



















Preview text:
lOMoAR cPSD| 59773091
Các quy định của chế định về các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ
trong Bộ luật Dân sự năm 2015
Bộ luật Dân sự năm 2015 được Quốc hội khóa XIII thông qua ngày 24
/11/2015, có hiệu lực kể từ ngày 01/01/2017 có nhiều nội dung đổi mới, trong đó có
phần nội dung về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ. Nhìn một cách tổng thể, nội dung phần
bảo đảm thực hiện nghĩa vụ của Bộ luật Dân sự năm 2015 đã tiệm cận tốt hơn với
thông lệ quốc tế và cơ bản giải quyết được những vướng mắc, khó khăn trong thực
tiễn ký kết, thực hiện hợp đồng bảo đảm.
I. Cấu trúc, bố cục của chế định bảo đảm thực hiện nghĩa vụ
Chế định bảo đảm thực hiện nghĩa vụ được chia thành 8 tiểu mục, trong đó
Tiểu mục 1 là Quy định chung, điều chỉnh các nội dung như: Biện pháp bảo đảm thực
hiện nghĩa vụ (Điều 292), Phạm vị nghĩa vụ được bảo đảm (Điều 293), Bảo đảm thực
hiện nghĩa vụ trong tương lai (Điều 294), Tài sản bảo đảm (Điều 295)… Các tiểu
mục còn lại được thiết kế gắn với các biện pháp bảo đảm cụ thể, trong đó: - Tiểu
mục 2 quy định các vấn đề liên quan đến biện pháp cầm cố tài sản; -
Tiểu mục 3 quy định các vấn đề liên quan đến biện pháp thế chấp tài sản; -
Tiểu mục 4 quy định các vấn đề liên quan đến biện pháp đặt cọc, ký cược, ký quỹ; -
Tiểu mục 5 quy định các vấn đề liên quan đến biện pháp bảo lưu quyền sở hữu; -
Tiểu mục 6 quy định các vấn đề liên quan đến biện pháp bảo lãnh; -
Tiểu mục 6 quy định các vấn đề liên quan đến biện pháp tín chấp; -
Tiểu mục 6 quy định các vấn đề liên quan đến biện pháp cầm giữ tài sản;
Như vậy, số lượng các điều luật của chế định về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ
trong Bộ luật Dân sự năm 2015 tăng 04 điều so với Bộ luật Dân sự năm 2005 (từ 55
điều lên 59 điều), nhưng về cơ bản thì kết cấu không thay đổi.
II. Phân tích, đánh giá nội dung chế định bảo đảm thực hiện nghĩa vụ
1 . Quy định các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ
Điều 292 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định 09 biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ, bao gồm: - Cầm cố tài sản; - Thế chấp tài sản; 1 lOMoAR cPSD| 59773091 - Đặt cọc; - Ký cược; - Ký quỹ;
- Bảo lưu quyền sở hữu; - Bảo lãnh; - Tín chấp; - Cầm giữ tài sản.
Với việc sắp xếp các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ theo thứ tự nêu
trên cho thấy Bộ luật Dân sự năm 2015 đã phân loại biện pháp bảo đảm thực hiện
nghĩa vụ thành 02 nhóm là: (1) Nhóm biện pháp bảo đảm được xác lập theo thỏa
thuận gồm: Cầm cố tài sản, thế chấp tài sản, đặt cọc, ký cược, ký quỹ, bảo lưu quyền
sở hữu, bảo lãnh, tín chấp; (2) Nhóm biện pháp bảo đảm được xác lập theo quy định
của luật gồm cầm giữ tài sản (không phụ thuộc vào thỏa thuận của các bên). Điểm mới
Trong nhóm biện pháp bảo đảm được xác lập theo thỏa thuận có 02 nhóm với
tính chất bảo đảm hoàn toàn khác nhau, đó là: (1) Nhóm biện pháp bảo đảm bằng tài
sản ( hay còn gọi là Nhóm biện pháp bảo đảm đối vật) bao gồm: cầm cố tài sản, thế
chấp tài sản, đặt cọc, ký cược, ký quỹ, bảo lưu quyền sở hữu và (2) Nhóm biện pháp
bảo đảm không bằng tài sản ( hay còn gọi là Nhóm biện pháp bảo đảm đối nhân),
bao gồm bảo lãnh, tín chấp.
Ngoài ra, Bộ luật Dân sự năm 2015 đã bổ sung 02 biện pháp bảo đảm mới, đó
là “cầm giữ tài sản” và “bảo lưu quyền sở hữu”. Tuy không phải là các định chế
mới, vì đã được ghi nhận và thể hiện ở Bộ luật Dân sự năm 2005 dưới góc độ là hợp
đồng, giao dịch, nhưng lần đầu tiên được giải quyết thấu đáo, toàn diện ở góc độ của
biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ1.
1 Về cầm giữ tài sản: Theo quy định của Bộ luật Dân sự năm 2005, cầm giữ tài sản được
quy định ở Điều 416 tại “Phần II. Thực hiện hợp đồng” với ý nghĩa là biện pháp mà luật cho phép
bên có quyền sử dụng nhằm gây “sức sép” đối với bên có nghĩa vụ trong hợp đồng song vụ để bên
này phải thực hiện nghĩa vụ đã cam kết theo thỏa thuận giữa các bên trong hợp đồng song vụ. Chính
vì tính chất (bản chất) của biện pháp cầm giữ tài sản là chiếm giữ tài sản để bên có nghĩa vụ thực
hiện nghĩa vụ, do vậy, Bộ luật Dân sự năm 2015 đã tiếp cận cầm giữ tài sản với tư cách là một biện
pháp bảo đảm được xác lập theo quy định của luật.
Về bảo lưu quyền sở hữu: Bảo lưu quyền sở hữu được quy định tại Điều 461 Bộ luật Dân
sự năm 2005 với tư cách là một thỏa thuận (một nội dung) trong hợp đồng mua trả chậm, trả dần.
Đến Bộ luật Dân sự năm 2015, bảo lưu quyền sở hữu trong hợp đồng mua bán được tiếp cận với tư
cách là biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ. Cách tiếp cận mới này của Bộ luật Dân sự năm 2015
phù hợp với bản chất “bảo đảm thực hiện nghĩa vụ” của biện pháp bảo lưu quyền sở hữu, qua đó
tiệm cận gần hơn với thông lệ quốc tế về biện pháp bảo đảm. 2 lOMoAR cPSD| 59773091
Ví dụ: A mang xe ô tô vào gara để sửa. Sau khi xe được sửa xong, do A không
thanh toán chi phí sửa xe nên chủ gara ô tô có quyền áp dụng biện pháp cầm giữ cho
đến khi A (hoặc người thứ ba) thanh toán đầy đủ chi phí sửa xe, mà không phụ thuộc
vào sự đồng ý của A. Đây chính là ví dụ về biện pháp cầm giữ theo quy định của Bộ luật Dân sự năm 2015.
Ví dụ: Công ty A bán 10 ô tô cho Công ty B. Do Công ty B chưa có đủ tiền
thanh toán cho hợp đồng mua 10 xe ô tô nên Công ty B có quyền thỏa thuận áp dụng
biện pháp bảo lưu quyền sở hữu của mình đối với 10 xe đã bán cho Công ty A cho
đến khi nào nhận được đầy đủ tiền bán xe. 2.
Về các quy định liên quan đến phạm vi nghĩa vụ được bảo đảm và
bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trong tương lai
Nghĩa vụ có thể được bảo đảm một phần hoặc toàn bộ, tuỳ theo thoả thuận giữa
bên bảo đảm và bên nhận bảo đảmhoặc theo quy định của pháp luật (Điều293 khoản
1). Trong trường hợp bảo đảm đối vật thì việc chỉ định tài sản bào đảm hàm ý rằng
biện pháp bảo đảm chỉ giới hạn trong phạm vi giá trị tài sản bảo đảm: nếu giá trị tài
sản bảo đảm nhỏ hơn giá trị nghĩa vụ được bảo đảm, thì phần chênh lệch là phần
nghĩa vụ không được bảo đảm thực hiện: đối với phần chênh lệch đó, bên có quyền
thực hiện quyền trong tư thế một chủ nợ thường.
Nghĩa vụ được bảo đảm có thể là nghĩa vụ đã được xác lập ở thời điểm xác lập
biện pháp bảo đảm, có thể được xác lập cùng một lúc với biện pháp bảo đảm hoặc có
thể được xác lập trong tương lai (khoản 2 Điều 293). Theo khoản 3 Điều 293 đối với
trường hợp bảo đảm nghĩa vụ trong tương lai thì nghĩa vụ được hình thành trong thời
hạn bảo đảm là nghĩa vụ được bảo đảm, trừ trường hợp có thoả thuận khác. “Thoả
thuận khác” có thể là thoả thuận về tính chất của nghĩa vụ được bảo đảm (nghĩa vụ
theo hợp đồng chẳng hạn) hoặc giá trị tối đa của nghĩa vụ được bảo đảm. 3.
Về tài sản bảo đảm
Tài sản hiện có hoặc hình thành trong tương lai. Trừ trường hợp bảo lưu
quyền sở hữu hoặc cầm giữ tài sản, thì tài sản dùng để bảo đảm phải thuộc quyền sở
hữu của bên bảo đảm ( khoản 1 Điều 295). Trong các trường hợp bảo đảm đối vật,
tài sản bảo đảm phải là vật đặc định, nghĩa là phân biệt được với các vật khác; còn
trong trường hợp bảo đảm đối nhân, tài sản bảo đảm là tất cả tài sản thuộc quyền sở
hữu của bên bảo đảm. Dù được chỉ định rõ hay không tài sản bảo đảm có thể là tài
sản hiện hữu hoặc tài sản hình thành trong tương lai.
