Các trường hợp ly hôn, hạn chế ly hôn - Pháp luật đại cương | Đại học Tôn Đức Thắng
Do đó, có thể hiểu thuận tình ly hôn là việc ly hôn khi có sự đồng ý, thỏa thuận củacả hai vợ chồng. Đồng thời, Điều 55 Luật HN&GĐ quy định về điều kiện để Tòa áncông nhận việc thuận tình ly hôn của hai vợ chồng. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!
Môn: Pháp luật đại cương (PL101)
Trường: Đại học Tôn Đức Thắng
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
1.3. Các trường hợp ly hôn, hạn chế ly hôn 1.3.1. Thuận tình ly hôn
Khoản 14 Điều 3 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 (Luật HN&GĐ) nêu rõ:
Ly hôn là việc chấm dứt quan hệ vợ chồng theo bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án
Trong đó, vợ, chồng hoặc cả hai người đều có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn:
- Nếu chỉ vợ hoặc chồng yêu cầu ly hôn thì thực hiện theo thủ tục ly hôn theo
yêu cầu của một bên (ly hôn đơn phương);
- Nếu cả hai vợ chồng cùng yêu cầu ly hôn thì thực hiện theo thủ tục thuận tình ly hôn.
Do đó, có thể hiểu thuận tình ly hôn là việc ly hôn khi có sự đồng ý, thỏa thuận của
cả hai vợ chồng. Đồng thời, Điều 55 Luật HN&GĐ quy định về điều kiện để Tòa án
công nhận việc thuận tình ly hôn của hai vợ chồng, cụ thể:
- Vợ chồng cùng yêu cầu ly hôn một cách tự nguyện;
- Hai bên đã thỏa thuận được về việc chia tài sản, nuôi con, cấp dưỡng con… trên
cơ sở đảm bảo quyền lợi chính đáng của vợ và con;
- Tòa án công nhận thuận tình ly hôn.
1.3.2. Ly hôn theo yêu cầu một bên
“Điều 56. Ly hôn theo yêu cầu của một bên
1. Khi vợ hoặc chồng yêu cầu ly hôn mà hòa giải tại Tòa án không thành thì Tòa
án giải quyết cho ly hôn nếu có căn cứ về việc vợ, chồng có hành vi bạo lực gia đình
hoặc vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng làm cho hôn nhân lâm
vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được.
2. Trong trường hợp vợ hoặc chồng của người bị Tòa án tuyên bố mất tích yêu cầu
ly hôn thì Tòa án giải quyết cho ly hôn.
3. Trong trường hợp có yêu cầu ly hôn theo quy định tại khoản 2 Điều 51 của Luật
này thì Tòa án giải quyết cho ly hôn nếu có căn cứ về việc chồng, vợ có hành vi bạo
lực gia đình làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính mạng, sức khỏe, tinh thần của người kia.”
1.3.2.1 Đối với trường hợp khi vợ hoặc chồng yêu cầu ly hôn mà hòa giải tại Tòa án không thành
Trường hợp này, Tòa án giải quyết cho ly hôn nếu có các căn cứ về việc vợ, chồng
có hành vi bạo lực gia đình hoặc vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ,
chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể
kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được.
