-
Thông tin
-
Quiz
Các yếu tố ảnh hưởng đến sự hình thành và phát triển nhân cách | Tiểu luận Tâm lí học đại cương
Khi xem xét hay đánh giá một con người, chúng ta thường hay nói đến “nhân cách” của người đó. Nó như là tiền đề để ta nhìn nhận giá trị, bản chất một con người. Khi nhận thức được bản chất của một người ta sẽ có cơ sở quyết định mối quan hệ với người đó. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời đọc đón xem!
tâm lí học đại cương 44 tài liệu
Học viện Báo chí và Tuyên truyền 2.5 K tài liệu
Các yếu tố ảnh hưởng đến sự hình thành và phát triển nhân cách | Tiểu luận Tâm lí học đại cương
Khi xem xét hay đánh giá một con người, chúng ta thường hay nói đến “nhân cách” của người đó. Nó như là tiền đề để ta nhìn nhận giá trị, bản chất một con người. Khi nhận thức được bản chất của một người ta sẽ có cơ sở quyết định mối quan hệ với người đó. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời đọc đón xem!
Môn: tâm lí học đại cương 44 tài liệu
Trường: Học viện Báo chí và Tuyên truyền 2.5 K tài liệu
Thông tin:
Tác giả:




















Tài liệu khác của Học viện Báo chí và Tuyên truyền
Preview text:
HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN KHOA KINH TẾ TIỂU LUẬN Môn học TÂM LÝ HỌC ĐẠI CƯƠNG Đề tài
CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN NHÂN CÁCH
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thanh Nga
Lớp: Quản lý kinh tế K36 MSV: 1655270031 Năm học 2021 – 2022 0 MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU................................................................................................2
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG.............................................................................3
1. Khái niệm con người.....................................................................................................3
2. Khái niệm về nhân cách................................................................................................5
3. Khái niệm về sự phát triển nhân cách...........................................................................6
II. CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
NHÂN CÁCH....................................................................................................8
1. Bẩm sinh - di truyền và sự phát triển của nhân cách.....................................................8
2. Môi trường và sự phát triển nhân cách........................................................................10
3. Giáo dục và sự phát triển nhân cách...........................................................................13
4. Hoạt động của cá nhân và sự phát triển nhân cách.....................................................15
5. Giao tiếp và sự phát triển nhân cách...........................................................................17
III. SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN NHÂN CÁCH Ở VIỆT NAM HIỆN
NAY................................................................................................................19
KẾT LUẬN.....................................................................................................20 1 PHẦN MỞ ĐẦU
Khi xem xét hay đánh giá một con người, chúng ta thường hay nói đến “nhân cách”
của người đó. Nó như là tiền đề để ta nhìn nhận giá trị, bản chất một con người. Khi
nhận thức được bản chất của một người ta sẽ có cơ sở quyết định mối quan hệ với
người đó. Vì vậy sự hình thành, phát triển và hoàn thiện nhân cách con người là rất
quan trọng và luôn được quan tâm trong xã hội. Tuy nhiên chúng ta đều biết rằng nhân
cách không phải ngay từ khi sinh ra đã có. Không ai nói đến nhân cách với một đứa trẻ
mới sinh. Nhân cách là cấu tạo mới do từng người tự hình thành nên và phát triển trong
quá trình sống, giao tiếp, học tập, lao động, hoạt động xã hội, vui chơi… Nhân cách
không có sẵn bằng cách bộc lộ dần dần các xung động bản năng nguyên thuỷ mà một
lúc nào đó bị kiềm chế, chèn ép. Theo đó, nhân cách là đặc trưng xã hội, là “phẩm chất
xã hội” của con người.
Tóm lại nhân cách được hình thành và phát triển do rất nhiều yếu tố, khi nghiên cứu
về nhân cách thì những nhân tố là vấn đề đầu tiên và then chốt cần phải nhắc đến. Trong
phạm vi bài tiểu luận này, em xin phân tích 4 yếu tố ảnh hưởng đến việc hình thành và
phát triển nhân cách đó là yếu tố di truyền, môi trường - hoàn cảnh xã hội, nhân tố giáo
dục, nhân tố hoạt động và nhân tố giao tiếp. 2 I. CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG 1. Khái niệm con người
1.1. Quan điểm về con người trong triết học trước Mác.
Con người tồn tại là con người thần bí
Những người theo quan điểm này cho rằng, bản chất con người do "thiên mệnh" chi
phối và quyết định. Vì thế, họ xem con người là sản phẩm của Thượng đế sáng tạo ra.
Mọi số phận, niềm vui, nỗi buồn, sự may rủi của con người đều do Thượng đế xếp đặt.
Trí tuệ con người thấp hơn lý chí anh minh sáng suốt của Thượng đế.
Con người tồn tại là con người bản năng
Mặc dù xem con người là một thực thể có trí tuệ nhưng những người theo trường
phái này chưa nhận thức đầy đủ bản chất con người cả về mặt sinh học và về mặt xã
hội. Con người mới chỉ được nhấn mạnh về mặt cá thể mà xem nhẹ mặt xã hội.
Theo Phoiơbắc, con người là do sự vận động của thế giới vật chất tạo nên, là kết quả
của sự phát triển của thế giới tự nhiên. Con người và tự nhiên là thống nhất, không thể
tách rời. Phoiơbắc đề cao trí tuệ của con người với tính cách là những cá thể người. Đó
là những con người cá biệt, đa dạng, phong phú, không ai giống ai. Quan điểm này dựa
trên nền tảng duy vật, đề cao yếu tố tự nhiên, cảm tính, nhằm giải phóng cá nhân con
người. Tuy nhiên, Phoiơbắc không thấy được bản chất xã hội trong đời sống con người,
tách con người khỏi những điều kiện lịch sử cụ thể.
Có thể khái quát rằng, các quan niệm về con người trong triết học trước Mác đều
xem xét con người một cách trừu tượng, tuyệt đối hoá mặt tinh thần hoặc thể xác con
người, tuyệt đối hoá mặt tự nhiên - sinh học mà không thấy mặt xã hội trong đời sống
con người. Tuy vậy, một số trường phái triết học vẫn đạt được một số thành tựu trong
việc phân tích, quan sát con người, đề cao lý tính, xác lập các giá trị về nhân bản học để
hướng con người tới tự do. Đó là những tiền đề có ý nghĩa cho việc hình thành tư tưởng
về con người của triết học mácxít.
