



















Preview text:
lOMoAR cPSD| 59732875
Pháp luật đại cương 1.
Đúng. Vì nhà nước thực hiện những công việc chung, phục vụ lợi ích chung cho
cả xã hội, xây dựng trường học, bệnh viện, bảo vệ môi trường, phòng chống dịch
bệnh, xây dựng các công trình giao thông,... 2.
Đúng . Theo Điều 16 Bộ luật Dân sự 2015 3.
Sai vì ngoài cá nhân ra còn có tổ chức là chủ thể của vi phạm pháp luật 4.
Sai vì theo Điều 12, Bộ luật Hình sự năm 2017 chủ thể của tội phạm không phải
là một tổ chức, mà phải là cá nhân, người đạt một độ tuổi nhất định ... 5.
Sai vì con dâu không thuộc các hàng thừa kế và không được chia thừa kế theo
pháp luật dựa vào hàng thừa kế.24 6.
Đúng .Theo quy định tại Điều 17 Luật hộ tịch năm 2014 7.
Sai. Hậu quả do hành vi trái pháp luật gây ra có thể là thiệt hại về mặt vật chất,
tinh thần hoặc những thiệt hại khác cho xã hội 8.
Đúng. Ví dụ một người phạm tội vừa có thể bị phạt tiền, vừa có thể phải ngồi tù,
tùy theo loại, mức độ vi phạm và các tình tiết tăng nặng. 9. sai 10.
Sai. Hành vi mà gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt h ại cho xã hội, được quy
định trong các văn bản pháp luật là hành vi vi phạm pháp luật 11.
Sai vì ngoài đặc trưng này ra thì còn 4 đặc trưng khác của nhà nước nên ko
thể nói đây là đặc trưng duy nhất 12.
Sai . Vì chỉ có 4 kiểu nhà nước được hình thành: Nhà nước chủ nô, Nhà nước
phong kiến, Nhà nước tư sản, Nhà nước vô sản (Nhà nước xã hội chủ nghĩa). Tình huống 3
a. Quy định : mọi người có quyền tự do kinh doanh trong những ngành nghề mà pháp luật không cấm
b. Giả định : người nào bắt cóc người khác làm con tin nhằm chiếm đoạt tài sản Chế
tài : thì bị phạt tù từ 2-7 năm Tình huống 4 Dấu hiệu vi phạm :
- X lẻn vào nhà Y khi biết X đang ngủ —> đột nhập trái phép
- Y đâm nhiều nhát vào ngực Y làm Y tử vong
—> tội giết người . Vi phạm luật hình sự
- X 40 tuổi hoàn toàn bình thường
—> x có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm pháp lý Tình huống 5:
- chủ thể: bà B và chị T
- khách thể : số tiền 500 triệu đồng và 30 triệu tiền lãi - nội dung :
+ với bà B : bà B có quyền nhận 500 triệu đồng và có trách nhiệm trả cả nợ gốc lẫn lãi cho chi T sau 5 tháng lOMoAR cPSD| 59732875
+ với chị T : chị T có trách nhiệm giao cho bà B vay 500 triệu đồng và có quyền nhận
lại khoản tiền đã cho vay và tiền lãi
1 .Vấn đề 1. Một số vấn đề lý luận về nhà nước CHXHCN Việt Nam
Nguồn gốc ra đời của nhà nước
Nhà nước xuất hiện khi có chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất và xuất hiện những giai cấp
đối kháng nhau do vậy mà nó cần một tổ chức chính trị đứng ra để điều hòa những mâu
thuẫn ấy và để quản lí xã hội.
Các kiểu nhà nước, cấu trúc nhà nước.
- Do trong xã hội nguyên thủy không có phân chia giai cấp, nên trong xã hội nguyên
thủy không có Nhà nước. Cho đến nay, đã có 4 kiểu Nhà nước được hình thành: Nhà
nước chủ nô, Nhà nước phong kiến, Nhà nước tư sản, Nhà nước vô sản (Nhà nước xã hội chủ nghĩa).
- Hình thức cấu trúc là một trong ba yếu tố cấu thành hình thức nhà nước: hình thức
cấu trúc, hình thức chính thể, chế độ chính trị. Có 3 hình thức cấu trúc: nhà nước đơn
nhất, nhà nước liên bang và nhà nước liên minh.
1. Nhà nước đơn nhất là một nhà nước thống nhất, trong đó, lãnh thổ quốc gia được chia
thành các đơn vị hành chính lãnh thổ. Gọi là đơn nhất vì trong cấu trúc của nhà nước
chỉ có một Hiến pháp; một hệ thống duy nhất các cơ quan thể hiện quyển lực nhà nước:
lập pháp, hành pháp, tư pháp; một hệ thống pháp luật thống nhất; một quy chế công dân
duy nhất; một chế độ quốc tịch. Đa số các quốc gia trên thế giới hiện nay có hình thức
cấu trúc đơn nhất như: Việt Nam, Lào, Cămpuchia, Thái Lan, Trung Quốc, Pháp, Nhật,
Hàn Quốc, Cộng hoà dân chủ nhân dân Triều Tiên, Cuba...
2. Nhà nước liên bang là sự liên kết, hợp thành từ các bang, các vùng lãnh thổ có chủ
quyền, các nhà nước thành viên thành một nhà nước thống nhất, trong mỗi bang, vùng
lãnh thổ có chủ quyền, mỗi nhà nước thành viên có Hiến pháp, có Quốc hội, Chính phủ,
Toà án tối cao; có quy chế công dân, quốc tịch riêng. Các nước như. Nga, Đức, Hoa Kì,
Ôxtrâylia, Canađa, Malaixia... là những nhà nước liên bang.
3. Nhà nước liên minh là nhà nước được hình thành từ sự liên kết của các quốc gia có
chủ quyền, tự nguyện hợp thành một liên minh tự nguyện nhằm thoả mãn những lợi ích
chung nhất định về nhiệm vụ chính trị, kinh tế hoặc quốc phòng. Nhà nước liên minh có
thể chỉ là một liên minh nhất thời như liên minh các bang Bắc Mĩ trong thời gian từ năm
1781 đến năm 1787, để sau đó được tổ chức lại thành một Nhà nước liên bang. Liên
minh Thụy Sĩ, liên minh các bang của Đức thế kỉ XIX cũng mang tính chất tương tự.
Nhà nước liên minh hiện nay đang tồn tại là Liên minh châu Âu (EU).
Các đặc trưng đặc điểm của nhà nước.
1. Nhà nước thiết lập quyền lực công cộng đặc biệt lOMoAR cPSD| 59732875
Nhà nước thiết lập quyền lực công cộng đặc biệt quyền lực này không còn hoà nhập với
dân cư như trong chế độ thị tộc nữa. Để thực hiện quyền lực này, nhà nước xây dựng
một hệ thống cơ quan hành chính, thiết lập toà án, quân đội, cảnh sát, những phương
tiện quản lý, những phương tiện cưỡng chế ... nhằm áp bức bằng bạo lực và buộc các
giai cấp khác phải tuân thủ, phục tùng theo ý chí của giai cấp thống trị, đảm bảo phục
vụ cho lợi ích giai cấp thống trị trong xã hội.
2. Nhà nước phân chia dân cư theo các đơn vị hành chính lãnh thổ
Nhà nước phân chia dân cư theo các đơn vị hành chính lãnh thổ không phụ thuộc vào
huyết thống, nghề nghiệp hoặc giới tính. Việc phân chia này dẫn đến việc hình thành
các cơ quan quản lý trong bộ máy nhà nước. Lãnh thổ là dấu hiệu đặc trưng của nhà
nước, bởi lẽ không có một quốc gia nào mà không có lãnh thổ. Nhà nước thực thi quyền
lực chính trị của mình trên toàn vẹn lãnh thổ. Một nhà nước có lãnh thổ riêng và trên
lãnh thổ ấy phân chia thành các đơn vị hành chính như tỉnh, huyện, xã...và do có dấu
hiệu lãnh thổ mà xuất hiện chế định quốc tịch– chế định quy định sự lệ thuộc của công
dân vào 1 nhà nước và 1 lãnh thổ nhất định, thông quá đó nhà nước thiết lập quan hệ với công dân của mình.