Như vậy, khi có yêu cầu ly hôn của một bên vợ hoặc chổng, Tòa án sẽ tiến hành
điều tra và hòa giải. Nếu hòa giải không thành thì Tòa án sẽ xác định tình trạng hôn
nhân có căn cứ để ly hôn không để giải quyết. Trong đó: Bạo lực gia đình
“Bạo lực gia đình là hành vi cố ý của thành viên gia đình gây tổn hại hoặc có khả
năng gây tổn hại về thể chất, tinh thần, kinh tế đối với thành viên khác trong gia
đình” (Khoản 2, Điều 1 Luật Phòng chống bạo lực gia đình)
Các hành vi bạo lực gia đình bao gồm:
“a) Hành hạ, ngược đãi, đánh đập hoặc hành vi cố ý khác xâm hại đến sức khoẻ, tính mạng;
b) Lăng mạ hoặc hành vi cố ý khác xúc phạm danh dự, nhân phẩm;
c) Cô lập, xua đuổi hoặc gây áp lực thường xuyên về tâm lý gây hậu quả nghiêm trọng;
d) Ngăn cản việc thực hiện quyền, nghĩa vụ trong quan hệ gia đình giữa ông, bà
và cháu; giữa cha, mẹ và con; giữa vợ và chồng; giữa anh, chị, em với nhau;
đ) Cưỡng ép quan hệ tình dục;
e) Cưỡng ép tảo hôn; cưỡng ép kết hôn, ly hôn hoặc cản trở hôn nhân tự nguyện, tiến bộ;
g) Chiếm đoạt, huỷ hoại, đập phá hoặc có hành vi khác cố ý làm hư hỏng tài sản
riêng của thành viên khác trong gia đình hoặc tài sản chung của các thành viên gia đình;
h) Cưỡng ép thành viên gia đình lao động quá sức, đóng góp tài chính quá khả
năng của họ; kiểm soát thu nhập của thành viên gia đình nhằm tạo ra tình trạng
phụ thuộc về tài chính;
i) Có hành vi trái pháp luật buộc thành viên gia đình ra khỏi chỗ ở.”
1.3.2.2. Tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của
hôn nhân không đạt được
Điều 8 Nghị quyết số 02/2000/NQ-HĐTP hướng dẫn một số nội dung Luật hôn
nhân và gia đình 2000 đã đưa ra hướng dẫn khá chi tiết về vấn đề này. Tuy quy định
này đã hết hiệu lực thi hành nhưng vẫn được sử dụng với tính chất định hướng trong
thực tiễn xét xử. Cụ thể như sau:
“…a.1. Được coi là tình trạng của vợ chồng trầm trọng khi:
– Vợ, chồng không thương yêu, quý trọng, chăm sóc, giúp đỡ nhau như người
nào chỉ biết bổn phận người đó, bỏ mặc người vợ hoặc người chồng muốn sống
ra sao thì sống, đã được bà con thân thích của họ hoặc cơ quan, tổ chức, nhắc
nhở, hoà giải nhiều lần.
– Vợ hoặc chồng luôn có hành vi ngược đãi, hành hạ nhau, như thường xuyên
đánh đập, hoặc có hành vi khác xúc phạm đến danh dự, nhân phẩm và uy tín của
nhau, đã được bà con thân thích của họ hoặc cơ quan, tổ chức, đoàn thể nhắc
nhở, hoà giải nhiều lần.
– Vợ chồng không chung thuỷ với nhau như có quan hệ ngoại tình, đã được
người vợ hoặc người chồng hoặc bà con thân thích của họ hoặc cơ quan, tổ
chức, nhắc nhở, khuyên bảo nhưng vẫn tiếp tục có quan hệ ngoại tình;
Như vậy, Tòa án sẽ căn cứ vào những tình trạng trên của vợ chồng để quyết định cho vợ chồng ly hôn.
1.3.2.3. Đối với trường hợp vợ hoặc chồng của người bị Tòa án tuyên bố mất
tích yêu cầu ly hôn thì Tòa án giải quyết cho ly hôn.
Ở trường hợp này, tuyên bố mất tích của Tòa án đối với một người sẽ là căn cứ
để Tòa án cho ly hôn khi có yêu cầu ly hôn của vợ hoặc chồng của người mất tích.