1.2. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về con người 3
Mỗi con người sinh ra trước hết là một thực thể tự nhiên. Con người chịu sự chi phối
của các qui luật tự nhiên phức tạp. mỗi con người lại sống trong xã hội, là sản phẩm của
nền văn minh. Sự phát triển của con người lại bị chi phối bởi các qui luật xã hội.
Con người có tính xã hội - lịch sử
Khác hẳn với những quan điểm trên đây, chủ nghĩa Mác-Lênin đã đưa ra quan điểm
rất khoa học về bản chất con người: “…bản chất con người không phải là cái gì chung
chung, trừu tượng, cố hữu của mỗi cá nhân riêng biệt, trong tính hiện thực của nó, bản
chất con người là tổng hoà các mối quan hệ xã hội”. (R Marx Luận cương về Feuerbach, 1775-1833)
Như vậy, theo quan niệm của Mác, bản chất con người có tính xã hội -lịch sử. Con
người là sản phẩm của những mối quan hệ xã hội mà người đó tham gia. Nói cách khác,
bản chất con người là nhu cầu, hứng thú, năng lực… của người đó được hình thành và
phát triển trong quá trình sống khi họ khi tham gia hoạt đông sản xuất, tham gia đấu
tranh xã hội, tham gia quá trình thiết lập và vận hành các mối quan hệ xã hội, quan hệ
giữa con người với con người.
Con nguời có tính tích cực hành động
Sống trong xã hội, con người vừa là khách thể, vừa là chủ thể trong các quan hệ xã
hội đó. Con người không chỉ chịu sự tác động của các mối quan hệ xã hội một cách thụ
động mà còn phát huy tính tích cực hành động của mình để tiếp thu theo chiều hướng
nhất định sự ảnh hưởng của các quan hệ đó bằng cách thiết lập, vận hành các mối quan
hệ xã hội và cải tạo nó. Vì thế, thông qua các mối quan hệ xã hội, với tính tích cực hành
động của mình, con người đã cải tạo hoàn cảnh và cải tạo bản thân.
Tính tích cực hành động của con người biểu hiện ở nhiều lĩnh vực khác nhau: học
tập, lao động sản xuất, chiến đấu, tu dưỡng, rèn luyện bản thân.Tính tích cực hành động
của con người phụ thuộc vào sự phát triển của các quan hệ xã hội. Trong điều kiện của
những quan hệ xã hội tốt đẹp, tính tích cực hành động được phát huy đầy đủ về các mặt.
Do vậy, muốn phát huy tính hành động tích cực của con người, cần phải xây dựng các
mối quan hệ xã hội tốt. 4
Trong thực tế, con người không chỉ chịu sự tác động của hoàn cảnh bên ngoài một
cách thụ động. Đứng trước hoàn cảnh con người lựa chọn một cách có ý thức những
yếu tố tích cực của hoàn cảnh, và ở mức độ cao hơn con người còn cải biến hoàn cảnh
làm cho nó phù hợp với yêu cầu phát triển của con người.
Như vậy, với tính tích cực hành động của mình, con người sáng tạo ra hoàn cảnh và
do đó hoàn cảnh ảnh hưởng trở lại đối với con người. Do vậy, con người sáng tạo nên
hoàn cảnh bao nhiêu thì hoàn cảnh tạo nên con người bấy nhiêu.
2. Khái niệm về nhân cách
Nhân cách là khái niệm được định nghĩa theo nhiều cách khác nhau nhưng các tác
giả đều nhấn mạnh đến tính xã hội của con người, bao gồm những phẩm chất đặc trưng
tạo thành phẩm giá, cái có giá trị xã hội.
Vì vậy, nhân cách được hiểu là bộ mặt tâm lý đặc trưng của một cá nhân với tổ hợp
những phẩm chất phù hợp với những giá trị và chuẩn mực xã hội, được xã hội thừa nhận.
Nhân cách là hệ thống những phẩm giá của một người được đánh giá từ mối quan hệ
qua lại của người đó với những người khác, với tập thể, với xã hội và với thế giới tự
nhiên xung quanh trong mọi cái nhìn xuyên suốt quá khứ, hiện tại và tương lai. Nhân
cách là một thứ giá trị được xây dựng và hình thành trong toàn bộ thời gian con người
tồn tại trong xã hội, nó đặc trưng cho mỗi con người, thể hiện những phẩm chất bên
trong con người nhưng lại mang tính xã hội sâu sắc. Nhân cách được hình thành và phát
triển là nhờ những quan hệ xã hội mà trong đó cá nhân đang lớn lên và đang biến đổi ấy
bắt đầu quá trình hoạt động sống của mình.
Cũng trong quá trình hình thành và phát triển nhân cách của con người, hàng loạt
đặc điểm, thuộc tính, thái độ … của họ được biến đổi và trở thành những dặc điểm,
thuộc tính mang tính người đích thực- tính xã hội – tính đạo đức. Khi nói đến nhân
cách, người ta thường nhấn mạnh đến những yếu tố quan trọng của nhân cách là định
hướng giá trị, bao gồm: Các giá trị tư tưởng, các giá trị đạo đức, các giá trị nhân văn.
Hệ thống các giá trị này được hình thành và củng cố bởi năng lực nhận thức, kinh
nghiệm sống của mỗi cá nhân trong quá trình thể nghiệm lâu dài. 5
Nội dung của định hướng giá trị là niềm tin chính trị, thế giới quan, đạo đức của con
người cũng như những khát vọng sâu xa, những nguyên tắc sống của họ. Định hướng
giá trị luôn gắn liền với việc giải quyết những mâu thuẫn trong hệ động cơ, trong cuộc
đấu tranh giữa nghĩa vụ và sự ham muốn, giữa hành vi đạo đức và những khích thích thực dụng.