Một tài sản dùng để bảo đảm thực hiện nhiều nghĩa vụ. Theo khoản 1 Điều
296 BLDS thì một tài sản có thể được dùng để bảo đảm thực hiện nhiều nghĩa vụ,
nếu có giá trị tại thời điểm xác lập giao dịch bảo đảm lớn hơn tổng giá trị các nghĩa
vụ được bảo đảm, trừ trường hợp có thoả thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác.
Điều luật đòi hỏi các bên khi bảo đảm một số nợ quá lớn so với giá trị tài sản bảo
đảm, phải biết rõ, hiểu rõ việc mình làm. Nếu các bên không có thoả thuận rõ ràng, lOMoAR cPSD| 59773091
thì luật chủ động can thiệp bằng cách giới hạn phạm vi bảo đảm đến hết giá trị của tài sản bảo đảm.
Trong trường hợp dùng một tài sản bảo đảm nhiều nghĩa vụ, thì bên bảo đảm
phải thông báo cho bên nhận bảo đảm sau về việc tài sản bảo đảm đang được dùngđể
bảo đảm nghĩa vụ khác ( khoản 2 Điều 296). Việc áp đặt nghĩa vụ này cho bên bảo
đảm nhằm tạo điều kiện cho bên nận bảo đảm nắm vững và đầy đủ thông tin cần thiết
về tình trạng pháp lý của tài sản bảo đảm. 4.
Quy định về hiệu lực đối kháng với người thứ ba của biện pháp
bảo đảm (Điều 297) và thứ tự ưu tiên thanh toán (Điều 308)
Theo quy định của Bộ luật Dân sự năm 2015 có 02 phương thức làm phát sinh
hiệu lực đối kháng với người thứ ba của biện pháp bảo đảm gồm: (1) Đăng ký biện
pháp bảo đảm và (2) Nắm giữ (hoặc chiếm giữ) tài sản bảo đảm. Cụ thể là: “Biện
pháp bảo đảm phát sinh hiệu lực đối kháng với người thứ ba từ khi đăng ký biện pháp
bảo đảm hoặc bên nhận bảo đảm nắm giữ hoặc chiếm giữ tài sản bảo đảm” (Điều
297 Bộ luật Dân sự năm 2015). Trong khi đó, “đăng ký biện pháp bảo đảm là việc
cơ quan đăng ký ghi vào sổ đăng ký hoặc nhập vào cơ sở dữ liệu về việc bên bảo đảm
dùng tài sản để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ đối với bên nhận bảo đảm” ( khoản 1
Điều 3 Nghị đính số 102/NĐ-CP ngày 01/9/2017 của Chính phủ ). Như vậy, đăng ký
biện pháp bảo đảm và hành vi nắm giữ (hoặc chiếm giữ) tài sản bảo đảm có giá trị
pháp lý như nhau khi xác định thời điểm đối kháng với người thứ ba.
Ví dụ: Ông A thế chấp tài sản tại Ngân hàng B. Hợp đồng thế chấp được đăng
ký ngày 01/02/2018. Tuy nhiên, ngày 15/01/2018, ông A đã cầm cố tài sản này cho
ông C, tài sản do ông C trực tiếp nắm giữ, kiểm soát. Trong tình huống này, khi xét
về hiệu lực đối kháng thì ông C có vị trí cao hơn Ngân hàng do thời điểm nắm giữ
phát sinh trước thời điểm đăng ký biện pháp bảo đảm.
Ngoài ra, theo quy định tại khoản 2 Điều 297 Bộ luật Dân sự năm 2015 thì “khi
biện pháp bảo đảm phát sinh hiệu lực đối kháng với người thứ ba thì bên nhận bảo
đảm được quyền truy đòi tài sản bảo đảm và được quyền thanh toán theo quy định
tại Điều 308 của Bộ luật này và luật khác có liên quan”. Như vậy, nội hàm của khái
niệm “hiệu lực đối kháng” được xác định trong Bộ luật Dân sự năm 2015 là “quyền
truy đòi tài sản” và “quyền thanh toán”. Tại Điều 308, Bộ luật Dân sự năm 2015 xác định Điểm mới
So với Bộ luật Dân sự năm 2005 thì Bộ luật Dân sự năm 2015 đã hoàn thiện
cơ chế (phương thức) làm phát sinh hiệu lực đối kháng với người thứ ba của biện
pháp bảo đảm. Cụ thể là, ngoài cách thức đăng ký, lần đầu tiên Bộ luật Dân sự đã
quy định một cách minh thị về một trong các phương thức làm phát sinh hiệu lực đối
kháng với người thứ ba của biện pháp bảo đảm “nắm giữ” (hoặc chiếm giữ) tài sản 4 lOMoAR cPSD| 59773091
bảo đảm2. Việc bổ sung nắm giữ (chiếm giữ) là phương thức làm phát sinh hiệu lực
đối kháng với người thứ ba của biện pháp bảo đảm, độc lập và bình đẳng với phương
thức đăng ký là phù hợp và thống nhất với nguyên tắc bảo vệ “tình trạng hòa bình”
của việc chiếm hữu thực tế mà Bộ luật Dân sự năm 2015 hướng đến. Theo đó, về
nguyên tắc, ai (chủ thể nào) đang nắm giữ trực tiếp (chiếm hữu thực tế) tài sản thì
được suy đoán là chủ thể có quyền đối với tài sản được nắm giữ (khoản 1 , khoản 2
Điều 184 Bộ luật Dân sự năm 2015). Quan điểm này tiếp cận vào quan hệ bảo đảm
thực hiện nghĩa vụ thể hiện ở chỗ, việc (tình trạng) nắm giữ tài sản bảo đảm cũng
được xem là căn cứ xác định biện pháp bảo đảm đã phát sinh hiệu lực đối kháng với
người thứ ba, bình đẳng với phương thức đăng ký và bên nhận bảo đảm đang nắm
giữ tài sản bảo đảm hoàn toàn bình đẳng với bên nhận bảo đảm trong biện pháp bảo
đảm được đăng ký trong việc hưởng quyền và thực hiện nghĩa vụ, đặc biệt là quyền
thanh toán theo thứ tự xác lập hiệu lực đối kháng với người thứ ba trong trường hợp
một tài sản được dùng để bảo đảm thực hiện nhiều nghĩa vụ (Điều 308 Bộ luật Dân sự năm 2015).
Ngoài ra, Bộ luật Dân sự năm 2015 bước đầu đã ghi nhận và thể hiện được
một số nội dung (đặc điểm) của vật quyền bảo đảm. Cụ thể là, lần đầu tiên, Bộ luật
Dân sự năm 2015 đã quy định cụ thể 02 đặc điểm quan trọng của vật quyền bảo đảm,
đó là quyền truy đòi tài sản bảo đảm và quyền ưu tiên thanh toán của bên nhận bảo
đảm đối với tài sản bảo đảm trong trường hợp biện pháp bảo đảm đã phát sinh hiệu
lực đối kháng với người thứ ba. Việc bổ sung quy định về quyền truy đòi tài sản bảo
đảm và quyền được ưu tiên thanh toán của bên nhận bảo đảm thể hiện sự hài hòa hóa
yếu tố vật quyền trong quan hệ trái quyền khi điều chỉnh quan hệ bảo đảm thực hiện
nghĩa vụ của Bộ luật Dân sự năm 2015, qua đó xử lý được phần nào những vấn đề
mà thực tiễn xử lý tài sản bảo đảm đang đặt ra.
5. Quy định về giao tài sản bảo đảm để xử lý (Điều 301)
Lần đầu tiên Bộ luật Dân sự Việt Nam năm 2015 quy định về giao tài sản bảo
đảm để xử lý, theo đó “người đang giữ tài sản bảo đảm có nghĩa vụ giao tài sản bảo
đảm cho bên nhận bảo đảm để xử lý khi thuộc một trong các trường hợp quy định tại
Điều 299 của Bộ luật này. Trường hợp người đang giữ tài sản không giao tài sản thì
bên nhận bảo đảm có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết, trừ trường hợp luật liên quan
có quy định khác” (Điều 301). Theo chúng tôi, xét ở góc độ hợp đồng, trong trường
hợp bên bảo đảm không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ được bảo đảm
thì bên nhận bảo đảm có quyền xử lý tài sản bảo đảm với thời gian nhanh nhất, ít tốn
kém nhất và tuân thủ yếu tố khách quan, trung thực, thiện chí. Xét ở góc độ nghiên
cứu thì xử lý tài sản bảo đảm là một trong những “trụ cột” của pháp luật về giao dịch
2 Bộ luật Dân sự năm 2005 chưa quy định cụ thể về các phương thức làm phát sinh hiệu lực đối
kháng với người thứ ba của biện pháp bảo đảm. Tại khoản 3 Điều 323 Bộ luật Dân sự năm 2005
mới chỉ quy định: “Trường hợp giao dịch bảo đảm được đăng ký theo quy định của pháp luật thì
giao dịch bảo đảm đó có giá trị pháp lý đối với người thứ ba, kể từ thời điểm đăng ký.” lOMoAR cPSD| 59773091
bảo đảm3. Trong khi đó, để có thể thực hiện được các thỏa thuận hợp pháp về xử lý
tài sản bảo đảm trên thực tế lại phụ thuộc nhiều vào thiện chí, tự nguyện của bên bảo
đảm (chủ sở hữu tài sản), từ giao tài sản bảo đảm để xử lý, xác định phương thức xử
lý tài sản bảo đảm, giá bán tài sản bảo đảm đến thủ tục chuyển quyền sở hữu cho
người mua, người trúng đấu giá tài sản bảo đảm... Hệ quả tất yếu của tình trạng nêu
trên là việc xử lý tài sản bảo đảm và khả năng hiện thực hóa các thỏa thuận hợp pháp
trở nên “bấp bênh”. Trước thực tế chủ sở hữu tài sản bảo đảm (bên nhận bảo đảm)
không hợp tác, con đường tố tụng (khởi kiện tại Tòa án) để yêu cầu được xử lý được
tài sản và thu hồi nợ trở thành lựa chọn gần như là tất yếu của bên nhận bảo đảm4.