Trong đó, tuyên bố mất tích là một sự kiện pháp lý nhằm xác định một người cụ
thể “hoàn toàn không rõ tung tích, cũng không rõ còn sống hay đã chết” (theo từ
điển tiếng Việt). Tuyên bố mất tích được quy định tại Điều 68 Bộ luật dân sự 2015:
“ Khi một người biệt tích 02 năm liền trở lên, mặc dù đã áp dụng đầy đủ các
biện pháp thông báo, tìm kiếm theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự
nhưng vẫn không có tin tức xác thực về việc người đó còn sống hay đã chết thì
theo yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan, Tòa án có thể tuyên bố người đó mất tích.…”
Trường hợp đồng thời yêu cầu Tòa án tuyên bố mất tích và yêu cầu Tòa án giải
quyết ly hôn, Tòa án chỉ giải quyết cho ly hôn có bằng chứng chứng minh được
chồng hoặc vợ đã biệt tích từ hai năm trở lên kể từ ngày có tin tức cuối cùng về
chồng (vợ), mặc dù đã áp dụng đầy đủ các biện pháp thông báo, tìm kiếm theo quy
định của pháp luật tố tụng dân sự nhưng vẫn không có tin tức xác thực về việc
người đó còn sống hay đã chết.
1.3.2.4.Đối với trường hợp có yêu cầu ly hôn theo quy định tại khoản 2 Điều 51
Luật hôn nhân gia đình 2014
Đây là trường hợp “Cha, mẹ, người thân thích khác có quyền yêu cầu Tòa án
giải quyết ly hôn khi một bên vợ, chồng do bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác
mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của mình, đồng thời là nạn nhân
của bạo lực gia đình do chồng, vợ của họ gây ra làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến
tính mạng, sức khỏe, tinh thần của họ.” (khoản 2 Điều 51).
Ở trường hợp này, Tòa án giải quyết cho ly hôn nếu có căn cứ về việc chồng, vợ
có hành vi bạo lực gia đình làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính mạng, sức khỏe,
tinh thần của người kia. 1.3.3. Hạn chế ly hôn
1.3.3.1. Quy định của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 về hạn chế quyền yêu cầu ly hôn :
Vợ chồng bình đẳng về quyền yêu cầu ly hôn. Trong suốt thời kì hôn nhân, vợ
chồng đều có quyền yêu cầu ly hôn như nhau, không ai được cưỡng ép, lừa dối,
cản trở vợ, chồng hoặc cả hai vợ chồng trong việc thực hiện quyền yêu cầu ly hôn
của vợ, chồng. Tuy nhiên, xuất phát từ nguyên tắc giúp đỡ các bà mẹ thực hiện tốt
chức năng cao quý của người mẹ được quy định tại Khoản 4 Điều 2 Luật hôn nhân
và gia đình năm 2014, và nhằm mục đích bảo vệ lợi ích của xã hội, Khoản 3 Điều
51 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định hạn chế quyền yêu cầu ly hôn
của người chồng như sau : “3. Chồng không có quyền yêu cầu ly hôn trong trường
hợp vợ đang có thai, sinh con hoặc đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi.”
1.3.3.2. Chủ thể bị hạn chế quyền yêu cầu ly hôn
- Theo quy định tại Khoản 3 Điều 51 Luật hôn nhân và gia đình, người
chồng không có quyền yêu cầu ly hôn với tư cách nguyên đơn trong
trường hợp người vợ đang có thai, sinh con hoặc nuôi con dưới mười hai
tháng tuổi. Việc hạn chế quyền yêu cầu ly hôn này sẽ chấm dứt khi người
vợ đã qua thời kì mang thai, sinh con hoặc nuôi con dưới 12 tháng tuổi.
Như vậy, trong trường hợp người vợ đã bị sảy thai thì quyền yêu cầu ly
hôn của người chồng được phục hổi.
- Quy định hạn chế quyền yêu cầu ly hôn tại Khoản 3 Điều 51 luật hôn nhân
và gia đình năm 2014 chỉ đặt ra đối với người chồng mà không áp dụng
đối với người vợ. Trong thời gian người vợ đang có thai, sinh con hoặc
nuôi con dưới 12 tháng tuổi, nếu xét thấy mâu thuẫn vợ chồng đã quá sâu
sắc, mục đích của hôn nhân không đạt được, việc tiếp tục duy trì hôn nhân
sẽ gây bất lợi cho quyền lợi của người vợ, ảnh hưởng đến sức khỏe của
người vợ, thai nhi hoặc trẻ sơ sinh mà người vợ có yêu cầu ly hôn thì tòa
án thụ lí giải quyết vụ kiện theo thủ tục chung. Đây là một trong những
quy định thể hiện tính nhân đạo sâu sắc của pháp luật hôn nhân và gia
đình. Quyền lợi của trẻ em và phụ nữ có thai được pháp luật tôn trọng, đề
cao và bảo vệ chặt chẽ.
