



Preview text:
Các kiểu nhà nước trong lịch sử Việt Nam và Thế giới?
1. Kiểu nhà nước được hiểu như thế nào ?
Kiểu nhà nước là thuật ngữ để chỉ những nhà nước cùng có chung những dấu hiệu đặc trưng cơ bản thể
hiện bản chất giai cấp của nhà nước và những điều kiện kinh tế xã hội của sự tồn tại của nhà nước.
Hay nói cách khác, kiểu nhà nước là tổng thể những dấu hiệu (đặc điểm) cơ bản, đặc thù của nhà nước, thể
hiện bản chất giai cấp và những điều kiện tồn tại và phát triển của nhà nước trong một hình thái kinh tế xã hội nhất định.
Kiểu nhà nước là một trong những khái niệm cơ sở có ý nghĩa rất quan trọng của lý luận về nhà nước và
pháp luật. Nhờ khái niệm kiểu nhà nước chúng ta có thể nhận thức được một cách cụ thể và lôgic về bản
chất và ý nghĩa xã hội của các nhà nước được xếp vào cùng một loại, về những điều kiện tồn tại và phát
triển của các nhà nước đó.
2. Trong lịch sử Việt Nam các kiểu nhà nước được quy định như thế nào?
Việt Nam không trải qua nhà nước Tư bản chủ nghĩa mà từ nhà nước phong kiến tiến lên nhà nước xã hội
chủ nghĩa. Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, nhà Nguyễn sụp đổ chấm dứt sự tồn tại của chế độ
phong kiến ở Việt Nam, từ đó Việt Nam xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa, bỏ qua giai đoạn Tư bản chủ
nghĩa. Vì vậy Việt Nam sẽ có 3 kiểu nhà nước qua các thời kỳ như sau:
2.1. Kiểu nhà nước chủ nô
Nhà nước chủ nô là nhà nước đầu tiên trong lịch sử xã hội loài người, ra đời trên cơ sở sự tan rã của chế
độ cộng sản nguyên thuỷ. Là hình thức tổ chức và thực hiện quyền lực thống trị của giai cấp chủ nô.
Nhà nước chủ nô là công cụ bạo lực để duy trì sự thống trị mọi mặt của giai cấp chủ nô đối lưu lệ và các
tầng lớp nhân dân lao động trong xã hội, duy trì tình trạng bất bình đẳng giữa chủ nô với lu lệ với các tầng
lớp nhân dân lao động khác.
Chủ thể tiến hành các chức năng của nhà nước chủ nô chính là bộ máy của nhà nước chủ nô, vì thế bộ
máy nhà nước chủ nô được xây dựng phù hợp cho việc thực hiện các chức năng của nhà nước. Ở các nhà
nước chủ nô khác nhau do hình thức chính thể khác nhau, chức năng cụ thể của nhà nước cũng có những
biểu hiện khác nhau, do đó bộ máy nhà nước trong từng quốc gia chiếm hữu nô lệ cũng có những điểm khác biệt.
Về hình thức chính thể: Mặc dù các nhà nước chủ nô đều có những chức năng cơ bản giống nhau, nhưng
do điều kiện lịch sử cụ thể của mỗi quốc gia là khác nhau nên trong nhà nước chủ nô có nhiều hình thức
chính thể khác nhau. Lịch sử phát triển của nhà nước chủ nô gắn với các hình thức chính thể: quân chủ,
cộng hoà dân chủ, cộng hoà quý tộc.
2.2. Kiểu nhà nước phong kiến
Nhà nước phong kiến ra đời trên cơ sở của sự sụp đổ của xã hội chiếm hữu nô lệ, ở một số quốc gia nhà
nước phong kiến là kiểu nhà nước đầu tiên.
So với bộ máy nhà nước chủ nô, bộ máy nhà nước phong kiến đã phát triển hơn một bước, đặc biệt là ở
giai đoạn nhà nước quân chủ trung ương tập quyền.
Trong giai đoạn nhà nước phong kiến phân quyền cát cứ, chính quyền trung ương của nhà nước phong
kiến yếu, quyền lực thực sự nằm trong tay các lãnh chúa phong kiến. Các lãnh chúa có quân đội riêng và
toà án riêng, toàn quyền trong lãnh địa của mình.