Người Việt Nam ta, khi nói đến nhân cách thường quan niệm đó là sự thống nhất
biện chứng giữa các mặt đức và tài của con người. Sự hài hoà giữa đức và tài chính là
những đặc điểm có ý nghĩa xã hội, có giá trị xã hội. Bác Hồ đã từng nói: “Có tài mà
không có đức chỉ là người vô dụng. Có đức mà không có tài thì làm việc gì cũng khó”.
Cho nên, việc tu dưỡng, rèn luyện bản thân để trở thành nhân cách vừa có đức vừa có
tài là hết sức quan trọng đối với mỗi người, đặc biệt nó là nhiệm vụ hàng đầu của thanh
niên, học sinh và sinh viên.
3. Khái niệm về sự phát triển nhân cách
3.1. Khái niệm sự phát triển
Triết học Mac - Lênin không những thừa nhận tính vật chất của thế giới mà còn thừa
nhận vật chất không ngừng biến đổi và phát triển theo quy luật. Quy luật của thế giới
khách quan là quy luật vận động và phát triển. Chỉ có thể giải thích các sự vật và hiện
tượng với điều kiện là xem chúng trong quá trình phát sinh và phát triển. Nhưng nếu chỉ
là thừa nhận sự phát triển của sự vật hiện tượng vẫn chưa đủ. Điều cơ bản là cần tìm ra
cho được tính chất và nguồn gốc của sự phát triển mới nắm được bản chất của sự phát
triển vì người ta có thể thừa nhận có sự vận động mà vẫn có thể rơi vào quan điểm siêu
hình. Trong thực tế, người ta đã có nhiều cách hiểu khác nhau về sự phát triển:
Theo quan điểm siêu hình phát triển chỉ là sự tăng lên, giảm thuần túy về lượng,
không có sự thay đổi gì về mặt chất của sự vật; hoặc nếu có sự thay đổi nhất định về
chất thì sự thay đổi ấy cũng chỉ diễn ra theo một vòng khép kín, chứ không có sự sinh
thành ra cái mới với những chất mới. Những người theo quan điểm siêu hình xem sự
phát triển như là một quá trình tiến lên liên tục, không có bước quanh có, phức tạp.
Theo quan niệm biện chứng sự phát triển là một quá trình tiến lên từ thấp đến cao.
Quá trình đó diễn ra dần dần, nhảy vọt đưa tới sự ra đời của cái mới thay thế cái cũ, 6
không phải lúc nào sự phát triển cũng diễn ra theo đường thẳng, mà rất quanh co, phức
tạp, thậm chí có những bước lùi tạm thời. Theo quan điểm biện chứng, sự phát triển là
kết quả của quá trình thay đổi dần dần về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất, là quá trình
diễn ra theo đường xoáy ốc và hết mỗi chu kì sự vật lặp lại dường như sự vật ban đầu
nhưng ở cấp độ cao hơn. Quan điểm biện chứng cũng khẳng định nguồn gốc của sự
phát triển nằm trong bản thân sự vật.
Phát triển cũng là quá trình phát sinh và giải quyết mâu thuẫn khách quan vốn có
của sự vật, hiện tượng; là quá trình thống nhất giữa phủ định các nhân tố tiêu cực và kế
thừa, nâng cao nhân tố tích cực từ sự vật, hiện tượng cũ trong hình thái của sự vật, hiện tượng mới.
3.2. Sự phát triển nhân cách
Sự phát triển nhân cách bao gồm các mặt phát triển về thể chất, về tâm lý và xã hội của cá nhân.
Sự phát triển về mặt thể chất: Biểu hiện ở sự tăng trưởng về chiều cao, cân nặng,
cơ bắp và sự hoàn thiện của các giác quan.
Sự phát triển về mặt tâm lý: Biểu hiện ở những biến đổi cơ bản trong các quá
trình nhận thức, tình cảm, ý chí, nhu cầu, thói quen…
Sự phát triển về mặt xã hội: Biểu hiện ở tính tích cực, tự giác tham gia vào các
mặt khác nhau của đời sống xã hội cũng như những thay đổi trong việc cư xử với mọi người xung quanh.
Như vậy, sự phát triển nhân cách cần được hiểu là một quá trình cải biến toàn bộ các
sức mạnh về thể chất và tinh thần, các sức mạnh về bản chất con người. Đó không chỉ là
những biến đổi về lượng mà còn là sự biến đổi về chất trong con người. 7
II. CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN NHÂN CÁCH
Nhân cách là một cấu tạo tâm lý mới được hình thành và phát triển trong quá trình
sống, hoạt động và giao tiếp của mỗi người. Như Lênin đã khẳng định: “Cùng với dòng
sữa mẹ, con đường hấp thụ tâm lý, đạo đức của xã hội mà nó là thành viên”. Nhà tâm lý
học nổi tiếng A.L.Leonchiep cũng đã chỉ rằng nhân cách cụ thể là nhân cách con người
sinh thành và phát triển theo con đương từ bên ngoài chuyển vào nội tâm, từ các quan
hệ với thế giới tự nhiên,thế giới đồ vật, nền văn hóa xã hội do các thế hệ trước tạo
ra,các quan hệ xã hội mà nó gắn bó. Trong quá trình hình thành, nhân cách bị chi phối
của nhiều yếu tố: di truyền, hoàn cảnh sống, giáo dục, hoạt động, giao tiếp.
1. Bẩm sinh - di truyền và sự phát triển của nhân cách
Bẩm sinh di truyền là hai khái niệm khác nhau:
Bẩm sinh là yếu tố có sẵn khi con người mới sinh ra (một số thuộc tính sinh học
có ngay từ khi đứa trẻ mới sinh).
Di truyền là sự tái tạo ở trẻ em những thuộc tính sinh học đã có ở cha mẹ, là sự
truyền lại từ cha mẹ đến con cái những đặc điểm và những phẩm chất nhất định đã được
giữ lại trong hệ thống gen.
Bẩm sinh – di truyền là những đặc điểm giải phẫu sinh lí của hệ thần kinh và các cơ
quan cảm giác, vận động. Đối với mỗi cá thể khi ra đời đã nhận được một số đặc điểm
về cấu tạo và chức năng của cơ thể từ các thế hệ trước theo con đường di truyền trong
đó có các giác quan và não. Bất cứ một chức năng tâm lí nào mang bản chất con người
của nhân cách chỉ có thể được phát triển trong hoạt động của bản thân đó và trong điều
kiện của xã hội loài người. Thực tế mọi cơ thể bình thường đều có thể phát triển tốt đẹp
đời sống tinh thần của mình.