Thời gian gần đây, việc Quốc hội ban hành Nghị quyết số 42/2017/QH14 ngày
21/6/2017 và Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao ban hành Nghị quyết số
03/2018/NQ-HĐTP ngày 15 /5/2018 có thể xem là một cách tiếp cận nhằm khắc phục
những khó khăn trong thực tiễn xử lý tài sản bảo đảm.
6. Các quy định về đăng ký biện pháp bảo đảm (Điều 298, khoản 4 Điều 323)
Theo quy định tại khoản 1 Điều 298 Bộ luật Dân sự năm 2015 thì “biện pháp
bảo đảm được đăng ký theo thỏa thuận hoặc theo quy định của luật”. Như vậy, ngoài
theo “thỏa thuận” ( phụ thuộc vào ý chí của 02 bên) thì chỉ có văn bản luật mới được
quy định về việc có hay không việc đăng ký đối với biện pháp bảo đảm cụ thể. Theo
chúng tôi, quy định này là rất cần thiết để khắc phục nguy cơ quy định tràn lan nhiều
trường hợp đăng ký ở các văn bản dưới luật. Ngoài ra, khoản 2 Điều 298 Bộ luật Dân
sự năm 2015 cũng quy định “trường hợp được đăng ký thì biện pháp bảo đảm phát
sinh hiệu lực đối kháng đối với người thứ ba kể từ thời điểm đăng ký”, đồng thời đăng
ký biện pháp bảo đảm chỉ mang tính bắt buộc và là điều kiện để giao dịch bảo đảm
có hiệu lực chỉ trong trường hợp luật có quy định (khoản 1 Điều 298 Bộ luật Dân sự
năm 2015)5. Các quy định nêu trên cho thấy, Bộ luật Dân sự năm 2015 đang hướng
đến xây dựng một Hệ thống đăng ký chỉ có giá trị đối kháng với người thứ ba. Như
vậy, cùng với quy định tách thời điểm có hiệu lực của hợp đồng bảo đảm và thời điểm
có hiệu lực đối kháng với người thứ ba của biện pháp bảo đảm, việc nhận diện đăng
ký biện pháp bảo đảm là quyền của công dân của Bộ luật Dân sự năm 2015 đã cho
thấy bước chuyển biến mới trong tư duy của các nhà lập pháp đối với thiết chế đăng
ký biện pháp bảo đảm, phù hợp với tinh thần của Hiến pháp năm 2013 và thực tiễn
vận hành Hệ thống đăng ký giao dịch bảo đảm của nước ta trong thời gian vừa qua.
3 IFC: Khuyến nghị của Nhóm Ngân hàng thế giới cho dự thảo Bộ luật Dân sự sửa đổi (chế định về các biện pháp bảo
đảm thực hiện nghĩa vụ).
4 Dĩ nhiên sẽ vẫn có những lựa chọn khác ngoài con đường Tòa án, ví dụ như vụ VPBank AMC thu giữ tài sản bảo
đảm là Phòng 1401 Tòa nhà 17T2, phường Trung Hòa, Cầu Giấy, Hà Nội.
5 Theo kết quả rà soát văn bản quy phạm pháp luật hiện hành thì đăng ký bắt buộc chỉ đặt ra đối với
biện pháp thế chấp quyền sử dụng đất (Luật Đất đai), thế chấp tàu biển (Luật Hàng hải Việt Nam)
và cầm cố, thế chấp tàu bay (Luật Hàng không Việt Nam). 6 lOMoAR cPSD| 59773091 Điểm mới
So với Bộ luật Dân sự năm 2005 thì Bộ luật Dân sự hiện nay đã thể hiện những
thay đổi lớn trong tư duy chính sách về vấn đề này, cụ thể như sau:
Thứ nhất, xác định đúng bản chất của đối tượng đăng ký, theo đó Bộ luật Dân
sự năm 2015 quy định đối tượng đăng ký là các biện pháp bảo đảm hay nói cách khác
chính là đăng ký các quyền liên quan đến tài sản (quyền cầm cố, quyền thế chấp…),
mà không phải là đăng ký giao dịch (hợp đồng) như Bộ luật Dân sự năm 2005. Cách
tiếp cận này là hoàn toàn phù hợp, vì bản thân hợp đồng đã có hiệu lực giữa 02 bên
kể từ thời điểm phát sinh hiệu lực của hợp đồng, còn việc đăng ký là để công khai
quyền liên quan đến tài sản với người thứ ba, từ đó làm phát sinh hiệu lực đối kháng
theo quy định của pháp luật.
Thứ hai, nếu như Bộ luật Dân sự năm 2005 tiếp cận đăng ký giao dịch bảo
đảm ở góc độ là nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng thế chấp (khoản 2 Điều 350,
khoản 2 Điều 717, khoản 1 Điều 719) thì Bộ luật Dân sự năm 2015 đã có cách tiếp
cận mang tính chất đổi mới về đăng ký biện pháp bảo đảm, đó là lần đầu tiên quy
định đăng ký biện pháp bảo đảm dưới góc độ “quyền” của tổ chức, cá nhân trong xã
hội ( Ví dụ: Theo quy định tại khoản 4 Điều 323 Bộ luật Dân sự năm 2015 thì đăng
ký thế chấp được nhận diện là “quyền” của bên nhận thế chấp). Do đó, việc Bộ luật
Dân sự năm 2015 tiếp cận đăng ký biện pháp bảo đảm dưới giác độ quyền công dân
mang lại giá trị thực tiễn rất lớn trong việc nâng cao chất lượng dịch vụ đăng ký biện
pháp bảo đảm, góp phần xóa bỏ thói quen “ban phát”, “ban ơn” và tạo lập, xây dựng
“văn hoá” phục vụ người dân khi có yêu cầu đăng ký. Đây chính là nền tảng, là tiền
đề pháp lý quan trọng trong việc nâng cao chất lượng dịch vụ đăng ký và cung cấp
thông tin về biện pháp bảo đảm cho người dân và cộng đồng doanh nghiệp. Ngoài ra,
với quy định “việc đăng ký là điều kiện để giao dịch bảo đảm có hiệu lực chỉ trong
trường hợp luật có quy định” (khoản 1 Điều 298 BLDS 2015) cho thấy xu hướng mà
Việt Nam hướng đến chính là xây dựng một Hệ thống đăng ký biện pháp bảo đảm
theo mô hình đăng ký chỉ có giá trị đối kháng với người thứ ba, chứ không phải mô
hình đăng ký nhằm xác lập quyền.
Thứ ba, khắc phục hạn chế của Bộ luật Dân sự năm 2005, lần đầu tiên trong
Bộ luật Dân sự đã thể hiện một cách rõ ràng định hướng xây dựng Hệ thống đăng ký
giao dịch bảo đảm của nước ta trong thời gian tới. Về vấn đề này, qua tham khảo cho
thấy, trên thế giới hiện đang tồn tại 02 Hệ thống đăng ký, đó là Hệ thống đăng ký
nhằm xác lập quyền và Hệ thống đăng ký chỉ có giá trị đối kháng với người thứ ba.
Hai Hệ thống đăng ký này có sự khác biệt về nguyên tắc vận hành và tổ chức hoạt
động. Cụ thể là, Hệ thống đăng ký nhằm xác lập quyền được vận hành theo nguyên
tắc, quyền đối với tài sản được hình thành kể từ thời điểm đăng ký trong Sổ đăng ký,
nghĩa là, nếu chưa được đăng ký trong Sổ đăng ký thì quyền chưa được hình
hành.Trong khi đó, Hệ thống đăng ký nhằm xác lập hiệu lực đối kháng với người thứ
ba lại được vận hành theo nguyên lý, quyền đối với tài sản được hình thành kể từ thời lOMoAR cPSD| 59773091
điểm hai bên thỏa thuận (xác lập hợp đồng), còn việc đăng ký chỉ có giá trị đối kháng
với người thứ ba. Việc lựa chọn mô hình đăng ký đối kháng hay đăng ký nhằm xác
lập quyền tùy thuộc vào truyền thống pháp lý cũng như thực trạng tổ chức và hoạt
động của Hệ thống đăng ký của từng quốc gia. Thực tiễn cho thấy, một Hệ thống
đăng ký dựa trên nguyên lý đăng ký là căn cứ phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền
đối với tài sản (bao gồm cả vật quyền bảo đảm) đòi hỏi Hệ thống đăng ký phải rất
hoàn thiện, thông tin trong Sổ đăng ký phải bảo đảm chính xác tuyệt đối. Đồng thời
đi kèm với nó là cơ chế bảo vệ người ngay tình trong trường hợp họ đã tin vào thông
tin lưu trữ tại cơ quan đăng ký mà thiết lập giao dịch. Việc đòi hỏi một sự chính xác
cao của Hệ thống đăng ký này nhằm hạn chế khả năng công nhận sai quyền về tài sản
của các chủ thể, qua đó, ngăn chặn nguy cơ xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp
của chủ thể có quyền đích thực. Do vậy, đối với các nước có Hệ thống đăng ký chưa
hoàn thiện, có thể nói, việc lựa chọn mô hình đăng ký nhằm xác lập quyền có nguy
cơ gây rủi ro rất lớn cho các bên và bất ổn trong giao lưu dân sự.
