



















Preview text:
  lOMoAR cPSD| 45619127   I. 
TÍN DỤNG THƯƠNG MẠI 
1. Khái niệm & đặc điểm tín dụng thương mại 
Khi nguồn vốn của các chủ thể trong nền kinh tế không được phân bổ đồng đều, có 
chủ thể thiếu vốn và bên cạnh đó là những chủ thể tạm thời có vốn nhàn rỗi từ đó đã 
hình thành sự ra đời của tín dụng. Vừa là sản phẩm của một nền kinh tế hàng hòa đồng 
thời là phạm trù của nền kinh tế, nhờ đó mà hình thành nên nhiều loại tín dụng khác  nhau. 
Khi xuất phát các nhu cầu về nguồn vốn tạm thời và các nhu cầu khách quan khác 
trong nền kinh tế hàng hóa của các doanh nghiệp trong quá trình kinh doanh lúc này 
tín dụng thương mại chính thức được ra đời và phát triển. 
Tín dụng thương mại là một sự hiểu biết đồng thời là một thỏa thuận giữa các doanh 
nghiệp khi tham gia kinh doanh với nhau cho phép họ trao đổi hàng hóa mà không cần 
trao đổi tiền ngay lập tức.Nghĩa là người bán cung cấp hàng hóa và dịch vụ cho người 
mua với hạn thanh toán vào một ngày sau đó khi đó người bán được xem là đã cấp tín  dụng cho người mua. 
Ví dụ: Công ty X đặt hàng 10 ngàn thanh sô cô la từ công ty Y. Khi đặt hàng, về khoản 
thanh toán công ty X được hưởng chính sách thanh toán chậm trong vòng 1 tháng kể 
từ ngày nhận được đơn hàng. 
Đây là mối quan hệ tín dụng được thực hiện trên cơ sở là mua bán chịu – trả góp hàng 
hóa hay là trả chậm hàng hóa dịch vụ. Khi đến thời hạn thanh toán doanh nghiệp mua 
bắt buộc phải hoàn trả đầy đủ khoản vốn gốc lẫn lãi cho doanh nghiệp cho bán hàng 
hóa dưới hình tiền tệ. 
Điểm tích cực của loại hình này là giúp cho doanh nghiệp sản xuất sản phẩm hàng hóa 
có thể giải quyết được vốn thừa tạm thời cho các doanh nghiệp đang tạm thời thiếu hụt 
vốn, cần nhiều vốn để mua nguyên vật liệu, các yếu tố đầu vào để phục vụ cho nhu 
cầu sản xuất kinh doanh. 
Thời gian áp dụng của tín dụng thương mại có thời hạn ngắn và lãi suất bằng không 
nhằm thu hồi vốn để quay vòng đáp ứng nhu cầu sản xuất kinh doanh được duy trì và 
liên tục.Thời hạn tín dụng nằm trong khoảng 30 đến 90 ngày được ghi cụ thể trên các 
hóa đơn sao cho hợp lệ với các điều khoản của đơn đặt hàng 
Công cụ của tín dụng thương mại được gọi là thương phiếu – là những giấy nhận nợ 
do các doanh nghiệp phát hành để vay vốn ngắn hạn từ thị trường tài chính. 
2. Nguyên Tắc Hoạt Động 
. Quan hệ tín dụng thương mại hoạt động dựa trên các nguyên tắc sau: 
- Quan hệ tín dụng thương mại là quan hệ mua bán chịu hàng hóa dựa trên sự tin  tưởng và tín nhiệm.      lOMoAR cPSD| 45619127
- Tín dụng thương mại hoạt động dựa trên cơ sở phân tán rủi ro và phân loại 
khách hàng theo nhu cầu phát triển. 
- Đối tượng giao dịch là hang hóa vật liệu 
- Giá trị hoàn trả sau thời gian được phép trả chậm thông thường bằng đúng giá trị  ban đầu lúc mua bán. 
 Các bước cấp tín dụng thương mại 
- Bước 1 : Thẩm định năng lực tài chính, kinh doanh của khách hàng và khả năng 
phát triển của khách hàng mới thành khách hàng tiềm năng. 
- Bước 2:  Theo dõi lịch sử giao dịch mua bán qua một thời gian nhất định. 
- Bước 3: Đánh giá kế hoạch cam kết doanh số của khách hàng với nhà cung cấp. 
- Bước 4 : Quyết định cấp hạn mức tín dụng cho khách hàng. 
3. VAI TRÒ   
Đối với doanh nghiệp: 
- Tín dụng thương mại là kênh tài trợ vốn thuận tiện cho doanh nghiệp trong điều kiện 
tài chính hiện tại. Trong thực tế, do có sự khác biệt về chu kỳ sản xuất – kinh doanh 
giữa các doanh nghiệp, việc thừa vốn ở doanh nghiệp này và thiếu vốn ở doanh nghiệp 
khác là hiện tượng phổ biến và có tính tất yếu. Trong khi các thành phẩm của doanh 
nghiệp thừa vốn là nguyên, nhiên, vật liệu là điều kiện cần của các doanh nghiệp thiếu 
vốn, nếu quan hệ mua bán chịu được duy trì giữa hai doanh nghiệp trong thời gian 
nhất định thì cả hai đều có lợi. Đó chính là quan hệ tín dụng thương mại đang được 
ứng dụng triệt để thay vì những điều kiện ràng buộc từ việc phát hành cổ phiếu, trái  phiếu và vay ngân hàng. 
+ Dựa trên cơ sở tín chấp: không có những ràng buộc về tài sản thế chấp cho khoản tín 
dụng mà doanh nghiệp thụ hưởng ngoài việc thực hiện đúng với cam kết thanh toán 
+ Không bắt buộc xuất trình phương án sản xuất kinh doanh: nhà cung ứng thường 
không yêu cầu doanh nghiệp chứng minh tính minh bạch của báo cáo tài chính mà chỉ 
cần thực hiện đúng cam kết doanh số của cả hai bên. 
+ Nguồn đầu tư ổn định: có được tín dụng thương mại từ nhà cung ứng, doanh nghiệp 
sẽ có nguồn đầu tư vào những kế hoạch sản xuất dài hạn. Đồng thời, còn được hỗ trợ 
thêm về kỹ thuật sản phẩm và nắm bắt thông tin thị trường giúp doanh nghiệp có thẻ 
ứng phó được trước các biến động. 
  . Hàng hóa ra mắt thị trường nhanh hơn, hạn chế bị giảm giá do tồn kho      lOMoAR cPSD| 45619127
  . Phát triển hệ thống khách hàng trung thành và giao dịch thường xuyên 
. Gia tăng doanh số và chiếm lĩnh khu vực thị trường     
Đối với xã hội  - 
Góp phần thúc đẩy phát triển sản xuất kinh doanh, thông qua việc mua bán chịu 
tín dụng thương mại tài trợ nguồn vốn lưu động cho các doanh nghiệp để mở rộng quy  mô  - 
Góp phần làm phong phú các nguồn hàng hóa trên thị trường bằng cách cấp hạn 
mức tín dụng cho các kênh phân phối tại nhiều phân khúc thị trường, từ đó đưa hàng 
hóa đến tay khách hàng nhanh hơn và đáp ứng tốt các nhu cầu xã hội.  - 
Phát triển hệ thống các nhà phân phối hiệu quả sẽ tạo ra nhiều công việc làm 
ăn, góp phần ổn định đời sống 
4. THƯƠNG PHIẾU 
 a) Khái niệm thương phiếu   - 
Cơ sở pháp lý xác định quan hệ tín dụng thương mại là các giấy nợ, trong quan 
hệ tíndụng thương mại được gọi là kỳ phiếu thương mại (gọi tắt là thương phiếu).  - 
Thương phiếu ( Commercial Paper) là chứng chỉ có giá ghi nhận yêu cầu thanh 
toán hoặc cam kết thanh toán không điều kiện một số tiền xác định trong một khoản 
thời gian nhất định. Đây là một dạng đặc biệt của khế ước dân sự xác định trái quyền 
cho người bán và nghĩa vụ phải thanh toán nợ của người mua khi món nợ đáo hạn 
thương phiếu chính là phiếu nợ xuất phát từ mua bán chịu hàng hóa hay nói cách khác, 
thương phiếu được sử dụng để làm chứng từ đòi nợ người đi vay khi đến hạn trả, và 
đây là một công cụ chuyển tải giá trị và là dấu hiệu giá trị được pháp luật thừa nhận. 