3. Nhà nước có chủ quyền quốc gia
Nhà nước là một tổ chức quyền lực có chủ quyền, thể hiện trong đối nội và đối ngoại.
Trong đối nội, Nhà nước có quyền lực tối cao đối với mọi con người, mọi tổ chức trong
lãnh thổ quốc gia, không chịu ảnh hưởng và không bị ảnh hưởng bởi bất kỳ một quốc gia nào khác.
Trong đối ngoại, Nhà nước có sự độc lập hoàn toàn trong chính sách và các hoạt động
kinh tế, chính trị, văn hoá ....với nước ngoài. Nhà nước có quyền tự do và độc lập quyết
định các công việc của mình, tôn trọng chủ quyền của các nhà nước khác, tôn trọng các
quy phạm của luật quốc tế. . Chủ quyền là thuộc tính vốn có của nhà nước. Trong xã hội
có giai cấp, không có một tổ chức hoặc cá nhân nào có chủ quyền như nhà nước.
4. Nhà nước ban hành pháp luật và thực hiện sự quản lý bắt buộc đối với mọi công dân
Để giữ gìn trật tự và đảm bảo lợi ích của giai cấp thống trị, nhà nước phải trực tiếp
xây dựng các quy phạm để điều chỉnh các quan hệ xã hội quan trọng, buộc các chủ
thể khi tham gia quan hệ đó phải xử sự đúng ý chí của nhà nước. Nhà nước đảm bảo
thực hiện các quy phạm pháp luật đó bằng sức mạnh cưỡng chế của nhà nước. Pháp
luật trở thành một công cụ sắc bén không thể thiếu được trong tay nhà nước để quản lý xã hội..
Nhà nước và pháp luật có mối quan hệ phụ thuộc lẫn nhau: không thể có nhà nước mà
thiệu pháp luật và ngược lại. Chỉ có Nhà nước mới có quyền ban hành pháp luật và cũng
chính nhà nước bảo đảm cho pháp luật được thực thi trong cuộc sống.
5. Nhà nước có quyền quy định và thực hiện việc thu các loại thuế lOMoAR cPSD| 59732875
Để nuôi dưỡng bộ máy nhà nước, đảm bảo cho phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, giải
quyết công việc chung của xã hội, mọi nhà nước phải quy định và thực hiện việc thu các
loại thuế dưới các hình thức bắt buộc, với số lượng và thời hạn ấn định trước. Thuế là
khoản đóng góp bắt buộc của các công dân và các tổ chức kinh tế trên lãnh thổ quốc gia
vào ngân sách nhà nước, đây là nguồn thu nhập chủ yếu của nhà nước.
Phân biệt bản chất của các kiểu nhà nước khác nhau. Tiêu chí Tính giai cấp Tính xã hội Nhà
- Bản chất hay tính giai cấp của nhà Nhà nước chủ nô nảy sinh để quản nước
nước chủ nô thể hiện chủ yếu trong lý xã hội, thay thế cho chế độ cộng chủ nô
quan hệ giai cấp giữa chủ nô và nô sảnnguyên thủy không còn khả năng lệ
cai quản xã hội đượcnữa.Nhà nước
chủ nô tiến hành một số hoạt động
vì sự tồn tại và phát triển chungcủa
toàn xã hội .Nhà nước chủ nô đã
thực hiện những công việc chung,
bảo vệ lợi ích chung, đáp ứng nhu
cầu quản lý các công việc chung của xã hội Nhà
Bản chất giai cấp của nhà nước Nhà nước phong kiến là đại diện cho nước
phong kiến thể hiện trong tính chất toàn thể xã hội, nên sứ mệnh của nhà phong
quan hệ đấu tranh giai cấp giữa quý nước phong kiến là tổ chức và quản kiến
tộc địa chủ và nông dân
lý các mặt của đời sống xã hội. Bên
cạnh việc thực hiện chức năng trấn
áp giai cấp, nhà nước phong kiến
cũng đã đảm nhiệm vai trò quản lý
xã hội, thực hiện các công việc
chung, bảo vệ lợi ích chung của xã hội lOMoAR cPSD| 59732875 Nhà
Thắng lợi của cuộc cách mạng tư Nhà nước tư sản đã thực hiện nhiều
nước tư sản và sự ra đời của nhà nước tư sản hơn các công việc chung sản
đánh dấu một bước phát triển mạnh của xã hội, bảo vệ trật tự và lợi ích
mẽ và tiến bộ, mở ra một giai đoạn chung của xã hội
phát triển mới trong lịch sửnhân loại. Mặc dù
vậy, nhà nước tư sản vẫn không vượt
khỏibản chất là nhà nướcbóc lột.
Bản chất củanhà nước tư sản do
chính các điều kiện nội tại của xã hội
tư sảnquyết định, đó làcơ sở
kinh tế, cơ sở xã hội và cơ sở tư
tưởng. Giai cấp giữ vị trí thống trị là
giai cấp tư sản Giai cấp vô sản là
bộphận đông đảo trong xã hội, là lực
lượng lao động chínhtrong xã hội
Tính chất của mối quan hệ giai cấp
giữa tư sản và vô sản là nội dung chủ
yếu của tính giai cấp của nhà nước tư sản lOMoAR cPSD| 59732875 Nhà
Nhà nước xã hội chủ nghĩa là nhà Nhà nước xã hội chủ nghĩa vừa là nước
nước của đại đa số nhân dân lao bộmáy chính trị – hành chính, một XHCN
động trong xã hội mà nền tảng là bộ máy cưỡng chế, vừa là một tổ
liên minh giai cấp công nhân với chức quản lý kinh tế – xã hội của
giai cấp nông dân và đội ngũ trí nhân dân lao động, nó không còn là
thức. Nhân dân là chủ thể tối cao của nhà nước theo đúng nghĩa mà chỉ
quyền lực nhà nước: Nhân dân với còn là“nửa nhà nước ”Nhà nước
tính cách làchủ thể tối cao của quyền ngoài bảo đảm lợi ích giai cấp, thì
lực nhà nước, thực hiện quyền lực phải thực hiện vai trò là công cụ bảo
nhà nước dưới nhiều hình thức khác vệ lợi ích chung và trật tự xã hội. nhau như:
Nhà nước bảo đảm và phát huy
+ Nhân dân thông qua bầu cử dân
quyền làm chủ của nhân dân. Công chủ
nhận và tôn trọng bảo vệ và bảo đảm
lập ra hệ thống cơ quan đại diện + quyền con người
Nhân dân thông qua các tổ chức xã
hội tham gia kiểm tra, giám sát hoạt
động của các cơ quan nhà nước ; +
Nhân dân trực tiếp làm việc, phục vụ
trong các cơ quan nhà nước;
+ Nhân dân thực hiên quyền lực
thông qua các hoạt động đưa ra
những yêu cầu, kiến nghị.Dân chủ là
thuộc tính của nhà nước xã hội chủ
nghĩa:Nhà nước xã hội chủ nghĩa
với bản chất là nhà nước của đông
đảo nhân dân lao động trong xã hội,
nhà nước mở rộng dân chủ trên tất
cả các lĩnh vực đời sống xã hội, bao
gồm các lĩnh vực: chính trị,kinh tế,
tự do dân chủ và tự do cá nhân… Thông qua các quy định
của pháp luật, nhà nước xã hội chủ
nghĩa ngày càng ghi nhận nhiều hơn
các quyền con người thành quyền
công dân, đồng thời xây dựng một
cơ chế hữu hiệu để nhân dân thực
hiện các quyền dân chủ. lOMoAR cPSD| 59732875
Phân tích bản chất của nhà nước chxhcn việt nam
Điều 2 Hiến pháp năm 2013 khẳng định:
“Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân. Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam do Nhân dân làm chủ; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân mà nền tảng
là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức. Quyền
lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà
nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”.