7. Các quy định liên quan đến cầm cố tài sản (Từ Điều 309 đến Điều 316)
7.1. Theo quy định tại Điều 309 Bộ luật Dân sự năm 2015, cầm cố tài
sản phải thỏa mãn cả 02 điều kiện là: (i) Có hành vi “giao” tài sản và (ii) tài
sản thuộc sở hữu của bên cầm cố, trong đó xét về bản chất, khái niệm “giao”
tài sản phải được hiểu là “giao” thực tế, không thuần túy chỉ là “giao” các giấy
tờ pháp lý chứng minh quyền sở hữu tài sản.
7.2. Về hiệu lực của cầm cố tài sản, Điều 310 Bộ luật Dân sự năm
2015 quy định hiệu lực của cầm cố tài sản dưới 02 góc độ: (i) Hiệu lực của hợp
đồng và (ii) Hiệu lực đối kháng với người thứ ba. Theo đó, hợp đồng có hiệu
lực từ thời điểm giao kết, trừ trường hợp có thỏa thuận hoặc luật có quy định
khác. Như vậy, về nguyên tắc chỉ khi các bên có thỏa thuận hoặc luật có quy
định khác thì mới làm thay đổi được thời điểm có hiệu lực của hợp đồng cầm
cố đã được quy định trong 8 lOMoAR cPSD| 59773091
Bộ luật Dân sự (thời điểm giao kết). Cũng tại Điều 310 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy
định thời điểm đối kháng với người thứ ba là thời điểm bên nhận cầm cố nắm giữ tài
sản cầm cố. Tuy nhiên đối với trường hợp cầm cố bất động sản thì “việc cầm cố có
hiệu lực đối kháng với người thứ kể từ thời điểm đăng ký”. Các tiếp cận như vậy là
phù hợp với bản chất của bất động sản, mọi di biến động liên quan đến tình trạng
pháp lý của bất động sản đều phải được đăng ký. Điểm mới
Điểm mới của Bộ luật Dân sự năm 2015 so với Bộ luật Dân sự năm 2010 là đã
phân tách thời điểm có hiệu lực của hợp đồng cầm cố với thời điểm phát sinh hiệu
lực đối kháng. Ngoài ra, Bộ luật Dân sự năm 2015 cũng đã hoàn thiện cơ chế ( phương
thức) làm phát sinh hiệu lực đối kháng với người thứ ba của biện pháp bảo đảm. Cụ
thể là, ngoài cách thức đăng ký, lần đầu tiên Bộ luật Dân sự quy định một trong các
phương thức làm phát sinh hiệu lực đối kháng với người thứ ba của biện pháp cầm
cố là “nắm giữ” tài sản cầm cố6. Việc bổ sung nắm giữ là phương thức làm phát sinh
hiệu lực đối kháng với người thứ ba của biện pháp cầm cố, độc lập và bình đẳng với
phương thức đăng ký là phù hợp và thống nhất với nguyên tắc bảo vệ “tình trạng
hòa bình” của việc chiếm hữu thực tế mà Bộ luật Dân sự năm 2015 hướng đến. Theo
đó, về nguyên tắc, ai (chủ thể nào) đang nắm giữ trực tiếp (chiếm hữu thực tế) tài sản
thì được suy đoán là chủ thể có quyền đối với tài sản được nắm giữ (khoản 1, khoản
2 Điều 184 Bộ luật Dân sự năm 2015). Quan điểm này trong quan hệ bảo đảm thực
hiện nghĩa vụ thể hiện ở việc (tình trạng) nắm giữ tài sản bảo đảm cũng được xem là
căn cứ xác định biện pháp bảo đảm đã phát sinh hiệu lực đối kháng với người thứ ba,
bình đẳng với phương thức đăng ký và bên nhận bảo đảm đang nắm giữ tài sản bảo
đảm hoàn toàn bình đẳng với bên nhận bảo đảm trong biện pháp bảo đảm được đăng
ký trong việc hưởng quyền và thực hiện nghĩa vụ, đặc biệt là quyền thanh toán theo
thứ tự xác lập hiệu lực đối kháng với người thứ ba trong trường hợp một tài sản được
dùng để bảo đảm thực hiện nhiều nghĩa vụ (Điều 308 Bộ luật Dân sự năm 2015).
7.3. Về nghĩa vụ, quyền của bên cầm cố, bên nhận cầm cố
Về vấn đề này, Điều 311 Bộ luật Dân sự quy định bên cầm cố có nghĩa vụ: (i)
Giao tài sản cầm cố cho bên nhận cầm cố theo đúng thỏa thuận; (ii) Báo cho bên nhận
cầm cố về quyền của người thứ ba đối với tài sản cầm cố, nếu có; trường hợp không
thông báo thì bên nhận cầm cố có quyền hủy hợp đồng cầm cố tài sản và yêu cầu bồi
thường thiệt hại hoặc duy trì hợp đồng và chấp nhận quyền của người thứ ba đối với
tài sản cầm cố và (iii) Thanh toán cho bên nhận cầm cố chi phí hợp lý để bảo quản
tài sản cầm cố, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.
6 Bộ luật Dân sự năm 2005 chưa quy định cụ thể về các phương thức làm phát sinh hiệu lực đối kháng với
người thứ ba của biện pháp bảo đảm. Tại khoản 3 Điều 323 Bộ luật Dân sự năm 2005 mới chỉ quy định:
“Trường hợp giao dịch bảo đảm được đăng ký theo quy định của pháp luật thì giao dịch bảo đảm đó có giá
trị pháp lý đối với người thứ ba, kể từ thời điểm đăng ký.” 9 Downloaded by Anh Tr?n (lananh4@gmail.com) lOMoAR cPSD| 59773091
Về quyền của bên cầm cố, Điều 312 quy định bên cầm cố có quyền: (i) Yêu
cầu bên nhận cầm cố chấm dứt việc sử dụng tài sản cầm cố trong trường hợp quy
định tại khoản 3 Điều 314 của Bộ luật này nếu do sử dụng mà tài sản cầm cố có nguy
cơ bị mất giá trị hoặc giảm sút giá trị; (ii) Yêu cầu bên nhận cầm cố trả lại tài sản cầm
cố và giấy tờ liên quan, nếu có khi nghĩa vụ được bảo đảm bằng cầm cố chấm dứt;
(iii) Yêu cầu bên nhận cầm cố bồi thường thiệt hại xảy ra đối với tài sản cầm cố và
(iv) Được bán, thay thế, trao đổi, tặng cho tài sản cầm cố nếu được bên nhận cầm cố
đồng ý hoặc theo quy định của luật.
Về nghĩa vụ của bên nhận cầm cố, Điều 313 quy định bên nhận cầm cố có
nghĩa vụ: (i) Bảo quản, giữ gìn tài sản cầm cố; nếu làm mất, thất lạc hoặc hư hỏng tài
sản cầm cố thì phải bồi thường thiệt hại cho bên cầm cố; (ii) Không được bán, trao
đổi, tặng cho, sử dụng tài sản cầm cố để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ khác; (iii) Không
được cho thuê, cho mượn, khai thác công dụng, hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài sản cầm
cố, trừ trường hợp có thỏa thuận khác và (iv) Trả lại tài sản cầm cố và giấy tờ liên
quan, nếu có khi nghĩa vụ được bảo đảm bằng cầm cố chấm dứt hoặc được thay thế
bằng biện pháp bảo đảm khác.
Về quyền của bên nhận cầm cố, Điều 314 quy định bên nhận cầm cố có quyền:
(i) Yêu cầu người đang chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật tài sản cầm cố trả lại tài sản
đó; (ii) Xử lý tài sản cầm cố theo phương thức đã thỏa thuận hoặc theo quy định của
pháp luật; (iii) Được cho thuê, cho mượn, khai thác công dụng tài sản cầm cố và
hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài sản cầm cố, nếu có thỏa thuận và (iv) Được thanh toán
chi phí hợp lý bảo quản tài sản cầm cố khi trả lại tài sản cho bên cầm cố. Điểm mới:
Qua so sánh, đối chiếu cho thấy, các quy định nêu trên của Bộ luật Dân sự năm
2015 về cơ bản vẫn giữ nguyên như các quy định có liên quan trong Bộ luật Dân sự
năm 2005. Bên cạnh đó, Bộ luật Dân sự năm 2015 cũng bổ sung, hoàn thiện một số
từ ngữ để phù hợp với tính chất của quan hệ được điều chỉnh, cũng như mở rộng
phạm vi quyền của các bên trong quan hệ cầm cố. Ví dụ như: Điều 312 Bộ luật Dân
sự năm 2015 đã thay từ “đình chỉ” thành từ “chấm dứt” việc sử dụng (khoản 1) ; bổ
sung quyền được “trao đổi, tặng cho” tài sản của bên cầm cố (khoản 4 Điều 312) ; bổ
sung quyền được “ cho thuê, cho mượn” của bên nhận cầm cố (khoản 3 Điều 314).
7.4. Về chấm dứt cầm cố tài sản
Theo quy định tại Điều 315 thì cầm cố tài sản chấm dứt khi có một trong căn
cứ sau đây: (i) Nghĩa vụ được bảo đảm bằng cầm cố chấm dứt; (ii) Việc cầm cố tài
sản được hủy bỏ hoặc được thay thế bằng biện pháp bảo đảm khác; (iii) Tài sản cầm
cố đã được xử lý và (iv) Theo thỏa thuận của các bên
Về nội dung, quy định nêu trên kế thừa quy định tại Điều 339 Bộ luật Dân sự năm 2005. 10
Downloaded by Anh Tr?n (lananh4@gmail.com) lOMoAR cPSD| 59773091 8.