- Điều này được áp dụng ngay cả trong trường hợp người vợ đang mang thai
với người khác hoặc bố của đứa trẻ là ai thì người chồng vẫn bị hạn chế
quyền ly hôn. Điều này cho thấy trong trường hợp người chồng phát hiện
vợ ngoại tình và đứa con vợ mình đang mang thai, mới sinh hay dưới 12
tháng tuổi không phải là con của mình thì vẫn bị hạn chế quyền ly hôn tức
là không được quyền yêu cầu Tòa án cho ly hôn.
- Điều luật quy định người vợ đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi thì liệu con
nuôi của hai vợ chồng thì người chồng có được yêu cầu ly hôn không?
Điều này vẫn còn gây bối rối trong việc giải quyết của các Tòa. Có Tòa thì
không hạn chế ly hôn của người chồng khi đang nhận con nuôi, vì người
vợ không bị tổn hại sức khỏe, tâm lý không bị ảnh hưởng nhiều nên người
chồng có quyền yêu cầu ly hôn. Ở đây chỉ xét đến trường hợp con của vợ
chồng trong thời kỳ hôn nhân. Hay Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014
mới có quy định về việc mang thai hộ, nếu người vợ vì mục đích nhân
đạo, đang trong thời gian mang thai hộ hoặc đang trong thời gian sinh con
hộ thì liệu người chồng có được yêu cầu ly hôn không? Luật Hôn nhân và
gia đình năm 2014 chưa có văn bản hướng dẫn các trường hợp cụ thể. Căn
cứ về nguyên tắc bảo vệ phụ nữ và trẻ em suy ra trong trường hợp người
vợ đang mang thai hộ hoặc sinh con hộ, thì người chồng vẫn bị hạn chế ly hôn.
- Cần lưu ý rằng, khi vợ, chồng không thể bộc lộ ý chí do bị bệnh tâm thần
hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhân thức, làm chủ được hành vi của
mình mà dẫn tới việc được xác định mà mất hành vi năng lực dân sự thì
người vợ, chồng đó cũng không thể thực hiện quyền yêu cầu ly hôn.
Trường hợp này không được coi là hạn chế quyền yêu cầu ly hôn vì đây là
trường hợp mà bản thân người mất năng lực hành vi dân sự không có khả
năng tự thực hiện quyền của mình.
1.4. Vấn đề pháp lý và thẩm quyền của tòa án
1.4.1. Thuận tình ly hôn theo Điều 55 Luật Hôn nhân và gia đình 2014
Trong trường hợp vợ chồng cùng yêu cầu ly hôn, nếu xét thấy hai bên thật sự tự
nguyện ly hôn và đã thỏa thuận về việc chia tài sản, việc trông nom, nuôi dưỡng,
chăm sóc, giáo dục con trên cơ sở bảo đảm quyền lợi chính đáng của vợ và con thì
Tòa án công nhận thuận tình ly hôn; nếu không thỏa thuận được hoặc có thỏa thuận
nhưng không bảo đảm quyền lợi chính đáng của vợ và con thì Tòa án giải quyết việc ly hôn.
1.4.2. Ly hôn theo yêu cầu của một bên theo Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình 2014
- Khi vợ hoặc chồng yêu cầu ly hôn mà hòa giải tại Tòa án không thành thì
Tòa án giải quyết cho ly hôn nếu có căn cứ về việc vợ, chồng có hành vi
bạo lực gia đình hoặc vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ,
chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung
không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được.
- Trong trường hợp vợ hoặc chồng của người bị Tòa án tuyên bố mất tích
yêu cầu ly hôn thì Tòa án giải quyết cho ly hôn.