Bản chất của nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa việt nam theo Hiến pháp 2013 là nhà
nước của dân, do dân và vì dân. Cụ thể:
– Nhân dân là chủ thể tối cao của quyền lực nhà nước;
– Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước của tất cả các dân tộc trên
lãnh thổ Việt Nam, là biểu hiện tập trung của khối đại đoàn kết toàn dân tộc; – Nhà
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam được tổ chức và hoạt động trên cơ sở
nguyên tắc bình đẳng trong mối quan hệ giữa nhà nước và công dân;
– Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước dân chủ và pháp quyền.
Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là kiểu nhà nước xã hội chủ nghĩa ( XHCN ).
Nhà nước CHXHCN Việt Nam nằm trong tay giai cấp công nhân và nhân dân lao độn
g. Đó là kiểu nhà nước có bản chất hoàn toàn khác với kiểu nhà nước bóc lột và là kiểu
nhà nước cao nhất trong lịch sử, là nhà nước của dân, do dân và vì dân. Tất cả quyền l
ực nhà nước thuộc về nhân dân và vì nhân dân mà nền tảng là liên minh giai cấp công
nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức.”(Điều 2, Hiến pháp 1992).
Nhà nước bảo đảm cho nhân dân thực sự tham gia vào quản lý nhà nước và quản lý xã
hội, đảm bảo quyền ứng
2 . vấn đề 2. Một số vấn đề lý luận về pháp luật
Các nguyên nhân ra đời của pháp luật
- Thứ nhất, nhà nước tuyên bố (thừa nhận) một số các quy tắc đã có sẵn trong xã hội
như tập quán, đạo đức, tín điều tôn giáo … thành pháp luật và dung quyền lực nhà nước
bảo đảm cho chúng được tôn trọng, được thực hiện.
- Thứ hai, nhà nước đặt ra những quy tắc xử sự mới. Những quy tắc này thường do các
cơ quan nhà nước có thẩm quyền đặt ra thông qua những trình tự, thủ tục, hình thức nhất
định.Nói chung pháp luật hình thành bằng ba con đường chủ yếu sau:
- Nhà nước thừa nhận những tập quán đã có từ trước phù hợp với lợi ích của mình và
nâng lên thành pháp luật. Bằng con đường này, nhà nước tạo ra hình thức pháp luật đầu tiên là tập quán pháp. lOMoAR cPSD| 59732875
- Nhà nước thừa nhận các quyết định có trước về từng vụ việc cụ thể của cơ quan xét
xử hoặc cơ quan hành chính cấp trên để trở thành khuôn mẫu cho các cơ quan cấp dưới
tương ứng giải quyết những vụ việc tương tự xảy ra sau này. Con đường này tạo ra hình
thức pháp luật thứ hai trong lịch sử là án lệ pháp.
- Nhà nước ban hành những quy phạm pháp luật mới để điều chỉnh các quan hệ xã hội
mới nảy sinh do nhu cầu quản lý và duy trì trật tự xã hội. Bằng conđường này hình thức
pháp luật thứ ba ra đời, đó là các văn bản quy phạm pháp luật.
Các dấu hiệu bản chất của pháp luật
Bản chất của pháp luật thể hiện thông qua tính giai cấp và tính xã hội (hay giá trị xã hội)
của nó. Pháp luật thể hiện ý chí của giai cấp thống trị. Ý chí của giai cấp thống trị được
nhà nước thể chế hoá thành pháp luật và bảo đảm thực hiện
Phân biệt đặc điểm của các kiểu pháp luật
1.Kiểu pháp luật chủ nô
- Pháp luật chủ nô pháp luật chủ nô tạo cơ sở pháp lí cho việc củng cố và bảo vệ quan
hệ sản xuất chiếm hữu nô lệ, hợp pháp hóa chế độ bóc lột của chủ nô đối với nô lệ. –
Pháp luật chủ nô quy định một hệ thống hình phạt và cách thi hành hình phạt hết sức dã man, tàn bạo,
– Pháp luật chủ nô ghi nhận và củng cố tình trạng bất bình
đẳng trong xã hội và trong gia đình.
– Pháp luật chủ nô có tính tản mạn, thiếu thống nhất. 2.Kiểu pháp luật phong kiến
Pháp luật phong kiến là pháp luật đẳng cấp và đặc quyền
+ Pháp luật phong kiến chia giai cấp trong xã hội thành nhiều đẳng cấp khác. Mỗi đẳng
cấp có địa vị xã hội và địa vị pháp lý khác nhau. Pháp luật phong kiến công khai tuyên
bố cho mỗi đẳng cấp có những đặc quyền riêng.Quyền lợi cao nhất trong xã hội Phong
kiến thuộc về vua, vua có toàn quyền,sau vua là các địa chủ lớn, tăng lữ có rất nhiều
quyền (quyền xét xử đối với nông dân, đặt ra luật lệ, quyền thu thuế, quyền bắt nông
dân phải lao dịch cho mình…). Như vậy, một mình tên địa chủ vừa là nhà làm
luật, vừa là quan tòa, là vị chúa tể có toàn quyền ở trang ấp của mình –
Pháp luật phong kiến mang tính dã man, tàn bạo.
+ Mục đích hình phạt của pháp luật phong kiến chủ yếu nhằm gây đau đớn về thể xác
và tinh thần cho con người, làm nhục, hạ thấp danh dự, nhân phẩm của con người. Chính
vì vậy, các hình phạt được quy định trong pháp luật như: chém đầu, treo cố, dìm nước,
voi giày, tứ mã phanh thấy, ném vạc dầu, thích chữ vào mặt… được áp dụng rộng khắp
ở các nhà nước phong kiến.
+ Bên cạnh đó pháp luật phong kiến còn cho phép áp dụng trách nhiệm hình sự liên đới
dựa trên hai nguyên tắc: Thứ nhất, đối với những người có cùng huyết thống, dòng tộc
và quan hệ hôn nhân. Thứ hai, đối với những người có quan hệ hàng xóm, đồng cư với lOMoAR cPSD| 59732875
người phạm tội. Ví dụ như vụ án Lệ Chi viên đã áp dụng hình phạt chu di tam tộc với 2
dòng họ của Nguyễn Trãi và Thị Lộ ở Triều Lê.
+ Pháp luật phong kiến hợp pháp hoá tính chất chuyên quyền và tuỳ tiện sử dụng bạo
lực. Ở giai đoạn đầu pháp luật phong kiến cho phép các lãnh chúa phong kiến có pháp
luật của riêng lãnh địa mình. Pháp luật cho pháp sử dụng bạo lực để giải quyết tranh
chấp. Ví dụ những quy định về đấu gươm, đấu súng ở châu âu.
– Pháp luật phong kiến liên quan mật thiết tới tôn giáo và đạo đức phong kiến. + Trong
xã hội phong kiến có sự liên kết chặt chế giữa nhà nước và các tổ chức tôn giáo, vì thế
trong nhiều trường hợp tổ chức tôn giáo can thiệp vào công việc của nhà nước và ngược
lại nhà nước cũng can thiệp vào các công việc tôn giáo. Điều này dẫn đến thực trạng
nhà nước phong kiến ghi nhận, thể hoá nhiều quy định của lễ, giáo, đạo đức phong kiến
thành pháp luật của nhà nước.
+ Ngoài ra, Hình thức án lệ và văn bản (lệnh, chiếu chỉ) được sử dụng khá rộng rã. Bộ
máy pháp luật phong kiến tiến bộ hơn rất nhiều so với kiểu pháp luật chủ nô.
3. Kiểu pháp luật tư sản
- Pháp luật tư sản là hệ thống các quy phạm pháp luật ( các quy tắc ) có tính chất bắt
buộc chung, do Nhà nước tư sản ban hành ( hoặc thừa nhận ) và bảo đảm thực hiện bằng
sức mạnh cưỡng chế, trực tiếp thể hiện ý chí và bảo vệ lợi ích của giai cấp tư sản, là
công cụ có hiệu lực nhất để điều chỉnh các quan hệ xã hội chủ yếu phù hợp với ý chí và
lợi ích cơ bản của giai cấp tư sản.