Những yếu tố bẩm sinh không phải là tất cả sản phẩm của di truyền. Nhưng yếu tố di
truyền có thể không xuất hiện ngay cùng một lúc với sự ra đời của con người mà nó có
thể phải chờ một thời gian hoặc một điều kiện nhất định mới xuất hiện.
Lý luận của chủ nghĩa Mac - Lê nin không những không phủ nhận vai trò của yếu tố
bẩm sinh di truyền đối với sự phát triển nhân cách của con người mà coi đó là điều kiện 8
đầu tiên của lịch sử phát triển con người. Vấn đề di truyền những tư chất là tiền đề cho
những năng lực, phẩm chất về một lĩnh vực hoạt động nào đó (như nghệ thuật, kiến
trúc…) là một vấn đề quan trọng trong lĩnh vực giáo dục. Di truyền tạo ra sức sống
trong bản chất tự nhiên của con người, tạo ra khả năng cho người đó hoạt động có kết
quả trong lĩnh vực nhất định. Cần nhấn mạnh rằng yếu tố bẩm sinh - di truyền là tiền đề
vật chất cho sự phát triển nhân cách con người chứ không phải là nguyên nhân, là quyết
định cho sự phát triển con người. Bởi lẽ, những yếu tố bẩm sinh - di truyền chỉ được
phát huy trong những điều kiện xã hội nhất định mà thôi. Nếu không có điều kiện xã hội
thích hợp thì những tiền đề vật chất này sẽ dần dần mai một không phát huy được tác dụng.
Thực tế đã chứng minh con ngưòi có thể mất hết những nét tự nhiên bẩm sinh của
loài người nếu phải sống tách khỏi loài người, người có năng khiếu âm nhạc tốt chưa đủ
để trở thành nhạc sỹ, người có giọng hát hay chưa đủ để trở thành danh ca. Những yếu
tố bẩm sinh di truyền đó chỉ có thể được phát huy trong điều kiện con người được giáo dục.
Như vậy, yếu tố bẩm sinh - di truyền không quyết định sự hình thành và phát triển
nhân cách con người. Nhân cách của con người chịu ảnh hưởng của những điều kiện xã
hội nhất định, những mối quan hệ xã hội nhất định, trong những điều kiện giáo dục nhất
định. Yếu tố bẩm sinh - di truyền không phải là những yếu tố cố hữu mà là những yếu
tố có thể thay đổi được dưới sự tác động của môi trường giáo dục. Những yếu tố bẩm
sinh - di truyền được hình thành trong hoạt động của các thế hệ trước, được củng cố
nhiều lần và đã trở nên vững chắc đến một mức độ nào đó rồi có thể truyền lại cho thế
hệ sau. Nếu điều kiện thích hợp nó sẽ hình thành dễ dàng và được phát huy. Ngược lại,
nếu điều kiện thay đổi không thích hợp, những yếu tố này sẽ biến dạng đi.
Ta thấy những hiện tượng kế thừa tài năng trong một số gia đình nghĩa là sự xuất
hiện liên tục nhiều người có tài qua nhiều thế hệ, phần lớn không chỉ là do sự di truyền
những tư chất nhất định, mà còn do trong những gia đình đó, trẻ em được giáo dục
trong bầu không khí hào hứng, say mê đối với một loại hình hoạt động nhất định và
được lôi cuốn tham gia rất sớm vào những hoạt động đó. 9
Điều kiện xã hội là nhân tố quyết định sự phát triển những yếu tố bẩm sinh - di
truyền có sẵn, đồng thời làm nảy nở những tài năng mới của con người. Nếu trong điều
kiện xã hội thích hợp, các yếu tố bẩm sinh - di truyền của con người chẳng những được
phát huy mà còn được nảy sinh và phát triển những năng khiếu mới, tài năng mới.
Ngược lại, nếu trong điều kiện xã hội không phù hợp, trong mối quan hệ xã hội không
tốt đẹp thì chẳng những con người không nảy sinh, phát triển những năng khiếu, tài
năng mới mà ngay cả những yếu tố bẩm sinh - di truyền tốt cũng bị thui chột không
phát huy được. Do đó, tuyệt đối hoá hoặc đánh giá quá cao ảnh hưởng của nhân tố bẩm
sinh - di truyền trong sự phát triển con người, nhất là trong sự hình thành và phát triển
nhân cách là sai lầm về mặt nhận thức của thuyết “Định mệnh do di truyền” dẫn đến
phủ nhận khả năng biến đổi bản chất của con người, của hoàn cảnh cách mạng và của
nền giáo dục cách mạng. Tuy nhiên, nếu xem nhẹ yếu tố bẩm sinh di truyền thì chúng ta
đã bỏ qua một tiền đề quan trọng cho sự phát triển nhân cách. Vì vậy, cần chú ý đúng
mức đến vai trò của bẩm sinh - di truyền trong sự hình thành và phát triển nhân cách.
Ví dụ: Tại sao lại có từ “con nhà nòi”, ví dụ trong gia đình nhiều người giỏi về âm
nhạc thì đứa trẻ cũng sẽ có thiên hướng âm nhạc? Đó cũng là quá trình hình thành
nhân cách theo bẩm sinh di truyền. Nếu như trong gia đình, cha và mẹ đều là người tài
giỏi thì đó là yếu tố giúp con mình noi theo.
Một em học sinh được kế thừa yếu tố di truyền của mẹ là đàn giỏi thì đó chỉ là tiền
đề cơ sở, nếu không tạo điều kiện cho em học đàn để phát huy năng khiếu, và bản thân
em đó cũng không tích cực học tập thì cũng sẽ không trở thành một người đàn giỏi được.
2. Môi trường và sự phát triển nhân cách
Trong giáo dục học, môi trường là hệ thống các hoàn cảnh bên ngoài, các điều kiện
tự nhiên và xã hội xung quanh cần thiết cho hoạt động sống và phát triển của con người.