 Một công ty đang tìm kiếm nguồn vốn ngắn hạn để tài trợ một số hàng tồn kho cho lễ 
hội sắp tới. Công ty cần 7 triệu và nó cung cấp cho các nhà đầu tư 7,1 triệu thẻ mệnh 
giá thương phiếu để đổi lấy 7 triệu tiền mặt, theo lãi suất bây giờ. Trên thực tế, sẽ có 
một khoản thanh toán 0,1 triệu tiền lãi khi thương phiếu đáo hạn đổi lấy 7 triệu tiền 
mặt, tương đương với lãi suất 1%. 
b) Đặc điểm của thương phiếu 
Trong kinh tế thị trường thư phiếu là một phương tiện thanh toán phổ biến đặc biệt 
là trong giai đoạn quốc tế hóa và toàn cầu hóa trên các lĩnh vực kinh tế tài chính thì 
thương phiếu trở thành một phương tiện lưu thông thanh toán quốc tế thông dụng khi 
đi sâu nghiên cứu thương phiếu ta thấy nó có 3 đặc điểm :      lOMoAR cPSD| 45619127
• Tính trừu tượng: biểu hiện qua đặc điểm là trên kỳ phiếu không ghi rõ nguyên 
nhân nội dung kinh tế nào dẫn đến phát sinh quan hệ tín dụng và sự ra đời của 
kỳ phiếu mà chỉ thể hiện các yếu tố sau số tiền nợ trên người nhận nợ thời gian 
và địa điểm thanh toán nợ 
• Tính pháp lý: một khi người ký phát thương phiếu họ đã ký phát thương phiếu 
thì có nghĩa là họ đã ràng buộc trách nhiệm của họ đối với tờ thương phiếu đấy, 
trên kỳ phiếu thương mại luôn có ghi dòng chữ “ Lệnh trả tiền vô điều kiện”. 
Khi tới hạn thanh toán người nhận nợ trên kỳ phiếu phải thanh toán số nợ mà 
không biển bất cứ lý do nào để trì hoãn nợ, điều này được luật pháp bảo hộ. 
• Tính lưu thông: trong thời gian kỳ phiếu thương mại còn thời hạn hiệu lực có 
thể được sử dụng như một phương tiện thanh toán. Đặc tính này, được xem như 
hiệu quả của hai đặc tính trên của kỳ phiếu, được thiết lập dựa trên sự tin tưởng 
lẫn nhau. Các doanh nghiệp tin rằng đây là một chứng từ luôn luôn đảm bảo 
được chi trả, do đó họ sẵn sàng nhận trong những thương vụ hoặc các khoản 
thanh toán tiếp theo. Kỳ phiếu thương mại được sử dụng làm phương tiện thanh 
toán thông qua việc chuyển giao quyền sở hữu kỳ phiếu từ người này sang 
người khác bằng thủ tục ký hậu chuyển nhượng vào tờ kỳ phiếu. Mỗi lần 
chuyển nhượng là một khoản nợ được thanh toán. Thủ tục ký hậu chuyển 
nhượng nhằm xác lập trách nhiệm liên đới giữa các chủ thể trong toàn bộ quy 
trình luân chuyển của kỳ phiếu, nó làm tăng mức tín nhiệm của kỳ phiếu và tạo 
ra cơ chế bảo vệ quyền lợi cho người thụ hưởng cuối cùng 
c) Các loại thương phiếu 
Căn cứ vào chủ thể ký phát: có thể chia thương phiếu thành hai loại là hối phiếu và  lệnh phiếu. 
• Hối phiếu(Bill of exchange or Draft): là mệnh lệnh đòi nợ vô điều kiện do 
người cho vay, chủ nợ, người ký phát(drawer) yêu cầu người đi vay, người thụ 
lệnh( drawee) phải hoàn trả một số tiền nhất định cho người thu hưởng hay còn 
gọi là người hưởng lợi( beneficiary or payee) sau một thời gian nhất định. 
Ví dụ: A yêu cầu B thanh toán 60 triệu trong 30 ngày và B chấp nhận đơn đặt 
hàng này bằng cách ký tên của mình. 
Đặc điểm của hối phiếu 
· Tính trừu tượng: trong hối phiếu không bao gồm nội dung của quan hệ tín dụng, 
lý do phát sinh hối phiếu; 
· Tính thanh toán bắt buộc: Người trả tiền có nghĩa vụ thanh toán theo nội dung 
của hối phiếu đòi nợ. Người thanh toán không được từ chối thanh toán vì lý do riêng 
của mình với người ký phát hay người ký hậu hối phiếu;      lOMoAR cPSD| 45619127
· Tính thanh khoản của hối phiếu: Một hối phiếu có thể được chuyển nhượng một 
hoặc nhiều lần trong thời gian hiệu lực của nó. 
• Lệnh phiếu(promissory): là một giấy xác nhận nợ, do người đi vay- người 
thiếu nợ còn gọi là người ký lệnh(the maker) ký phát cam kết với người cho 
vay- chủ nợ hoặc theo lệnh của người thụ hưởng(the payee or the bearer), hoàn 
trả vô điều kiện một số tiền nhất định khi đến hạn thanh toán cho người thụ  hưởng. 
Căn cứ vào tính chất chuyển nhượng: thương phiếu vô danh, thương phiếu đích danh 
và thương phiếu ký danh. 
• Thương phiếu vô danh: Là loại thư phiếu không ghi tên người thụ hưởng người 
nắm giữ thương phiếu hợp pháp là người thụ hưởng khi đến hạn loại này khi 
chuyển nhượng Không cần phải làm thủ tục ký hậu chuyển nhượng, loại này rất 
tiện lợi cho việc chuyển nhượng nhưng dễ rủi ro khi mất thương phiếu. 
Ví dụ: A có một trái phiếu vô danh trị giá 70 triệu đồng và muốn chuyển quyền sỡ 
hữu cho B thì A chỉ cần làm việc đơn giản là chuyển quyền và ký tên của mình. Sau 
đó B có thể giữ và sử dụng thương phiếu đó 
• Thương phiếu đích danh: Là loại thương phiếu có ghi trên người thụ hưởng và 
chỉ người có tên trên thư phiếu mới nhận được sự thanh toán khi đến hạn, đối 
với loại này người thụ hưởng không được phép chuyển nhượng vì người mắc 
nợ chỉ đồng ý thanh toán cho chính người có tên trên kỳ phiếu, loại thương  phiếu này an toàn 
Ví dụ: Công ty ABC, một công ty sản xuất ô tô hàng đầu, quyết định mở rộng hoạt 
động kinh doanh của mình. Để tài trợ cho dự án mở rộng này, công ty quyết định 
phát hành thương phiếu đích danh. 
• Thương phiếu ký danh: Là loại thư viết có ghi trên người thụ hưởng nhưng 
trong thời gian chưa đến hạn thanh toán người ta vẫn có thể chuyển nhượng nó 
cho người khác nhưng khi chuyển giao kỳ phiếu phải làm thủ tục ký hậu nhằm 
thiết lập quyền sở hữu hợp pháp cho người cầm tờ kỳ phiếu 
Ví dụ: Giả sử công ty ABC cần vay 1 triệu đô la để mở rộng hoạt động kinh doanh của 
mình. Thay vì vay trực tiếp từ một ngân hàng và tiết lộ danh tính của mình, công ty 
ABC quyết định phát hành một thương phiếu ký danh.      lOMoAR cPSD| 45619127
5. ƯU NHƯỢC ĐIỂM CỦA TÍN DỤNG THƯƠNG MẠI  Ưu điểm 
• Giúp đáp ứng nhu cầu đầu từ của các doanh nghiệp đồng thời đẩy nhanh việc 
tiêu thụ hàng hóa, cung ứng kịp thời các nguyên vật liệu cho các doanh nghiệp  thiếu vốn. 