- Pháp luật tư sản tồn tại và phát triển trên cơ sở của quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa
và chịu sự chi phối có tính chất quyết định của các quan hệ đó. Theo Mác, nhà nước,
pháp luật, đạo đức, khoa học, nghệ thuật … thực chất chỉ là các loại hình đặc biệt của
nền sản xuất và vì thế phải tuân thủ quy luật phổ biến của nó. Kết luận này của Mác có
ý nghĩa phương pháp luận rất lớn đối với việc nghiên cứu bản chất của pháp luật tư sản.
Không thể hiểu được bản chất của pháp luật tư sản nếu không nói đến các điều kiện kinh
tế – xã hộihợp thành cơ sở tồn tại của nó.
- Pháp luật tư sản thể hiện ý chí của giai cấp tư sản là bằng mọi giá phải duy trì và củng
cố chế độ tư hữu và sự chi phối không hạn chế của nó đối với các yếu tố xã hội, kinh tế và chính trị
4 . Kiểu pháp luật xã hội chủ nghĩa
- Điểm cơ bản của kiểu pháp luật xã hội chủ nghĩa là: thể hiện ý chí và bảo vệ quyền
lợi của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và cả cộng đồng dân tộc nói chung; có
mối quan hệ mật thiết với đường lối chủ trương chính sách của Đảng cộng sản; thừa
hưởng những thành quả của pháp luật ra đời trong xã hội tư sản; không chia thành công
pháp và tư pháp; có hình thức chủ yếu là văn bản quy phạm pháp luật.
- Xét ở góc độ chung, cũng như các kiểu pháp luật khác, pháp luật xã hội chủ nghĩa
vừa mang tính giai cấp vừa thể hiện tính xã hội. Tuy nhiên, do những điều kiện, kinh tế,
chính trị, xã hội, văn hóa, hệ tư tưởng trong chủ nghĩa xã hội nên pháp luật xã hội chủ
nghĩa có những đặc thù riêng, điều này làm cho bản chất của pháp luật xã hội chủ nghĩa
khác hẳn với bản chất của các kiểu pháp luật trước đó. lOMoAR cPSD| 59732875
Phân tích các ngành luật của hệ thống pháp luật việt nam
+ Luật hiến pháp ( còn gọi là luật nhà nước) là hệ thống các quy định pháp luật điều
chỉnh những quan hệ xã hội quan trọng nhất gắn liền với việc tổ chức quyền lực nhà
nước của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
+ Luật hành chínhlà hệ thống các quy định pháp luật điều chỉnh những quan hệ xã hội
phát sinh trong quá trình tổ chức và thực hiện hoạt động chấp hành và điều hành của
nhà nước trên các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội.
+ Luật hình sựlà hệ thống các quy định pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội nhằm
xác định những hành vi nguy hiểm nào cho xã hội là tội phạm đồng thời quy định các
hình phạt đối với những người có hành vi phạm tội. Luật hình sự được chia thành hai
phần: Phần chung gồm những quy định pháp luật quy định những nguyên tắc, nhiệm vụ
của luật hình sự, những vấn đề chung về tội phạm và hình phạt... Phần các tội phạm (
phần riêng) gồm những quy định pháp luật quy định các tội phạm cụ thể, loại và mức
hình phạt với các loại tội phạm đó.
+ Luật tố tụng hình sự là hệ thống các quy định pháp luật điều chỉnh những quan hệ xã
hội phát sinh trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử và quá trình kiểm sát việc điều tra,
truy tố, xét xử những vụ án hình sự.
+ Luật dân sự là hệ thống các quy định pháp luật điều chỉnh các quan hệ tài sản mang
tính chất hàng hoá tiền tệ và một số quan hệ nhân thân trên nguyên tắc bình đẳng, độc
lập của các chủ thể tham gia vào các quan hệ đó.
+ Luật tố tụng dân sự là hệ thống các quy định pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội
phát sinh giữa toà án, viện kiểm sát, các đương sự và những người tham gia tố tụng khác
trong quá trình điều tra và giải quyết vụ án dân sự.
+ Luật hôn nhân và gia đình là hệ thống các quy định pháp luật điều chỉnh những quan
hệ nhân thân và quan hệ tài sản phát sinh do việc kết hôn giữa nam và nữ. + Luật kinh
tế là hệ thống các quy định pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá
trình tổ chức quản lí và thực hiện hoạt động sản xuất kinh doanh giữa các doanh nghiệp
với nhau và với các cơ quan quản lí nhà nước.
Trong nền kinh tế thị trường nhiều người chuyển sang nghiên cứu sâu hơn về các quy
định pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội liên quan đến hoạt động thương mại và xác
định ngành luật thương mại là bộ phận chủ yếu của ngành luật kinh tế.
+ Luật lao động là hệ thống các quy định pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội phát
sinh giữa người lao động và người sử dụng lao động (cá nhân, tổ chức).
+ Luật tài chính là hệ thống các quy định pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội phát
sinh trong lĩnh vực hoạt động tài chính của nhà nước, trong quá trình thành lập, phân
phối và sử dụng các quỹ tiền tệ của các chủ thể hoạt động phân phối của cải dưới hình thức giá trì.
+ Luật ngân hàng là hệ thống các quy định pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội phát
sinh trong hoạt động tiền tệ, tín dụng và ngân hàng.
+ Luật đất đai là hệ thống các quy định pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội liên
quan đến việc sở hữu, quản lí, bảo vệ và sử dụng đất. lOMoAR cPSD| 59732875
Ngoài các ngành luật nói trên, một số học giả còn phân định thêm một số ngành luật
khác nữa như: Luật an sinh xã hội ( gồm các quy định pháp luật điều chỉnh các quan hệ
xã hội liên quan đến bảo hiểm xã hội, ưu đãi xã hội, cứu trợ xã hội... để bảo đảm sự phát
triển bền vững của xã hội); luật môi trường ( gồm các quy định pháp luật điều chỉnh các
quan hệ xã hội phát sinh từ các hoạt động quản lí, bảo vệ, khai thác nguồn tài nguyên
thiên nhiên, môi trường trong hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, môi trường đô thị, khu dân cư...)..
3 . vấn đề 3. Qui phạm pháp luật
Phân tích các bộ phận của qui phạm pháp luật.
Về nguyên tắc, mỗi quy phạm pháp luật có ba bộ phận là giả định, quy định và chế tài. Trong đó:
1) Giả định là phần xác định chủ thể tham gia quan hệ pháp luật và những hoàn cảnh,
điều kiện mà chủ thể gặp phải trong thực tiễn;
2) Quy định là phần xác định chủ thể phải làm gì khi gặp phải hoàn cảnh, điều kiện đã
nêu trong phần giả định (được một quyền, phải làm một nghĩa vụ, phải tránh các xử sự bị cấm);
3) Chế tài là phần nêu rõ biện pháp, hình thức xử lí của nhà nước đối với người đã xử
sự không đúng với quy định, hậu quả mà người đó phải gánh chịu. Tuy nhiên, trong
thực tiễn xây dựng pháp luật, phần lớn các quy phạm pháp luật được xây dựng từ hai bộ
phận là giả định - quy định hoặc giả định - chế tài. Trừ một số quy phạm pháp luật đặc
biệt như quy phạm định nghĩa, quy phạm xác định nguyên tắc, còn hầu hết các quy phạm
pháp luật # đều phải có phần giả định. Bởi nếu không có phần giả định thì không thể
xác định được quy phạm pháp luật này áp dụng cho ai, trong trường hợp nào hoặc với
điều kiện nào. Các quy phạm pháp luật hiến pháp thông thường chỉ có phần giả định và
quy định, còn các quy phạm pháp luật phần riêng của Bộ luật hình sự thường chỉ có
phần giả định và chế tài.