- Trong trường hợp có yêu cầu ly hôn theo quy định tại khoản 2 Điều 51 của
Luật này thì Tòa án giải quyết cho ly hôn nếu có căn cứ về việc chồng, vợ
có hành vi bạo lực gia đình làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính mạng,
sức khỏe, tinh thần của người kia. 1.5. Thủ tục ly hôn 1.5.1. Nơi nộp đơn
Vợ/chồng nộp hồ sơ để làm thủ tục ly hôn tại Tòa án nhân dân quận/huyện nơi cả hai
đang cư trú hoặc nơi làm việc của vợ hoặc chồng. Hoặc nơi cư trú, nơi làm việc của
bị đơn (chồng hoặc vợ) trong trường hợp là đơn phương ly hôn.
1.5.2. Giấy tờ cần khi ly hôn
Những giấy tờ cần thiết để làm thủ tục ly hôn gồm có:
- Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn (bản chính)
- Giấy khai sinh của con (nếu có con chung, bản sao có chứng thực)
- Sổ hộ khẩu gia đình (bản sao có chứng thực)
- Giấy tờ chứng minh quyền sở hữu đối với tài sản chung (nếu có tài sản
chung, bản sao có chứng thực)
- Chứng minh nhân dân của vợ và chồng (bản sao có chứng thực)
Ngoài ra, một số trường hợp khác như:
- Trường hợp bạn không giữ Giấy chứng nhận kết hôn thì có thể liên hệ trực
tiếp đến cơ quan hộ tịch nơi đã đăng ký kết hôn để xin cấp bản sao.
- Trường hợp bạn không có Chứng minh nhân dân của vợ/chồng thì làm theo
hướng dẫn của Tòa án để có thể nộp giấy tờ tùy thân khác thay thế.
- Trong trường hợp đơn phương ly hôn thì cần dùng Mẫu đơn xin ly hôn đơn
phương được ban hành kèm theo Nghị quyết số 01/2017/NQ-HĐTP. Nếu
trường hợp thuận tình ly hôn sẽ dùng Mẫu đơn xin ly hôn thuận tình. 1.5.3. Lệ phí
Mức án phí sẽ áp dụng khi giải quyết thủ tục ly hôn được quy định tại Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 như sau:
- Án phí Dân sự, hôn nhân gia đình sơ thẩm không có giá ngạch là: 300.000 đồng
- Án phí trong trường hợp giải quyết thủ tục ly hôn có xảy ra tranh chấp về tài
sản, sẽ áp dụng như sau:
Từ 6.000.000 đồng trở xuống: Mức án phí là 300.000 đồng;
Từ trên 6.000.000 đồng đến 400.000.000 đồng: Mức án phí là 5% giá
trị tài sản có tranh chấp;
Từ 400.000.000 đồng đến 800.000.000 đồng: Mức án phí là 20.000.
000 đồng + 4% của phần giá trị tài sản có tranh chấp vượt quá 400.000.000 đồng;
Từ 800.000.000 đồng đến 2.000.000.000 đồng: Mức án phí là
36.000.000 đồng + 3% của phần giá trị tài sản có tranh chấp vượt 800.000.000 đồng;
Từ 2.000.000.000 đồng đến 4.000.000.000 đồng: Mức án phí là
72.000.000 đồng + 2% của phần giá trị tài sản có tranh chấp vượt 2.000.000.000 đồng;
Trên 4.000.000.000 đồng: Mức án phí là 112.000.000 đồng + 0,1% của
phần giá trị tài sản tranh chấp vượt 4.000.000.000 đồng.
1.6. Quan hệ pháp lý sau ly hôn
1.6.1. Quan hệ nhân thân giữa hai vợ chồng
Theo quy định tại điều 57 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014: “Quan hệ hôn nhân
chấm dứt kể từ ngày bản án, quyết định ly hôn của Tòa án có hiệu lực pháp luật”
- Các quyền và nghĩa vụ về nhân thân giữa vợ và chồng sẽ đương nhiên chấm
dứt. Giữa hai bên sẽ không còn tồn tại nghĩa vụ phải thương yêu, chung thủy,
tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau; cùng nhau chia sẻ, thực hiện
các công việc trong gia đình; chấm dứt quyền đại diện cho nhau giữa vợ và
chồng các quyền, nghĩa vụ khác theo quy định của luật Hôn nhân và gia đình.
