Trung Hoa Quốc dân Đảng chiếm đóng,
cuộc Tổng khởi nghĩa đã giành thắng lợi trong vòng 15 ngày. Đến ngày 30/8 vua
Bảo Đại tuyên bố thoái vị.
Từ ngày 25/8/1945, Hồ Chủ tịch, Trung ương Đảng đã chuyển về Nội.
Ngày 28/8, theo đề nghị của Hồ Chủ tịch, Uỷ ban dân tộc giải phóng Việt Nam
được đổi thành Chính phủ lâm thời.
Ngày 2/9/1945, một cuộc mít tinh trọng thể được tiến hành tại quảng trường
Ba Đình - Nội. Hồ Chủ tịch đã đọc Tuyên ngôn độc lập khai sinh nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hoà. Tuyên ngôn độc lập khẳng định nước Việt Nam có quyền
hưởng tự do - độc lập và sự thật đã trở thành một nước tự do, độc lập. Toàn thể dân
tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng của cải để bảo
vệ quyền tự do, độc lập ấy.
Câu 125. Nêu nguyên nhân thắng lợi, ý nghĩa lịch sử bài học kinh
nghiệm của Cách mạng tháng 8.
* Nguyên nhân thắng lợi :
- Khách quan: Nhờ thắng lợi của Liên Xô và Đồng minh đã đánh bại phát xít
Đức và quân phiệt Nhật Bản, cổ vũ và tạo điều kiện thắng lợi cho cách mạng nước
ta.
- Chủ quan:
+ Nhờ tinh thần yêu nước, đoàn kết đấu tranh của toàn Đảng, toàn quân
toàn dân ta. Dưới ách thống trị của Nhật - Pháp, nhân dân ta không con đường
nào khác là phải vùng lên đấu tranh.
+ Nhờ sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng, mặt trận Việt Minh, đứng đầu Hồ
Chí Minh đã kịp thời chuyển hướng đấu tranh, nêu cao vấn đề dân tộc, ch cực
chuẩn bị mọi mặt, nắm bắt thời cơ, kiên quyết dũng cảm phát động quần chúng
đứng lên.
+ Cách mạng tháng 8 được chuẩn bị chu đáo, lâu dài trong 15 nam, trải qua
các cuộc diễn tập 1930-1931, 1936-1939 trực tiếp phong trào giải phóng dân
tộc 1939-1945.
+ Trong thời gian tổng khởi nghĩa toàn Đảng, toàn dân đoàn kết một lòng,
nhất tề đứng lên không quản hi sinh, gian khổ. Các tổ chức Đảng mặt trận các
cấp chỉ đạo linh hoạt, sáng tạo.
Trong các nguyên nhân đó thì yếu tố chủ quan trong nước đóng vai trò quyết
định nhất. Điều kiện khách quan thuận lợi nhưng nếu lực lượng không được
chuẩn bị chu đáo, Đảng không kịp thời phát động quân chúng đứng lên
đường lối đúng đắn thì cũng không thể có thắng lợi của cách mạng tháng 8.
* ý nghĩa lịch sử :
- Trong nước:
+ Cách mạng tháng 8 đã mở ra một bước ngoặt lớn, lật đổ ách thống trị hơn
80 năm của thực dân Pháp 5 năm chiếm đóng của phát xít Nhật, đồng thời lật
nhào ngai vàng phong kiến hàng nghìn năm, lập nên nước Việt Nam dân chủ cộng
hoà, Nhà nước của dân, do dân, vì dân.
+ Cách mạng đã mở ra kỉ nguyên mới trong lịch sử nước ta, kỉ nguyên giải
phóng dân tộc gắn liền với giải phóng xã hội, kỉ nguyên nhân dân làm chủ vận mện
củanh.
+ Đảng Cộng sản Đông Dương từ địa vị bất hợp pháp trở thành Đảng cầm
quyền, tạo điều kiện cho những thắng lợi tiếp theo sau này.
- Thế giới: Thắng lợi đó góp phân tiêu diệt chủ nghĩa phát xít, kết thúc chiến
tranh, chọc thủng khâu yếu nhất trong hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc,
góp phần làm suy yếu chúng, cổ vũ và tạo điều kiện cho phong trào giải phóng dân
tộc trên thế giới, ảnh hưởng to lớn trực tiếp đến hai nước bạn Lào
Campuchia.
* Bài học kinh nghiệm:
- Đảng phải đường lối đúng đắn, trên sở vận dụng sáng tạo chủ nghĩa
Mác - Lênin vào thực tiễn cách mạng Việt Nam, nắm bắt tình hình quốc tế và trong
nước để đề ra chủ trương, nhiệm vụ phù hợp.
- Đảng tập hợp, tổ chức các lực lượng yêu nước rộng rãi trông mặt trận dân
tộc thống nhất, trên cơ sở liên minh công - nông phân hoá, cô lập, tiến lên đánh bại
hoàn toàn kẻ thù.
- Trong chỉ đạo khởi nghĩa, Đảng linh hoạt kết hợp đấu tranh chính trị với
đấu tranh trang, chiến tranh du kích nổi dậy của quần chúng, thành thị
nông thôn, khởi nghĩa từng phần chớp thời phát động tổng khởi nghĩa trong cả
nước.
- Đảng kết hợp đấu tranh và xây dựng nhằm không ngừng lớn mạnh về chính
trị, tư tưởng, tổ chức đủ có năng lực và uy tín để lãnh đạo cách mạng
Câu 126. Chứng minh rằng Cách mạng tháng 8 thành quả của 15
năm chuẩn bị và đấu tranh dưới sự lãnh đạo của Đảng
- Nêu ý nghiã của sự thành lập Đảng.
- Ý nghĩa và bài học kinh nghiệm phong trào 1930-1931.
- Ý nghĩa và bài học kinh nghiệm phong trào 1936-1939.
- Nêu khái quát quá trình chuẩn bị lực lượng, đi từ khởi nghĩa từng phần lên
tổng khởi nghĩa thời kì1939-1945.
Câu 127. So sánh chủ trương của Đảng qua các thời kì 1930-1931, 1936-
1939, 1939-1945 và giải thích vì sao có sự khác nhau?
1) Mục tiêu:
- 1930-1931: đánh đổ đế quốc phong kiến giành độc lập dân tộc, ruộng đất
dân cày.
- 1936-1939: Đánh đổ phản động, phát xít đòi dân sinh, dân chủ, cơm áo hoà
bình.
- 1939-1945: đánh đổ đế quốc, phát xít tay sai giành độc lập dân tộc.
2) Lực lượng:
- 1930-1931: Chủ yếu công nhân và nông dân.
- 1936-1939: tập hợp rộng rãi các tầng lớp nhân dân tinh thần chống phát
xít, chống chiến tranh.
- 1939-1945: Tập hợp rộng i các tầng lớp nhân n tinh thần yêu
nước.
3) Hình thức đấu tranh:
- 1930-1931: Sử dụng cách mạng bạo lực, mật, bất hợp pháp, nhưng chủ
yếu là bạo lực chính trị.
- 1936-1939: Kết hợp đấu tranh bí mật, bất hợp pháp với đấu tranh hợp pháp
công khai.
- 1939-1945: Khởi nghĩa vũ trang.
* Nguyên nhân khác nhau: Do hoàn cảnh mỗi thời kì khác nhau.
Câu 128. Nêu mục tiêu, nhiệm vụ được đề ra tại Hội nghị thành lập
Đảng, luận cương chính trị 10/1930 và Hội nghị Trung ương 8 tháng 5/1941.
* Hội nghị thành lập Đảng: xác định chống đế quốc, chống phong kiến,
độc lập dân tộc ruộng đất dân cày, thiết lập chính quyền công - nông - binh,
trong đó độc lập, tự do được đặt lên vị trí hàng đầu.
* Trong Luận cương chính trị 10/1930: Cũng nêu nhiệm vụ chống đế quốc,
chống phong kiến, độc lập dân tộc, ruộng đất dân cày nhưng lại quá nhấn mạnh về
đấu tranh giai cấp và cách mạng ruộng đất.
* Tại Hội nghị TW VIII 5/1941: Nêu cao nhiệm vụ dân tộc hơn lúc nào hết,
tạm gác khẩu hiệu ruộng đất, thành lập chính phủ nhân dân nước Việt Nam dân chủ
cộng hoà.
Câu 129. Phân tích vai trò của Hồ Chí Minh đối với Cách mạng tháng 8
và sự thành lập nước Việt Nam dân chủ cộng hoà
- Về nước triệu tập Hội nghị Trung ương VIII, hoàn chỉnh chủ trương,
chuyển hướng đấu tranh.
- y dựng lực lượng bao gồm: tnh lập Mặt trận Việt Minh, xây dng
n cđa, lc lượng vũ trang (Vit Nam tuyên truyền giải png quân).
- Cùng với Đảng Mặt trận đề ra chủ trương Tổng khởi nghĩa đúng đắn,
lãnh đạo cuộc tổng khởi nghĩa.
- Soạn Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra ớc Việt Namn chủ cộng hoà.
Câu 130. Bài học về lợi dụng mâu thuãn trong hàng ngũ địch được thực
hiện như thế nào trong quá trình chuẩn bị và tiến hành cách mạng tháng 8
- Khi chiến tranh bùng nổ, Đảng ta đã đề nghị thực dân Pháp phối hợp để
chống lại sự xâm lược của phát xít Nhật nhưng thực dân Pháp đã khước từ liên
kết với Nhật để chống lạiớc ta. vậy, Đảng ta đã đề ra khẩu hiệu đánh Pháp,
đuổi Nhật.
- Sau khi Nhật đảo chính Pháp, Đảng ta xác định kẻ thù cụ thể phát xít
Nhật, thay khẩu hiệu đánh Pháp, Nhật bằng đánh đuổi phát xít Nhật, phát động một
“cao trào kháng Nhật cứu nước”.
Câu 131. Chủ trương khởi nghĩa vũ trang được đề ra tại Hội nghị Trung
ương 8 như thế nào? Trình bày công cuộc chuẩn bị khởi nghĩa đi từ khởi
nghĩa từng phần đến tổng khởi nghĩa
- Chủ trương khởi nghĩa trang: đi từ khởi nghĩa từng phần lên tổng khởi
nghĩa, coi chuẩn bị khởi nghĩa là nhiệm vụ trung tâm trong giai đoạn hiện đại.
- Chuẩn bị khởi nghĩa: Khái quát công cuộc chuẩn b khởi nghĩa: Lực
lượng chính trị, lực lượng vũ trang, căn cứ địa.
- Khởi nghĩa từng phần: Khái quát cao trào kháng Nhật cứu nước từ khi Nhật
đảo chính Pháp.
- Khái quát Tổng khởi nghĩa và thành lập nước VNDCCH
Câu 132. Nêu sự ra đời và vai trò của lực lượng vũ trang từ 1939-1945
- Hoàn cảnh: Chiến tranh thế giới bùng nổ, tác động đến đời sống của nhân
dân ta. Do đó, Đảng đã đề ra nhiệm vụ coi chuẩn bị khởi nghĩa nhiệm vụ trung
tâm để nắm bắt thời cơ.
Cùng với lực lượng chính trị, lực lượng trang được đẩy mạnh xây dựng.