• Sự xuất hiện của thương phiếu đã làm giảm khối lượng tiền mặt trong lưu thông 
từ đó cũng giúp làm giảm đi chi phí lưu thông xã hội 
• Giúp giảm sự lệ thuộc và vốn nhà nước và trung gian tài chính bởi vì các chủ 
thể khi tham gia vào giao dịch là người mua hay người bán thì họ đã cấp tín 
dụng cho nhau chính vì vậy họ sẽ hạn chế tìm đến các ngân hàng, các tổ chức  tín dụng để vay vốn.  Nhược điểm  - 
Hạn chế về phạm vi: Việc cấp tín dụng thương mại phải được thực hiện thường 
xuyên liên tục trên cơ sở quen biết tính diện lẫn nhau giữa người bán và người mua 
đặc biệt là người đi vay phải luôn sòng phẳng trong quan hệ thanh toán nợ.  - 
Hạn chế về quy mô: Vì tín dụng thương mại có các doanh nghiệp cung cấp bằng 
hàng hóa và họ chỉ cung cấp trong giới hạn hàng hóa đã có nghĩa là các doanh nghiệp 
chỉ có thể cho vay tối đa bằng lượng hàng hóa đã sản xuất ra do đó Nếu doanh nghiệp 
đi vay có nhu cầu cao hơn thì doanh nghiệp cho vay không thể đáp ứng đầy đủ được 
hạn chế này có thể phát sinh từ một trong hai phía làm cho nhu cầu của các phim 
không được thỏa mãn ở mức cao nhất  - 
Hạn chế về phương hướng: Do tín dụng thương mại được cung cấp bằng hàng 
hóa mà hàng hóa đôi bên cung cấp cho nhau đòi hỏi phải có sự phù hợp. Chính vì thế 
doanh nghiệp cho vay chỉ cung cấp được tín dụng cho một số doanh nghiệp nhất định 
tức là những doanh nghiệp cần hàng hóa để sử dụng cho sản xuất hoặc dự trữ để bán 
ra mặt khác tín dụng thương mại phải có sự phù hợp về đối tượng cho vay nợ  - 
Hạn chế về thời hạn : Xuất phát từ yếu tố vốn vay của tín dụng thương mại là 
hàng hóa là lượng vốn đã nằm ở công đoạn cuối cùng của chu kỳ kinh doanh chuẩn bị 
chuyển hóa thành tiền nếu như chu kỳ kinh doanh của các doanh nghiệp mà không 
phù hợp nhau thì tín dụng thương mại không thể xảy ra mặt khác đều có thể dễ thấy 
nhất là việc bán chịu hàng hóa không thể kéo dài được nó chỉ tạm thời trong một thời 
gian ngắn. Nếu bán chịu quá lâu sẽ ảnh hưởng đến cơ cấu tài chính tình hình sử dụng      lOMoAR cPSD| 45619127
vốn của đơn vị cho vay và chu trình luân chuyển vốn xuất phát từ đặc điểm đó tín 
dụng thương mại chỉ là tín dụng mang tính ngắn hạn.  - 
Hạn chế về hình thái vốn: Tín dụng thương mại được cấp dưới hình thức hàng 
hóa Vì vậy doanh nghiệp bán chịu chỉ có thể cung cấp được cho một số doanh nghiệp 
nhất định những doanh nghiệp có nhu cầu đúng thứ hàng hóa đó để phục vụ sản xuất  hoặc kinh doanh. 
 II. TÍN DỤNG NGÂN HÀNG 
1. Tín dụng ngân hàng là gì?  
Thuật ngữ tín dụng ngân hàng là tất cả các hình thức cho vay của Ngân hàng.Tín dụng 
Ngân hàng thường là mối quan hệ giữa các chủ thể kinh tế hoặc cá nhân với một tổ 
chức ngân hàng dưới hình thức cho vay.Đây được xem là mối quan hệ chặt chẽ giữa 
tiền tệ và thị trường vốn.Hay theo góc nhìn khách quan khác, ngân hàng sẽ chuyển 
giao tài sản( tiền hoặc tài sản có giá trị) cho chủ thể đi vay sử dụng trong một thời hạn 
nhất định. Với quan hệ kinh doanh tiền tệ đó, các ngân hàng kiếm tiền từ số tiền họ 
cho khách hàng vay bằng hình thức thu lợi tức được thỏa thuận hợp pháp và đề cập 
trong hợp động cho vay. Số tiền gốc được hoàn trả kèm theo lợi tức tháng cuối khi 
thời hạn cho vay kết thúc.Đây là hoạt động thu lợi nhuận chủ yếu của Ngân hàng 
nhưng cũng tiềm ẩn nguy cơ rủi ro cao nhất.Các khoản vay có thể là tín dụng trả góp, 
tín dụng mở hoặc tín dụng tuần hoàn.Dựa trên thỏa thuận kinh doanh đó, ngân hàng 
luân chuyển dòng tiền cho bên đi vay bằng cách đi vay rồi lại cho vay. Một số 
phương thức các Ngân hàng kiếm tiền 
Thu nhập từ lãi: cách kinh doanh mà hầu hết các ngân hàng thương mại dùng. Lãi 
được hình thành bằng cách lấy tiền từ những người gửi tiền hiện chưa cần đến, đổi lại 
việc gửi tiền của họ, người gửi tiền được bồi thường với một mức lãi suất nhất định và 
bảo đảm cho tiền của họ.Sau đó, ngân hàng có thể cho vay các khoản tiền gửi cho 
những người đi vay cần tiền vào lúc này. Người đi vay cần hoàn trả số tiền đã vay với 
lãi suất cao hơn so với lãi suất được trả cho người gửi tiền. Ngân hàng có thể thu được 
lợi nhuận từ chênh lệch lãi suất, là chênh lệch giữa tiền lãi trả và tiền lãi nhận được. 
Thu nhập từ các khoản phí: nếu người gửi tiền mở tài khoản ngân hàng, ngân hàng có 
thể tính phí tài khoản hàng tháng để duy trì tài khoản mở. Các ngân hàng cũng tính phí 
cho nhiều dịch vụ và sản phẩm khác mà họ cung cấp như phí thẻ tín dụng, phí kiểm trả 
tài khoản, phí tài khoản tiết kiệm, phí quản lí đầu tư, phí giám hộ, phí cho vay. Đây 
được xem là nguồn thu nhập ổn định và không có nhiều biến động đối với ngân hàng. 
Ngoài ra còn có các khoản thu nhập khác như thu tiền phạt vi phạm hợp đồng, phí 
nhận ủy thác cấp phát vốn 
-Với tư cách là người đi vay: Ngân hàng sẽ đa dạng hóa các nguồn thu.Với tư cách là 
người cho vay: các doanh nghiệp, cá nhân được đáp ứng nhu cầu vốn kịp thời bằng 
hình thức vay tín dụng để phục vụ quá trình kinh doanh, sản xuất.Hiện nay ngân hàng      lOMoAR cPSD| 45619127
tạo cơ hội cho vay đối với các chủ thể kinh tế thông qua các hợp đồng tín dụng, các 
giấy xác nhận nợ.Với hình thức kinh doanh này, các ngân hàng tính lãi suất cho người 
đi vay và thu lợi nhuận từ chênh lệch lãi suất. Dựa trên hình thức kinh doanh này 
Ngân hàng luân chuyển tiền tệ qua các phương thức sau: 
• Tiền gửi của khách hàng: các chủ thể kinh tế hay cá nhân tín nhiệm với tổ chức 
tín dụng sẽ gửi tiền vào ngân hàng với mục đích vừa tiết kiệm vừa nhận được 
lãi. Nhờ vào khoản vốn đáng tin cậy đó sẽ tăng khả năng cho vay và thu về  nhiều lợi nhuận hơn. 
• Các định chế tài chính: từ Ngân hàng Nhà nước, các tổ chức tài chính quốc tế 
như Ngân hàng Thế giới(WB), Ngân hàng Phát triển châu Á(ADB) và các ngân 
hàng đối tác.Ngoài ra các ngân hàng thương mại có thể vay từ kho bạc Nhà 
nước để đáp ứng nhu cầu vốn, từ đó tăng cường khả năng cho vay, thu hút đầu 
tư và thúc đầy tăng trưởng kinh tế.Ngược lại các nguồn tiền này cũng có thể 
luân chuyển qua các ngân hàng thương mại khác, Ngân hàng Nhà nước. 
• Lợi tức từ cung cấp tín dụng: Các chủ thể tín dụng cá nhân, hộ kinh doanh hay 
các doanh nghiệp khi vay vốn tùy thuộc vào thời hạn trả nợ và số tiền vay sẽ có 
mức lãi suất kèm theo khác nhau.Đay cũng là nguồn thu chủ yếu của các Ngân 
hàng thương mại, kết hợp với nguồn tiền gửi để cho vay lại và thu thêm lãi. 
• Nguồn tự thân: Huy động vốn thông qua việc vay vốn từ thị trường tài chính( 
phát hành chứng chỉ tiền gửi, chứng chỉ quỹ,..), kỳ phiếu, trái phiếu, cổ phiếu, 
nhận tài trợ của chính phủ phục vụ các hoạt động kinh doanh.Ngược lại cũng có 
thể mua trái phiếu chính phủ. 