Môi trường được chia thành hai loại:
Môi trường tự nhiên: bao gồm các điều kiện tự nhiên, hệ sinh thái phục vụ cho hoạt
động học tập, lao động sản xuất, rèn luyện thể chất và vui chơi giải trí của con người. 10
Những điều kiện tự nhiên quy định đặc điểm của phương thức hoạt động của con
người trong tự nhiên và một số nét riêng trong phạm vi sáng tạo nghệ thuật. Qua đó quy
định các giá trị vật chất và tinh thần ở một mức độ nhất định. Hay có thể nói tâm lý dân
tộc mang dấu ấn của hoàn cảnh tự nhiên thông qua khâu trung gian là phương thức
sống. Ngay cả nhiều phong tục tập quán suy cho cùng cũng đều có nguồn gốc từ điều
kiện và hoàn cảnh sống tự nhiên. Nhân cách như là một thành viên xã hội chịu ảnh
hưởng của điều kiện tự nhiên thông qua những giá trị vật chất và tinh thần, qua phong
tục tập quán của dân tộc, của địa phương, của nghề nghiệp - những cái vốn có liên hệ
với điều kiện tự nhiên ấy và qua phương thức sống của chính bản thân nó.
Môi trường xã hội: bao gồm môi trường chính trị, môi trường kinh tế- sản xuất, môi
trường sinh hoạt xã hội và môi trường văn hoá.
Môi trường xã hội là toàn các mối quan hệ xã hội mà con người sống và tiếp xúc. Nó
có ảnh hưởng đến sự phát triển tâm lý nhân cách. Vì nếu không có sự tiếp xúc với con
người thì cá thể lớn lên và phát triển trong trạng thái động vật, nó không thể trở thành
một con người, một nhân cách. Có nghĩa là đứa trẻ muốn hình thành nhân cách phải có
sự tiếp xúc với người lớn để nắm vững tri thức, kinh nghiệm lịch sử xã hội, để được
chuẩn bị bước vào cuộc sống và lao động trong văn hóa của thời đại. có thể nói nhân
cách là một sản phẩm của xã hội.
Quan hệ sản xuất quy định nội dung của nhiều nét tâm lý cơ bản của nhân cách.
Ngoài ra tâm lý nhân cách phụ thuộc vào quan hệ chính trị và pháp luật. Vị trí giai cấp
của cá nhân sẽ kích thích tính tích cực của nó ở mức độ này mức độ khác trong vai trò xã hội.
Sự hình thành và phát triển nhân cách chỉ có thể được thực hiện trong một môi
trường nhất định. Môi trường góp phần tạo nên mục đích, động cơ, phương tiện và điều
kiện cho hoạt động, giao lưu của cá nhân mà nhờ đó cá nhân chiếm lĩnh các kinh
nghiệm xã hội loài người để hình thành và phát triển nhân cách của mình. Tuy nhiên,
tính chất và mức độ ảnh hưởng của môi trường đến sự hình thành và phát triển nhân
cách còn tuỳ thuộc vào thái độ, quan điểm của cá nhân đối với ảnh hưởng đó, đặc biệt là
tuỳ thuộc vào khả năng và mức độ của cá nhân tham gia cải tạo môi trường. Như vậy,
cần chú ý đến hai mặt trong tác động qua lại giữa nhân cách và môi trường: 11
Tính chất tác động của hoàn cảnh đã phản ánh vào nhân cách
Sự tham gia của nhân cách tác động đến hoàn cảnh nhằm làm cho hoàn cảnh đó
phục vụ lợi ích của mình.
Muốn cho hoàn cảnh phát huy tác dụng mạnh mẽ và làm cho nhân cách con người
được phát triển tốt đẹp về nhiều mặt, hoàn cảnh phải có tính chất phong phú. Hoàn cảnh
càng phong phú chừng nào con người càng được phát triển triển đầy đủ, nhịp nhàng
chừng ấy. Bởi vậy, tạo ra các quan hệ xã hội tốt đẹp, phong phú là cơ sở khoa học cho
việc hình thành những phẩm chất đạo đức, những tư tưởng, những tình cảm tốt đẹp
trong nhân cách con người. Với ý nghĩa ấy, Mác và Anghen đã vạch rõ: “Sự phong phú
thực sự về mặt tinh thần cá nhân hoàn toàn phục thuộc vào sự phong phú của quan hệ hiện thực của họ”.
Để đảm bảo sự phát triển nhân cách cho con người, ngoài việc đảm bảo tính phong
phú của hoàn cảnh cần phải phát huy tính năng động của con người đối với hoàn cảnh.
Con người không bị động trước môi trường, ngược lại con người luôn luôn phát huy
tính năng động của mình trong môi trường. Tính năng động ấy được thể hiện ở chỗ con
người tiếp thu hoàn cảnh một cách có ý thức, có lựa chọn những cái hay, cái tốt trong
hoàn cảnh sao cho phù hợp với sự phát triển của mình. Tính năng động ấy còn thể hiện
ở khía cạnh con người không xoay lưng với môi trường. ở mức độ cao hơn, tính năng
động của con người còn biểu hiện ở khía cạnh con người tham gia cải tạo môi trường và
cũng chính là con người đã trực tiếp cải tạo bản thân, hoàn thiện nhân cách của chính
mình. Song, điều hết sức chú ý là môi trường chỉ có thể phát huy tác dụng khi con
người đã xác định được nhu cầu của mình trong môi trường. Tức là con người đã
chuyển hoá cái khách quan thành cái chủ quan của mình. Coi khách quan trở thành
động lực bên trong của con người thúc đẩy con người hoà nhập vào hoàn cảnh, tiếp
nhận tác động của môi trường, cải tạo môi trường đồng thời cải tạo bản thân.