Qui phạm pháp luật
Đặc điểm của quy phạm pháp luật
Các văn bản quy phạm pháp luật thường có những đặc điểm như:
– Được cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành.
– Nội dung thường chứa những quy tắc xử sự chung, mang tính bắt buộc cho cộng đồng.
– Khi có những sự kiện phát pháp lý phát sinh trong đời sống thì những văn bản quy
phạm pháp luật sẽ được áp dụng để điều chỉnh.
– Tên gọi, nội dung, trình tự ban hành đều được quy định cụ thể. lOMoAR cPSD| 59732875
Quy phạm pháp luật có mấy loại
Căn cứ vào đối tượng điều chỉnh và phương pháp điều chỉnh –
Quy phạm pháp luật dân sự.
– Quy phạm pháp luật hành chính. Căn cứ vào nội dung
– Quy phạm pháp luật định nghĩa.
– Quy phạm pháp luật điều chỉnh: các quy phạm này quy định quyền và nghĩa vụ của
những chủ thể tham gia trong các quan hệ xã hội. Gồm ba nhóm Quy phạm bắt buộc,
quy phạm cấm đoán, quy phạm cho phép.
– Quy phạm pháp luật bảo vệ: đây là loại quy phạm xác định các biện pháp cưỡng chế
mang tính nhà nước đối với hành vi vi phạm pháp luật.
Căn cứ vào hình thức mệnh lệnh
– Quy phạm pháp luật dứt khoát.
– Quy phạm pháp luật không dứt khoát.
– Quy phạm pháp luật tùy nghi.
– Quy phạm pháp luật hướng dẫn.
Căn cứ vào cách thức trình bày –
Quy phạm pháp luật bắt buộc.
– Quy phạm pháp luật cấm đoán.
– Quy phạm pháp luật cho phép.
Phân loại quy phạm pháp luật
- Căn cứ vào đối tượng điều chỉnh và phương pháp điều chỉnh pháp luật có thể phân
chia các quy phạm pháp luật thành các nhóm lớn tương ứng là các ngành luật: Quy phạm
pháp luật hành chính, quy phạm pháp luật dân sự... Với cách tiếp cận này còn có thể
chia các quy phạm pháp luật thành những nhóm nhỏ hơn ngành luật như phân ngành
luật, chế định pháp luật...
- Phụ thuộc vào hình thức mệnh lệnh nêu trong bộ phận quy định của quy phạm pháp
luật có thể chia quy phạm pháp luật thành quy phạm pháp luật dứt khoát, quy phạm pháp
luật không dứt khoát và quy phạm pháp luật hướng dẫn.
+ Quy phạm pháp luật dứt khoát là quy phạm trong đó bộ phận quy định chỉ nêu ra một
cách xử sự rõ ràng, chặt chẽ; lOMoAR cPSD| 59732875
+ Quy phạm pháp luật không dứt khoát là quy phạm trong đó bộ phận quy định nêu ra
nhiều cách xử sự và cho phép chủ thể lựa chọn cho mình một cách xử sự từ những cách đã nêu;
+ Quy phạm pháp luật hướng dẫn là quy phạm trong đó bộ phận quy định của quy phạm
thường đưa ra những lời khuyên nhủ, hướng dẫn các chủ thể tự giải quyết một số công việc nhất định.
- Phụ thuộc vào cách thức xử sự nêu trong bộ phận quy định của quy phạm pháp luật
có thể chia quy phạm pháp luật thành quy phạm pháp luật bắt buộc, quy phạm pháp luật
cấm và quy phạm pháp luật cho phép.
+ Quy phạm pháp luật bắt buộc có bộ phận quy định buộc chủ thể phải thực hiện một số hành vi nhất định.
+ Quy phạm pháp luật cấm có bộ phận quy định cấm chủ thể không được thực hiện một số hành vi nhất định.
+ Quy phạm pháp luật cho phép có bộ phận quy định cho phép chủ thể có thể tự xử sự
theo những cách thức nhất định (thường là những quy định về quyền và tự do của các chủ thể pháp luật).
- Căn cứ vào nội dung, tác dụng của quy phạm pháp luật có thể chia các quy phạm
pháp luật thành quy phạm nội dung và quy phạm hình thức (thủ tục).
+ Quy phạm pháp luật nội dung là những quy phạm xác định các quyền, nghĩa vụ hay
trách nhiệm của các chủ thể pháp luật.
+ Quy phạm pháp luật hình thức (thủ tục) là những quy phạm xác định trình tự, thủ tục
để các chủ thể thực hiện các quyền, nghĩa vụ pháp lí của mình hay tiến hành áp dụng
pháp luật để giải quyết các vụ việc xảy ra trong thực tế.
- Căn cứ vào tính chất của lĩnh vực quan hệ xã hội mà pháp luật điều chỉnh (chủ thể và
lợi ích mà pháp luật bảo vệ) có thể chia quy phạm pháp luật thành quy phạm pháp luật
công pháp và quy phạm pháp luật tư pháp.
+ Quy phạm pháp luật công pháp là quy phạm điều chỉnh những quan hệ xã hội giữa
các cơ quan nhà nước với nhau và giữa cơ quan nhà nước với tư nhân, liên quan đến lợi
ích chung của nhà nước và xã hội.
+ Quy phạm pháp luật tư pháp là quy phạm điều chỉnh những quan hệ xã hội giữa các
tư nhân với nhau, liên quan đến lợi ích riêng tư của tư nhân.
4.vấn đề 4. Quan hệ pháp luật
Nêu, phân tích các yếu tố cấu thành quan hệ pháp luật
1 / Chủ thể quan hệ pháp luật
– Chủ thể trong quan hệ pháp luật có thể là cá nhân, tổ chức phải có năng
pháp luật, năng lực hành vi phù hợp phù hợp để tham gia vào các quan
hệ đó và thực hiện các quyền, lợi ích hợp pháp cũng như nghĩa vụ pháp lý theo quy định.
– Trong đó chủ thể là cá nhân và tổ chức khác nhau, cụ thể: lOMoAR cPSD| 59732875
+ Chủ thể quan hệ pháp luật là cá nhân: Năng lực pháp luật của cá nhân là khả năng để
cá nhân đó có quyền và nghĩa vụ dân sự. Còn năng lực hành vi dân sự của cá nhân là
khả năng mà cá nhân đó bằng hành vi của mình để xác lập, thực hiện quyền và nghĩa vụ dân sự.
+ Chủ thể quan hệ pháp luật là tổ chức: Đối với chủ thể này, năng lực pháp luật dân sự
và năng lực hành vi sẽ xuất hiện đồng thời khi tổ chức đó thành lập theo quy định của
pháp luật và chấm dứt tư cách pháp lý khi bị phá sản, giải thể
2 / Khách thể quan thể quan hệ pháp luật
– Khách thể của quan hệ pháp luật là những lợi ích mà các chủ thể mong
muốn đạt được đó là lợi ích về vật chất hoặc tinh thần, khi tham gia vào quan hệ pháp luật.
– Khách thể trong quan hệ pháp mà các bên hướng đến có thể là tài sản vật
chất, lợi ích phi vật chất hay hành vi xử sự của con người. Ví dụ:
+ Vàng, trang sức, đá quý, tiền. xe, nhà, đất,… (tài sản vật chất ) +
Khám chữa bệnh, vận chuyển hàng hóa, chăm soc sắc đẹp, tham gia
bầu cử,…(hành vi xử sự)
+ Quyền nhân thân, danh dự, nhân phẩm, học hàm học vị,…(Lợi ích phi vất chất )
3 / Nội dung quan hệ pháp luật
– Nội dung của quan hệ pháp luật là tổng thể quyền và nghĩa vụ pháp của
các chủ thể tham giam trong quan hệ đó. Trong đó:
3 / Nội dung quan hệ pháp luật
– Nội dung của quan hệ pháp luật là tổng thể quyền và nghĩa vụ pháp của
các chủ thể tham giam trong quan hệ đó. Trong đó:
3 / Nội dung quan hệ pháp luật
– Nội dung của quan hệ pháp luật là tổng thể quyền và nghĩa vụ pháp của
các chủ thể tham giam trong quan hệ đó. Trong đó:
+ Quyền của chủ thể tham gia: Chủ thể thực hiện quyền của mình
thông qua việc thực hiện các hành vi trong khuôn khổ pháp luật, yêu
cầu chủ thể khác thực hiện hoặc kiềm chế thực hiện hành vi nhất định.