2. Đặc điểm tín dụng ngân hàng  
-Về hình thức biểu hiện: hoạt động của tín dụng ngân hàng được thực hiện dưới hình 
thái tiền tệ gồm tiền mặt và bút tệ. Do đặc tính về lĩnh vực ngành nghề kinh doanh để 
tập trung được lượng vốn lớn từ nhiều chủ thể cũng như phân phối đáp ứng nhu cầu về 
vốn cho các chủ thể kịp thời và đầy đủ ngân hàng vận dụng vốn dưới hình thái tiền tệ 
để phục vụ cho hoạt động kinh doanh của mình 
-Quá trình vận động và phát triển của tín dụng ngân hàng không hoàn toàn phù hợp 
với quy mô phát triển của sản xuất và lưu thông hàng hóa: Xuất phát từ đặc điểm tín 
dụng ngân hàng được cấp dưới hình thái tiền tệ có thể đáp ứng các nhu cầu khác nhau 
ngoài nhu cầu sản xuất và lưu thông hàng hóa giá trị của món tín dụng có thể không 
đồng nhất với giá trị mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh trong từng giai đoạn phát  triển kinh tế 
-Giá trị tín dụng không những được bảo toàn mà còn được nâng cao nhờ lợi tức tín 
dụng. Giá trị hoàn trả phải lớn hơn giá trị lúc cho vay, bởi khách hàng phải trả giá cho      lOMoAR cPSD| 45619127
quyền sử dụng vốn vay. Khoản lợi tức này luôn dương để bù đắp chi phí hoạt động và 
tạo ra lợi nhuận cho ngân hàng. 
-Đặc trưng bản chất nhất của tín dụng là tiềm ẩn rủi ro cao. Cho dù khách hàng có 
thiện chí trả nợ nhưng nếu gặp môi trường kinh doanh bất lợi, biến đông các chỉ số 
kinh tế, sự cố bất khả kháng,.. thì cũng dễ gây ra khó khăn trong việc trả nợ và tất yếu 
ngân hàng gặp rắc rối tín dụng. 
 Mối Quan Hệ Mật Thiết Giữa Tín Dụng Ngân Hàng Và Tín Dụng  Thương Mại 
-Trong nền kinh tế thị trường tín dụng ngân hàng trở thành loại hình tín dụng phổ biến 
đáp ứng mọi nhu cầu bổ sung vốn của nền kinh tế tín dụng ngân hàng không chỉ đáp 
ứng nhu cầu vốn ngắn hạn để dự trữ vật tư hàng hóa trang trải chi phí sản xuất thanh 
toán các khoản nợ mà còn tham gia cấp vốn đầu tư trung , dài hạn đáp ứng các nhu cầu 
về đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng cải tiến đổi mới kỹ thuật mua sắm tài sản cố định 
ngoài ra tín dụng ngân hàng còn đáp ứng một phần nhu cầu tiêu dùng cá nhân 
-Tín dụng ngân hàng và tín dụng thương mại có mối quan hệ chặt chẽ hỗ trợ và bổ 
sung cho nhau. Hoạt động của tín dụng thương mại sẽ tạo cơ sở cho việc mở rộng tín 
dụng ngân hàng thông qua nghiệp vụ chiết khấu cầm cố hoặc tái chiết khấu đồng thời 
hoạt động của tín dụng ngân hàng góp phần khắc phục những hạn chế của Tín dụng 
thương mại mở rộng cung ứng vốn cho các chủ thể kinh tế tạo điều kiện cho tín dụng  thương mại phát triển 
3. Ý nghĩa tín dụng ngân hàng   - 
Sự hoạt động và phát triển của các doanh nghiệp trong nền kinh tế luôn gắn liền 
với các dịch vụ tài chính do các ngân hàng thương mại cung cấp, trong đó việc cung 
ứng các nguồn vốn tín dụng. Không một doanh nghiệp nào không vay vốn ngân hàng 
nếu doanh nghiệp đó muốn tồn tại và phát triển vững chắc trên thị trường  - 
Với mong muốn thực hiện được các hoạt động sản xuất kinh doanh, các dự án 
đầu tư, doanh nghiệp không thể nào chỉ dựa vào các nguồn vốn sẵn có như vốn góp 
ban đầu, hay vốn được hình thành trong quá trình hoạt động của doanh nghiệp như lợi 
nhuận chưa phân phối, khấu hao tài sản cố định,..Bởi vì những nguồn vốn này chỉ có 
thể đáp ứng được một phần rất nhỏ nhu cầu, nếu muốn tồn tại và phát triển, các doanh 
nghiệp phải tìm các nguồn tài nguyên bên ngoài.  THỰC TRẠNG  - 
Tuy nhiên các cách trên, ảnh hưởng đến quyền lợi của các doanh nghiệp theo 
hướng không tốt (bị chia sẻ quyền kiểm soát doanh nghiệp). Và để tranh được tình      lOMoAR cPSD| 45619127
trạng ấy thì chỉ có thể huy động vốn nợ thông qua các kênh phát hành trái phiếu, thuê  tài chính,  … 
Khoảng thời gian trước năm 2000 ở Việt Nam, khi mà thị trường chứng khoán chưa 
phát triển thì các doanh nghiệp chủ yếu dựa vào ngân hàng để tăng cường vốn kinh 
doanh. Ngày nay, khi thị trường vốn (đặc biệt là thị trường chứng khoán) đã ra đời và 
phát triển nhiều nước trên thế giới thì nguồn vốn tín dụng ngân hàng vẫn giữ được 
chỗ đứng trong nền kinh tế, các kênh huy động nợ từ thị trường vốn chỉ có thể làm 
giảm áp lực nguồn vốn tín dụng ngân hàng chứ không thể thay thế hoàn toàn.  - 
Ngoài ra, có thể thấy sự phát triển của thị trường vốn không những không làm 
biến mất ngân hàng thương mại mà còn củng cố vững chắc ngân hàng thương mại.   
+ Thứ nhất, không phải doanh nghiệp nào cũng có đủ điều kiện để huy động vốn qua 
thị trường vốn (VN chỉ có công ty cổ phần và công ty trách nhiệm hữu hạn mới có thể 
phát hành trái phiếu để huy động vốn từ thị trường vốn).   
+Thứ hai, thị trường vốn đã giải quyết khá tốt nhu cầu vốn dài hạn nhưng còn nhu cầu 
ngắn hạn thì chính ngân hàng thương mại sẽ giúp họ giải quyết vấn đề đó, việc chi 
phải tập trung vào những khoản vay ngắn hạn đồng thời lại có điều kiện để tập trung 
nhiều hơn vào các dịch vụ tài chính khác đã giúp cho các ngân hàng ngày càng lớn  mạnh và phát triển. 
 -Tín dụng ngân hàng có ý nghĩa quan trọng bậc nhất, không chỉ đối với sự phát 
triển của bản thân các doanh nghiệp mà còn đối với toàn bộ nền kinh tế quốc dân. 
 Căn cứ vào mục đích tín dụng 
-Tín dụng sản xuất kinh doanh: bao gồm vay vốn phục vụ mục đích kinh doanh và 
mục đích bổ sung vốn kinh doanh.Nó có thể là khoản vay vốn lưu động hoặc cơ sở tín 
dụng tiền mặt. Ngân hàng triển khai các gói tín dụng để đáp ứng kịp thời một cuộc 
khủng hoảng thanh khoản ngắn hạn hay phục vụ sản xuất,đầu tư, kinh doanh, mua 
hàng hóa, nguyên vật liệu cung cấp dịch vụ cho các chủ thể kinh tế ở mọi lĩnh vực 
khác nhau như công nghiệp, nông nghiệp, thương nghiệp, giao thông vận tải,... nhằm 
phục vụ kỳ vọng đa dạng hóa quy mô, nâng cao vị thế trong nền kinh tế. 
Hình thức tín dụng kinh doanh điển hình nhất là hạn mức tín dụng kinh doanh (LOC). 
Các cơ sở tín dụng này là các khoản vay quay vòng được cấp cho một công ty.Ngân 
hàng sẽ cấp một hạn mức tín dụng tối đa, khách hàng có thể sử dụng khoản vay đó đến 
hết, sau khi khoản tiền sử dụng được bù đắp lại họ có thể sử dụng tiếp khi hạn mức tín 
dụng mở mà không cần làm thủ tục vay vốn như ban đầu. Hình thức này có thể được      lOMoAR cPSD| 45619127
bảo đảm hoặc không được bảo đảm và cho phép các công ty tiếp cận với vốn ngắn 
hạn. Giới hạn cho mức tín dụng này thường cao hơn giới hạn cấp cho người tiêu dùng 
cá nhân do nhu cầu của các doanh nghiệp, uy tín tín dụng và khả năng trả nợ của họ. 