Các quy định liên quan đến thế chấp tài sản (Từ Điều 317 đến Điều 327)
8.1. Khác với cầm cố tài sản, theo quy định tại Điều 317 Bộ luật Dân
sự thì biện pháp thế chấp tài sản có điều kiện là “không giao tài sản cho bên kia
(bên nhận thế chấp)”, nghĩa là bên thế chấp vẫn giữ tài sản. Ngoài ra, Bộ luật
Dân sự cũng có quy định “các bên có thể thỏa thuận giao cho người thứ ba giữ
tài sản thế chấp”. Quy định này phù hợp với thông lệ quốc tế và là căn cứ để
phân biệt giữa biện pháp cầm cố với thế chấp tài sản.
Về nguyên tắc, “quyền của bên nhận thế chấp” được hưởng ưu tiên theo thứ tự
đăng ký. Nếu đăng ký nhằm mục đích thông báo cho tất cả mọi người (đối kháng),
thì mục đích của quy định “quyền của bên thứ ba giữ tài sản thế chấp” không cần
thiết. Bên nhận thế chấp có quyền ưu tiên thông qua việc đăng ký và quyền lợi đó đã
hoàn thiện thì sẽ tồn tại bất kể tài sản thế chấp đang ở đâu và ai đang giữ tài sản đó.
8.2. Về tài sản thế chấp (Điều 318)
Theo quy định tại Điều 318 thì “Trường hợp thế chấp toàn bộ bất động sản,
động sản có vật phụ thì vật phụ của bất động sản, động sản đó cũng thuộc tài sản thế
chấp, trừ trường hợp có thỏa thuận khác” (khoản 1) và “Trường hợp thế chấp một
phần bất động sản, động sản có vật phụ thì vật phụ gắn với tài sản đó thuộc tài sản
thế chấp, trừ trường hợp có thoả thuận khác” (khoản 2). Quy định về vấn đề này của
Bộ luật Dân sự phù hợp với bản chất và mối quan hệ giữa vật chính với vật phụ. Cũng
tại Điều 318 quy định “Trường hợp thế chấp quyền sử dụng đất mà tài sản gắn liền
với đất thuộc quyền sở hữu của bên thế chấp thì tài sản gắn liền với đất cũng thuộc
tài sản thế chấp, trừ trường hợp có thỏa thuận khác”. Quy định này có thể xem là
điểm mới của Bộ luật Dân sự năm 2015 so với Bộ luật Dân sự năm 2005. Kế thừa
quy định của Bộ luật Dân sự năm 2005, khoản 4 quy định “Trường hợp tài sản thế
chấp được bảo hiểm thì bên nhận thế chấp phải thông báo cho tổ chức bảo hiểm biết
về việc tài sản bảo hiểm đang được dùng để thế chấp. Tổ chức bảo hiểm chi trả tiền
bảo hiểm trực tiếp cho bên nhận thế chấp khi xảy ra sự kiện bảo hiểm. Trường hợp
bên nhận thế chấp không thông báo cho tổ chức bảo hiểm biết về việc tài sản bảo
hiểm đang được dùng để thế chấp thì tổ chức bảo hiểm chi trả tiền bảo hiểm theo hợp
đồng bảo hiểm và bên thế chấp có nghĩa vụ thanh toán cho bên nhận thế chấp”. Điểm mới
Như đã đề cập ở trên, quy định về tài sản thế chấp trong Bộ luật Dân sự năm
2015 cơ bản đã kế thừa quy định của Bộ luật Dân sự năm 2005. Ngoài ra, nhằm kịp
thời giải quyết các vướng mắc phát sinh từ thực tế áp dụng pháp luật của Việt Nam
thời gian qua, Bộ luật Dân sự đã bổ sung cơ chế pháp lý điều chỉnh trường hợp thế
chấp quyền sử dụng đất mà tài sản gắn liền với đất thuộc quyền sở hữu của bên thế
chấp (khoản 3 Điều 318). Nguyên nhân là do trong thời gian qua, khi giao kết hợp 11 Downloaded by Anh Tr?n (lananh4@gmail.com) lOMoAR cPSD| 59773091
đồng các bên không thỏa thuận về tài sản gắn liền với đất hình thành sau thời điểm
hợp đồng thế chấp được giao kết, dẫn đến khó khăn, tranh chấp trong quá trình xử lý
tài sản bảo đảm. Nhiều vụ việc thời gian qua cho thấy, bên thế chấp trong trường hợp
này thường không hợp tác, không muốn bị xử lý đồng thời cả quyền sử dụng đất và
tài sản gắn liền với đất. Do vậy, với quy định rõ ràng như trong Bộ luật Dân sự năm
2015, các bên có đủ cơ chế pháp lý cần thiết để giải quyết thực tế nêu trên, góp phần
tạo sự ổn định cho các quan hệ dân sự, kinh doanh, thương mại trong thực tiễn.
8.3. Hiệu lực của thế chấp tài sản (Điều 319)
Theo quy định của Bộ luật Dân sự thì “Hợp đồng thế chấp tài sản có hiệu lực
từ thời điểm giao kết, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc luật có quy định khác”
và “Thế chấp tài sản phát sinh hiệu lực đối kháng với người thứ ba kể từ thời điểm
đăng ký”. Cũng như đối với hợp đồng cầm cố tài sản, quy định về thời điểm có hiệu
lực của hợp đồng thế chấp bảo đảm nguyên tắc tôn trọng sự thỏa thuận của các bên,
cũng như hạn chế sự điều chỉnh của văn bản dưới luật về thời điểm có hiệu lực của
hợp đồng. Chúng tôi đồng tình với các tiếp cận này vì qua theo dõi cho thấy, không
ít văn bản quy phạm pháp luật của các Bộ thời gian qua đã “can thiệp” và làm “méo
mó” ý chí của các bên về thời điểm có hiệu lực của hợp đồng. Đây cũng chính là điểm
mới của Bộ luật Dân sự năm 2015 so với Bộ luật Dân sự năm 2005.
Ngoài ra, Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định cụ thể, rõ ràng và phân tách giữa
thời điểm có hiệu lực của hợp đồng thế chấp với thời điểm phát sinh hiệu lực đối
kháng là rất cần thiết. Thực tiễn cho thấy trong thời gian qua, chính việc không phân
biệt giữa thời điểm có hiệu lực của hợp đồng với thời điểm phát sinh hiệu lực đối
kháng đã phát sinh không ít nhầm lẫn, tranh chấp về thời điểm phát sinh quyền, nghĩa
vụ giữa các bên trong hợp đồng.
8.4. Về nghĩa vụ, quyền của bên thế chấp, bên nhận thế chấp
Theo quy định tại Điều 320 Bộ luật Dân sự năm 2015 thì bên thế chấp có các
nghĩa vụ sau: (i) Giao giấy tờ liên quan đến tài sản thế chấp trong trường hợp các bên
có thỏa thuận, trừ trường hợp luật có quy định khác; (ii) Bảo quản, giữ gìn tài sản thế
chấp; (iii) Áp dụng các biện pháp cần thiết để khắc phục, kể cả phải ngừng việc khai
thác công dụng tài sản thế chấp nếu do việc khai thác đó mà tài sản thế chấp có nguy
cơ mất giá trị hoặc giảm sút giá trị; (iv) Khi tài sản thế chấp bị hư hỏng thì trong một
thời gian hợp lý bên thế chấp phải sửa chữa hoặc thay thế bằng tài sản khác có giá trị
tương đương, trừ trường hợp có thỏa thuận khác; (v) Cung cấp thông tin về thực trạng
tài sản thế chấp cho bên nhận thế chấp; (vi) Giao tài sản thế chấp cho bên nhận thế
chấp để xử lý khi thuộc một trong các trường hợp xử lý tài sản bảo đảm quy định tại
Điều 299 của Bộ luật này; (vii) Thông báo cho bên nhận thế chấp về các quyền của
người thứ ba đối với tài sản thế chấp, nếu có; trường hợp không thông báo thì bên
nhận thế chấp có quyền hủy hợp đồng thế chấp tài sản và yêu cầu bồi thường thiệt
hại hoặc duy trì hợp đồng và chấp nhận quyền của người thứ ba đối với tài sản thế 12
Downloaded by Anh Tr?n (lananh4@gmail.com) lOMoAR cPSD| 59773091
chấp và (viii) Không được bán, thay thế, trao đổi, tặng cho tài sản thế chấp, trừ trường
hợp quy định tại khoản 4 và khoản 5 Điều 321 của Bộ luật này.
Về quyền của bên thế chấp, Điều 321 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định: (i)
Khai thác công dụng, hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài sản thế chấp, trừ trường hợp hoa
lợi, lợi tức cũng là tài sản thế chấp theo thỏa thuận; (ii) Đầu tư để làm tăng giá trị của
tài sản thế chấp; (iii) Nhận lại tài sản thế chấp do người thứ ba giữ và giấy tờ liên
quan đến tài sản thế chấp do bên nhận thế chấp giữ khi nghĩa vụ được bảo đảm bằng
thế chấp chấm dứt hoặc được thay thế bằng biện pháp bảo đảm khác; (iv) Được bán,
thay thế, trao đổi tài sản thế chấp, nếu tài sản đó là hàng hóa luân chuyển trong quá
trình sản xuất, kinh doanh. Trong trường hợp này, quyền yêu cầu bên mua thanh toán
tiền, số tiền thu được, tài sản hình thành từ số tiền thu được, tài sản được thay thế
hoặc được trao đổi trở thành tài sản thế chấp. Trường hợp tài sản thế chấp là kho hàng
thì bên thế chấp được quyền thay thế hàng hóa trong kho, nhưng phải bảo đảm giá trị
của hàng hóa trong kho đúng như thỏa thuận. (v) Được bán, trao đổi, tặng cho tài sản
thế chấp không phải là hàng hóa luân chuyển trong quá trình sản xuất, kinh doanh,
nếu được bên nhận thế chấp đồng ý hoặc theo quy định của luật. (vi) Được cho thuê,
cho mượn tài sản thế chấp nhưng phải thông báo cho bên thuê, bên mượn biết về việc
tài sản cho thuê, cho mượn đang được dùng để thế chấp và phải thông báo cho bên nhận thế chấp biết.