Năm 1941 các trung đội Cứu quốc quân được thành lập. Cao bằng, Nguyễn Ái
Quốc đã cho xây dựng các đội tự vệ vũ trang.
Sang năm 1943, trước diễn biến của chiến tranh, Ban Thường vụ đã họp gấp
rút chuẩn bị khởi nghĩa. Tháng 2/1944 trung đội Cứu quốc quân III được thành lập
Bắc Sơn - Nhai. Cao Bằng, các hội Cứu quốc phát triển mạnh mẽ. Năm
1943 ban Việt Minh Cao - Bắc Lạng thành lập 19 ban xung phong Nam tiến nối
liền căn cứ địa Bắc Sơn - Nhai với các tỉnh miền xuôi. 7/5/1944 tổng bộ Việt
Minh ra chỉ thị “Sửa soạn khởi nghĩa”, 10/8/1944, Đảng ra lời kêu gọi “Sắm vũ khí,
đuổi thù chung”.
Ngày 22/12/1944, Nguyễn Ái Quốc ra chỉ thị thành lập Đội Việt Nam tuyên
truyền giải phóng quân.
- Đội du kích Ba tơ ra đời (11/3/1945)
Sau khi Nhật đảo chính Pháp, Việc xây dựng lực lượng trang được chú
trọng. Hội ngị quân sự cách mạng Bắc Kỳ được triệu tập tháng 4/1945, đẩy mạnh
phát triển lực lượng vũ trang. Uỷ ban quân sự cách mạng Bắc Kì được thành lập.
Ngày 15/5/1945 Cứu Quốc quân Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân
thống nhất thành Việt Nam giải phóng quân.
* Vai trò:
- Trong cao trào kháng Nhật cứu nước, lực lượng trang đã phối hợp với
lực lượng chính trị quần chúng giải phóng hàng loạt xã, châu, huyện.
- Trong tổng khởi nghĩa, lực lượng trang đã hỗ trợ cho quần chúng đánh
chiếm các công sở của địch, tiêu biểu như Hà Nội, Huế, Sài Gòn.
| 1/27

Preview text:

Câu 96. Nêu tình hình Việt Nam trong khủng hoảng kinh tế 1929-1933
Cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới 1929-1933 hết sức nặng nề. Thực dân
Pháp tìm cách trút hậu quả khủng hoảng lên nước ta. Cuộc khủng hoảng nổ ra trước
hết trong nông nghiệp. Giá lúa gạo giảm sút, ruộng đất bị bỏ hoang, 1930 là
200.000 ha đến 1933 là 500.000 ha.
Sau nông nghiệp là công nghiệp, các nhà máy xí nghiệp phải đóng cửa hoặc
sản xuất cầm chừng. Giá trị sản phẩm công nghiệp khai khoáng năm 1929 là 18
triệu đồng. Đến năm 1933 còn 10 triệu đồng.
Thương nghiệp bị đình đốn, hàng hoá tiêu dùng khan hiếm, đất đỏ.
Các ngành nghề thủ công bị phá sản.
Đời sống của các tầng lớp nhân dân trở nên điêu đứng, cực khổ. Nông dân bị
bần cùng hoá cao độ. Công nhân bị thất nghiệp, riêng ở Bắc kì đã có 25.000 người,
những người có việc làm tiền lương cũng bị cắt giảm, chỉ còn khoảng 30-50% so
với trước. Tiểu tư sản, viên chức, thợ thủ công cũng bị thất nghiệp, phá sản, đời
sống đắt đỏ. Ngay cả một bộ phận tư sản, địa chủ cũng điêu đứng do khủng hoảng kinh tế.
Hai mâu thuẫn cơ bản trong xã hội Việt Nam tiếp tục gay gắt là mâu thuẫn
giữa dân tộc ta với thực dân Pháp và mâu thuẫn giữa nông dân với địa chủ phong
kiến, trong đó, mâu thuẫn chủ yếu là giữa dân tộc ta với đế quốc tay sai.
Sau cuộc khởi nghĩa Yên Bái thất bại, thực dân Pháp tăng cường khủng bố,
càng làm cho mâu thuẫn xã hội tiếp tục gay gắt. Đó là nguyên nhân đưa đến sự
bùng nổ phong trào cách mạng 1930-1931.
Câu 97. Nêu khái quát diễn biến, kết quả, ý nghĩa của phong trào cách mạng 1930-1931
Giữa lúc cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới đang tác động nặng nề đến nước
ta thì Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời đã kịp thời phát động một phong trào cách
mạng trong những năm 1930-1931.
Từ đầu năm 1930, nhiều cuộc đấu tranh của côngnhân, nông dân đã nổ ra
trên phạm vi cả nước. Ở Hà Nội, truyền đơn, cờ đỏ búa liềm đã xuất hiện trên các
đường phố. Bên cạnh các yêu sách kinh tế, còn có khẩu hiệu chính trị như: “Đả đảo
đế quốc”, “Đả đảo phong kiến”, “ thả tù chính trị”.
Nhân ngày quốc tế lao động 1/5/1930, phong trào tiếp tục lên cao. Lần đầu
tiên ở nước ta, công nhân và nông dân lao động dưới sự lãnh đạo của Đảng đã kỉ
niệm ngày Quốc tế lao động nhằm biểu dương sức mạnh của mình và đoàn kết với
vô sản thế giới. Các cuộc đấu tranh này đánh dấu bước ngoặt của phong trào. Từ
sau tháng 5 có hàng trăm cuộc đấu tranh của công nhân, nông dân và các tầng lớp
nhân dân khác nổ ra trên phạm vi cả nước.
Đến tháng 9/1930, phong trào lên tới đỉnh cao, tiêu biểu là ở Nghệ An, Hà
Tĩnh. Nông dân các huyện như Nam Đàn, Thanh Chương, Anh Sơn, Can Lộc, Đô
Lương đã biểu tình vũ trang kéo đến các huyện lị, đưa yêu sách, đập phá các công
sở, nhà lao… Ngày 12/9/1930 đã diễn ra cuộc biểu tình khổng lồ của nông dân
huyện Hưng Nguyên, bị thực dân Pháp cho máy bay ném bom đàn áp làm 217
người chết, 125 người bị thương. Các cuộc biểu tình đó có sự ủng hộ của công nhân Vinh- Bến Thuỷ.
Trước khí thế cách mạng, nhiều tên lí trưởng, chánh tổng phải bỏ trốn
hoặc đầu hàng. Chính quyền địch ở nhiều huyện bị tê liệt, nhiều xã tan rã. Dưới
sự lãnh đạo của các tổ chức Đảng, nhân dân đã đứng ra làm chủ mọi hoạt động ở
địa phương mình, thực hiện chức năng chính quyền cách mạng theo kiểu Xô viết.
Thực dân Pháp đã đưa binh lính về đóng ở nhiều nơi Nghệ An, Hà Tĩnh, tiến
hành “khủng bố trắng” kết hợp với các thủ đoạn mua chuộc, chia rẽ. Từ nửa sau
1931, phong trào thu hẹp dần rồi chấm dứt.
Tuy chỉ tồn tại trong một thời gian ngắn nhưng phong trào cách mạng 1930-
1931 mà đỉnh cao là Xô Viết Nghệ - Tĩnh là sự kiện trọng đại trong lịch sử nước ta.
Kế tục truyền thống đấu tranh bất khuất của dân tộc, phong trào đã vùng lên với
một khí thế tiến công chưa từng có, giáng đòn nặng nề vào bộ máy thống trị của đế quốc phong kiến.
Phong trào cách mạng 1930-1931 đã khẳng định sự đúng đắn về đường lối
chính trị và vai trò lãnh đạo của Đảng trong thực tiễn, biểu dương sức mạnh to lớn
của công nhân, nông dân liên minh với các tầng lớp nhân dân khác. Khối liên minh
công - nông được hình thành.
Phong trào cách mạng 1930-1931 và Xô Viết Nghệ Tĩnh đã được đánh giá
cao trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Quốc tế cộng sản đã công
nhận Đảng Cộng sản Đông Dương là một phân bộ trực thuộc Quốc tế cộng sản.
Qua phong trào cách mạng 1930-1931, Đảng Cộng sản Đông Dương đã rút
ra nhiều bài học kinh nghiệm quý báu như về công tác tư tưởng, về liên minh công
- nông, về lãnh đạo đấu tranh… Đây là cuộc tập dượt đầu tiên cho Tổng khởi nghĩa tháng Tám sau này.
Câu 98. Nêu hoàn cảnh ra đời, hoạt động và ý nghĩa của Xô Viết Nghệ Tĩnh
Dưới ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế 1929-1933, một phong trào cách
mạng mới đã nổ ra từ đầu 1930. Đến tháng 9/1930, phong trào lên tới đỉnh cao, mà
điển hình là ở Nghệ An và Hà Tĩnh.
Trước khí thế cách mạng, bộ máy chính quyền địch ở nhiều vùng nông thôn
bị tê liệt, tan rã. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân đã đứng ra quản lý mọi hoạt
động ở địa phương mình, thực hiện chức năng của chính quyền cách mạng theo kiểu Xô viết.
Tại Nghệ An, Xô viết ra đời từ tháng 9/1930 ở các huyện Thanh Chương,
Nam Đàn, một phần huyện Anh Sơn, Nghi Lộc, Hưng Nguyên, Diễn Châu. Ở Hà
Tĩnh, Xô viết hình thành ở các xã thuộc huyện Can Lộc, Nghi Xuân, Hương Khê
vào cuối năm 1930 - đầu năm 1931.
Lần đầu tiên trong lịch sử nước ta chính quyền nằm trong tay nhân dân lao
động. Các Xô viết đã thực hiện một loạt các chính sách về chính trị, kinh tế - xã hội:
+ Về chính trị. Nhân dân được tự do tham gia các đoàn thể cách mạng, các
đội tự vệ đỏ và Tòa án nhân dân thành lập.
+ Về kinh tế. Xóa bỏ thuế thân thuế chợ, chia lại ruộng công, giúp nhau sản
xuất, phối hợp làm thuỷ lợi, giao thông.
+ Văn hoá - xã hội. Khuyến khích học chữ quốc ngữ, bài trừ mê tín, dị đoan,
duy trì an ninh trật tự xã hội.
Hoảng sợ trước phong trào cách mạng và ảnh hưởng của Đảng, thực dân
Pháp đã tiến hành khủng bố “trắng” kết hợp với các thủ đoạn mua chuộc, chia rẽ
thâm độc. Tuy chỉ tồn tại từ 4 - 5 tháng, nhưng Xô viết - Nghệ tĩnh đã thể hiện tinh
thần oanh liệt và năng lực sáng tạo của nhân dân Việt Nam, thật sự là chính quyền
của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, có sức cổ vũ động viên to lớn cuộc đấu
tranh của nhân dân ta sau này.
Câu 99. Nêu nội dung Luận cương chính trị tháng 10/1930 và hạn chế của nó
Giữa lúc phong trào cách mạng 1930-1931 đang diễn ra quyết liệt thì Hội
nghị TW lâm thời lần thứ nhất đã được tiến hành tại Hương Cảng 10/1930 dưới sự
chủ trì của Trần Phú. Hội nghị đã đổi tên Đảng thành Đảng Cộng sản Đông Dương,
bầu Ban chấp hành Trung ương chính thức do Trần Phú làm Tổng bí thư, thảo luận
và thông qua Luận cương chính trị.