Các chủ thể kinh tế được ngân hàng cấp tín dụng phục vụ sản xuất kinh doanh cần đáp 
ứng các điều kiện cần như:  • 
Chứng minh chủ thể đi vay có giấy phép kinh doanh: giấy phép kinh doanh 
dưới hình thức công ty hoặc giấy phép kinh doanh hộ cá thể.Ngoài ra Ngân 
hàng có thể yêu cầu cung cấp thêm các loại giấy tờ để cho thấy người đi vay 
thực sự đang tham gia hoặc đã trong quá trình hoạt động kinh doanh như báo 
cáo tài chính, tờ khai thuế thu nhập, báo cáo tài chính sự kiến cho 3 đến 5 năm, 
những hóa đơn, chứng từ, sổ sách ghi chép,…  • 
Tài sản đảm bảo:Vay vốn với mục đích sản xuất kinh doanh được xem là hình 
thức vay thế chấp.Vì vậy các chủ thể đi vay này cần có tài sản có giá trị đảm 
bảo tương đương với khoản vay như bất động sản, phương tiện vận chuyển 
thuộc sở hữu của bên vay hay các loại giấy tờ có giá trị hợp pháp và các loại tài  sản khác. 
Hạn mức vay vốn: được cấp số tiền vay có giá trị tương đương 70-80% giá trị tài sản 
thế chấp nhưng phải có khả năng trả trong thời hạn vay. 
Các chủ thể vay vốn nhằm mục đích bổ sung vốn kinh doanh cần đáp ứng các điều  kiện sau: 
Hồ sơ vay vốn: hợp động góp vốn hợp pháp, giấy tờ chứng nhận góp vốn, biên bản 
họp hội đồng thanh viên chấp thuận góp vốn.Nếu vay mượn để sung vốn mua bán, làm 
dịch vụ cần có hợp đồng mua bán, hóa đơn. 
-Tín dụng tiêu dùng: Ngân hàng cho vay nhằm đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của các cá 
nhân như mua nhà, mua phương tiện như ô tô, xe máy hay trang trải đời sống.Hình 
thức cho vay này được sử dụng phổ biến nhất là phát hành thẻ tín dụng và ngày đóng 
vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy đời sống kinh tế xã hội. 
*Các hình thức cho vay của Ngân hàng 
Tùy thuộc vào mục đích sử dụng số tiền vay được và thời hạn trả nợ, người vay được 
lựa chọn hình thức cho vay khác nhau : 
• Cho vay tín chấp: áp dụng cho công dân Việt nam có độ tuổi từ 22-55(nữ) và 
22-60(nam)chỉ dựa trên tín nhiệm của ngân hàng đối với người đi vay mà 
không cần tài sản đảm bảo nhưng cần các hồ sơ chứng minh năng lực tài 
chính.Hình thức cho vay này thường được các cán bộ công nhân viên sử dụng 
và trả khoản vay bằng lương trong thời hạn lên đến 60 tháng với lãi suất khá  cao từ 10-25% /năm      lOMoAR cPSD| 45619127
• Cho vay thế chấp: chỉ được vay khi có tài sản đảm bảo, bên thế chấp giao toàn 
bộ giấy tờ chứng nhận quyền sở hữu tài sản có giá trị đó cho Ngân hàng. Đay là 
hình thức cho vay được sử dụng nhiều nhất vì hạn mức vay lên đến 80% giá trị 
tài sản thế chấp, cầm cố và có mức lãi suất phù hợp.Hình thức cho vay được 
được cả các chủ thể kinh tế và cá nhân sử dụng phổ biến nhưng phải trả các 
khoản chi phí đi kèm như phí trả chậm hay phí trả trước hạn, thời hạn vay tối đa 
25 năm với mức lãi suất từ 6-8,3%/năm 
• Cho vay thấu chi: Chỉ được vay khi có công việc ổn định và minh chứng thu 
nhập hàng tháng nhưng không bắt buộc có tài sản đảm bảo.Được khách hàng cá 
nhân sử dụng nhiều khi có nhu cầu dùng nhiều hơn so với khoản hiện có trong 
tài khoản.Nếu trường hợp tài khoản khách hàng còn 6 triệu, Ngân hàng cung 
cấp mức thấu chi thêm 10 triệu.Khi khách hàng tiêu hết 9 triệu, túc có nghĩa 
vượt 3 triệu thì Ngân hàng sẽ tính lãi suất theo số tiền 3 triệu đó cho đến khi 
khách hàng hoàn trả lại số tiền đã chi tiêu vượt.Hình thức cho vay này có hạn 
mức cho vay gấp 5 lần thu nhập hàng tháng hiện tại lúc vay mượn và lãi suất 
tương đối cao.Tùy thuộc vào mức lãi suất cho vay thông thường của các ngân 
hàng khác nhau, lãi suất thấu chi thường gấp khoảng 1,5 lần so với lãi suất cho  vay bình thường. 
• Cho vay trả góp: người vay phải trả cả gốc và lãi đúng như thỏa thuận trong 
hợp đồng.Thời hạn trả không gò bó, người vay có thể lựa chọn thời điểm trả nợ 
tùy thuộc vào khả năng tài chính.Trường hợp một khách hàng vay Ngân hàng 1 
tỉ để mua nhà, thời hạn vay 5 năm và phải thanh toán hàng tháng( 60 tháng) để 
trả hết nợ gốc và lãi suất.Sau mỗi khoản thanh toán nợ hàng tháng, số dư khoản 
nợ sẽ giảm dần cho đến tháng cuối cùng nợ sẽ được thanh toán xong. Thông 
thường, tùy thuộc vào chính sách của từng ngân hàng, mức hạn mà ngân hàng 
cho vay trả góp thường từ 3 tháng đến 35 năm…\ 
• Cho vay từng lần (cho vay linh hoạt): người vay có khả năng vay tiền theo như 
cầu, vay một khoản cụ thể trong khoảng thời gian cần thiết.Hình thức này 
thường được những khách hàng sử dụng để phục vụ nhu cầu bổ sung vốn kinh 
doanh nhưng không có nhu cầu vay tín dụng của Ngân hàng thường xuyên.Khi 
khách hàng sử dụng hình thức tín dụng này đều phải làm các thủ tục cần thiết 
và kí hợp đồng tín dụng với Ngân hàng cho từng lần đi vay. 
• Cho vay theo hạn mức tín dụng: phục vụ cho khách hàng có nhu cầu sử dụng 
vốn linh hoạt. Ngân hàng sẽ cấp một khoản tín dụng tối đa mà người vay có khả 
năng trả trong một khoảng thời gian nhất định. Với hạn mức tín dụng này, 
khách hàng có thể tùy ý sử dụng nhưng không phải trả lãi suất theo tổng mức 
tín dụng Ngân hàng cấp mà chỉ trả khoản lãi cho số tiền đã sử dụng trên thực tế. 
*ƯU ĐIỂM TÍN DỤNG TIÊU DÙNG 
 Mua trước trả sau: Tín dụng tiêu dùng cho phép khách hàng sử dụng các 
khoản vay để mua sắm những hàng hóa có chi phí đắt đỏ. Các khoản tiền vay sẽ 
được chia nhỏ và trả dần theo thời hạn đề phù hợp với ngân sách.      lOMoAR cPSD| 45619127
*chỉ thuận lợi khi 
• Người tiêu dùng có khả năng trả nợ mà không phải cầm cố các loại tài sản 
khác. Thời gian sử dụng các sản phẩm phải dài tối thiểu bằng thời hạn trả  nợ. 
• Tiện lợi và an toàn: khách hàng không cần mang theo quá nhiều tiền mặt mà chỉ  cần thẻ tín dụng 
• Nguồn tiền dự phòng: Hạn mức tín dụng là nguồn tiền hỗ trợ cho người tiêu 
dùng trong trường hợp cần tiền gấp , nhưng người dùng phải để ý đến thời hạn  thanh toán vay. 
*NHƯỢC ĐIỂM TÍN DỤNG TIÊU DÙNG 
• Ảnh hưởng đến tình hình tài chính cá nhân: Khoản vay càng lớn thì tổng tài 
sản kéo theo nợ lớn và khả năng thanh toán thấp. Do đó, người tiêu dùng vay 
nhiều nếu đã có nhiều tín dụng và dẫn đến nhiều rủi ro 
• Chi phí cao: tín dụng không bao giờ miễn phí hoàn toàn và ngân hàng, các tổ 
chức vay tín dụng khác không chỉ tính lãi suất vay mà còn áp dụng nhiều loại  chi phí vận hành khác . 