Đối với bên nhận thế chấp, Điều 322 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định có
nghĩa vụ: (i) Trả các giấy tờ cho bên thế chấp sau khi chấm dứt thế chấp đối với
trường hợp các bên thỏa thuận bên nhận thế chấp giữ giấy tờ liên quan đến tài sản thế
chấp; (ii) Thực hiện thủ tục xử lý tài sản thế chấp theo đúng quy định của pháp luật.
Về quyền của bên nhận thế chấp, Điều 323 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định
có các quyền sau: (i) Xem xét, kiểm tra trực tiếp tài sản thế chấp, nhưng không được
cản trở hoặc gây khó khăn cho việc hình thành, sử dụng, khai thác tài sản thế chấp;
(ii) Yêu cầu bên thế chấp phải cung cấp thông tin về thực trạng tài sản thế chấp; (iii)
Yêu cầu bên thế chấp áp dụng các biện pháp cần thiết để bảo toàn tài sản, giá trị tài
sản trong trường hợp có nguy cơ làm mất giá trị hoặc giảm sút giá trị của tài sản do
việc khai thác, sử dụng; (iv) Thực hiện việc đăng ký thế chấp theo quy định của pháp
luật; (v) Yêu cầu bên thế chấp hoặc người thứ ba giữ tài sản thế chấp giao tài sản đó
cho mình để xử lý khi bên thế chấp không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa
vụ; (vi) Giữ giấy tờ liên quan đến tài sản thế chấp trong trường hợp các bên có thỏa
thuận, trừ trường hợp luật có quy định khác và (vii) Xử lý tài sản thế chấp khi thuộc
trường hợp quy định tại Điều 299 của Bộ luật này Điểm mới:
So với Bộ luật cũ thì Bộ luật Dân sự năm 2015 đã bổ sung một số nghĩa vụ của
bên thế chấp, cụ thể là: (i) Giao giấy tờ liên quan đến tài sản thế chấp trong trường
hợp các bên có thỏa thuận, trừ trường hợp luật có quy định khác; (ii) Bảo quản, giữ
gìn tài sản thế chấp; (ii) Khi tài sản thế chấp bị hư hỏng thì trong một thời gian hợp 13 Downloaded by Anh Tr?n (lananh4@gmail.com) lOMoAR cPSD| 59773091
lý bên thế chấp phải sửa chữa hoặc thay thế bằng tài sản khác có giá trị tương đương,
trừ trường hợp có thỏa thuận khác; (iii) Cung cấp thông tin về thực trạng tài sản thế
chấp cho bên nhận thế chấp; (iv) Giao tài sản thế chấp cho bên nhận thế chấp để xử
lý khi thuộc một trong các trường hợp xử lý tài sản bảo đảm quy định tại Điều 299
của Bộ luật này. Việc bổ sung quy định nêu trên theo chúng tôi là cần thiết trong thực
tiễn giao kết hợp đồng hiện nay, cũng như phù hợp với bản chất pháp lý của hợp đồng
thế chấp là hợp đồng song vụ. Ví dụ như: Trong nhiều trường hợp, các văn bản dưới
luật đã điều chỉnh trực tiếp việc giữ giấy tờ liên quan đến tài sản thế chấp, mà không
tuân theo nguyên tắc tôn trọng sự thỏa thuận của các bên trong quan hệ dân sự… hoặc
nếu bên nhận thế chấp có quyền xử lý tài sản bảo đảm thì pháp luật cũng phải quy
định cụ thể, rõ ràng trách nhiệm giao tài sản thế chấp cho bên nhận thế chấp để xử
lý… Những quy định cụ thể như vậy sẽ hạn chế những tranh chấp phát sinh trong
thực tiễn, cũng như xác định rõ trách nhiệm của bên thế chấp trong mối quan hệ với bên nhận thế chấp.
So với Bộ luật Dân sự năm 2005 thì quyền của bên thế chấp cơ bản được giữ
nguyên. Tuy nhiên, qua rà soát cho thấy, Bộ luật mới đã bổ sung một số nội dung cụ
thể nhằm đáp ứng nhu cầu của thực tiễn, ví dụ như: Quyền nhận lại giấy tờ liên quan
đến tài sản thế chấp; việc thế chấp tài sản là kho hàng… Chúng tôi cho rằng việc bổ
sung quy định liên quan đến thế chấp tài sản là kho hàng trong mối quan hệ với hàng
hóa trong kho là rất cần thiết vì xuất phát từ nhiều lý do khác nhau, không ít kho hàng
trên thực tế đã bị thay thế hàng hóa trong kho, dẫn đến khó khăn trong quá trình kiểm
soát giá trị tài sản thế chấp.
Đối với nghĩa vụ của bên nhận thế chấp, Bộ luật Dân sự năm 2015 đã bỏ nghĩa
vụ “yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền đăng ký giao dịch bảo đảm xóa đăng
ký…” vì việc đăng ký (xóa đăng ký) là quyền của các bên, không phải là nghĩa vụ.
Thay vào đó, Bộ luật Dân sự bổ sung nghĩa vụ “thực hiện thủ tục xử lý tài sản thế
chấp theo đúng quy định của pháp luật”. Theo đánh giá của chúng tôi, quy định này
của Bộ luật Dân sự là cần thiết để tránh tình trạng việc xử lý tài sản thế chấp không
được thực hiện theo đúng quy định của pháp luật, xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp
pháp của chủ sở hữu tài sản.
Trong khi đó, về quyền của bên nhận thế chấp, Bộ luật Dân sự năm 2015 bổ
sung một số quyền như: Thực hiện việc đăng ký thế chấp theo quy định của pháp
luật; Giữ giấy tờ liên quan đến tài sản thế chấp trong trường hợp các bên có thỏa
thuận, trừ trường hợp luật có quy định khác; Xử lý tài sản thế chấp khi thuộc trường
hợp quy định tại Điều 299 của Bộ luật này. Như vậy, với quy định nêu trên, Bộ luật
Dân sự đã tiếp cận việc đăng ký thế chấp là quyền của bên nhận thế chấp vì suy cho
cùng đăng ký thế chấp mang lại quyền lợi chủ yếu và trực tiếp cho bên nhận thế chấp.
Mặt khác, xử lý tài sản thế chấp cũng là quyền của bên nhận thế chấp vì đây là quyền
đặc trưng và cơ bản của chủ nợ có bảo đảm đã được pháp luật giao dịch bảo đảm hiện đại thừa nhận. 14
Downloaded by Anh Tr?n (lananh4@gmail.com) lOMoAR cPSD| 59773091
8.5. Về thế chấp quyền sử dụng đất mà không thế chấp tài sản gắn liền với đất
(Điều 325) và thế chấp tài sản gắn liền với đất mà không thế chấp quyền sử dụng đất (Điều 326)
Bộ luật Dân sự năm 2015 đã xây dựng cơ chế xử lý đồng thời quyền sử dụng
đất và tài sản gắn liền với đất nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc xử lý tài sản bảo
đảm. Trên thực tế, vì đặc tính tự nhiên vốn có của tài sản nên đất và tài sản gắn liền
với đất thường là một thể thống nhất về hiện trạng và tình trạng pháp lý, do vậy, nếu
không có cơ chế xử lý đồng thời trong trường hợp chỉ thế chấp quyền sử dụng đất mà
không thế chấp tài sản gắn liền với đất hoặc chỉ thế chấp tài sản gắn liền với đất mà
không thế chấp quyền sử dụng đất sẽ dẫn đến tình trạng khó khăn trong việc xử lý tài
sản bảo đảm, đặc biệt là vấn đề bán (chuyển quyền sở hữu) tài sản thế chấp cho người
mua. Do vậy, để giải quyết “điểm nghẽn” về xử lý tài sản bảo đảm trong trường hợp
nói trên, trên cơ sở kế thừa và phát triển quy định của khoản 19 Điều 1 Nghị định số
11/2012/NĐ-CP ngày 22/2/2012 của Chính phủ về sửa đổi, bổ sung một số điều của
Nghị định số 163/2006/NĐ-CP ngày 29/12/2006 của Chính phủ về giao dịch bảo
đảm, khoản 1 Điều 325 Bộ luật Dân sự năm 2015 đã quy định: “Trường hợp thế chấp
quyền sử dụng đất mà không thế chấp tài sản gắn liền với đất và người sử dụng đất
đồng thời là chủ sở hữu tài sản gắn liền với đất thì tài sản được xử lý bao gồm cả tài
sản gắn liền với đất, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.”. Tương tự cách tiếp cận
như trên, khoản 1 Điều 326 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định: “Trường hợp chỉ thế
chấp tài sản gắn liền với đất mà không thế chấp quyền sử dụng đất và chủ sở hữu tài
sản gắn liền với đất đồng thời là người sử dụng đất thì tài sản được xử lý bao gồm
cả quyền sử dụng đất, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.”. Đây được xem là giải
pháp quan trọng có tính chất đột phá của Bộ luật Dân sự năm 2015 trong việc tháo
gỡ vướng mắc, khó khăn khi xử lý tài sản bảo đảm trong trường hợp chỉ thế chấp
quyền sử dụng đất mà không thế chấp tài sản gắn liền với đất và ngược lại.