+ Nghĩa vụ của chủ thể tham gia: Chủ thể tham gia phải sử xự theo
quy định của pháp luật và chịu trách nhiệm trước pháp luật
phân tích các điều kiện làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quan hệ pháp luật
Quan hệ pháp luật phát sinh, thay đổi, chấm dứt dưới tác động của quy phạm pháp luật,
chủ thể có năng lực chủ thể pháp luật và sự kiện pháp lý.
• Quy phạm pháp luật là một điều kiện làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quan hệ
pháp luật. Nhờ quy phạm pháp luật điều chỉnh, quan hệ xã hội trở thành quan hệ
pháp luật.Quy phạm pháp luật dự kiến về chủ thể tham gia quan hệ pháp luật, về lOMoAR cPSD| 59732875
nội dung của quan hệ pháp luật, về việc thực hiện quan hệ pháp luật. Quy phạm
pháp luật là điều kiện cần để làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quan hệ pháp luật
• Chủ thể có năng lực chủ thể pháp luật là điều kiện thứ hai là phát sinh, thay đổi,
chấm dứt quan hệ pháp luật.
Nếu không có chủ thể tham gia vào quan hệ xã hội cụ thể thì không làm phát sinh
quan hệ pháp luật. Chỉ những chủ thể có năng lực chủ thể pháp luật mới làm phát sinh,
thay đổi, chấm dứt quan hệ pháp luật.
Sự phát sinh, thay đổi, chấm dứt quan hệ pháp luật phụ thuộc vào ý chí của chủ thể.
Chủ thể tự quyết định việc tham gia hay không vào quan hệ pháp luật, phụ thuộc vào
khả năng và điều kiện của chủ thể Sự kiện pháp lý
Là sự kiện thực tế xảy ra trong đời sống hằng ngày và sự xuất hiện của các sự kiện
này làm phát sinh, thay đổi hay chấm dứt quan hệ pháp luật. Có thể định nghĩa sự kiện
pháp lý là những sự kiện thực tế mà sự xuất hiện hay mất đi của chúng dẫn đến sự phát
sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quan hệ pháp luật cụ thể.
Nếu coi quy phạm pháp luật là điều kiện cần làm phát sinh, thay đổi hay chấm dứt
quan hệ pháp luật thì chủ thể có năng lực pháp luật chủ thể và sự kiện pháp lý là các
điều kiện đủ. Bởi sự kiện pháp lý gắn liền với chủ thể quan hệ pháp luật. Sự kiện pháp
lý được hình thành trên cơ sở hành vi của các chủ thể hoặc có ảnh hưởng đến hành vi
của chủ thể thực hiện các quyền và nghĩa vụ pháp lý của mình.
Không phải sự kiện thực tế nào cũng được coi la sự kiện pháp lý. Chỉ những sự kiện
thực tế mang tính chất pháp lý, tức là được quy phạm pháp luật quy định trước là nếu
nó xảy ra thì sẽ dẫn đến hậu quả pháp lý thì mới được coi là sự kiện pháp lý
Sự kiện pháp lý có thể là do hành vi của con người tạo nên hoặc không do hành vi
của con người. Dựa vào tiêu chí này, sự kiện pháp lý được phân thành sự biến và hành
vi pháp lý. Sự biến là hiện tượng tự nhiên sinh ra và mất đi không phụ thuộc vào ý chí
con người, nhưng sự xuất hiện hay mất đi của chúng gắn liền với việc phát sinh, thay
đổi hay chấm dứt quan hệ pháp luật cụ thể. Hành vi pháp lý là những hoạt động của con
người phụ thuộc vào ý chí của họ và pháp luật gắn sự xuất hiện của hành vi này việc
phát sinh, thay đổi hay chấm dứt quan hệ pháp luật. Ví dụ hành vi chạy xe gây tai nạn
giao thông cho người khác. Một sự kiện thực tế xảy ra được coi là sự kiện pháp lý hay
không, phụ thuộc vào sự tác động của sự kiện đó đối với nội dung quan hệ pháp luật đó.
Sự ảnh hưởng đến việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của các chủ thể tham gia quan hệ,
ảnh hưởng đến lợi ích của các chủ thể tham gia quan hệ là căn cứ để thừa nhận hay
không thừa nhận sự kiện thực tế là sự kiện pháp lý. Ví dụ mưa bão có thể được coi là sự
kiện pháp lý hoặc không phải là sự kiện pháp lý.
Việc thừa nhận hay không thừa nhận một sự kiện thực tế là sự kiện pháp lý phụ thuộc
ý chí của nhà nước. Nhà nước, thông qua quy phạm pháp luật, thừa nhận một sự kiện là
sự kiện pháp lý. Ví dụ, việc tổ chức đám cưới giữa hai chủ thể không được coi là sự kiện
pháp lý mà việc đăng ký kết hôn tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền và được cơ quan
này công nhận mới được coi là sự kiện pháp lý. lOMoAR cPSD| 59732875
Phân loại sự kiện pháp lý: Căn cứ vào ý chí của chủ thể, phân sự kiện pháp lý thành
sự biến và hành vi pháp lý. Căn cứ vào số lượng các sự kiện thực tế tạo thành sự kiện
pháp lý, phân sự kiện pháp lý thành sự kiện pháp lý đơn nhất và sự kiện pháp lý phức tạp.
5.vấn đề 5. Điều chỉnh pháp luật
Phân tích phương pháp của các dạng điều chỉnh pháp luật
Phân tích các giai đoạn của quá trình điều chỉnh pháp luật
Phân tích các điều kiện đảm bảo hiệu quả của pháp luật
6 . vấn đề 6. Thực hiện và áp dụng pháp luật
Phân tích các trường hợp áp dụng pháp luật
- Khi quyền và nghĩa vụ pháp lí của chủ thể không mặc nhiên phát sinh, thay đoi, chấm dứt
Đây là trường hợp đã có quy định của pháp luật về quyền và nghĩa vụ của các chủ thể,
nhưng các cá nhân, tổ chức không tự mình làm phát sinh, thay đổi hay chấm dứt quyền,
nghĩa vụ đó. Trong trường họp này, bằng sự can thiệp của chủ thể có thẩm quyền, quyền,
nghĩa vụ của các cá nhân, tổ chức sẽ được phát sinh, thay đổi hay chấm dứt trên thực tế.
Chẳng hạn, cơ quan có thẩm quyền quyết định công nhận quan hệ vợ, chồng đối với anh
A và chị B; cơ quan có thẩm quyền quyết định khen thưởng công dân c...
- Khỉ xảy ra tranh chấp về quyền và nghĩa vụ pháp lí giữa các bên tham gia quan hệ
pháp luật mà họ không tự giải quyết được
Đây là trường hợp quan hệ pháp luật đã phát sinh, các bên có những quyền và nghĩa vụ
theo quy định của pháp luật, nhưng có sự tranh chấp mà các bên không tự giải quyết
được. Chẳng hạn, tranh chấp về tài sản được thừa kế, tranh chấp về quyền và nghĩa vụ
trong sử dụng đất đai... Hoạt động áp dụng pháp luật trong trường hợp này nhằm xác
định rõ quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm cụ thể giữa các bên.
- Khi cần phải áp dụng các chể tài pháp luật đối với chủ thể vi phạm pháp luật Vi phạm
pháp luật là hiện tượng khá phổ biến trong đời sống.