Việc phát huy tính năng động của con nguời đối với môi trường có ý nghĩa cách
mạng to lớn về mặt chính trị cũng như về mặt giáo dục. Về chính trị, nó đòi hỏi phải
thay đổi những quan hệ xã hội không phù hợp với quy luật phát triển của lịch sử. Về
giáo dục, nó đòi hỏi con người phải tham gia cải tạo bộ máy tự nhiên, bộ mặt xã hội
thông qua thực tiễn lao động sản xuất và đấu tranh giai cấp. 12
Ví dụ: Trường hợp cô Kamala được chó sói nuôi từ nhỏ. Khi được đưa ra khỏi rừng,
cô đã 12 tuổi. Bình thường, cô ngủ trong xó nhà, đêm đến thì tỉnh táo và đôi khi sủa lên
như chó rừng. Cô đi lại bằng hai chân, nhưng khi bị đuổi thì chạy bằng bốn chi khá
nhanh. Người ta dạy nói cho Kamala trong bốn năm, nhưng cô chỉ nói được hai từ. Cô
không thể thành người và chết ở tuổi 18. Người ta đã được biết trên 30 trường hợp như vậy.
Hoàn cảnh là môi trường nhỏ có tác động trực tiếp, mạnh mẽ đến sự hình thành phát
triển nhân cách cá nhân. Trong đó môi trường xã hội có ý nghĩa quan trọng đối với sự
hình thành phát triển nhân cách.
3. Giáo dục và sự phát triển nhân cách
Giáo dục đóng vai trò chủ đạo trong sự phát triển nhân cách con người. Trong các
yếu tố có ảnh hưởng tới sự phát triển nhân cách con người, giáo dục là yếu tố có ảnh
hưởng sâu sắc nhất, mạnh mẽ nhất đến phương hướng, nội dung, mức độ của sự phát
triển. Giáo dục can thiệp vào điều chỉnh những yếu tố khác (bẩm sinh- di truyền, môi
trường và hoạt động của cá nhân), làm cho những yếu tố đó phát huy tác dụng cao nhất
với sự phát triển nhân cách con người.
Đối với bẩm sinh di truyền, giáo dục phát hiện ra những tư chất tốt, những tài năng
sẵn có làm cho những tư chất ấy, những tài năng ấy phát triển. Giáo dục còn làm nảy nở
ở con người những tài năng mới, giáo dục sửa chữa, loại trừ những hậu quả do bẩm
sinh- di truyền để lại (sửa tật nói ngọng, nói lắp…).
Môi trường xã hội ngoài những ảnh hưởng tích cực còn gây ra những tiêu cực tự
phát có tác động xấu đến sự hình thành và phát triển nhân cách. Giáo dục có thể uốn
nắn những phẩm chất tâm lý xấu và làm cho nó phát triển theo chiều hướng mong muốn
của xã hội. Đó chính là hiệu quả của công tác giáo dục lại đối với trẻ em hư hoặc những người phạm pháp.
Đối với hoạt động cá nhân, giáo dục động viên tích cực hoạt động, xác định được
động cơ của hoạt động, hướng dẫn cách thức hoạt động làm cho hoạt động thu được hiệu quả cao nhất.
Muốn cho giáo dục đạt hiệu quả cao cần phải có hai điều kiện: 13
Một là: Giáo dục phải đảm bảo tính tư tưởng, tính khoa học. Giáo dục phải luôn có
khuynh hướng tư tưởng rõ ràng, phải phát huy đầy đủ những mặt có lợi cho sự phát
triển nhân cách con người và sự phát triển của xã hội. Giáo dục phải dựa vào những quy
luật về sự phát triển tâm sinh lý của con người nhằm đề ra những quy tắc và phương
pháp giáo dục thích hợp.
Hai là: Giáo dục phải phát huy tính tích cực của đối tượng. Mức độ ảnh hưởng của
giáo dục phụ thuộc vào thái độ của đối tượng. Nếu con người từ chối ảnh hưởng của
giáo dục thì sẽ không đem lại hiệu quả gì. Ngược lại, nếu con người tự giác tiếp thu
những ảnh hưởng tích cực của giáo dục, giáo dục sẽ gây nên những ảnh hưởng sâu sắc
đến sự phát triển nhân cách của con người.
Thực chất, trong sự phát triển nhân cách con người, giáo dục là quá trình khám phá
và giải quyết những mâu thuẫn diễn ra trong quá trình phát triển (mâu thuẫn nảy sinh
trong quá trình phát triển nhân cách con người). Trong quá trình đó, nhà giáo dục phải
thấy được những mâu thuẫn cơ bản này. Đó là:
Mâu thuẫn giữa khả năng và nhu cầu mới. Đây là mâu thuẫn giữa những trình độ
vốn có của con người với nhu cầu tri thức mới, nhu cầu giải quyết những khó khăn mới
do thực tiễn đặt ra. Mâu thuẫn này luôn luôn xuất hiện trong quá trình phát triển con người.
Mâu thuẫn giữa tồn tại và ý thức (còn gọi là mâu thuẫn giữa nội dung và hình
thức). Đây là mâu thuẫn giữa tồn tại khách quan và năng lực phản ánh tồn tại khách quan đó.
Quá trình phát triển nhân cách con người là quá trình rất phức tạp. Nhà giáo dục phải
biết triển khai và giải quyết những mâu thuẫn trong quá trình đó.
Giáo dục là sự dẫn dắt của thế hệ trước đối với thế hệ sau, một sự dẫn dắt có mục
đích, có kế hoạch, có phương pháp. Giáo dục là con đường ngắn nhất giúp thế hệ trẻ
phát triển, bỏ qua những mò mẫm, vấp váp không cần thiết trong cuộc đời một con
người. Trong các môi trường giáo dục: gia đình, nhà trường, xã hội chúng ta đèu nhận
thấy vai trò quan trọng của giáo dục đối với sự phát triển nhân cách. Giáo dục trong nhà
trường là hình thức giáo dục chuyên nghiệp, bao gồm đội ngũ các nhà sư phạm được
đào tạo, nội dung chương trình giáo dục có chọn lọc, phương pháp giáo dục được thiết 14
kế phù hợp cho mọi lứa tuổi, có phương tiện kỹ thuật phục vụ cho giáo dục. Mục đích
giáo dục của nhà trường phù hợp với xu thế phát triển xã hội và thời đại. Giáo dục gia
đình được tiến hành trong cả cuộc đời một con người. Với đặc điểm chủ yếu là quan hệ
tình cảm huyết thống, giáo dục gia đình được xây dung trên cơ sở tình cảm bền chặt, có
ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển của mỗi con người. Nề nếp gia phong, truyền thống
gia đình được coi như một yếu tố giáo dục quan trọng. Còn giáo dục xã hội là giáo dục
của toàn xã hội với thể chế chính trị, pháp luật, truyền thống văn hoá, đạo đức…được
thực hiện qua hệ thống tổ chức nhà nước, qua các phương tiện truyền thông đại chúng,
qua hoạt động của các đoàn thể…Sự phối hợp chặt chẽ, thống nhất giữa ba lực lượng
giáo dục: nhà trường, gia đình và xã hội sẽ giúp cho giáo dục con người đạt kết quả.