• Nguy cơ chi tiêu phung phí: bởi vì cho phép các khoản vay để chi tiêu mua săn 
nên khi có thẻ tín dụng người dùng dễ chi tiêu theo cảm tính 
Ngày nay, tín dụng tiêu dùng đã có xu hướng tăng lên, tín dụng tiêu dùng phát triển đã 
thúc đẩy gia tăng bán hàng và các người bán lẻ tạo ra yếu tố kích thích sản xuất phát 
triển đồng thời các ngân hàng, đã đáp ứng được một thị trường rộng lớn khi mà hầu 
hết người tiêu dùng mua sắm trước sau đó mới thanh toán nợ. Do vậy mà ngân hàng 
có thể thực hiện các dịch vụ ngân hàng và thu lợi tức ngày một nhiều nhất là trong xu 
thế của sự tăng trưởng kinh tế thu nhập bình quân đầu người tăng nhu cầu dịch vụ tăng 
nhằm phục vụ cuộc sống chất lượng cao như hiện nay. 
• Căn cứ vào thời hạn tín dụng 
Thời hạn tín dụng là khoảng thời gian từ khi vay đến khi hoàn trả cả tiền gốc lẫn lợi  tức 
-Tín dụng ngắn hạn: được khách hàng vay để sử dụng chủ yếu cho như cầu bù đắp 
những khoản còn thiếu của các doanh nghiệp và các khoản tiêu dùng thông thường của 
các cá nhân. Thời hạn vay của tín dụng ngắn hạn thường kéo dài tối đa đến 12 tháng.      lOMoAR cPSD| 45619127
-Tín dụng trung hạn: thường được các doanh nghiệp sử dụng để đáp ứng nhu cầu sản 
xuất kinh doanh và các cá nhân mua sắm các tài sản cố định, mua bất động sản, xây 
hoặc sửa chữa nhà hoặc Ngân hàng cấp tín dụng bằng hình thức cho thuê tài chính 
theo nhu cầu .Thời hạn từ 12 tháng đến 60 tháng. 
-Tín dụng dài hạn: Những khoản vay này thường được sử dụng để đáp ứng nhu cầu 
cho các doanh nghiệp hay cá nhân như tín dụng ngắn hạn hay cho thuê tài chính 
nhưng có thời hạn vay trả dài hơn- trên 60 tháng. 
Một vài yếu tố quyết định đến thời hạn tín dụng  
-Mức độ tín nhiệm hoặc rủi ro: Thông thường khách hàng của Ngân hàng là những 
doanh nghiệp hay những công ty tài chính chưa có chỗ đứng nhất định thường được áp 
dụng những điều kiện tín dụng nhất định để hạn chế tối đa rủi ro cho Ngân hàng. 
-Lượng tín dụng: Vay với giá trị lớn hay nhỏ, với những khoản vay lớn thì các bước 
làm thủ tục và hồ sơ cho vay ít rườm rà hơn 
-Điều kiện tài chính hàng tháng: Dựa vào sao kê thu nhập từ 3-6 tháng gần nhất kể từ 
thời điểm vay và hợp đồng lao động hợp pháp, Ngân hàng sẽ ước lượng khả năng chi 
trả của khoản vay và khả năng thu nhập để thỏa mãn thời hạn kỳ vọng của khách hàng 
 Căn cứ vào mức độ bảo đảm 
Bảo đảm tín dụng có thể được xem như bảo hiểm bảo vệ quyền lợi của bên cho vay đề 
phòng rủi ro khi bên vay không còn đủ khả năng thanh toán khoản nợ.Loại bảo hiểm 
này giúp các ngân hàng giảm thiểu tình trạng không thu hồi được tín dụng đã cấp.Căn 
cứ vào tính bảo đảm, tín dụng được chia thành 2 loại: 
-Tín dụng không đảm bảo: Ngân hàng cho vay dựa trên tín nhiệm đối với khách hàng. 
Người đi vay không cần thế chấp, cầm cố bất cứ tài sản nào kể cả sự bảo lãnh của bên 
thứ ba.Hay nói cách khác, bên vay đi vay bằng dựa trên sự uy tín thông qua hiệu quả 
kinh tế hàng tháng của họ.Nhưng khi nếu Ngân hàng yêu cầu thực hiện bảo đảm bằng 
tài sản thì người vay vẫn phải làm theo nếu có nhu cầu vay tín dụng.Thông thường 
những khách hàng sử dụng dịch vụ này thường là người có uy tín cao, mối quan hệ 
thường xuyên với Ngân hàng, đặc biệt là các doanh nghiệp có báo cáo tài chính minh 
bạch và tiền sử vay trả rõ ràng, không quá hạn.Nhưng khi nếu Ngân hàng yêu cầu thì 
vẫn phải cung cấp tài sản đảm bảo. 
 . Để đánh giá được điều đó mỗi ngân hàng đều phải xem xét khía cạnh với 6 chữ C  1) 
Character (tư cách của người vay): quan hệ vay đã trả qua; kinh nghiệm của 
các ngân hàng khác đối với khách hàng này; mục đích khoản vay; khả năng phân 
tích, dự báo về hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp,…        lOMoAR cPSD| 45619127 2) 
Capacity (năng lực của người vay): những hồ sơ pháp lý chứng minh năng lực 
pháp lý của doanh nghiệp vay vốn; mô tả quá trình hoạt động của doanh nghiệp, cơ  cấu sở hữu,…    3) 
Conditions (điều kiện môi trường): thị phần; lợi thế cạnh tranh; kết quả hoạt 
động của đối thủ cạnh tranh; tình hình cạnh tranh của các sản phẩm ở mức hiện tại;  tình hình vĩ mô;…    4) 
Control (kiểm soát): các luật hiện hành liên quan đến khoản tín dụng đang 
được xem xét; đủ hồ sơ giấy tờ phục vụ cho công việc kiểm soát; hồ sơ giấy tờ cho 
vay; mức độ phù hợp của khoản vay đối với quy chế,…    5) 
Cash flow (dòng tiền được tạo ra để trả nợ ngân hàng): thu nhập đã qua; doanh 
thu bán hàng; tình hình phân chia cổ tức; dòng tiền từ phương án kinh doanh hiện tại 
và dự kiến; tính thanh khoản của các tài sản lưu động;…    6) 
Collateral (tài sản đảm bảo tín dụng): những loại tài sản; giá trị tài sản; tình 
trạng tài sản; tình trạng bảo hiểm;… 
-Tín dụng có đảm bảo: hình thức tín dụng được cung cấp cho bên vay dựa trên cơ sở 
của các biện đảm bảo được pháp luật quy định trong bộ Luật dân sự.Chủ thể đi vay 
phải có tài sản đảm bảo để cầm cố, thế chấp, tín chấp hoặc có sự bảo lãnh của bên thứ 
ba.Hình thức thường được áp dụng cho những khách hàng vay lần đầu, có quan hệ 
không thường xuyên với Ngân hàng.Tín dụng có đảm bảo được xem là nguồn thu nợ  thứ 2 của Ngân hàng 
Các ngân hàng thường tính lãi suất thấp hơn đối với tín dụng có bảo đảm vì có nguy 
cơ vỡ nợ cao hơn đối với các phương tiện tín dụng không có bảo đảm. 
Đối với hình thức này, có các loại tài sản đảm bảo sau: 
• Tài sản thế chấp:Ngân hàng chỉ nắm giữ các giấy tờ sở hữu, các giấy tờ khác 
liên quan đến tài sản thế chấp và văn thư của tài sản được thế chấp.Còn bên đi 
vay hoặc bên thứ 3 vẫn được quyền trực tiếp nắm giữ và sử dụng tài sản đó. 
Hình thức này thường được sử dụng cho các loại tài sản như bất động sản:nhà 
cửa, đất đai, vườn cây lâu năm, các công trình đã và đang xây dựng,các tài sản 
cố định trong nhà ở như xe ô tô, các thiết bị công nghệ còn giá trị sử dụng.      lOMoAR cPSD| 45619127
• Tài sản cầm cố:Khác với hình thức thế chấp, ở hình thức này người đi vay 
chuyển nộp quyền sở hữu và quyền nắm giữ trực tiếp các tài sản để được hưởng 
quyền lợi vay với hạn mức lớn hơn so với hình thức thế chấp tài sản.Với 
phương thức đi vay này, khách hàng được hưởng ưu đãi lãi suất thấp hơn.Tuy 
nhiên, đến thời hạn thanh toán nhưng khách hàng không có khả năng trả khoản 
vay bao gồm tiền gốc, tiền lãi và tiền phạt thì sẽ mất hoàn toàn quyền sở hữu  các tài sản đó. 