Nội dung của Luận cương chính trị gồm các điểm sau đây:
- Xác định tính chất của cách mạng Đông Dương lúc đầu là tư sản dân
quyền, sau đó tiếp tục phát triển, bỏ qua giai đoạn tư bản chủ nghĩa, tiến thẳng lên CNXH.
- Hai nhiệm vụ chống phong kiến và chống đế quốc có mối quan hệ mật thiết với nhau.
- Động lực cách mạng là nâng đân và công nhân. Lãnh đạo là giai cấp công
nhân với chính Đảng tiền phong.
- Luận cương xác định hình thức ương và phương pháp đấu tranh, mối quan
hệ với cách mạng thế giới.
Tuy nhiên, Luận cương chính trị cũng bộc lộ một số sai lầm như không thấy
được mâu thuẫn chủ yếu của một xã hội thuộc địa, không nêu cao được vấn đề dân
tộc mà nặng về đấu tranh giai cấp và cách mạng ruộng đất, không thấy được tính
tích cực của tiểu tư sản, khả năng liên minh có điều kiện voi tư sản dân tộc, kha
năng phân hoá và lôi kéo một bộ phận trung tiểu địa chủ phong kiến.
Câu 100. Nêu nhận xét về lực lượng, tính chất, quy mô và hình thức đấu
tranh trong phong trào cách mạng 1930-1931
* Về lực lượng: Đông đảo không chỉ công nhân, nông dân mà còn nhiều tầng lớp nhân dân khác..
* Tính chất: Mang tính cách mạng triệt để, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng
sản nhằm đúng hai kẻ thù là đế quốc, phong kiến, khắc phục được tư tưởng cải
lương, thoả hiệp của thời kì trước.
* Quy mô: Rộng lớn, từ Nam đến Bắc, có những cuộc đấu tranh với sự tham
gia của hàng nghìn người.
* Hình thức đấu tranh quyết liệt, sử dụng cách mạng bạo lực bí mật, bất hợp
pháp, chủ yếu là bạo lực về chính trị.
Câu 101. Tại sao phong trào cách mạng 1930-1931 lên cao như vậy?
- Do hâu quả của khủng hoảng kinh tế nặng nề
- Đây là phong trào do Đảng Cộng sản lãnh đạo, có tổ chức chặt chẽ.
Câu 102. So sánh chính cương sách lược của Nguyễn Ái Quốc và Luận
cương chính trị tháng 10/1930 * Giống nhau:
- Đều xác định tính chất của cách mạng trong giai đoạn trước mắt là tư sản
dân quyền, sau đó bỏ qua giai đoạn tư bản chủ nghĩa, tiến thẳng lên CNXH và CNCS.
- Đều xác định nhiệm vụ của cách mạng tư sản dân quyền là chống đế quốc,
chống phong kiến có mối quan hệ mật thiết với nhau.
- Đều xác định lãnh đạo là giai cấp công nhân thông qua chính Đảng tiên
phong, cách mạng Việt Nam là bộ phận, có quan hệ mật thiết, gắn bó với cách mạng thế giới. * Khác nhau :
- Nhiệm vụ cách mạng : Luận cương chính trị nhấn mạnh về đấu tranh giai
cấp và cách mạng ruộng đất, cương lĩnh nhấn mạnh về độc lập tự do, coi đó là vấn đề cốt lõi.
- Về lực lượng : Cương lĩnh chủ trương đoàn kết rộng rãi các tầng lớp nhân
dân có tinh thần yêu nước. Luận cương chính trị không thấy được tính tích cực của
tiểu tư sản, khả năng liên minh có điều kiện với tư sản dân tộc, phân hoá và lôi kéo
một bộ phận trung tiểu địa chủ.
Chính cương sách lược là cương lĩnh giải phóng dân tộc đúng đắn, sáng tạo,
phù hợp với đặc điểm tình hình nước ta, mâu thuẫn chủ yếu là giữa toàn thể dân tộc
Việt Nam với đế quốc tay sai.
Câu 103. Nêu cuộc đấu tranh phục hồi phong trào 1932-1935 và Đại hội
Đảng lần thứ nhất
Hoảng sợ trước ảnh hưởng của Đảng và phong trào cách mạng 1930-1931,
thực dân Pháp đã tiến hành khủng bố trắng hết sức tàn bạo, kết hợp với các thủ
đoạn mua chuộc, chia rẽ thâm độc, cách mạng Việt Nam đứng trước nhiều khó
khăn. Hàng nghìn đảng viên, hàng vạn người yêu nước bị bắt bớ, tù đày, giết hại.
Tổ chức Đảng và quần chúng từ Trung ương đến cơ sở bị tan rã. Từ 1932 là thời kì
đấu tranh phục hồi phong trào.
Trong nhà tù đế quốc, các cán bộ đảng viên đã nêu cao phẩm chất cách
mạng, biến nhà tù thành trường học, tổng kết kinh nghiệm đấu tranh, tổ chức vượt ngục.
Ở bên ngoài, các cán bộ đảng viên còn lại thay đổi hình thức đấu tranh cho
phù hợp, sử dụng một số hình thức đấu tranh hợp pháp như tham gia các cơ quan
lập pháp, đấu tranh trên mặt trận văn hoá - tư tưởng.
Năm 1932, Lê Hồng Phong và một số đồng chí nhận chỉ thị của Quốc tế
cộng sản thành lập Ban lãnh đạo Trung ương của Đảng. Nhiều đảng viên hoạt động
ở nước ngoài cũng về nước. Chương trình hành động của Đảng được công bố năm
1932 nêu lên nhiệm vụ đấu tranh trước mắt. Nhờ đó, các cuộc đấu tranh dần dần nổ
ra. Các tổ chức Đảng và quần chúng từng bước lập lại. Năm 1934, ban lãnh đạo hải
ngoại được thành lập do Lê Hồng Phong đứng đầu. Cuối 1934 đầu 1935, xứ uỷ Bắc
Kì, Trung Kì, Nam kì cũng được lập lại.
Trên cơ sơ đó từ ngày 27 đến 31/3/1935 Đại hội Đảng lần thứ nhất được
triệu tập tại Ma Cao - Trung Quốc, có 13 đại biểu thay mặt cho 500 đảng viên. Đại
hội đánh giá tình hình nêu lên nhiệm vụ là củng cố và phát triển Đảng, vận động
quần chúng, chống chiến tranh đế quốc, thông qua cương lĩnh, Điều lệ Đảng, bầu
Ban chấp hành do Lê Hồng Phong làm Tổng bí thư. Nguyễn Ái Quốc được cử làm
đại diện của Đảng, bên cạnh quốc tế cộng sản.
Đại hội Đảng lần thứ nhất có ý nghĩa to lớn, đánh dấu phong trào cách
mạng đã được phục hồi, tổ chức Đảng được khôi phục từ Trung ương đến cơ sở.
Trải qua cuộc đấu tranh phục hồi phong trào, Đảng Cộng sản Đông Dương
đã trưởng thành nhanh chóng. Các cán bộ đảng viên được tôi luyện trong ngọn lửa
đấu tranh rút ra nhiều bài học kinh nghiệm quý báu, nói lên sức sống mãnh liệt và
năng lực sáng tạo của Đảng.
Câu 104. Điều kiện bùng nổ phong trào cách mạng 1930 - 1931 :
Phong trào 1930 -1931 bùng nổ do những nguyên nhân sau:
-Khủng hoảng kinh tế 1929 - 1933, đời sống nhân dân khó khăn.
- Về chính trị, Pháp tăng cường đàn áp sau khởi nghĩa Yên Bái
-Phong trào dân tộc, dân chủ lên cao cuối những năm 20
-Đảng Cộng sản VN ra đời đầu năm 1930
Câu 105. Nêu tình hình thế giới, trong nước và chủ trương của Đảng thời kì 1936-1939
* Về chính trị: Thời kì 1936-1939 tình hình thế giới và trong nước có nhiều thay đổi to lớn:
Do hậu quả khủng hoảng kinh tế, chủ nghĩa phát xít ra đời và lên nắm chính
quyền ở Đức, Italia, Nhật Bản, chuẩn bị chiến tranh thế giới.
Đại hội VII Quốc tế cộng sản 7/1935 nhận định kẻ thù chủ yếu trước mắt là
chủ nghĩa phát xít và nguy cơ chiến tranh, chủ trương thành lập mặt trận nhân dân
chống phát xít, chống chiến tranh. Đoàn đại biểu Đảng Cộng sản Đông Dương do
Tổng bí thư Lê Hồng Phong dẫn đầu tham dự Đại hội.
Ở Pháp, mặt trận nhân dân giành được thắng lợi, lên nắm chính quyền từ
mùa hè 1936 thực hiện một số chính sách tiến bộ cả chính quốc và thuộc địa.
Ở Đông Dương, Pháp thay toàn quyền mới, lập uỷ ban điều tra thuộc địa sửa
đổi luật bầu cử, báo chí, ân xá tù chính trị.
Ở nước ta có nhiều Đảng phái chính trị thành lập và hoạt động, cách mạng
có, phản động có, cải lương có… Các Đảng phái đều tìm cách lôi kéo quần chúng
nhưng chỉ có Đảng Cộng sản Đông Dương có đường lối rõ ràng và tổ chức chặt chẽ. * Về kinh tế-xã hội
Nhìn chung, các ngành kinh tế có được phục hồi nhưng vẫn mất cân đối, chủ
yếu tập trung vào các ngành phục vụ chiến tranh.
Đời sống của các tầng lớp nhân dân vẫn gặp nhiều khó khăn. Nông dân bị
tước đoạt ruộng đất, sưu cao, thuế nặng. Công nhân thất nghiệp, tiểu tư sản, viên
chức có đời sống bấp bênh, tư sản dân tộc bị cạnh tranh chèn ép. Ngay cả một bộ
phận địa chủ cũng gặp nhiều khó khăn.
Đứng trước tình hình đó, Đảng Cộng sản Đông Dương kịp thời có chủ
trương, nhiệm vụ đấu tranh cho phù hợp. Tháng 7/1936 Ban chấp hành Trung ương
họp tại Thượng Hải - Trung Quốc dưới sự chủ trì của Lê Hồng Phong. Sau khi
nhận định tình hình thế giới, trong nước, Hội nghị xác định nhiệm vụ chiến lược
của cách mạng tư sản dân quyền là chống đế quốc, phong kiến. Nhiệm vụ chủ yếu
trước mắt là chống phản động thuộc địa, chống phát xít và nguy cơ chiến tranh, đòi
dân sinh, dân chủ, tự do, cơm áo, hoà bình…
Để thực hiện nhiệm vụ đó, Đảng chủ trương thành lập Mặt trận thống nhất
nhân dân phản đế Đông Dương đoàn kết rộng rãi các tầng lớp nhân dân có tinh thần
chống phát xít, chống chiến tranh.
Phương pháp đấu tranh: triệt để lợi dụng hình thức hợp pháp công khai.