Để đảm bảo trật tự, an toàn xã hội; xử lí người vi phạm; răn đe, phòng ngừa đối với
người khác, các chủ thể có thẩm quyền phải áp dụng các biện pháp cưỡng chế nhà nước
được quy định trong phần chế tài của quy phạm pháp luật đối với người vi phạm. Chẳng
hạn, toà án tuyên phạt tù đối với người phạm tội, cảnh sát giao thông xử phạt tiền đối
với người vi phạm pháp luật giao thông...
- Khi cần áp dụng các biện pháp cưỡng chế nhà nước trong các trường hợp khác
Trường họp này không có vi phạm pháp luật, tuy nhiên vì lợi ích chung của cộng đồng,
nhà nước có thể phải can thiệp, tiến hành các biện pháp cưỡng chế, buộc những chủ thể
có liên quan phải thực hiện hoặc không thực hiện những hành vi nhất định. Chẳng hạn,
cưỡng chế cách ly người mắc bệnh truyền nhiễm; cưỡng chế trưng thu tài sản; cưỡng
chế giải phóng mặt bằng...
- Khi cần kiểm tra, giám sát việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của các chủ thể trong một
số quan hệ pháp luật nhất định lOMoAR cPSD| 59732875
Trong một số trường hợp, pháp luật quy định, chủ thể có thẩm quyền phải tham gia vào
quan hệ pháp luật để kiểm tra, giám sát hoạt động của các bên nhằm xác định tính đúng
đắn trong hoạt động của các chủ thể hoặc phát hiện những sai sót, vi phạm để kịp thời
ra quyết định phù hợp đảm bảo sự đúng đắn trong hoạt động của các chủ thể này. - Khi
cần phải xác định sự tồn tại hay không tồn tại của một số sự kiện thực tế nào đó theo
quy định của pháp luật
Hoạt động áp dụng pháp luật trong trường họp này được tiến hành khi trong thực tế xảy
ra những sự kiện nào đó, tuy nhiên theo quy định của pháp luật, cần phải có sự xác nhận
của chủ thể có thẩm quyền để biến nó thành sự kiện pháp lí. Chẳng hạn, cơ quan có
thẩm quyền công nhận một người nào đó đã chết hoặc mất tích. Phân biệt hình thức
áp dụng pháp luật với áp dụng pháp luật tương tự
Phân biệt các phương pháp giải thích pháp luật
- Phương pháp lôgic và phương pháp lịch sử: Phương pháp lôgic thường được sử
dụng khi quy định cần giải thích không trực tiếp nói đến quyền và nghĩa vụ của các bên.
Phương pháp lịch sử thường được áp dụng để xác định phạm vi, đối tượng áp dụng, mục
đích, ý nghĩa của nội dung cần giải thích. Hai phương pháp này gắn bó chặt chẽ và bổ sung cho nhau;
- Phương pháp giải thích về văn phạm là làm sáng tỏ nội dung, tư tưởng quy định của
pháp luật bằng cách làm rõ nghĩa từng chữ, từng câu được dùng để thể hiện nội dung và
xác định mối liên hệ ngữ pháp giữa chúng. Giải thích về văn phạm gồm giải thích từ
ngữ và giải thích theo cú pháp;
- Phương pháp giải thích chính trị – lịch sử là phương pháp tìm hiểu nội dung, tư tưởng
quy định của pháp luật thông qua việc nghiên cứu các điều kiện chính trị – lịch sử tại
thời điểm ban hành quy định đó.
- Phương pháp giải thích hệ thống là làm rõ tư tưởng, nội dung quy định của pháp luật
thông qua việc đối chiếu nó với các quy định khác của pháp luật; xác định vị trí của quy
định cần giải thích trong mối quan hệ với toàn văn bản, ngành luật và hệ thống pháp luật.
Phân biệt thực hiện pháp luật với giải thích pháp luật
- Thực hiện pháp luât : Thực hiện pháp luật là hành vi của chủ thể (hành động hoặc
không hành động) được tiến hành phù hợp với quy định, với yêu cầu của pháp
luật, tức là không trái, không vượt quá khuôn khổ mà pháp luật đã quy định.
- Giải thích pháp luật : là hoạt động do các cơ quan, nhân viên nhà nước, tổ chức
xã hội, cá nhân các công dân tiến hành nhằm làm sáng tỏ tư tưởng, nội dung, ý
nghĩa của quy phạm pháp luật, đảm bảo cho sự nhận thức pháp luật được đúng đắn. lOMoAR cPSD| 59732875
7. vấn đề 7. Vi phạm pháp luật và trách nhiệm pháp lý
Phân tích các yếu tố cấu thành hành vi vi phạm pháp luật
* Chủ thể của vi phạm pháp luật: là cá nhân, tổ chức có năng lực trách nhiệm pháp lý
và đã thực hiện hành vi trái pháp luật. Mỗi loại vi phạm pháp luật đều có cơ cấu chủ thể
riêng tùy thuộc vào mức độ xâm hại các quan hê xã hôị được pháp luật bảo vệ .
* Khách thể của vi phạm pháp luật :là quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ nhưng bị
hành vi trái pháp luật xâm hại tới. Tính chất của khách thể vi phạm pháp luật cũng là
một yếu tố đánh giá mức độ nguy hiểm trong hành vi trái pháp luật. Là một trong những
căn cứ để phân loại hành vi vi phạm pháp luật
* Mặt chủ quan của vi phạm pháp luật: gồm lỗi, động cơ, mục đích vi phạm pháp luật
– Lỗi là một trạng thái tâm lý thể hiện thái độ tiêu cực của chủ thể đối với hậu quả xấu
trong hành vi của mình (nhìn thấy trước được hậu quả xấu trong hành vi của mình mà
vẫn thực hiện) và trong chính hành vi đó (hành vi chủ động, có ý thức….) tại thời điểm
chủ thể thực hiện hành vi trái pháp luật đó. –Lỗi được chia thành hai loại: cố ý và vô ý + Lỗi cố ý gồm :
Lỗi cố ý trực tiếp: là lỗi của một chủ thể khi thực hiện hành vi trái pháp luật nhận thức
rõ hành vi của mình là trái pháp luật, thấy trước được hậu quả của hành vi đó và mong
muốn cho hậu quả đó xảy ra.
Lỗi cố ý gián tiếp: là lỗi của một chủ thể khi thực hiện một hành vi trái pháp luật nhận
thức rõ hành vi của mình là trái pháp luật, thấy trước được hậu quả của hành vi đó, tuy
không mong muốn song có ý thức để mặc cho hậu quả đó xảy ra + Lỗi vô ý gồm :
Lỗi vô ý do cẩu thả :là lỗi của một chủ thể đã gây ra hậu quả nguy hại cho xã hội nhưng
do cẩu thả nên không thấy trước hành vi của mình có thể gây ra hậu quả đó, mặc dù có
thể thấy trước và phải thấy trước hậu quả này.
Lỗi vô ý vì quá tự tin: là lỗi của một chủ thể tuy thấy trước hành vi của mình có thể gây
ra hậu quả nguy hiểm cho xã hội song tin chắc rằng hậu quả đó sẽ không xảy ra hoặc cỏ
thể ngăn ngừa được nên mới thực hiện và có thể gây ra hậu quả nguy hiểm cho xã hội.
– Động cơ là cái thúc đẩy chủ thể thực hiện hành vi vi phạm pháp luật.
– Mục đích là kết quả cuối cùng mà chủ thể vi phạm pháp luật mong đạt tới khi thực
hiện hành vi vi phạm pháp luật.
• Mặt khách quan của vi phạm pháp luật .