Như vậy, giáo dục vạch ra đường hướng cho qua trình phát triển nhân cách, thúc đẩy
quá trình đó. Tuy nhiên, giáo dục không chỉ là sự tác động một chiều của những người
làm công tác giáo dục mà còn bao gồm cả hoạt động tích cực, đa dạng của người được
giáo dục. Do đó, cần phải có sự kết hợp chặt chẽ giữa giáo dục và tự giáo dục. Có như
vậy thì giáo dục mới có tác động thực sự đến sự hình thành và phát triển nhân cách.
Hay nói một cách khác, thành công trong công tác giáo dục chính là làm cho người
được giáo dục ý thức được và chấp nhận những yêu cầu của nhà giáo dục và của tập
thể, làm cho họ biết tự đề ra cho mình những kế hoạch, những mục tiêu phấn đấu trong
cuộc sống và tự bồi dưỡng, tự rèn luyện những phẩm chất và năng lực mới cho bản
thân. Họ phải biết biến yêu cầu của nhà giáo dục thành yêu cầu của bản thân, thành hoạt
động sống hàng ngày của chính mình.
Ví dụ: giáo dục trẻ em bị khuyết tật có thể được phục hồi những chức năng đã mất,
hoặc có thể phát triển tài năng và trí tuệ một cách bình thường.
Giáo dục có thể uốn nắn những phẩm chất tâm lý xấu do tác động tự phát của môi
trường gây nên và làm cho nó phát triển theo chiều hướng mong muốn của xã hội.
Chẳng hạn như giáo dục trẻ em hư hoặc cải tạo lao động đối với người phạm pháp.
4. Hoạt động của cá nhân và sự phát triển nhân cách
Hoạt động của cá nhân là yếu tố quyết định trực tiếp đến sự hình thành và phát triển nhân cách con người. 15
Hoạt động là sự tác động qua lại có định hướng giữa con người với thế giới xung
quanh, hướng tới biến đổi nó nhằm thỏa mãn nhu cầu của mình. Con đường tác động có
mục đích, tự giác của xã hội bằng giáo dục đến thế hệ trẻ sẽ không có hiêu quả nêu như
bản thân cá nhân học sinh không tiếp nhận, không hương ứng những tác động đó,
không trực tiếp tham gia vào các hoạt động nhằm phát triển tâm lý, hình thành nhân
cách. Bởi vạy, hoạt động chủ đạo đóng vai trò chủ yếu trong sự hình thành và phát triển
nhân cách so với các loại hoạt động khác của cá nhân.
Hoạt động là điều kiện để nhận thức, cải tạo thế giới và bản thân mình. Trong quá
trình hoạt động, con người khám phá ra những điều mới lạ, tìm ra được bản chất của sự
vật, hiện tượng. Trên cơ sở đó, con người có thể thúc đẩy sự phát triển nhân cách của mình.
Để tham gia hoạt động, con người bao giờ cũng phải xác định động cơ hoạt động.
Việc xác định động cơ hoạt động có tầm quan trọng đặc biệt. Động cơ càng đúng đắn,
tác dụng của hoạt động càng mạnh mẽ và sâu sắc. Để xác định động cơ hoạt động, con
người phải qua quá trình đấu tranh động cơ. Trong quá trình ấy diễn ra sự đấu tranh
giữa lý trí và tình cảm. Đây là dịp thuận lợi để rèn luyện ý chí, để phát huy năng lực
kìm chế, tự giáo dục. Trong quá trình lựa chọn động cơ, ý thức xã hội chủ nghĩa, trình
độ giác ngộ chính trị đóng vai trò rất quan trọng. Khi động cơ hoạt động đã được xác
định, con người cần tìm kiếm phương thức hoạt động. Phương thức hoạt động đúng
đắn, khoa học sẽ làm cho hoạt động của con người ngày càng hoàn hảo, nó thúc đẩy sự
phát triển nhân cách con người. Cụ thể là việc lựa chọn các phương tiện hoạt động thích
hợp sẽ làm cho quá trình hoạt động mang lại hiệu quả cao, có tác dụng thúc đẩy sự phát
triển của hiện thực nhanh chóng và đúng hướng.
Tất cả các quá trình trên đều có ảnh hưởng lớn đến năng lực và phẩm chất của con
người nhằm thúc đẩy sự phát triển nhân cách. Mặt khác, trong mỗi hoạt động luôn có sự
thay đổi về nội dung, yêu cầu, cách thức để theo kịp sự phát triển và góp phần thúc đẩy
sự phát triển. Do vậy, đòi hỏi con người cũng luôn thay đổi về mọi mặt để có khả năng
thích nghi với những thay đổi trong mỗi hoạt động. Bởi thế, nhân cách con người cũng
không ngừng phát triển theo sự thay đổi, phát triển của hoạt động. Hoạt động càng
phong phú, đa dạng thì nhân cách của con nguời càng hoàn thiện. 16
Tóm lại, sự phát triển nhân cách con người là toàn bộ sự phát triển, hoàn thiện về thể
chất và tinh thần, nó bị chi phối bởi hàng loạt những yếu tố chủ quan và khách quan.
Các yếu tố bẩm sinh - di truyền, môi trường, giáo dục và hoạt động cá nhân có quan hệ
biện chứng với nhau, thúc đẩy nhau cùng phát huy tác dụng hợp lý trong quá trình hình
thành nhân cách con người.
Ví dụ: Cách dễ nhất để kết hợp cả việc học và chơi với nhau là nên thông qua những
hoạt động hàng ngày của trẻ em.