Sau Hội nghị, Đảng kêu gội các tầng lớp nhân dân đấu trang chống phát xít, chống chiến tranh.
Hội nghị TƯ 1937. 1938 tiếp tục phát triển chủ trương đó, Tháng 3/1938 Mặt
trận nhân dân... đổi thành Mặt trận thống nhất dân chủ Đông dương, gọi tắt là Mặt
trận dân chủ Đông Dương.
Câu 106. Nêu diễn biến, kết quả, ý nghĩa của phong trào dân chủ 1936- 1939
Từ 1936-1939 dưới ảnh hưởng của tình hình thế giới, trong nước, thực hiện
chủ trương của Đảng, một phong trào dân chủ có quy mô rộng lớn, hình thức đấu
tranh phong phú đã diễn ra trên cả nước.
Mùa hè năm 1936, được tin chính phủ Pháp cử uỷ ban sang điều tra thuộc
địa, Đảng đã kêu gọi các tầng lớp nhân dân nêu yêu sách kiến nghị tiến tới diễn đàn
Đông Dương Đại hội (8/1936). Các uỷ ban hành động được thành lập khắp cả
nước, đặc biệt là ở Nam Kì. Các cuộc hội họp, mít tinh được tổ chức nhằm thu thập
chữ kí, nguyện vọng của nhân dân.
Trước quy mô của phong trào, thực dân Pháp đã cấm các uỷ ban hoạt động,
giải tán các cuộc hội họp. Mặc dù phái đoàn điều tra thuộc địa không sang và
phong trào bị đàn áp, nhưng phong trào Đông Dương Đại hội có ý nghĩa to lớn :
Nhân dân được giác ngộ về cách mạng, Đảng Cộng sản Đông Dương thu được
nhiều bài học kinh nghiệm quý báu nhất là đấu tranh hợp pháp, công khai. Thực
dân Pháp buộc phải nhân nhượng một số quyền lợi dân sinh dân chủ như ân xá tù chính trị.
Song song với phong trào Đông Dương Đại hội và cả khi phong trào Đông
Dương Đại hội bị cấm hoạt động, các cuộc đấu tranh của công nhân và nhân dân ta
diễn ra mạnh mẽ. Chỉ riêng 6 tháng cuối năm 1936 đã có 361 cuộc bãi công của công nhân.
Sang năm 1937, cả nước có 400 cuộc đấu tranh cuả công nhân. Đầu năm
1937, nhân dịp toàn quyền Đông Dương mới Brêviê và phái viên chính phủ Gô Đa
sang nước ta, Đảng đã lãnh đạo các cuộc "đón rước" tiếp tục đưa yêu sách kiến nghị.
Tháng 3, 7 năm 1937, Ban chấp hành Trung ương đã họp, đưa ra các nghị
quyết về công tác mặt trận, thay công hội đỏ bằng công hội, đoàn TNCS bằng đoàn
thanh niên phản đế, cứu tế đỏ bằng cứu tế bình dân. Ở nông thôn, các hội cấy, hội
cày, hội hiếu hỉ… được thành lập với những hình thức linh hoạt, mềm dẻo.
Năm 1938, các cuộc đấu tranh của công nhân có giảm đi về mặt số lượng
nhưng chất lượng lại được phát triển lên (131 cuộc). Ở Nam kì diễn ra nạn đói đưa
đến cuộc biểu tình ở 1000 nông dân tỉnh Cà Mau. Đặc biệt là nhân ngày Quốc tế
lao động 1/5/1938, lần đầu tiên các cuộc mít tinh đã được tổ chức công khai ở
nhiều nơi trong cả nước, nhất là ở Hà Nội, Sài Gòn.
Sang năm 1939, các cuộc đấu tranh diễn ra chủ yếu ở các thành phố lớn.
Điểm mới của phong trào cách mạng Việt Nam thời kì này là đấu tranh nghị
viện. Trong các cuộc bầu cử vào cơ quan lập pháp, Hội đồng quản hạt Nam kì,
Viện Dân biểu Bắc Kì, Trung Kì, Hội đồng kinh tế lí tài Đông Dương, Đảng và mặt
trận Dân chủ Đông Dương đã đưa người của mình ra ứng cử va giành thắng lợi như
ở Bắc kì, Trung kì. Lợi dụng diễn đàn hợp pháp công khai này, Đảng đã đấu tranh
để bác bỏ những dự luật phản động của đế quốc, bênh vực cho quyền lợi của nhân dân.
Đấu tranh trên lĩnh vực báo chí công khai cũng là nét mới của cách mạng
Việt Nam. Nhiều tờ báo tiến bộ, nhiều sách báo lý luận giới thiệu về Liên Xô, về
Quốc tế cộng sản, về chủ nghĩa Mác - Lênin nói chung đã được xuất bản công khai
bằng tiếng Việt và tiếng Pháp, như : "Tin tức", "Tiên phong", "Dân chúng"... Các
tác phẩm văn học hiện thực phê phán được xuất bản như "Tắt đèn", "Bước đường
cùng", "Số đỏ...", thơ cách mạng của Tố Hữu.
Năm 1937 Đảng phát động phong trào truyền bá chữ Quốc ngữ.
Có thể nói báo chí đã trở thành mũi xung kích trong các hoạt động của phong trào dân chủ 1936-1939.
Từ cuối 1938, Chính phủ mặt trận nhân dân Pháp ngày càng thiên sang hữu,
xoá bỏ các chính sách tiến bộ trước đây. Bọn Pháp ở Đông Dương nhân cơ hội
đó đã đàn áp các hoạt động đấu tranh của nhân dân ta. Phong trào dân chủ thu
hẹp dần và đến khi chiến tranh thế giới II bùng nổ thì chấm dứt.
Câu 107. Nêu nhận xét về lực lượng tham gia, quy mô, mục tiêu và hình
thức đấu tranh trong phong trào dân chủ 1936-1939
Phong trào dân chủ Đông Dương thực sự cũng là một cao trào dân tộc dân
chủ có lực lượng tham gia đông đảo, quy mô rộng lớn, mục tiêu và hình thức đấu tranh phong phú.
* Lực lượng: Ngoài tầng lớp cơ bản là công nhân và nông dân, có sự tham
gia đông đảo của các tầng lớp nhân dân khác có tinh thần dân chủ chống phát xít,
chống chiến tranh như tư sản, tiểu tư sản, địa chủ vừa và nhỏ và cả ngoại kiểu ở Đông Dương.
* Quy mô: Diễn ra khắp cả nước ta, rộng lớn, đặc biệt như phong trào Đông
Dương đại hội,, “đón rước”, các cuộc bãi công, hoạt động kỉ niệm Quốc tế lao động 1/5/1938.
* Về mục tiêu: Đấu tranh đòi dân sinh, dân chủ, cơm áo, hoà bình, chống
phát xít, chống chiến tranh.
* Về hình thức đấu tranh: phong phú, kết hợp đấu tranh hợp pháp, bất hợp
pháp, công khai, bí mật, đấu tranh kinh tế, văn hoá, chính trị v.v…
Câu 108. Tại sao lại khẳng định phong trào dân chủ Đông Dương 1936-
1939 thực chất cũng là một cao trào dân tộc dân chủ.
(trình bày phong trào dân chủ 1936 -1939)
Câu 109. Chứng minh rằng phong trào 1936-1939 là cuộc diến tập cho
tổng khởi nghĩa tháng 8.
- Khái quát phong trào dân chủ 1936 -1939
- Ý nghĩa : Phong trào dân chủ thực sự là một phong trào rộng lớn có tổ chức
dưới sự lãnh đạo của Đảng. Trình độ giác ngộ chính trị của nhân dân được nâng
cao tập hợp trong đạo quân chính trị hùng hậu. Đội ngũ cán bộ được đào tạo và rèn luyện.
Đảng Cộng sản Đông Dương trưởng thành nhanh chóng, cơ sở và ảnh hưởng
của Đảng được mở rộng và ăn sâu trong dân chúng. Phong trào dân chủ 1936-1939
đã để lại nhiều bài học kinh nghiệm quý báu như về vấn đề Mặt trận dân tộc thống
nhất, về phương pháp đấu tranh, nhất là đấu tranh công khai, hợp pháp, đồng thời
Đảng cũng thấy được hạn chế của mình như công tác mặt trận, vấn đề dân tộc.
Phong trào dân chủ Đông Dương 1936-1939 được coi là cuộc diễn tập cho
Tổng khởi nghĩa tháng Tám 1945.).
Câu 110. Nêu nhận xét về lực lượng, mục tiêu, hình thức đấu tranh qua
hai phong trào 1930-1931 và 1936-1939. +Phong trào 1930 - 1931:
-Lực lượng: đông đảo các tầng lớp nhân dân, nhất là công nhân và nông dân
-Mục tiêu: Triệt để, chống đế quốc, phong kiến, độc lâp dân tộc, ruộng đất
dân cày, chính quyên Xô Viết
-Hình thức đấu tranh quyết liệt, sử dụng bạo lực cách mạng
+Phong trào dân chủ 1936 - 1939
-Lực lượng: Đông đảo các tầng lớp nhân dân có tinh thần dân chủ
-Mục tiêu: đòi dân sinh, dân chủ chống phát xít, chiến tranh
-Hình thức đấu tranh phong phú, hợp pháp, công khai, bí mật bất hợp pháp
Câu 111. Nêu tình hình Việt Nam trong chiến tranh thế giới thứ hai 1939-1945
+ Chính trị:1/9/1939 Đức tấn công Ba Lan, hai ngày sau Anh và và Pháp
tuyên chiến với Đức . Chiến tranh thế giới thứ 2 bùng nổ.
Chính phủ Pháp thi hành chính sách phản động chống lại các lực lượng cách
mạng trong nước và thuộc địa, trong đó có Đông Dương. Tháng 6/1940, Pháp đầu
hàng Đức. Ở Đông Dương, Pháp thay toàn quyền mới.
Tháng 9/1940, phát xít Nhật kéo vào nước ta, giữ nguyên bộ máy thống trị
của Pháp để đán áp phong trào cách mạng và bóc lột nhân dân ta. Ngoài các đảng
phái tay sai của Pháp, phát xít Nhật đã thành lập các đảng phái chính trị thân Nhật
như Đại Việt, Phục Quốc nhằm dọn đường cho việc hất cẳng Pháp sau này, ra sức
tuyên truyền,lừa bịp nhân dân ta.
Tháng 6/1941, Đức tấn công Liên Xô, cuộc chiến tranh giữ nước của Liên
Xô đã cổ vũ phong trào cách mạng nước ta.
+ Kinh tế-xã hội: Từ khi chiến tranh bùng nổ, thực dân Pháp ban bố lệnh
tổng động viên và chính sách “kinh tế chỉ huy”, vơ vét sức người và sức của phục
vụ cho chiến tranh. Sau khi phát xít Nhật vào nước ta, Pháp phải để cho Nhật sử
dụng các sân bay, bến cảng và hàng năm phải đóng cho Nhật một khoản tiền lớn.