Măt khách quan của vi phạm pháp luật là những biểu hiện ra bên ngoài thế giới khách
quan của vi phạm pháp luật. Nó bao gồm hành vi trái pháp luật ,sự thiệt hại cho xã hội
và quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật và sự thiệt hại cho xã hội ,thời gian ,địa
điểm ,công cụ vi phạm .Trước hết phải xác định xem vụ việc vừa xảy ra có phải do hành
vi của con người hay không ,nếu phải thì hành vi đó có trái pháp luật hay không ,nếu
trái pháp luật thì trái như thế nào.Sự thiệt hại cho xã hội là những tổn thất về vật chất
hoặc tinh thần do hành vi trái pháp luật gây ra. lOMoAR cPSD| 59732875
• Ý nghĩa của trách nhiệm pháp lý
Trách nhiệm pháp lý giúp ngăn ngừa, giáo dục và cải tạo những hành vi vi phạm pháp
luật, chủ thể phải chịu hậu quả về trách nhiệm hình sự, trách nhiệm dân sự, trách nhiệm
hành chính, trách nhiệm kỉ luật trước pháp luật.
Trách nhiệm pháp lý sẽ giáo dục mọi người có ý thức tôn trọng, chấp hành đúng theo quy định pháp luật.
Từ những quy định của pháp luật về trách nhiệm pháp lý, mọi người dân có lòng tin và tin tưởng pháp luật.
Đặc điểm của các loại trách nhiệm pháp lý
Trách nhiệm pháp lí bao gồm các loại sau:
1) Trách nhiệm hình sự: Loại trách nhiệm nghiêm khắc nhất do toà án áp dụng đối với người phạm lội.
Trách nhiệm hình sự là một dạng trách nhiệm pháp lí, bao gồm: nghĩa vụ phải chịu sự
tác động của hoạt động truy cứu trách nhiệm hình sự, chịu bị kết tội, chịu biện pháp
cưỡng chế của trách nhiệm hình sự (hình phạt, biện pháp tư pháp) và chịu mang án tích.
Trách nhiệm hình sự gồm có: cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ, tù có thời hạn,
tù chung thân, tử hình. Ngoài các hình phạt trên còn có thể áp dụng một hoặc nhiều hình
phạt bổ sung như cấm đảm nhiệm những chức vụ, làm những nghề hoặc công việc nhất
định; cấm cư trú; quản chế; tước một số quyền công dân, tước danh hiệu quân nhân, tịch
thu tài sẵn; phạt tiền khi không áp dụng là hình phạt chính; 2) Trách nhiệm dân sự: loại
trách nhiệm pháp lí do toà án áp dụng đối với cá nhân, tổ chức có hành vi vi phạm pháp
luật dân sự. Trách nhiệm dân sự bao gồm buộc xin lỗi, cải chính công khai, buộc thực
hiện nghĩa vụ dân sự; buộc bổi thường thiệt hại, phạt vi phạm;
3) Trách nhiệm pháp lí hành chính là loại trách nhiệm pháp lí do các cơ quan nhà nước
áp dụng đối với chủ thể vi phạm pháp luật hành chính. Trách nhiệm pháp lí hành chính
gồm khiển trách, cảnh cáo, phạt tiền, cách chức, buộc thôi việc...;
4) Trách nhiệm pháp lí kỉ luật là loại trách nhiệm do thủ trưởng cơ quan, tổ chức áp
dụng đối với cán bộ, công chức, viên chức, công nhân của cơ quan, tổ chức mình khi
họ vi phạm kỉ luật lao động (Trách nhiệm hình sự, Trách nhiệm dân sự, Trách nhiệm
hành chính; Trách nhiệm kỉ luật).
Phân tích định nghĩa truy cứu trách nghiệm pháp lý
(i) Truy cứu trách nhiệm pháp lí là hoạt động thể hiện quyền lực nhà nước.
Hoạt động truy cứu trách nhiệm pháp lí do các cơ quan nhà nước, nhà chức trách có
thẩm quyền hoặc chủ thể được pháp luật trao quyền tiến hành. Truy cứu trách nhiệm
pháp lí là áp dụng các biện pháp cưỡng chế nhà nước đối với chủ thể vi phạm pháp luật.
Đó là các biện pháp cưỡng chế nhà nước đưa đến những hậu quả bất lợi cho chủ thể vi
phạm pháp luật, các biện pháp cưỡng chế có tính chất tước đoạt, làm thiệt hại ở chủ thể
các quyền, tự do, các lợi ích nhất định. Các biện pháp cưỡng chế nhà nước như cách li
người mắc bệnh truyền nhiễm, buộc cấp dưỡng cho con sau li hôn, trưng thu trưng mua lOMoAR cPSD| 59732875
tài sản, vật dụng phục vụ lợi ích quốc gia... không đặc trưng cho trách nhiệm pháp lí,
chúng được áp dụng ngay cả khi không có vi phạm pháp luật. Hoạt động này là sự tiếp
tục thể hiện ý chí nhà nước, thông qua hoạt động truy cứu trách nhiệm pháp lí, ý chí nhà
nước được thể hiện thành những biện pháp cưỡng chế nhà nước cụ thể áp dụng đối với
chủ thể vi phạm pháp luật. Nội dung các quyết định được ban hành trong quá trình truy
cứu trách nhiệm pháp lí luôn thể hiện ý chí đơn phương của chủ thể tiến hành truy cứu
trách nhiệm pháp lí trên cơ sở nhận thức và niềm tin nội tâm của họ về bản chất của vụ
việc và các quy định của pháp luật. Các quyết định này có ý nghĩa bắt buộc đối với các
chủ thể vi phạm pháp luật và các chủ thể khác có liên quan.
(ii) Truy cứu trách nhiệm pháp lí là việc cá biệt hoá bộ phận chế tài của quy phạm pháp luật.
Khi có vi phạm pháp luật, nhà nước thông qua các chủ thể có thẩm quyền tiến hành
hoạt động áp dụng pháp luật nhằm cá biệt hoá bộ phận chế tài của quy phạm pháp luật
thành trách nhiệm pháp lí cụ thể đối với chủ thể đã thực hiện hành vi vi phạm pháp luật.
Nói cách khác, đó chính là việc cơ quan hay nhà chức trách có thẩm quyền tổ chức cho
các chủ thể vi phạm pháp luật thực hiện bộ phận chế tài của quy phạm pháp luật. Như
vậy có thể nói, về nội dung, truy cứu trách nhiệm pháp lí là sự áp dụng các biện pháp
cưỡng chế nhà nước, còn về hình thức thì đó là việc tổ chức cho chủ thể vi phạm pháp
luật thực hiện bộ phận chế tài của quy phạm pháp luật.
(iii) Truy cứu trách nhiệm pháp lí là hoạt động có trình tự, thủ tục hết sức chặt chẽ do pháp luật quy định.
Như trên đã đề cập, truy cứu trách nhiệm pháp lí thực chất là áp dụng biện pháp cưỡng
chế nhà nước đưa đến những hậu quả bất lợi cho chủ thể vi phạm pháp luật. Vì vậy, để
đảm bảo tính chính xác, đúng đắn của hoạt động truy cứu trách nhiệm pháp lí, hạn chế
đến mức thấp nhất nhũng sai lầm có thể xảy ra, tránh hiện tượng oan sai, bỏ lọt vi phạm
đòi hỏi cơ quan, nhà chức trách có thẩm quyền phải tiến hành hoạt động truy cứu trách
nhiệm pháp lí một cách hết sức thận trọng, đúng trình tự, thủ tục mà pháp luật đã quy định.
(iv) Truy cứu trách nhiệm pháp lí là hoạt động đòi hỏi phải sáng tạo.
Các vụ việc pháp luật xảy ra trong thực tế rất đa dạng và phức tạp, trong khi đó pháp
luật thường chỉ dự liệu những tình tiết có tính chất phổ biến, điển hình mà không mô tả
tỉ mỉ từng tình tiết của sự việc. Do vậy, khi truy cứu trách nhiệm pháp lí, các cơ quan
nhà nước, nhà chức trách có thẩm quyền phải thu thập và xử lí thông tin một cách đầy
đủ, chính xác, xem xét một cách toàn diện và kĩ lưỡng nhằm xác định sự thật khách quan
của vụ việc, so sánh, đối chiếu với các quy định của pháp luật, lựa chọn quy phạm pháp
luật phù họp để áp dụng sao cho đúng người, đúng tính chất,mức độ vi phạm.