- Kể từ thời điểm bản án; quyết định của Tòa án giải quyết ly hôn có hiệu lực
pháp luật thì cá nhân đó là người độc thân. Họ hoàn toàn có thể kết hôn lần
thứ 2 với một người khác mà không phải chịu bất kỳ một sự ràng buộc nào từ bên còn lại.
1.6.2. Quan hệ tài sản của vợ chồng khi ly hôn
1.6.2.1. Đối với tài sản riêng của mỗi bên
+ Tài sản riêng của vợ, chồng gồm:
– Tài sản mà mỗi người có trước khi kết hôn;
– Tài sản được thừa kế riêng, được tặng cho riêng trong thời kỳ hôn nhân;
– Tài sản được chia riêng cho vợ, chồng trong thời ký hôn nhân;
– Tài sản phục vụ nhu cầu thiết yếu của vợ, chồng và tài sản khác mà theo
quy định của pháp luật thuộc sở hữu riêng của vợ, chồng.
Cụ thể, theo các quy định tại các điều 38, 39 và 40 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014:
“Khi hôn nhân tồn tại, vợ chồng có quyền thỏa thuận chia một phần
hoặc toàn bộ tài sản chung; việc chia tài sản chung phải lập thành văn
bản; nếu không thoả thuận được thì có quyền yêu cầu Toà án giải quyết.”
“Trong trường hợp chia tài sản chung của vợ chồng thì phần tài sản
được chia, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng của mỗi bên sau khi
chia tài sản chung là tài sản riêng của vợ, chồng, trừ trường hợp vợ
chồng có thỏa thuận khác. Phần tài sản còn lại không chia vẫn là tài sản chung của vợ chồng".
+ Tài sản riêng sau ly hôn:
Tài sản riêng khi ly hôn: Tài sản riêng của vợ, chồng thuộc quyền sở
hữu của người đó, trừ trường hợp tài sản riêng đã nhập vào tài sản chung
Quyền sử dụng đất là tài sản riêng của bên nào thì khi ly hôn vẫn thuộc về bên đó.
Nhà ở thuộc sở hữu riêng của vợ, chồng đã đưa vào sử dụng chung thì
khi ly hôn vẫn thuộc sở hữu riêng của người đó
Sáp nhập, trộn lẫn tài sản riêng vào tài sản chung: Trong trường hợp có
sự sáp nhập, trộn lẫn giữa tài sản riêng với tài sản chung mà vợ, chồng
có yêu cầu về chia tài sản thì được thanh toán phần giá trị tài sản của
mình đóng góp vào khối tài sản đó, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác.
1.6.2.2. Đối với tài sản chung của vợ chồng
Tài sản chung của vợ chồng bao gồm:
Tài sản do vợ, chồng tạo ra.
Thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh.
Hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng.
Thu nhập hợp pháp khác trong thời kỳ hôn nhân, trừ trường hợp hoa lợi,
lợi tức phát sinh từ tài sản riêng của mỗi bên sau khi chia tài sản chung.
Tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và
tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung.
Quyền sử dụng đất mà vợ, chồng có được sau khi kết hôn là tài sản
chung của vợ chồng, trừ trường hợp vợ hoặc chồng được thừa kế riêng,
được tặng cho riêng hoặc có được thông qua giao dịch bằng tài sản riêng.
Trong trường hợp không có căn cứ để chứng minh tài sản mà vợ, chồng
đang có tranh chấp là tài sản riêng của mỗi bên thì tài sản đó được coi là tài sản chung.