Nhật buộc Pháp phải xuất khẩu các nguyên liệu chiến lược phục vụ cho chiến tranh
sang Nhật, bắt nhân dân ta phải nhổ lúa và hoa màu trồng đay, thầu dầu, lấy nguyên
liệu cho chiến tranh. Các công ty của Nhật được thành lập, chủ yếu về công nghiệp và thương nghiệp.
Dưới hai tầng áp bức bóc lột Nhật - Pháp, đời sống của các tầng lớp nhân
dân trở nên điêu đứng, cực khổ, dẫn đến nạn đói cuối năm 1944 đầu năm 1945 làm
hai triệu người chết: Nông dân chịu sưu cao, thuế nặng phải đi phu, đi lính. Công
nhân bị sa thải, bị bắt đi lính, tiền lương giảm sút. Tiểu tư sản, viên chức bao gồm
cả thợ thủ công bị phá sản, đời sống đắt đỏ. Ngay cả một bộ phận tư sản, địa chủ
vừa và nhỏ cũng chịu hậu quả nặng nề của chiến tranh.
Tóm lại, trừ bọn đại tư bản, đại địa chủ còn mọi tầng lớp nhân dân đều rên
xiết dưới hai tầng áp bức bóc lột Nhật - Pháp. Mâu thuẫn dân tộc hết sức gay gắt.
Vì vậy, khi Đảng nêu cao ngọn cờ dân tộc thì đông đảo nhân dân đã hăng hái tham gia.
Câu 112. Nêu chủ trương chuyển hướng đấu tranh của Đảng thời kì 1939-1945
Đứng trước những thay đổi của tình hình thế giới và trong nước từ khi chiến
tranh thế giới II bùng nổ. Đảng Cộng sản Đông Dương đã kịp thời có chủ trương,
nhiệm vụ đấu tranh thích hợp. Hai tháng sau khi chiến tranh bùng nổ, Ban chấp
hành Trung ương đã họp tại Bà Điểm, Hóc Môn. Gia Định từ 6 đến 8/11/1939,
dưới sự chủ trì của Tổng bí thư Nguyễn Văn Cừ.
Sau khi đánh giá tình hình, phân tích tính chất của chiến tranh, Hội nghị xác
định nhiệm vụ chiến lược trước mắt của cách mạng Đông Dương là giải phóng dân
tộc nhằm làm cho các dân tộc Đông Dương giành độc lập. Khẩu hiệu cách mạng
ruộng đất tạm thời gác lại, chỉ nêu tịch thu ruộng đất của đế quốc tay sai, chống tô
cao, thuế nặng. Khẩu hiệu thành lập chính quyền Công - nông - binh được thay
bằng Chính phủ Dân chủ cộng hoà.
Về hình thức đấu tranh: Đảng chủ trương chuyển từ đấu tranh hợp pháp công
khai đòi dân sinh, dân chủ sang đấu tranh bí mật, bất hợp pháp, trực tiếp lật đổ ách
thống trị của đế quốc, phong kiến, giành độc lập dân tộc.
Về lực lượng: Đảng chủ trương thành lập mặt trận thống nhất dân tộc phản
đế Đông Dương, gọi tắt là Mặt trận phản đế Đông Dương thay cho Mặt trận dân
chủ Đông Dương không còn phù hợp, đoàn kết rộng rãi các tầng lớp nhân dân có
tinh thần yêu nước. Các đoàn thể quần chúng đều lấy tên là "Hội phản đế”.
Hội nghị Trung ương 11/1939 đánh dấu sự chuyển hướng đấu tranh đúng
đắn của Đảng, nêu cao nhiệm vụ dân tộc.
Các hội nghị Trung ương 11/1940, đặc biệt Hội nghị Trung ương 8 tháng
5/1941 tiếp tục phát triển, bổ sung và hoàn chỉnh chủ trương chuyển hướng đấu
tranh được đề ra từ Hội nghị Trung ương 11/1939.
Câu 113. Nêu hoàn cảnh, nội dung, ý nghĩa của Hội nghị Trung ương 11/1939. (làm như câu 111)
Câu 114. Nêu khái quát khởi nghĩa Bắc Sơn, Nam kì và binh biến Đô Lương
Dưới ảnh hưởng của chiến tranh thế giới, cách mạng Việt Nam bước vào thời
kì mới, mở đầu là khởi nghĩa Bắc Sơn, Nam kì và Binh biến Đô Lương.
22/9/1940, Nhật tiến vào Lạng Sơn nước ta, bọn Pháp ở đây nhanh chóng
đầu hàng hoặc bỏ chạy về xuôi, nhân cơ hội đó, 27/9/1940, nhân dân Bắc Sơn đã
khởi nghĩa, thành lập chính quyền cách mạng và đội du kích Bắc Sơn. Mấy ngày
sau được phát xít Nhật giúp đỡ, thực dân Pháp trở lại đàn áp cuộc khởi nghĩa.
Tại Nam kì, lúc này biên giới Thái Lan, Campuchia có xung đột vũ trang,
thực dân Pháp đưa binh lính người Việt sang làm bia đỡ đạn. Binh lính hoặc bỏ
trốn, hoặc liên lạc với cách mạng để khởi nghĩa. Hội nghị Trung ương 11/1940
nhận thấy thời cơ chưa chín muồi đã quyết định hoãn khởi nghĩa nhưng do chỉ thị
của Đảng vào chậm, cuộc khởi nghĩa đã nổ ra vào đêm 22 rạng 23/11/1940, chính
quyền cách mạng được thành lập ở nhiều nơi. Lá cờ đỏ sao vàng lần đầu tiên xuất
hiện trong khởi nghĩa. Do kế hoạch bị lộ, cuộc khởi nghĩa đã bị đàn áp dã man.
Chúng cho máy bay ném bom xuống nhiều làng xóm, nhiều cán bộ ưu tú của Đảng bị xử bắn.
Tại Nghệ An, thực dân Pháp cũng đưa binh lính người Việt sang chiến đấu
trên chiến trường Thái Lan - Campuchia. Do được giác ngộ từ trước, dưới sự lãnh
đạo của Đội Cung,13/1/1941, binh lính đồn Chợ Rạng đã nổi dậy đánh chiếm đồn
Đô Lương rồi lên xe tiến về Vinh, phối hợp với binh lính ở đây chiếm thành. Kế
hoạch bị thất bại, những người tham gia binh biến bị bắt. Đội Cung và 10 người khác bị xử bắn.
Trong vòng hơn 3 tháng, 3 cuộc nổi dậy đã liên tiếp nổ ra ở 3 miền, tuy thất
bại do thời cơ chưa chín muồi nhưng đã nêu cao tinh thần đấu tranh bất khuất của
nhân dân ta, giáng một đòn nặng nề vào ách thống trị của thực dân Pháp, nghiêm
khắc cảnh cáo phát xít Nhật vừa đặt chân vào nước ta. Các cuộc khởi nghĩa và binh
biến đó đã để lại nhiều bài học kinh nghiệm quý báu và là những phát súng báo
hiệu mở đầu thời kì đấu tranh vũ trang mới của dân tộc.
Câu 115. Nêu hoàn cảnh, nội dung ý nghĩa của hội nghị Trung ương 8
Sang năm 1941, chiến tranh thế giới lan rộng. Tháng 6/1941, Đức tấn công
Liên Xô, tính chất của chiến tranh đã có sự thay đổi. Ở trong nước, dưới hai tầng áp
bức bóc lột, Nhật - Pháp, mâu thuẫn dân tộc hết sức gay gắt.
Đứng trước tình hình thế giới trong nước chuyển biến ngày một khẩn trương,
ngày 28/1/1941, Nguyễn Ái Quốc về nước trực tiếp lãnh đạo cách mạng. Người đặt
chân lên đất Hà Quảng sau đó chuyển về hoạt động ở hang Pác Bó, Cao Bằng. Sau
một thời gian chuẩn bị, Hội nghị Trung ương VIII được triệu tập tại Pác Bó, Cao
Bằng dưới sự chủ trì củaNguyễn Ái Quốc từ 10-19/5/1941.
Hội nghị khẳng định nhiệm vụ chủ yếu trước mắt của cách mạng là giải
phóng dân tộc, tiếp tục tạm gác khẩu hiệu ruộng đất, chỉ nêu tịch thu ruộng đất của
đế quốc và tay sai chia cho dân nghèo, chia lại ruộng công, giảm tô, giảm tức, tiến
tới thực hiện “người cày có ruộng”.
Hội nghị cũng nhấn mạnh sau khi đánh đổ đế quốc phát xít sẽ thành lập
chính phủ nhân dân của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà.
Theo sáng kiến của Nguyễn Ái Quốc, hội nghị quyết định thành lập mặt trận
“Việt Nam độc lập đồng minh” thay cho mặt trận phản đế Đông Dương, thành lập
các “Hội cứu quốc” thay cho “Hội phản đế”, đồng thời giúp đỡ Lào và Campuchia
thành lập mặt trận riêng.
Hội nghị xác định hình thái của cuộc khởi nghĩa là đi từ khởi nghĩa từng
phần lên tổng khởi nghĩa, đồng thời nhấn mạnh coi chuẩn bị khởi nghĩa là nhiệm
vụ trung tâm của toàn Đảng, toàn dân trong giai đoạn hiện tại.
Hội nghị bầu BCH Trung ương mới do Trường Chinh làm Tổng bí thư.
Hội nghị Trung ương 8 có ý nghĩa lịch sử to lớn đã hoàn chỉnh chủ trương
chuyển hướng đấu tranh của Đảng được đề ra từ tháng 11/1939 nhằm giải quyết
mục tiêu số một của cách mạng là dân tộc giải phóng và đề ra nhiều chủ trương
sáng tạo để thực hiện mục tiêu ấy. Hội nghị có vai trò quyết định, động viên toàn
Đảng, toàn dân tích cực chuẩn bị lực lượng mọi mặt tiến tới tổng khởi nghĩa.
Ngày 19/5/1941, “Mặt trận Việt Minh” được thành lập, 5 tháng sau công bố
Tuyên ngôn, Chương trình Điều lệ đoàn kết rộng rãi các tầng lớp nhân dân giành độc lập cho dân tộc.
Câu 116. Nêu công cuộc chuẩn bị khởi nghĩa từ sau Hội nghị Trung
ương 8 đến trước khi Nhật đảo chính Pháp
Cách mạng không tự nó đến mà phải chuẩn bị và giành lấy nó. Từ sau hội
nghị Trung ương 8, công tác chuẩn bị khởi nghĩa được coi là nhiệm vụ trung tâm
của toàn Đảng, toàn dân để sẵn sàng nắm bắt thời cơ.
1. Về lực lượng chính trị: nhiệm vụ trung tâm lúc này là phải đẩy mạnh xây
dựng Mặt trận Việt Minh, nhất là ở căn cứ địa. Cao Bằng là nơi thí điểm, xây dựng
các hội cứu quốc, đến năm 1942, khắp các châu ở Cao Bằng đều có các tổ chức
Việt Minh, có 3 châu “hoàn toàn” nghĩa là toàn dân tham gia Việt Minh. Tiếp đó uỷ
ban Việt minh tỉnh Cao Bằng và Uỷ ban Việt minh lâm thời liên tỉnh Cao - Bắc - Lạng được thành lập.