Tuy nhiên, về vấn đề này, cần thống nhất về mặt nhận thức, việc xử lý đồng
thời tài sản gắn liền với đất (trong trường hợp chỉ thế chấp quyền sử dụng đất) hoặc
quyền sử dụng đất (trong trường hợp chỉ thế chấp tài sản gắn liền với đất) nhằm tạo
thuận lợi cho việc xử lý tài sản bảo đảm chứ không đồng nghĩa với việc nó là căn cứ
để xác định tài sản được xử lý đồng thời với tài sản thế chấp cũng trở thành tài sản
thế chấp. Theo đó, trên nguyên tắc, tài sản được xử lý đồng thời không phải là tài sản
thế chấp, nên khoản tiền thu được từ việc bán tài sản này sẽ chỉ được thanh toán cho
bên nhận thế chấp trong trường hợp các bên có thỏa thuận và việc thanh toán sẽ phải
được thực hiện theo quy định của pháp luật.
9. Đặt cọc, ký cược, ký quỹ (Điều 328, 329 và 330)
Với 03 Điều trong Bộ luật Dân sự năm 2015, về cơ bản biện pháp đặt cọc, ký
cược, ký quỹ vẫn giữ nguyên nội dung, tính chất đã được quy định tại Bộ luật Dân sự 15 Downloaded by Anh Tr?n (lananh4@gmail.com) lOMoAR cPSD| 59773091
năm 2005. Tuy nhiên, khi tiếp cận 03 biện pháp này, chúng ta nhận thấy có những
điểm mới cần quan tâm là:
Thứ nhất: Bỏ quy định về hình thức của đặt cọc bắt buộc phải bằng văn bản.
Điều này là cần thiết vì trong nhiều trường hợp, các bên xác lập biện pháp đặt cọc
bằng hành vi, bằng miệng. Sự đa dạng trong hình thức của biện pháp đặt cọc giúp các
bên có thể lựa chọn, quyết định hình thức phù hợp với điều kiện khi giao kết.
Thứ hai: Về chủ thể nhận ký quỹ, Bộ luật Dân sự năm 2015 không chỉ xác định
là ngân hàng, mà mở rộng cả đối với các chủ thể là tổ chức tín dụng phi ngân hàng.
Điều này phù hợp với quy định của Luật các tổ chức tín dụng, cũng như thực tiễn
giao kết hợp đồng ký quỹ thời gian vừa qua.
10. Bảo lưu quyền sở hữu
10.1. Bảo lưu quyền sở hữu là biện pháp bảo đảm mới, lần đầu tiên được Bộ
luật Dân sự năm 2015 quy định tại chế định về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ7. Xét ở
góc độ nghiên cứu, chúng tôi nhận thấy biện pháp này có những đặc điểm cơ bản sau đây: -
Là biện pháp bảo đảm bằng tài sản, phát sinh dựa trên thỏa thuận. Nghĩa
là việc xác lập biện pháp này phải được sự đồng ý của cả 2 bên khi giao kết hợp đồng; -
Bảo lưu quyền sở hữu được xác lập nhằm bảo đảm cho nghĩa vụ thanh
toán được thực hiện đầy đủ theo đúng như thỏa thuận trong hợp đồng mua bán; -
Về hình thức pháp lý: Bảo lưu quyền sở hữu là phải được lập thành văn bản; -
Bảo lưu quyền sở hữu chỉ phát sinh hiệu lực đối kháng với người thứ ba
kể từ thời điểm đăng ký. -
Tài sản là đối tượng của hợp đồng mua bán vẫn thuộc quyền sở hữu của
bên bán trong thời gian bảo lưu quyền sở hữu còn hiệu lực.
10.2. Một số nội dung cụ thể liên quan đến biện pháp bảo lưu quyền sở hữu
được quy định trong Bộ luật Dân sự là: -
Điều 332 quy định về quyền đòi lại tài sản, theo đó “trường hợp bên mua
không hoàn thành nghĩa vụ thanh toán cho bên bán theo thỏa thuận thì bên bán có
quyền đòi lại tài sản. Bên bán hoàn trả cho bên mua số tiền bên mua đã thanh toán
sau khi trừ giá trị hao mòn tài sản do sử dụng. Trường hợp bên mua làm mất, hư hỏng
tài sản thì bên bán có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại”. -
Điều 333 quy định bên mua tài sản có các quyền, nghĩa vụ sau đây: (i)
Sử dụng tài sản và hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài sản trong thời hạn bảo lưu quyền sở
7 Bộ luật Dân sự năm 2005 tuy có đề cập đến bảo lưu quyền sở hữu nhưng ở góc độ của hợp đồng dân sự,
chứ không nhìn nhận như một biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ giống như Bộ luật Dân sự năm 2015. 16
Downloaded by Anh Tr?n (lananh4@gmail.com) lOMoAR cPSD| 59773091
hữu có hiệu lực; (ii) Chịu rủi ro về tài sản trong thời hạn bảo lưu quyền sở hữu, trừ
trường hợp có thỏa thuận khác. -
Điều 334 quy định về chấm dứt bảo lưu quyền sở hữu trong trường hợp:
(i) Nghĩa vụ thanh toán cho bên bán được thực hiện xong; (ii) Bên bán nhận lại tài sản
bảo lưu quyền sở hữu và (iii) Theo thỏa thuận của các bên. 11. Bảo lãnh
11.1. Khái niệm bảo lãnh
Điều 335 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định “Bảo lãnh là việc người thứ ba (
sau đây gọi là bên bảo lãnh) cam kết với bên có quyền (sau đây gọi là bên nhận bảo
lãnh) sẽ thực hiện nghĩa vụ thay cho bên có nghĩa vụ (sau đây gọi là bên được bảo
lãnh), nếu khi đến thời hạn thực hiện nghĩa vụ mà bên được bảo lãnh không thực hiện
hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ” và “Các bên có thể thỏa thuận về việc bên bảo
lãnh chỉ phải thực hiện nghĩa vụ thay cho bên được bảo lãnh trong trường hợp bên
được bảo lãnh không có khả năng thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh”.
Về cơ bản, quy định nêu trên không khác so với Điều 361 Bộ luật Dân sự năm
2005. Như vậy, bảo lãnh với quy định nêu trên sẽ có các đặc điểm cơ bản sau đây:
Thứ nhất: Quan hệ bảo lãnh xét cho cùng là quan hệ giữa người bảo lãnh và
người cho vay (người nhận bảo lãnh). Điều này có nghĩa, hợp đồng bảo lãnh chỉ phát
sinh trên cơ sở có sự chấp thuận ý chí giữa người bảo lãnh và người nhận bảo lãnh.
Thứ hai: Đối tượng của quan hệ bảo lãnh là cam kết về việc người bảo lãnh thực
hiện “nghĩa vụ thay cho bên có nghĩa vụ” ( có thể là toàn bộ hoặc một phần nghĩa
vụ). Đặc điểm này hoàn toàn khác với biện pháp cầm cố hoặc thế chấp, vì nếu xác
lập biện pháp cầm cố hoặc thế chấp thì phải xác định được tài sản cụ thể dùng để bảo
đảm việc thực hiện nghĩa vụ; trong trường hợp nghĩa vụ bảo đảm không được thực
hiện thì người nhận cầm cố (người nhận thế chấp) được quyền xử lý tài sản theo trình
tự, thủ tục do pháp luật quy định để thu hồi nợ.
Thứ ba: Người bảo lãnh là người vay "dự phòng", điều này có nghĩa nghĩa vụ
bảo lãnh chỉ phát sinh khi “bên được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không
đúng nghĩa vụ”. Trong trường hợp áp dụng biện pháp bảo lãnh, người nhận bảo lãnh
phải yêu cầu người được bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ trước, sau đó nếu người được
bảo lãnh không thực hiện (hoặc thực hiện không đúng) thì mới yêu cầu người bảo
lãnh thực hiện nghĩa vụ đối với mình.
11.2. Phạm vi bảo lãnh
Theo quy định tại Điều 336 thì “Bên bảo lãnh có thể cam kết bảo lãnh một
phần hoặc toàn bộ nghĩa vụ cho bên được bảo lãnh” và “Nghĩa vụ bảo lãnh bao gồm
cả tiền lãi trên nợ gốc, tiền phạt, tiền bồi thường thiệt hại, lãi trên số tiền chậm trả, 17 Downloaded by Anh Tr?n (lananh4@gmail.com) lOMoAR cPSD| 59773091
trừ trường hợp có thỏa thuận khác”. Đây là những quy định kế thừa quy định tại Điều
363 Bộ luật Dân sự năm 2005.
Về phạm vi bảo lãnh, Bộ luật Dân sự năm 2015 bổ sung quy định “Các bên có
thể thỏa thuận sử dụng biện pháp bảo đảm bằng tài sản để bảo đảm thực hiện nghĩa
vụ bảo lãnh” và “Trường hợp nghĩa vụ được bảo lãnh là nghĩa vụ phát sinh trong
tương lai thì phạm vi bảo lãnh không bao gồm nghĩa vụ phát sinh sau khi người bảo
lãnh chết hoặc pháp nhân bảo lãnh chấm dứt tồn tại”. Điểm mới nêu trên cho thấy
có những vấn đề sau đây cần lưu ý: -
Các bên có quyền ký kết hợp đồng cầm cố, thế chấp tài sản để bảo đảm
thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh.
Ví dụ: A ký hợp đồng bảo lãnh với B để cho C vay vốn (hợp đồng bảo đảm số
1). Trong trường hợp này, giữa A và B hoàn toàn có quyền ký kết hợp đồng cầm cố
hoặc thế chấp tài sản của A để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh (hợp đồng bảo đảm số 2). -
Các bên có quyền ký hợp đồng bảo lãnh để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ
trong tương lai nhưng nếu nghĩa vụ đó phát sinh sau khi người bảo lãnh chết hoặc
pháp nhân bảo lãnh chấm dứt tồn tại thì nghĩa vụ đó không thuộc phạm vi bảo lãnh.