• Bảo lãnh bằng tài sản của bên thứ 3: Khi khách hàng đi vay không có bất kì tài 
sản gì để cầm cố hay thế chấp thì có thể nhờ một bên thứ ba dùng tài sản của họ 
để giúp mình vay tiền từ ngân hàng.Hình thức này cần sự tín nhiệm, thỏa thuận 
thỏa đáng của bên thứ 3 và bên đi vay vì bên thứ 3 sẽ là người trả nợ khi đến  hạn.   
 Căn cứ vào hình thức vốn tín dụng 
Vốn tín dụng hay vốn Ngân hàng là chênh lệch giữa tài sản có và nợ phải trả của Ngân 
hàng.Nó thể hiện giá trị ròng hoặc giá trị vốn chủ sở hữu của Ngân hàng đối với các 
nhà đầu tư.Tài sản trong Ngân hàng bao gồm tiền mặt, chứng khoán chính phủ và các 
khoản cho vay sinh lãi(tín dụng, cầm cố, thế chấp và các khoản vay liên Ngân 
hàng).Phần nợ phải trả trong vốn Ngân hàng bao gồm dự phòng rủi ro cho vay và 
những khoản nợ phải trả. Nguồn vốn của ngân hàng có thể được xem xét như một lợi 
nhuận ( hay lãi xuất) đó là cái mà các nhà tín dụng che đậy nếu một ngày nào đó khi 
ngân hàng đang trong quá trình gần phá sản và thanh toán các khoản nợ bằng tài sản  của chính mình. 
-Tín dụng bằng tiền:Ngân hàng cấp tín dụng bằng tiền mặt và khách hàng đi vay khi 
trả cũng bằng tiền mặt bằng nhiều hình thức khác nhau nhưng hình thức được sử dụng 
chủ yếu là trả góp kèm lãi suất.Hình thức này bao gồm cả thế chấp, cầm cố tài sản và 
được áp dụng trên quy mô lớn, thời hạn tín dụng khác nhau cho tùy từng khách hàng. 
-Tín dụng bằng tài sản:Ngân hàng cấp tín dụng bằng tài sản và người đi vay trả nợ  bằng tiền 
-Tín dụng chữ kí( hay bảo lãnh Ngân hàng): còn được gọi là các khoản vay cá nhân 
không đam bảo .Hình thức này như một lời hứa của tổ chức Ngân hàng về việc đáp 
ứng các nhu cầu của khách hàng như mua sắm hoặc trả nợ.Ngân hàng không cho vay 
trực tiếp những cho vay bằng sự uy tín của mình đó là chữ kí.Khách hàng vay theo 
hình thức tín dụng này có thể dùng chữ kí của Ngân hàng để vay vốn của người khác 
hoặc mua hàng hay sử dụng dịch vụ được thanh toán hộ.Tuy nhiên để sử dụng được 
hình thức tín dụng này, người vay cần minh chứng đủ điều kiện tài chính cho Ngân 
hàng.Tín dụng bằng chữ kí có 2 loại: 
Nghiệp vụ chấp nhận: chấp nhận trả tiền và bảo đảm trả tiền  • 
Chấp nhận trả tiền: Khi người mua đã kí quỹ cho Ngân hàng thương mại và chấp 
nhận thanh toán vào hối phiếu thanh toán đòi nợ thì người bán có quyền kí phát 
hối phiếu đúng luật để đòi tiền và Ngân hàng phải thanh toán ngay khi hối phiếu      lOMoAR cPSD| 45619127
được xuất trình.Nếu như hối phiếu không được chấp thuận thì người hưởng lợi 
được người bán chỉ định có quyền hưởng lợi từ hối phiếu.Họ có thể đem đi vay, 
mua hàng, thế chấp. Phương thức này được sử dụng phổ biến khi thanh toán các 
loại chứng từ sản xuất kinh doanh.  • 
Bảo đảm trả tiền:Chỉ khi khách hàng được ghi trên hối phiếu có nghĩa vụ phải trả 
nợ cho bên hưởng lợi hối phiếu không còn khả năng chi trả thì Ngân hàng sẽ 
thanh toán các nghiệp vụ tài chính đó.Còn trường hợp thông thường, Ngân hàng 
chỉ đứng ra đảm bảo cho khách hàng sẽ thanh toán được các nghiệp vụ đó. 
Nghiệp vụ bảo lãnh: khi bên được bảo lãnh(khách hàng) không còn đủ khả 
năng để chi trả các nghiệp vụ tài chính thì bên xác nhận bảo lãnh(Ngân hàng) sẽ 
đứng ra đảm nhận nhiệm vụ đó và thanh toán các khoản nợ cho bên nhận bảo 
lãnh(người bán).Với hình thức này khách hàng sẽ phải trả nợ,lãi, phí bảo lãnh  cho Ngân hàng. 
Căn cứ vào phương pháp hoàn trả 
-Tín dụng trả góp: khách hàng vay có nghĩa vụ hoàn trả dần vốn gốc và lãi theo định 
kỳ của ngân hàng. Định kỳ có thể là từng năm, từng quý, từng tháng... tùy thuộc vào 
sự thỏa thuận giữa ngân hàng và khách hàng 
Ví dụ: Khách hàng mua một tài sản cố định trị giá 12 triệu đồng, trả trước 6 triệu 
và trả góp trong vòng sáu tháng. Lúc này, chủ thẻ sẽ thanh toán bằng thẻ tín dụng 
với số tiền 12 triệu đồng như giao dịch bình thường, ngay tại thời điểm mua hàng. 
Vào tháng thứ nhất của kỳ hạn trả góp, khoản tiền đầu tiên chủ thẻ phải trả sẽ 
được liệt kê trên thông báo giao dịch như sau: khoản tiền đầu tư phải trả là số tiền 
trả trước (6 triệu đồng) cộng khoản trả góp tháng thứ nhất (một triệu đồng), tức 
bằng 7 triệu đồng. Năm tháng tiếp theo chủ thẻ phải chi trả một triệu đồng cho 1  tháng. 
+ Tín dụng phi trả góp: là loại hình tín dụng mà khách hàng vay phải hoàn trả toàn bộ 
số vốn một lần khi đáo hạn cho ngân hàng. 
+ Tín dụng hoàn trả theo yêu cầu: là loại hình cấp tín dụng của ngân hàng mà việc thu 
nợ của ngân hàng được thực hiện theo yêu cầu hoàn trả của người di vay trên cơ sở 
khả năng của người đi vay và trong thời hạn hợp đồng đã thỏa thuận 
*XU HƯỚNG MUA TRẢ GÓP KÈM HẬU QUẢ KHÓ LƯỜNG  - 
Tại VN, hầu hết sản phẩm thẻ tín dụng của các ngân hàng đều tích hợp dịch vụ 
trả góp, theo báo cáo gần đây nhất được lấy từ Ngân hàng Phương Đông (OCB), vào 
năm 2021 độ tuổi từ 22 – 40 đã thực hiện giao dịch mua sắm trả góp tăng gấp 3 lần so 
với những năm khác. Điểm cộng ở hình thức này là phương thức thanh toán tiện lợi, 
có thể chia nhỏ số tiền thanh toán thành nhiều kỳ khác nhau giúp người dùng linh hoạt 
quản lý tài chính cá nhân, đặc biệt đối với thế hệ “chi tiêu nhiều hơn thu nhập”. Thêm 
vào đó đánh đòn tâm lý ở giới trẻ như: giúp người dùng có thể sở hữu món đồ yêu      lOMoAR cPSD| 45619127
thích ngay mà không cần phải chờ, tâm lý thoải mái hơn số tiền phải trả hàng tháng rất  ít,…  - 
Nhu cầu của người tiêu dùng hiện nay không chỉ là vay mua hàng trả góp, mà 
họ còn cần vay tiền mặt để chủ động hơn trong việc mua hàng hóa. Để đáp ứng nhu 
cầu đó , rất nhiều công ty tài chính cho ra mắt sản phẩm vay ưu việt, canh tranh với 
vay tiền tại ngân hàng . Tuy nhiên, trên thị trường hiện nay chỉ 1-2 công ty tài chính có 
thể giải ngân nhanh sản phẩm vay tiền mặt giống như vay trả góp. Trong đó, 
HomeCredit được đánh giá là mạo hiểm nhất với khả năng cho vay trả góp tiền mặt 
với thủ tục đơn giản nhưng lãi suất rất cao cho một sản phẩm. 