Ở các tỉnh Bắc kì và thành phố lớn như Hà Nội, Hải Phòng, các “Hội phản
đế” được chuyển thành “Hội cứu quốc”. Nhiều hội cứu quốc mới được thành lập.
Bên cạnh tầng lớp cơ bản là công nhân và nông dân, Mặt trận Việt minh chú ý vận
động các tầng lớp nhân dân khác, kể cả binh lính trong quân đội Pháp và ngoại kiều
Đông Dương có tinh thần chống phát xít.
Năm 1943, Đảng công bố bản “Đề cương văn hoá Việt Nam” nhằm vận
động văn nghệ sĩ, thành lập “Hội Văn hoá cứu quốc” và “Đảng dân chủ Việt Nam”
(1944) đứng trong mặt trận Việt Minh.
Báo chí của Đảng và Mặt trận phát triển sôi nổi như báo “Cứu quốc”, “Việt
Nam độc lập”, “Giải phóng”, “Cờ giải phóng”…, góp phần to lớn đập tan các luận
điệu phản động của địch, giác ngộ quần chúng đấu tranh.
2. Về lực lượng vũ trang: Cùng với lực lượng chính trị, lực lượng vũ trang
cũng được chú trọng xây dựng. Trên cơ sở đội du kích Bắc Sơn, ngày 14/2/1941
trung đội Cứu quốc quân I được thành lập, tiến hành 8 tháng chiến tranh du kích để
mở rộng ảnh hưởng. Đến ngày 15/9/1941, trung đội Cứu quốc quân II ra đời.
Ở Cao Bằng, sau khi về nước, Nguyễn Ái Quốc đã cho xây dựng các đội tự
vệ vũ trang, biên soạn tài liệu, luyện tập quân sự.
3. Căn cứ địa: Sau khởi nghĩa Bắc Sơn, Đảng quyết định xây dựng căn cứ địa
Bắc Sơn - Võ Nhai. Sau khi về nước, Nguyễn Ái Quốc cho xây dựng Cao Bằng
thành căn cứ địa thứ 2.
Sang năm 1943, chiến tranh thế giới II chuyển hướng có lợi cho ta, Liên Xô
bắt đầu phản công. Ban Thường vụ Trung ương Đảng đã họp ở Võng La, Đông
Anh nhằm gấp rút chuẩn bị khởi nghĩa.
Việc chuẩn bị khởi nghĩa được đẩy mạnh, nhất là ở căn cứ địa Trung ương.
Tại Bắc Sơn - Võ Nhai, ngày 12/2/1944, trung đội Cứu quốc quân III ra đời. Ở Cao
Bằng các hội cứu quốc phát triển mạnh mẽ. Năm 1943, Ban Việt minh liên tỉnh
Cao - Bắc - Lạng đã thành lập 19 ban xung phong “Nam tiến” nối liền với Bắc Sơn
- Võ Nhai và các tỉnh miền xuôi.
7/5/1944, tổng bộ Việt Minh ra chỉ thị “Sửa soạn khởi nghĩa”. Ngày
10/8/1944, Đảng ra lời kêu gọi “Sắm vũ khí, đuổi thù chung”. Không khí chuẩn bị khởi nghĩa sục sôi.
Ngày 22/12/1944, theo chỉ thị của Nguyễn Ái Quốc, đội Việt Nam tuyên
truyền giải phóng quân được thành lập do Võ Nguyên Giáp chỉ huy. Vừa ra đời,
Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân đã diệt đồn Phay Khắt và Nà Ngần. Căn cứ địa được củng cố.
Công cuộc chuẩn bị khởi nghĩa còn được tiếp tục sau khi Nhật đảo chính
Pháp cho đến sát ngày tổng khởi nghĩa.
Câu 117. Tại sao liên tiếp từ 1939-1941 ba hội nghị Trung ương đã được
triệu tập? Nội dung chủ yếu của các hội nghị này là gì?
Từ khi chiến tranh thế giới II bùng nổ đến đầu 1941 đã diễn ra ba Hội nghị
Ban chấp hành Trung ương: tháng 11/1939, 11/1940 và tháng 5/1941.
Sở dĩ có tình hình đó là do tình hình thế giới và trong nước thay đổi một cách
nhanh chóng dưới ảnh hưởng của chiến tranh thế giới II, đòi hỏi Đảng phải kịp thời
có nhận định, đánh giá chính xác để ra chủ trương, nhiệm vụ đúng đắn.
Nội dung chủ yếu ở các hội nghị Trung ương này là chuyển hướng đấu tranh,
nêu cao vấn đề giải phóng dân tộc, đẩy mạnh chuẩn bị lực lượng để nắm bắt thời cơ
khởi nghĩa giành chính quyền.
Câu 118. Tại sao các Hội nghị Trung ương 1939, 1940, 1941 đã đặt vấn
đề giải phóng dân tộc lên hàng đầu?
(câu 110. VN trong chiến tranh)
Câu 119. Mặt trận dân tộc thống nhất phản đế Đông Dương ra đời trong
điều kiện lịch sử nào?
- Tình hình 9/1939, chiến tranh thế giới II bùng nổ, thực dân Pháp đề ra
chính sách kinh tế chỉ huy và ban bố lệnh tổng động viên nhằm vơ vét sức người,
sức của phục vụ cho chiến tranh. Về chính trị, chúng tăng cường khủng bố đàn áp
phong trào yêu nước. Đời sống của các tầng lớp nhân dân trở nên điêu đứng cực
khổ. Mâu thuẫn dân tộc gay gắt.
- Trước tình hình đó, Ban chấp hànhTrung ương đã họp từ 6-8/11/1939 dưới
sự chủ trì của Tổng bí thư Nguyễn Văn Cừ đã nêu cao nhiệm vụ giải phóng dân
tộc, tạm gác khẩu hiệu ruộng đất, chuyển từ đấu tranh hợp pháp, công khai sang
trực tiếp đánh đổ đế quốc tay sai.
- Để phù hợp với tình hình và nhiệm vụ đó, Đảng đã quyết định thành lập
Mặt trận thống nhất dân tộc phản đế Đông Dương thay cho Mặt trận dân chủ Đông
Dương không còn phù hợp.
Câu 120. Hoàn cảnh ra đời và vai trò của Mặt trận Việt Minh trong quá
trình chuẩn bị và tổng khởi nghĩa tháng 8/1945
- Hoàn cảnh: Từ khi chiến tranh thế giới bùng nổ, đặc biệt là sau khi phát xít
Nhật tiến vào nước ta, cấu kết với thực dân Pháp bóc lột nhân dân ta, đời sống của
các tầng lớp nhân dân trở nên điêu đứng, cực khổ hơn lúc nào hết. Mâu thuẫn dân
tộc hết sức gay gắt. Cả nước Việt Nam như một “đồng cỏ khô” chỉ một tàn lửa rơi
vào là thổi bùng lên thiêu cháy lũ cướp nước và bán nước.
Trên thế giới, đầu năm 1941, phe phát xít chiếm đóng hầu hết các nước châu
Âu và chuẩn bị tấn công Liên Xô.
Đứng trước tình hình thế giới, trong nước ngày một khẩn trương, đầu năm
1941, Nguyễn Ái Quốc về nước trực tiếp lãnh đạo cách mạng. Hội nghị Trung
ương 8 nêu cao vấn đề dân tộc hơn lúc nào hết và chủ trương giải quyết vấn đề dân
tộc trong khuôn khổ từng nước Đông Dương.
Thích hợp với tình hình và nhiệm vụ đó, theo sáng kiến của Nguyễn Ái
Quốc, Hội nghị đã quyết định thành lập Mặt trận Việt Nam độc lập đồng minh
(Việt Minh) thay cho Mặt trận phản đế Đông Dương, thay các hội phản đế bằng Hội cứu quốc.
19/5/1941 Mặt trận Việt Minh được thành lập, 5 tháng sau công bố chương
trình, Tuyên ngôn và Điều lệ.
- Vai trò: Mặt trận Việt Minh đã đoàn kết rộng rãi các tầng lớp nhân dân vào
các Hội cứu quốc, bên cạnh công nhân, nông dân còn có các tầng lớp nhân dân
khác, kể cả binh lính trong quân đội Pháp và ngoại kiều có tinh thần chống phát xít.
Từ đây, toàn bộ cách mạng Việt Nam đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng và Mặt trận
Việt Minh. Mặt trận đã đẩy mạnh xây dựng lực lượng về mọi mặt, lãnh đạo cao
trào kháng Nhật cứu nước và Tổng khởi nghĩa thắng lợi, lập nên nước Việt Nam dân chủ cộng hoà.
Câu 121. Nêu hoàn cảnh, diễn biến, kết quả, ý nghĩa của cao trào kháng Nhật cứu nước
Sang năm 1945, quân đồng minh đã phản công trên các mặt trận. Ở châu Âu,
một loạt nước Đông Âu được giải phóng, Liên Xô đang trên đường tiến vào Beclin.
Ở châu Á, phát xít Nhật cũng bại trận liên tiếp.
Ở Đông Dương, lực lượng Pháp Đờ Gôn chiếm ưu thế, tìm cách phản kích
lại Nhật. Mâu thuẫn Nhật - Pháp trở nên gay gắt.
Để tránh nguy cơ bị quân Pháp bắn sau lưng khi quân đồng minh vào Đông
Dương, Nhật tiến hành cuộc đảo chính hất cẳng Pháp ngày 9/3/1945, độc chiếm Đông Dương.
Sau đảo chính, Nhật ra sức tuyên truyền giúp các dân tộc Đông Dương gìanh
độc lập. Tuy nhiên, chính sách thống trị củ Nhật không có gì khác trước, chúng
thành lập chính phủ bù nhìn do Trần Trọng Kim đứng đầu, đưa Bảo Đại lên làm
Quốc trưởng. Về kinh tế, chúng tiếp tục bóc lột, vơ vét sức người sức của phục vụ
cho chiến tranh. Về chính trị, tiến hành các vụ đàn áp, khủng bố nhân dân ta. Về
văn hoá - tư tưởng ra sức tuyên truyền, là bịp đồng văn đồng chủng.
Trong khi cuộc đảo chính đang nổ ra thì Ban thường vụ Trung ương Đảng
họp ở Đình Bảng, Từ Sơn, Bắc Ninh đến ngày 12/3/1945 ra chỉ thị “Nhật - Pháp
bắn nhau và hành động của chúng ta”. Bản chỉ thị đã phân tích nguyên nhân, tính
chất cuộc đảo chính, nhận định cuộc đảo chính đã tạo ra sự khủng hoảng gay gắt
nhưng điều kiện tổng khởi nghĩa chưa chín muồi. Xác định kẻ thù cụ thể lúc này là
phát xít Nhật, thay kẩu hiệu đánh đuổi Pháp Nhật bằng đánh đuổi phát xít Nhật,
đánh đổ chính phủ bù nhìn Trần Trọng Kim.
Về hình thức đấu tranh từ bất hợp tác, bãi công, bãi thị, đến biểu tình tuần
hành thị uy vũ trang du kích và sẳn sàng chuyển qua hình thức tổng khởi nghĩa khi có điều kiện.
Hội nghị quyết định phát động cao trào kháng Nhật cứu nước mạnh mẽ làm
tiền đề cho tổng khởi nghĩa.