Ví dụ: A thỏa thuận bảo lãnh cho B vay 01 tỷ đồng của C. Số tiền 01 tỷ này
được thực hiện theo hạn mức, dư nợ không được vượt quá 01 tỷ và được vay nhiều
lần. Tại một thời điểm khi khoản vay mới chỉ có giá trị là 500 triệu đồng thì A chết.
Trong trường hợp này, phạm vi bảo lãnh chỉ xác định là 500 triệu đồng, chứ không
phải 01 tỷ như cam kết bảo lãnh ban đầu. C chỉ được đòi người thừa kế của A phải
thực hiện nghĩa vụ thay cho A trong phạm vi 500 triệu đồng.
11.3. Các vấn đề khác có liên quan -
Các quy định khác có liên quan trong Bộ luật Dân sự năm 2015, ví dụ
như : Thù lao (Điều 337); Nhiều người cùng bảo lãnh (Điều 338); Quan hệ giữa bên
bảo lãnh với bên nhận bảo lãnh (Điều 339); Quyền yêu cầu của bên bảo lãnh (Điều
340) ; Miễn việc thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh (Điều 341); Chấm dứt việc bảo lãnh (
Điều 343) cơ bản được giữ nguyên như quy định của Bộ luật Dân sự năm 2005. -
Bộ luật Dân sự năm 2015 không quy định về xử lý tài sản của bên bảo
lãnh như Điều 369 Bộ luật Dân sự năm 2005, mà thay vào đó là quy định về trách
nhiệm dân sự của bên bảo lãnh (Điều 342). Với cách tiếp cận như vậy, chê định bảo
lãnh trong Bộ luật Dân sự năm 2015 thực sự đã thể hiện được đầy đủ, sâu sắc hơn
bản chất pháp lý của biện pháp bảo đảm đối nhân (nghĩa là không bảo đảm bằng tài
sản) trong quan hệ bảo lãnh. 12. Tín chấp
12.1. Bộ luật Dân sự năm 2015 có 02 điều quy định về biện pháp
tín chấp ( Điều 344 và Điều 345). So với Bộ luật cũ thì số lượng, cũng 18
Downloaded by Anh Tr?n (lananh4@gmail.com) lOMoAR cPSD| 59773091
như nội dung quy định về tín chấp không thay đổi. Theo đó, biện pháp
tín chấp có đặc điểm là: (i) Không có tài sản bảo đảm; (ii) Dựa trên thỏa
thuận bằng văn bản; (iii) Chủ thể của quan hệ này gồm: Tổ chức chính
trị - xã hội ở cơ sở, cá nhân, hộ gia đình nghèo và tổ chức tín dụng; (iv)
Không thuộc trường hợp đăng ký biện pháp bảo đảm.
12.2. Qua rà soát cho thấy, điểm mới của Bộ luật Dân sự năm
2015 so với năm 2005 là: (i) Mở rộng mục đích sử dụng khoản tiền vay
(bổ sung mục đích “tiêu dùng” bên cạnh mục đích “sản xuất, kinh
doanh” của Bộ luật năm 2005) và (ii) Quy định chặt chẽ hơn về hình
thức, nội dung tín chấp (bắt buộc phải có “xác nhận của tổ chức chính
trị - xã hội về điều kiện, hoàn cảnh của bên vay vốn” trong quan hệ tín
chấp). Quy định như vậy là cần thiết, phù hợp với thực tiễn hiện nay
trong việc sử dụng nguồn vốn vay, cũng như ràng buộc trách nhiệm của
tổ chức chính trị - xã hội khi bảo đảm bằng tín chấp.
13. Về cầm giữ tài sản
Cũng như bảo lưu quyền sở hữu, biện pháp cầm giữ tài sản nếu nhìn ở góc độ
biện pháp bảo đảm thì đây là biện pháp mới, lần đầu tiên được quy định tại chế định
này của Bộ luật Dân sự năm 20158. Với số lượng 05 điều (từ Điều 346 đến Điều 350)
, Bộ luật Dân sự năm 2015 đã điều chỉnh các nội dung sau đây : -
Về khái niệm, Điều 346 quy định “cầm giữ tài sản là việc bên có quyền
( sau đây gọi là bên cầm giữ) đang nắm giữ hợp pháp tài sản là đối tượng của hợp
đồng song vụ được chiếm giữ tài sản trong trường hợp bên có nghĩa vụ không thực
hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ”.
Từ khái niệm nêu trên cho thấy, cầm giữ có các đặc điểm là: (i) Biện pháp bảo
đảm bằng tài sản được xác lập không dựa trên yếu tố thỏa thuận (nghĩa là không cần
có sự đồng ý của bên có nghĩa vụ); (ii) Tài sản trong quan hệ cầm giữ là đối tượng
của hợp đồng song vụ, có thể là động sản hoặc bất động sản; (iii) Bên có quyền trong
quan hệ cầm giữ đang nắm giữ hợp pháp tài sản (có yếu tố năm giữ thực tế tài sản)
và (iv) Phát sinh trong trường hợp bên có nghĩa vụ không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ.
Ví dụ: A mang ô tô vào gara của B để sửa chữa ô tô. Do A không thanh toán
tiền công sửa chưa xe nên B đương nhiên có quyền áp dụng biện pháp cầm giữ xe ô
tô của A cho đến khi nghĩa vụ đó được thanh toán đầy đủ. -
Về xác lập cầm giữ tài sản, Điều 347 quy định: “Cầm giữ tài sản phát
sinh từ thời điểm đến hạn thực hiện nghĩa vụ mà bên có nghĩa vụ không thực hiện
8 Điều 416 Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định cầm giữ tài sản trong hợp đồng song vụ với góc độ của thực
hiện hợp đồng dân sự. 19 Downloaded by Anh Tr?n (lananh4@gmail.com) lOMoAR cPSD| 59773091
hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ” và “Cầm giữ tài sản phát sinh hiệu lực đối
kháng với người thứ ba kể từ thời điểm bên cầm giữ chiếm giữ tài sản”.
Từ quy định nêu trên cho thấy, thời điểm phát sinh quyền cầm giữ và thời điểm
đối kháng với người thứ của biện pháp cầm giữ là trùng nhau, vì suy cho cùng đều
bắt đầu từ thời điểm đến hạn thực hiện nghĩa vụ mà bên có nghĩa vụ không thực hiện
hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ. Việc không đăng ký biện pháp bảo đảm không
ảnh hưởng đến hiệu lực đối kháng với người thứ ba của biện pháp cầm giữ tài sản.
Ví dụ: Tiếp theo ví dụ trên, ngay khi A không thực hiện nghĩa vụ thanh toán
tiền công sửa chữa ô tô cho B thì quyền cầm giữ của B phát sinh. Đây cũng chính là
thời điểm phát sinh hiệu lực đối kháng với người thứ ba của biện pháp cầm giữ ( thời
điểm chiếm giữ tài sản ). -
Quyền, nghĩa vụ của bên cầm giữ được Bộ luật Dân sự năm 2015 quy
định tại Điều 348 và Điều 349, trong đó cần lưu ý quyền “yêu cầu bên có nghĩa vụ
phải thực hiện đầy đủ nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng song vụ” và nghĩa vụ“không
được chuyển giao, sử dụng tài sản cầm giữ nếu không có sự đồng ý của bên có nghĩa
vụ”. Quy định nêu trên cho thấy, bên có quyền cầm giữ không được bán, trao đổi…
tài sản cầm giữ nếu không có sự đồng ý của bên có nghĩa vụ để bù trừ vào nghĩa vụ
chưa được thực hiện. Điều này hoàn toàn khác với bên nhận cầm cố tài sản, bên nhận
thế chấp tài sản được quyền xử lý tài sản để thanh toán nghĩa vụ đã đến hạn. -
Điều 350 quy định 05 trường hợp dẫn đến chấm dứt cầm giữ tài sản,
trong đó cần lưu ý trường hợp “bên cầm giữ không còn chiếm giữ tài sản trên thực
tế”. Như vậy, việc chiếm giữ tài sản phải được thực hiện liên tục và nếu vì bất kỳ lý
gì mà dẫn đến việc bên có quyền không còn chiếm giữ tài sản trên thực tế nữa thì cầm
giữ tài sản sẽ bị chấm dứt. III. Kết luận
Bộ luật Dân sự năm 2015 bước đầu đã tiếp cận các biện pháp bảo đảm thực
hiện nghĩa vụ dựa trên một số nền tảng của lý thuyết vật quyền, đồng thời tiếp tục
phát triển những nguyên lý, những quy định còn phù hợp của các Bộ luật Dân sự
trước đó, đặc biệt là Bộ luật Dân sự năm 2005. Cách tiếp cận như vậy là phù hợp với
thực tiễn Việt Nam, cũng như sự phát triển của khoa học pháp lý trong giai đoạn hiện
nay. Tuy nhiên, cùng với sự phát triển của đời sống kinh tế - xã hội, chúng tôi cho
rằng, trong thời gian tới cần tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện chế định này với những
quy định thực sự đầy đủ, toàn diện hơn nhằm giải quyết triệt để những vướng mắc
phát sinh trong thực tiễn, cũng như phù hợp với các nguyên tắc chung về các biện
pháp bảo đảm đã được sự thừa nhận của pháp luật nhiều quốc gia trên thế giới./. TS. Hồ Quang Huy 20
Downloaded by Anh Tr?n (lananh4@gmail.com)