  Căn cứ vào tính chất hoàn trả 
-Tín dụng hoàn trả trực tiếp: ngân hàng cấp tín dụng và việc hoàn trả nợ được thực 
hiện trực tiếp bởi người đi vay. 
-Tín dụng hoàn trả gián tiếp: việc trả nợ không được thực hiện trực tiếp bởi người đi 
vay mà phải gián tiếp thông qua người thụ lệnh của người đi vay. 
 Căn cứ vào đối tượng tín dụng 
Tín dụng vốn lưu động: tín dụng vốn lưu động là loại tín dụng được cung cấp nhằm 
hình thành tài sản lưu động của doanh nghiệp hay nói cách khác tín dụng vốn lưu động 
được sử dụng để bù đắp mức vốn lưu động thiếu hụt tạm thời, loại tín dụng này 
thường được sử dụng để lưu trữ hàng hóa, dự trữ nguyên nhiên vật liệu, chi trả các chi 
phí sản xuất và để thanh toán các khoản nợ dưới hình thức chiết khấu các giấy có giá 
trị. Thời hạn đối với các loại tín dụng này thường là ngắn hạn. 
Tín dụng vốn cố định: tín dụng vốn cố định là loại tín dụng được cung cấp nhằm hình 
thành tài sản cố định của chủ thể đi vay lãi tín dụng này thường được cấp để phục vụ 
việc đầu tư mua sắm tài sản cố định cải thiện và đổi mới kỹ thuật mở rộng sản xuất 
xây dựng các doanh nghiệp và công trình mới thời hạn đối với loại tín dụng này là  trung hạn và dài hạn 
ƯU NHƯỢC ĐIỂM CỦA TÍN DỤNG NGÂN HÀNG  Ưu điểm  • 
Tiện lợi: Tín dụng ngân hàng cung cấp sự tiện lợi cho khách hàng, cho phép họ 
mượn tiền hoặc sử dụng dịch vụ tài chính mà không cần có số tiền mặt ngay lúc  đó.  • 
Tiếp cận nguồn vốn: Với tín dụng ngân hàng, khách hàng có thể truy cập vào 
nguồn vốn lớn hơn để đáp ứng nhu cầu tài chính cá nhân hoặc doanh nghiệp.      lOMoAR cPSD| 45619127 • 
Xây dựng lịch sử tín dụng: Sử dụng tín dụng ngân hàng một cách có trách 
nhiệm và đúng hẹn có thể giúp khách hàng xây dựng lịch sử tín dụng tốt, điều 
này có thể hỗ trợ khi nhu cầu vay vốn trong tương lai.  • 
Diversification: Tín dụng ngân hàng cung cấp sự đa dạng hóa về các sản phẩm 
và dịch vụ tài chính, cho phép khách hàng lựa chọn các tùy chọn phù hợp với 
nhu cầu và mục tiêu cá nhân của mình. 
 Nhược điểm  • 
Lãi suất và phí vay cao: Một trong những nhược điểm của tín dụng ngân hàng 
là lãi suất và các khoản phí có thể cao, đặc biệt đối với khách hàng có lịch sử 
tín dụng không tốt hoặc không có tài sản đảm bảo.  • 
Rủi ro nợ nần: Khi mượn tiền từ ngân hàng, khách hàng phải đảm bảo khả năng 
trả nợ đúng hẹn. Nếu không thể trả nợ, khách hàng sẽ đối mặt với rủi ro như 
mất tài sản đảm bảo hoặc hậu quả xấu đối với lịch sử tín dụng cá nhân.  • 
Giới hạn tín dụng: Ngân hàng có thể thiết lập giới hạn tín dụng cho khách hàng 
dựa trên thu nhập, tài sản và lịch sử tín dụng. Điều này có thể hạn chế khả năng 
tiếp cận nguồn vốn lớn hơn hoặc các dịch vụ tài chính khác.   
III. TÍN DỤNG NHÀ NƯỚC 
1. Khái niệm & đặc điểm tín dụng nhà nước  
Tín dụng nhà nước là các quan hệ tín dụng giữa nhà nước với doanh nghiệp hoặc với 
các tổ chức kinh tế xã hội hoặc với các cá nhân. Nói cách khác tín dụng nhà nước là 
một quan hệ tín dụng trong đó có một chủ thể đó là “Nhà nước” 
Được coi là một hình thức điều tiết và quản lý các hoạt động tài chính trong nền kinh 
tế của một quốc gia. Tín dụng nhà nước thường được thực hiện bởi Ngân hàng trung 
ương. Bao gồm việc cấp phát tín dụng đồng thời kiểm soát và giám sát tất tần tật về 
hoạt động tài chính của ngành ngân hàng và các tổ chức tài chính khác. Hình thức chủ 
yếu là nhà nước gây quỹ bằng cách phát hành trái phiếu chính phủ nhằm huy động vốn 
để duy trì sự ổn định tài chính của một quốc gia và đảm bảo phục vụ cho nhu cầu của  ngân sách nhà nước. 
Ví dụ: Ngân hàng nhà nước cho doanh nghiệp vay tiền trong quá trình sản xuất đây là 
chính sách chi tiêu công của chính phủ nhằm hỗ trợ các ngành công nghiệp trong giai 
đoạn khủng hoảng kinh tế hoặc để đầu tư vào các dự án công trình, nâng cao cải thiện  hạ tầng  2. Căn cứ cơ bản      lOMoAR cPSD| 45619127
a. Căn cứ vào phạm vi  
• Trái phiếu quốc nội: là loại trái phiếu phát hành trong nước do chính phủ hoặc 
chính quyền các địa phương phát hành. 
• Trái phiếu quốc tế : là loại trái phiếu do chính phủ phát hành để huy động vốn 
trên thị trường nước ngoài: trái phiếu nước ngoài & trái phiếu Euro. 
Ví dụ: trái phiếu samurai là trái phiếu được phát hành tại Nhật Bản bởi một 
đoàn thể và pháp nhân nước khác mà không phải công ty người Nhật 
b. Căn cứ vào thời hạn 
• Trái phiếu ngắn hạn: là loại trái phiếu nhà nước có thời hạn dưới 12 tháng. 
• Trái phiếu dài hạn: là loại trái phiếu có thời hạn từ 12 tháng trở lên. c. Căn cứ  vào mục đích 
• Tín phiếu kho bạc: là loại trái phiếu ngắn hạn do chính phủ phát hành nhằm bù 
đắp thiếu hụt tạm thời trong chi tiêu của ngân sách. 
=> tín phiếu Kho bạc có kỳ hạn chuẩn là 13 tuần, 26 tuần hoặc 52 tuần. Các kỳ hạn 
khác của tín phiếu Kho bạc do Bộ trưởng Bộ Tài chính quyết định tùy theo nhu cầu sử 
dụng vốn và tình hình thị trường nhưng không vượt quá 52 tuần. 
• Trái phiếu kho bạc: là loại trái phiếu dài hạn,do chính phủ phát hành nhằm bù 
đắp thiếu hụt thường xuyên, Đến kỳ hạn đã được ghi trong trái phiếu, kho bạc 
phải hoàn trả cả gốc lẫn lãi cho người mua. 
Ví dụ: năm 2020 Bộ Tài Chính đã phát hành trái phiếu với mệnh giá 1 triệu 
đồng và lãi suất là 6% trên mỗi năm. Nhà đầu tư khi mua sẽ nhận được lãi suất 
hằng năm và khi đến ngày đáo hạn chính phủ sẽ trả cả số tiền gốc và lãi. 
• Trái phiếu đầu tư: là loại trái phiếu dài hạn,do chính phủ hoặc do chính quyền 
địa phương phát hành nhằm huy động vốn đầu tư vào các công trình cơ sở hạ 
tầng , công trình an sinh,… 
Trái phiếu kho bạc và công trái xây dựng tổ quốc có kỳ hạn chuẩn là 2 năm,3 
năm,5 năm, 7 năm, 10 năm, 15 năm và 30 năm.( nguồn ngân hàng Nhà nước Việt Nam  2015) 
d. Căn cứ vào phương pháp hoàn trả 
• Trái phiếu chiết khấu: là loại trái phiếu được phát hành theo phương thức trả lãi 
trước ngay khi phát hành. 
• Trái phiếu Coupon: là loại trái phiếu được phát hành theo mệnh giá và trả lãi 
định kỳ theo từng kỳ nhất định, thường là theo 6 tháng 1 năm.