Từ sau cuộc đảo chính Nhật - Pháp, cách mạng Việt Nam chuyển sang giai đoạn cao trào.
Ở căn cứ địa, Cứu quốc quân và Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân đã
phối hợp với lực lượng quân chúng đánh chiếm nhiều đồn bốt địch, thành lập chính quyền cách mạng.
Ở Bắc kì và Bắc Trung kì, lúc này nạn đói diễn ra trầm trọng. Đảng đề ra
khẩu hiệu: “Phá kho thóc, cứu đói” lôi cuốn hàng triệu người đứng lên.
Song song với phong trào phá kho thóc cứu đói, các cuộc khởi nghĩa từng
phần cũng diễn ra ở nhiều nơi. Ngày 11/3/1945, tù chính trị Ba Tơ khởi nghĩa,
thành lập đội du kích Ba tơ.
Ở những nơi khác như Nghĩa Lộ, Sơn La, Hoả Lò - Hà Nội, Lao Bảo, Buôn
Ma Thuột, tù chính trị cũng tìm cách vượt ngục hoặc đấu tranh đòi trả tự do, trở
thành nguồn bổ sung quan trọng về cán bộ cho cách mạng.
Ý nghĩa: Cao trào kháng Nhật cứu nước là một bước phát triển mạnh mẽ cả
về quy mô, tính chất, thực sự đã tạo tiền đề cho tổng khởi nghĩa. Lực lượng cách
mạng được đẩy mạnh, chuẩn bị chu đáo, quần chúng tập dượt đấu tranh và giành
chính quyền đi từ thấp đến cao. Kẻ địch lâm vào khủng hoảng và suy yếu toàn diện.
Câu 122. Nêu quá trình chuẩn bị lực lượng từ sau Nhật đảo chính Pháp
cho đến tổng khởi nghĩa
Sau khi Nhật đảo chính Pháp, công cuộc chuẩn bị khởi nghĩa được đẩy
mạnh, nhất là lực lượng vũ trang.
Từ 15-20/4/1945 Hội nghị quân sự cách mạng Bắc Kì được triệu tập nhằm
đẩy mạnh xây dựng lực lượng vũ trang, nửa vũ trang, thống nhất lực lượng vũ
trang, mở trường đào tạp cấp tốc cán bộ chính trị, quân sự, mua sắm, rèn đúc vũ khí
luyện tập quân sự. Uỷ ban quân sự cách mạng Bắc Kì được thành lập để chỉ huy
các chiến khu và giúp đỡ toàn quốc về mặt quân sự.
Ngày 16/4/1945, tổng bộ Việt Minh ra chỉ thị thành lập uỷ ban dân tộc giải
phóng các cấp tiến tới thành lập Uỷ ban dân tộc giải phóng Việt Nam.
Ngày 15/5/1945, Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân và Cứu quốc quân
đã thống nhất thành Việt Nam giải phóng quân… Hồ Chí Minh chuyển từ Cao
Bằng về Tân Trào để trực tiếp lãnh đạo cuộc tổng khởi nghĩa đang đến gần.
Theo chỉ thị của Hồ Chí Minh, 4/6/1945 khu giải phóng Việt Bắc được thành
lập bao gồm hầu hết các tỉnh trung du và thượng du Bắc Bộ: Cao - Bắc - Lạng, Hà -
Tuyên - Thái, thủ phủ là Tân Trào. Uỷ ban lâm thời khu giải phóng được thành lập,
10 chính sách của Việt Minh được thực hiện trong khu giải phóng. Khu giải phóng
Việt Bắc trở thành căn cứ địa chủ yếu của cách mạng tháng Tám và hình ảnh thu
nhỏ của nước Việt Nam độc lập sau này.
Câu 123 Nêu hoàn cảnh và chủ trương tổng khởi nghĩa của Đảng
Điều kiện chủ quan: lực lượng cách mạng chuẩn bị chu đáo. Cao trào kháng
Nhật cứu nước đã tạo tiền đề cho Tổng khởi nghĩa.
Điều kiện khách quan: Ngày 9/5/1945, phát xít Đức đầu hàng không điều
kiện, chiến tranh ở châu Âu kết thúc. 8/8/1945, Liên Xô tuyên chiến với Nhật, đến
ngày 9/8 Hồng quân Liên Xô tiến vào Đông Bắc Trung Quốc, tiêu diệt đạo quân
Quan Đông của Nhật. Trước đó, 6/8, Mỹ ném quả bom nguyên tử thứ nhất xuống
thành phố Hirôsima và 9/8 ném xuống Nagaxaki của Nhật giết hại hàng chục vạn
người. Trước tình hình đó, từ 9/8 nội các của Nhật họp để thảo luận tuyên bố của
Hội nghị Pôtxđam về việc đầu hàng của Nhật. Đến ngày 15/8/1945, Nhật đã chính
thức đầu hàng không điều kiện.
Đây là thời cơ “ngàn năm có một". Quân Nhật ở Đông Dương hoang mang,
rệu rã, chính phủ bù nhìn Trần Trọng Kim mất chỗ dựa. Điều kiện tổng khởi nghĩa đã chín muồi.
Ngay từ 13/8/1945 được tin chính phủ Nhật sắp đầu hàng, Đảng và tổng bộ
Việt Minh đã thành lập Uỷ ban khởi nghĩa toàn quốc và đến 23h cùng ngày thì ban
bố quân lệnh số 1, chính thức phát lệnh tổng khởi nghĩa.
Từ 14-15/8 Hội nghị toàn quốc của Đảng được triệu tập để thảo luận về kế
hoạch tổng khởi nghĩa và quyết định các chính sách đối nội, đối ngoại sau tổng khởi nghĩa.
Tiếp đó, từ 16-17/8/1945 Đại hội quốc dân đã họp tại Tân Trào tán thành chủ
trương tổng khởi nghĩa của Đảng, bầu ra Uỷ ban dân tộc giải phóng Việt Nam do
Hồ Chí Minh đứng đầu, thông qua chính sách đối nội, đối ngoại của nước Việt Nam độc lập.
Ở Hội nghị toàn quốc của Đảng và Đại hội quốc dân Tân Trào, Đảng, Mặt
trận Việt Minh và Hồ Chí Minh đã thông qua kế hoạch đúng đắn, sáng tạo là kịp
thời tổng khởi nghĩa giành chính quyền toàn quốc trước khi quân đồng minh vào
nước ta, đứng ở địa vị làm chủ nước nhà để đón tiếp quân đồng minh.
Câu 124. Nêu diễn biến của Tổng khởi nghĩa và sự thành lập nước Việt
Nam dân chủ cộng hoà
Từ giữa tháng 8/1945, không khí khởi nghĩa đã sục sôi. Ngay từ ngày 14/8
nhiều địa phương tuy chưa nhận được lệnh tổng khởi nghĩa nhưng căn cứ vào điều
kiện cụ thể và chỉ thị "Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta” đã đứng lên khởi nghĩa.
Ngày 16/8, một đơn vị quân giải phóng do Võ Nguyên Giáp chỉ huy xuất
phát từ Tân Trào tiến về giải phóng thị xã Thái Nguyên.
Hải Dương, Bắc Giang, Hà Tĩnh, Quảng Nam là những tỉnh đầu biến thành
được chính quyền ở tỉnh lị vào 18/8.
Tạị Hà Nội, ngày 17/8, một cuộc mít tinh diễn ra ở nhà hát lớn, sau đó tiến
hành một cuộc biểu tình với những khẩu hiệu "Ủng hộ Việt Minh", "Việt Nam độc
lập"... Uỷ ban khởi nghĩa Hà Nội được thành lập, quyết định sẽ tiến hành khởi nghĩa vào 19/8.
18/8 không khí chuẩn bị khởi nghĩa đã tràn ngập Hà Nội.
19/8 hàng vạn nhân dân nội, ngoại thành có lực lượng vũ trang hỗ trợ đã
đánh chiếm Toà thị chính, Bắc Bộ phủ, Sở cảnh sát Trung ương, nhà Bưu điện bờ
hồ, trại lính Bảo An... Đến chiều tối ngày 19/8 khởi nghĩa đã thắng lợi ở Hà Nội.
Ở Huế, 20/8 Uỷ ban khởi nghĩa được thành lập, quyết định khởi nghĩa vào
23/8, Nhân dân nội ngoại thành đã đánh chiếm các công sở của chính quyền bù nhìn.
Ở Sài Gòn, Uỷ ban khởi nghĩa quyết định sẽ khởi nghĩa vào ngày 25/8. Các
đơn vị "xung phong công đoàn", "Thanh niên tiền phong" phối hợp với nhân dân
các tỉnh Nam Bộ đã đánh chiếm sở mật thám Trung ương, sở cảnh sát, nhà ga và các công sở của địch.
Thắng lợi của Hà Nội, Huế, Sài Gòn đã cổ vũ và tạo điều kiện cho các tỉnh
thành đứng lên khởi nghĩa giành chính quyền. Đến ngày 28/8 thì Hà Tiên và Đồng
Nai Thượng là hai tỉnh cuối cùng giành được chính quyền.
Như vậy, trừ một số vùng do quân Trung Hoa Quốc dân Đảng chiếm đóng,
cuộc Tổng khởi nghĩa đã giành thắng lợi trong vòng 15 ngày. Đến ngày 30/8 vua
Bảo Đại tuyên bố thoái vị.
Từ ngày 25/8/1945, Hồ Chủ tịch, Trung ương Đảng đã chuyển về Hà Nội.
Ngày 28/8, theo đề nghị của Hồ Chủ tịch, Uỷ ban dân tộc giải phóng Việt Nam
được đổi thành Chính phủ lâm thời.
Ngày 2/9/1945, một cuộc mít tinh trọng thể được tiến hành tại quảng trường
Ba Đình - Hà Nội. Hồ Chủ tịch đã đọc Tuyên ngôn độc lập khai sinh nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hoà. Tuyên ngôn độc lập khẳng định nước Việt Nam có quyền
hưởng tự do - độc lập và sự thật đã trở thành một nước tự do, độc lập. Toàn thể dân
tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để bảo
vệ quyền tự do, độc lập ấy.
Câu 125. Nêu nguyên nhân thắng lợi, ý nghĩa lịch sử và bài học kinh
nghiệm của Cách mạng tháng 8.
* Nguyên nhân thắng lợi :
- Khách quan: Nhờ thắng lợi của Liên Xô và Đồng minh đã đánh bại phát xít
Đức và quân phiệt Nhật Bản, cổ vũ và tạo điều kiện thắng lợi cho cách mạng nước ta. - Chủ quan:
+ Nhờ tinh thần yêu nước, đoàn kết đấu tranh của toàn Đảng, toàn quân và
toàn dân ta. Dưới ách thống trị của Nhật - Pháp, nhân dân ta không có con đường
nào khác là phải vùng lên đấu tranh.
+ Nhờ sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng, mặt trận Việt Minh, đứng đầu là Hồ
Chí Minh đã kịp thời chuyển hướng đấu tranh, nêu cao vấn đề dân tộc, tích cực
chuẩn bị mọi mặt, nắm bắt thời cơ, kiên quyết dũng cảm phát động quần chúng đứng lên.