Tài sản chung của vợ chồng sau ly hôn
Việc chia tài sản khi ly hôn do các bên thỏa thuận; nếu không thỏa
thuận được thì theo yêu cầu của vợ, chồng hoặc của hai vợ chồng, Tòa án sẽ giải quyết
Vợ, chồng đang thực hiện hoạt động kinh doanh liên quan đến tài sản
chung có quyền được nhận tài sản đó và phải thanh toán cho bên kia
phần giá trị tài sản mà họ được hưởng, trừ trường hợp pháp luật về kinh doanh có quy định khác.
Tài sản chung của vợ chồng được chia đôi nhưng có tính đến các yếu tố:
Hoàn cảnh của gia đình và của vợ, chồng.
Công sức đóng góp của vợ, chồng vào việc tạo lập, duy trì và phát triển
khối tài sản chung. Lao động của vợ, chồng trong gia đình được coi như lao động có thu nhập.
Bảo vệ lợi ích chính đáng của mỗi bên trong sản xuất, kinh doanh và
nghề nghiệp để các bên có điều kiện tiếp tục lao động tạo thu nhập.
Lỗi của mỗi bên trong vi phạm quyền, nghĩa vụ của vợ chồng.
Cách thức chia tài sản: Tài sản chung của vợ chồng được chia bằng hiện
vật, nếu không chia được bằng hiện vật thì chia theo giá trị, bên nào nhận
phần tài sản bằng hiện vật có giá trị lớn hơn phần mình được hưởng thì
phải thanh toán cho bên kia phần chênh lệch.
1.6.3. Quyền nuôi con và nghĩa vụ cấp dưỡng 1.6.3.1. Quyền nuôi con
Sau khi ly hôn, vợ chồng vẫn có nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, giáo dục,
nuôi dưỡng con chưa thành niên hoặc đã thành niên bị tàn tật, mất năng lực
hành vi dân sự, không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình
Vợ chồng có thể thỏa thuận với nhau để vợ hoặc chồng là người trực
tiếp nuôi dạy, chăm sóc con và người kia có nghĩa vụ cấp dưỡng. Nếu
con từ 7 tuổi đến dưới 18 tuổi Tòa án sẽ triệu tập để lấy lời khai về
nguyện vọng sống với bố hoặc mẹ.
Trường hợp vợ chồng không thỏa thuận được với nhau về người trực
tiếp nuôi con thì có thể yêu cầu Tòa án quyết định người được trực tiếp
nuôi con dựa trên những nguyên tắc cơ bản sau:
Nếu con dưới 36 tháng tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi, trừ
trường hợp người mẹ không đủ điều kiện để trực tiếp trông nom,
chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con hoặc cha mẹ có thỏa thuận khác
phù hợp với lợi ích của con.
Nếu con trên 3 tuổi thì quyền nuôi con của cha, mẹ là như nhau. Tòa
án sẽ căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con và phải xem xét đến
nguyện vọng của con muốn được sống trực tiếp với ai để quyết định
việc trao quyền nuôi con cho vợ hoặc chồng.
1.6.3.2. Nghĩa vụ cấp dưỡng
Nếu cha, mẹ là người không trực tiếp nuôi con thì phải có nghĩa vụ cấp dưỡng
nuôi con để người kia chăm sóc, nuôi dưỡng đến khi trưởng thành.
- Mức cấp dưỡng do người có nghĩa vụ cấp dưỡng và người được cấp dưỡng
hoặc người giám hộ của người đó thỏa thuận căn cứ vào thu nhập, khả năng
thực tế của người có nghĩa vụ cấp dưỡng và nhu cầu thiết yếu của người
được cấp dưỡng; nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết.
- Khi có lý do chính đáng, mức cấp dưỡng có thể thay đổi. Việc thay đổi mức
cấp dưỡng do các bên thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết.
Như vậy, pháp luật không quy định cụ thể mức cấp dưỡng là bao nhiêu mà phải
căn cứ vào thu nhập, khả năng thực tế của người có nghĩa vụ cấp dưỡng, nhu
cầu thiết yếu của người được cấp dưỡng và đương nhiên những chi phí này là chi phí hợp lý.