Trẻ có thể học được rất nhiều bài học thông qua việc phân loại quần áo như phân
biệt kích cỡ quần áo lớn nhỏ, màu sắc quần áo, kiểu quần áo. Ngược lại nếu trẻ không
tham gia vui chơi với bạn bè, không bắt chước những hành vi, cách xử sự của người
lớn, không học tập thì trẻ sẽ không thể phát triển đầy đủ những phẩm chất và năng lực
của nhân cách. Vì vậy, người lớn cần phải hướng dẫn, tổ chức và lôi kéo trẻ tham gia
tích cực vào các hoạt động để giúp hình thành và phát triển nhân cách trẻ.
5. Giao tiếp và sự phát triển nhân cách
Nhà tâm lý học Xô Viết B.Ph.Lomov cho rằng “khi chúng ta nghiên cứu lối sống của
một cá nhân cụ thể, chúng ta không thể chỉ giới hạn ở sự phân tích xem nó làm cái gì và
như thế nào, mà còn phải nghiên cứu xem nó giao tiếp với ai và như thế nào”. Vì thế
cùng với hoạt động có đối tượng, giao tiếp có một vai trò quan trọng cơ bản trong việc
hình thành và phát triển nhân cách.
Giao tiếp là điều kiện tồn tại của cá nhân và xã hội loài người, là nhu cầu cơ bản
xuất hiện sớm nhất ở con người. Nhu cầu giao tiếp là một trong những nhu cầu xã hội
cơ bản, xuất hiện sớm nhất ở con người. Thực tế chứng minh những trường hợp do
động vật nuôi đã mất bản tính người, mất nhân cách và chỉ còn lại những điểm tâm lý,
hành vi của con vật. Đã có nhiều công trình nghiên cứu chỉ ra rằng sự giao tiếp quá hạn
chế, nghèo nàn đã dẫn đến những hậu quả nặng nề là dễ mắc bệnh “đói giao lưu do nằm
viện lâu ngày” (hospitalism).
Nhờ giao tiếp, con người gia nhập vào các quan hệ xã hội, lĩnh hội nền văn hóa xã
hội, chuẩn mực xã hội “tổng hòa các quan hệ xã hội” làm thành bản chất con người,
đồng thời thông qua giao tiếp con người đóng góp tài lực của mình vào kho tàng chung 17
của nhân loại, của xã hội. Trong giao tiếp con người không chỉ nhận thức người khác,
nhận thức các quan hệ xã hội mà còn nhận thức được chính bản thân mình, tự đối chiếu
so sánh mình với người khác, với chuẩn mực xã hội, tự đánh giá bản thân mình như một
nhân cách để hình thành một thái độ giá trị cảm xúc nhất định đối với bản thân. Hay
qua giao tiếp con người hình thành năng lực tự ý thức.
Ví dụ: Khi giao tiếp thì ta sẽ biết được cách thức giao tiếp của người đó. Từ đó hình
thành khả năng giao tiếp riêng cho bản thân mình. Khi mình giao tiếp với nhiều đối
tượng, với nhiều người thì ta sẽ rút ra được nhiều kinh nghiệm cho việc giao tiếp của mình.
Vai trò của giao tiếp trong nhóm và tập thể:
Nhóm: là một tập hợp người được thống nhất lại theo những mục đích chung.
Tập thể: là một nhóm người, một bộ phận của xã hội được thống nhất theo những
mục đích chung, phục tùng các mục đích của xã hội.
Vì vậy, vận dụng nguyên tắc giáo dục trong tập thể và bằng tập thể có ý nghĩa quan
trọng trong việc hình thành và phát triển nhân cách. 18
III. SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN NHÂN CÁCH Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Trong thực tế, 5 yếu tố trên không tác động một cách riêng rẽ mà chúng cùng tác
động vào sự hình thành và phát triển nhân cách. Hoàn thiện nhân cách vừa là nhu cầu
của cá nhân, vừa là yêu cầu khách quan của xã hội. Nhận thấy được tầm quan trọng của
tâm lý nhân cách nên ngày nay vấn đề giáo dục, bồi dưỡng tâm lý nhân cách rất được
gia đình, nhà trường và xã hội quan tâm, chú trọng, vì trẻ em ngay từ khi còn nhỏ đã bắt
đầu hình thành nhân cách.
Liên hệ với đất nước ta, đất nước ta đang trong quá trình đổi mới kinh tế, phát triển
công nghiệp hoá và hiện đại hoá. Trong những năm qua, chúng ta đã đạt được những
thành tựu đáng kể trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Điều đó tác động đến mỗi
thành viên trong xã hội, làm phong phú đa dạng thêm đồng thời cũng phức tạp thêm lối
sống của mỗi người, đặc biệt ảnh hưởng đến sự hình thành và phát triển nhân cách của lớp trẻ.
Thực tiễn cho thấy trong mấy năm gần đây, thang giá trị của xã hội đang có sự thay
đổi nhanh chóng. Chính sự thay đổi một số giá trị dẫn đến sự thay đổi đặc điểm nhân
cách của tuổi trẻ Việt Nam trong thời kỳ mới. Định hướng giá trị là yếu tố quan trọng
nhất của cấu trúc bên trong nhân cách. Chúng ta đang trong quá trình vận động và
chuyển đổi trên mọi lĩnh vực.
Vì vậy, không thể không có sự chuyển đổi thang giá trị, biểu định hướng giá trị trong
việc kế thừa và duy trì các giá trị truyền thống và hình thành những giá trị chuẩn mực
mới, tiếp cận thời đại. Những giá trị truyền thống gia đình, tình nghĩa, đề cao cái tâm,
chữ tín và đạo hiếu, lễ nghĩa vẫn được duy trì nhằm hạn chế, khắc phục tính ích kỷ, thờ
ơ thậm chí là lạnh lùng của một số người dưới tác động của cơ chế thị trường.
Tính cộng đồng vẫn được quan tâm nhưng bên cạnh đó một số giá trị phẩm chất cá
nhân ngày càng được đề cao như: Học vấn, sức khoẻ, sáng tạo, tự lập, tự trọng, tinh
thần khám phá, chí tiến thủ, … Mục tiêu, yêu cầu của mô hình nhân cách tuổi trẻ Việt
Nam cần phải có sự kết hợp những giá trị chuẩn mực truyền thống và mô hình phát
triển của con người Việt Nam XHCN 19