+ Cách mạng tháng 8 được chuẩn bị chu đáo, lâu dài trong 15 nam, trải qua
các cuộc diễn tập 1930-1931, 1936-1939 và trực tiếp là phong trào giải phóng dân tộc 1939-1945.
+ Trong thời gian tổng khởi nghĩa toàn Đảng, toàn dân đoàn kết một lòng,
nhất tề đứng lên không quản hi sinh, gian khổ. Các tổ chức Đảng và mặt trận các
cấp chỉ đạo linh hoạt, sáng tạo.
Trong các nguyên nhân đó thì yếu tố chủ quan trong nước đóng vai trò quyết
định nhất. Điều kiện khách quan dù thuận lợi nhưng nếu lực lượng không được
chuẩn bị chu đáo, Đảng không kịp thời phát động quân chúng đứng lên và có
đường lối đúng đắn thì cũng không thể có thắng lợi của cách mạng tháng 8. * ý nghĩa lịch sử : - Trong nước:
+ Cách mạng tháng 8 đã mở ra một bước ngoặt lớn, lật đổ ách thống trị hơn
80 năm của thực dân Pháp và 5 năm chiếm đóng của phát xít Nhật, đồng thời lật
nhào ngai vàng phong kiến hàng nghìn năm, lập nên nước Việt Nam dân chủ cộng
hoà, Nhà nước của dân, do dân, vì dân.
+ Cách mạng đã mở ra kỉ nguyên mới trong lịch sử nước ta, kỉ nguyên giải
phóng dân tộc gắn liền với giải phóng xã hội, kỉ nguyên nhân dân làm chủ vận mện của mình.
+ Đảng Cộng sản Đông Dương từ địa vị bất hợp pháp trở thành Đảng cầm
quyền, tạo điều kiện cho những thắng lợi tiếp theo sau này.
- Thế giới: Thắng lợi đó góp phân tiêu diệt chủ nghĩa phát xít, kết thúc chiến
tranh, chọc thủng khâu yếu nhất trong hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc,
góp phần làm suy yếu chúng, cổ vũ và tạo điều kiện cho phong trào giải phóng dân
tộc trên thế giới, có ảnh hưởng to lớn trực tiếp đến hai nước bạn Lào và Campuchia. * Bài học kinh nghiệm:
- Đảng phải có đường lối đúng đắn, trên cơ sở vận dụng sáng tạo chủ nghĩa
Mác - Lênin vào thực tiễn cách mạng Việt Nam, nắm bắt tình hình quốc tế và trong
nước để đề ra chủ trương, nhiệm vụ phù hợp.
- Đảng tập hợp, tổ chức các lực lượng yêu nước rộng rãi trông mặt trận dân
tộc thống nhất, trên cơ sở liên minh công - nông phân hoá, cô lập, tiến lên đánh bại hoàn toàn kẻ thù.
- Trong chỉ đạo khởi nghĩa, Đảng linh hoạt kết hợp đấu tranh chính trị với
đấu tranh vũ trang, chiến tranh du kích và nổi dậy của quần chúng, thành thị và
nông thôn, khởi nghĩa từng phần chớp thời cơ phát động tổng khởi nghĩa trong cả nước.
- Đảng kết hợp đấu tranh và xây dựng nhằm không ngừng lớn mạnh về chính
trị, tư tưởng, tổ chức đủ có năng lực và uy tín để lãnh đạo cách mạng
Câu 126. Chứng minh rằng Cách mạng tháng 8 là thành quả của 15
năm chuẩn bị và đấu tranh dưới sự lãnh đạo của Đảng
- Nêu ý nghiã của sự thành lập Đảng.
- Ý nghĩa và bài học kinh nghiệm phong trào 1930-1931.
- Ý nghĩa và bài học kinh nghiệm phong trào 1936-1939.
- Nêu khái quát quá trình chuẩn bị lực lượng, đi từ khởi nghĩa từng phần lên
tổng khởi nghĩa thời kì1939-1945.
Câu 127. So sánh chủ trương của Đảng qua các thời kì 1930-1931, 1936-
1939, 1939-1945 và giải thích vì sao có sự khác nhau? 1) Mục tiêu:
- 1930-1931: đánh đổ đế quốc phong kiến giành độc lập dân tộc, ruộng đất dân cày.
- 1936-1939: Đánh đổ phản động, phát xít đòi dân sinh, dân chủ, cơm áo hoà bình.
- 1939-1945: đánh đổ đế quốc, phát xít và tay sai giành độc lập dân tộc. 2) Lực lượng:
- 1930-1931: Chủ yếu công nhân và nông dân.
- 1936-1939: tập hợp rộng rãi các tầng lớp nhân dân có tinh thần chống phát xít, chống chiến tranh.
- 1939-1945: Tập hợp rộng rãi các tầng lớp nhân dân có tinh thần yêu nước. 3) Hình thức đấu tranh:
- 1930-1931: Sử dụng cách mạng bạo lực, bí mật, bất hợp pháp, nhưng chủ
yếu là bạo lực chính trị.
- 1936-1939: Kết hợp đấu tranh bí mật, bất hợp pháp với đấu tranh hợp pháp công khai.
- 1939-1945: Khởi nghĩa vũ trang.
* Nguyên nhân khác nhau: Do hoàn cảnh mỗi thời kì khác nhau.
Câu 128. Nêu mục tiêu, nhiệm vụ được đề ra tại Hội nghị thành lập
Đảng, luận cương chính trị 10/1930 và Hội nghị Trung ương 8 tháng 5/1941.
* Ở Hội nghị thành lập Đảng: xác định chống đế quốc, chống phong kiến,
độc lập dân tộc và ruộng đất dân cày, thiết lập chính quyền công - nông - binh,
trong đó độc lập, tự do được đặt lên vị trí hàng đầu.
* Trong Luận cương chính trị 10/1930: Cũng nêu nhiệm vụ chống đế quốc,
chống phong kiến, độc lập dân tộc, ruộng đất dân cày nhưng lại quá nhấn mạnh về
đấu tranh giai cấp và cách mạng ruộng đất.
* Tại Hội nghị TW VIII 5/1941: Nêu cao nhiệm vụ dân tộc hơn lúc nào hết,
tạm gác khẩu hiệu ruộng đất, thành lập chính phủ nhân dân nước Việt Nam dân chủ cộng hoà.
Câu 129. Phân tích vai trò của Hồ Chí Minh đối với Cách mạng tháng 8
và sự thành lập nước Việt Nam dân chủ cộng hoà
- Về nước triệu tập Hội nghị Trung ương VIII, hoàn chỉnh chủ trương,
chuyển hướng đấu tranh.
- Xây dựng lực lượng bao gồm: thành lập Mặt trận Việt Minh, xây dựng
căn cứ địa, lực lượng vũ trang (Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân).
- Cùng với Đảng và Mặt trận đề ra chủ trương Tổng khởi nghĩa đúng đắn,
lãnh đạo cuộc tổng khởi nghĩa.
- Soạn Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hoà.
Câu 130. Bài học về lợi dụng mâu thuãn trong hàng ngũ địch được thực
hiện như thế nào trong quá trình chuẩn bị và tiến hành cách mạng tháng 8
- Khi chiến tranh bùng nổ, Đảng ta đã đề nghị thực dân Pháp phối hợp để
chống lại sự xâm lược của phát xít Nhật nhưng thực dân Pháp đã khước từ và liên
kết với Nhật để chống lại nước ta. Vì vậy, Đảng ta đã đề ra khẩu hiệu đánh Pháp, đuổi Nhật.
- Sau khi Nhật đảo chính Pháp, Đảng ta xác định kẻ thù cụ thể là phát xít
Nhật, thay khẩu hiệu đánh Pháp, Nhật bằng đánh đuổi phát xít Nhật, phát động một
“cao trào kháng Nhật cứu nước”.
Câu 131. Chủ trương khởi nghĩa vũ trang được đề ra tại Hội nghị Trung
ương 8 như thế nào? Trình bày công cuộc chuẩn bị khởi nghĩa đi từ khởi
nghĩa từng phần đến tổng khởi nghĩa

- Chủ trương khởi nghĩa vũ trang: đi từ khởi nghĩa từng phần lên tổng khởi
nghĩa, coi chuẩn bị khởi nghĩa là nhiệm vụ trung tâm trong giai đoạn hiện đại.
- Chuẩn bị khởi nghĩa: Khái quát công cuộc chuẩn bị khởi nghĩa: Lực
lượng chính trị, lực lượng vũ trang, căn cứ địa.
- Khởi nghĩa từng phần: Khái quát cao trào kháng Nhật cứu nước từ khi Nhật đảo chính Pháp.
- Khái quát Tổng khởi nghĩa và thành lập nước VNDCCH
Câu 132. Nêu sự ra đời và vai trò của lực lượng vũ trang từ 1939-1945
- Hoàn cảnh: Chiến tranh thế giới bùng nổ, tác động đến đời sống của nhân
dân ta. Do đó, Đảng đã đề ra nhiệm vụ coi chuẩn bị khởi nghĩa là nhiệm vụ trung
tâm để nắm bắt thời cơ.
Cùng với lực lượng chính trị, lực lượng vũ trang được đẩy mạnh xây dựng.
Năm 1941 các trung đội Cứu quốc quân được thành lập. Ở Cao bằng, Nguyễn Ái
Quốc đã cho xây dựng các đội tự vệ vũ trang.
Sang năm 1943, trước diễn biến của chiến tranh, Ban Thường vụ đã họp gấp
rút chuẩn bị khởi nghĩa. Tháng 2/1944 trung đội Cứu quốc quân III được thành lập
ở Bắc Sơn - Võ Nhai. Ở Cao Bằng, các hội Cứu quốc phát triển mạnh mẽ. Năm
1943 ban Việt Minh Cao - Bắc Lạng thành lập 19 ban xung phong Nam tiến nối
liền căn cứ địa Bắc Sơn - Võ Nhai với các tỉnh miền xuôi. 7/5/1944 tổng bộ Việt
Minh ra chỉ thị “Sửa soạn khởi nghĩa”, 10/8/1944, Đảng ra lời kêu gọi “Sắm vũ khí, đuổi thù chung”.
Ngày 22/12/1944, Nguyễn Ái Quốc ra chỉ thị thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân.
- Đội du kích Ba tơ ra đời (11/3/1945)
Sau khi Nhật đảo chính Pháp, Việc xây dựng lực lượng vũ trang được chú
trọng. Hội ngị quân sự cách mạng Bắc Kỳ được triệu tập tháng 4/1945, đẩy mạnh
phát triển lực lượng vũ trang. Uỷ ban quân sự cách mạng Bắc Kì được thành lập.
Ngày 15/5/1945 Cứu Quốc quân và Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân
thống nhất thành Việt Nam giải phóng quân. * Vai trò:
- Trong cao trào kháng Nhật cứu nước, lực lượng vũ trang đã phối hợp với
lực lượng chính trị quần chúng giải phóng hàng loạt xã, châu, huyện.
- Trong tổng khởi nghĩa, lực lượng vũ trang đã hỗ trợ cho quần chúng đánh
chiếm các công sở của địch, tiêu biểu như Hà Nội, Huế, Sài Gòn.