Hình thức chính thể phổ biến trong nhà nước phong kiến là quân chủ, lịch sử tổ chức quyền lực nhà nước
phong kiến cho thấy sự tồn tại và phát triển của chính thể quân chủ với những biểu hiện cụ thể: quân chủ
phân quyền cát cứ, quân chủ trung ương tập quyền, quân chủ đại diện đẳng cấp và cộng hoà phong kiến.
2.3. Kiểu nhà nước xã hội chủ nghĩa
Nhà nước xã hội chủ nghĩa là kiểu nhà nước cuối cùng trong lịch sử xã hội loài người. Là tổ chức mà thông
qua đó, đảng của giai cấp công nhân thực hiện vai trò lãnh đạo của mình đối với toàn xã hội; là một tổ
chức chính trị thuộc kiến trúc thượng tầng dựa trên cơ sở kinh tế của chủ nghĩa xã hội; đó là một nhà nước
kiểu mới, thay thế nhà nước tư sản nhờ kết quả của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa; là hình thức chuyên
chính vô sản được thực hiện trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Các đặc điểm cơ bản của kiểu nhà nước xã hội chủ nghĩa là: thiết lập và đảm bảo quyền lực nhà nước
thuộc về nhân dân; Đảng Cộng sản là lực lượng lãnh đạo nhà nước, lãnh đạo xã hội; tất cả các cơ quan
nhà nước đều được tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ; quyền lực nhà nước thống
nhất trên cơ sở có sự phân công và phối hợp hoạt động giữa các cơ quan thực hiện các chức năng lập
pháp, hành pháp và tư pháp; đảm bảo sự đoàn kết, bình đẳng và tương trợ giữa các dân tộc.
3. Lịch sử thế giới và các kiểu nhà nước
Trong lịch sử xã hội có giai cấp đã tồn tại bốn hình thái kinh tế xã hội: Chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản
chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa. Tương ứng với bốn hình thái kinh tế xã hội đó đã có bốn kiểu nhà nước
trong lịch sử thế giới như sau:
- Kiểu nhà nước chủ nô;
- Kiểu nhà nước phong kiến;
- Kiểu nhà nước tư sản. Xem chi tiết:
- Kiểu nhà nước xã hội chủ nghĩa.
3.1. Kiểu nhà nước chủ nô
Kiểu nhà nước chủ nô là hình thức tổ chức và thực hiện quyền lực thống trị của giai cấp chủ nô. Chế độ tư
hữu về tư liệu sản xuất và nô lệ là đặc điểm quan trọng nhất của kiểu nhà nước này.
Cơ sở hình thành của nhà nước chủ nô là chế độ sở hữu của giai cấp chủ nô với tư liệu sản xuất và nô lệ.
Bản chất của nhà nước chủ nô là thực hiện nền chuyên chính của giai cấp chủ nô, duy trì sự thống trị và
bảo vệ lợi ích của chủ nô; đàn áp nô lệ và tầng lớp lao động khác.
Hình thức của nhà nước chủ nô rất đa dạng. Do sự hình thành và phát triển của các nhà nước chủ nô trong
những hoàn cảnh, điều kiện hết sức khác nhau nên việc tổ chức và thực hiện quyền lực ở mỗi nước có rất
nhiều khác biệt, ở mỗi thời kỳ phát triển của đất nước cũng có nhiều thay đổi phụ thuộc vào sự phát triển của chế độ nô lệ.
3.2. Kiểu nhà nước phong kiến
Kiểu nhà nước phong kiến là kiểu nhà nước thứ hai trong lịch sử xã hội loài người, ra đời trên sự tan rã của
chế độ chiếm hữu nô lệ hoặc xuất hiện trực tiếp từ sự tan rã của xã hội cộng sản nguyên thủy. Trong kiểu
nhà nước phong kiến giai cấp thống trị xã hội là địa chủ phong kiến, còn nông dân chỉ có quyền sở hữu nhỏ
phụ thuộc vào địa chủ và hầu như không có quyền gì.
So với bộ máy nhà nước chủ nô, bộ máy nhà nước phong kiến đã phát triển hơn một bước, đặc biệt là ở
giai đoạn nhà nước quân chủ trung ương tập quyền.
Trong giai đoạn nhà nước phong kiến phân quyền cát cứ, chính quyền trung ương của nhà nước phong
kiến yếu, quyền lực thực sự nằm trong tay các lãnh chúa phong kiến. Các lãnh chúa có quân đội riêng và
toà án riêng, toàn quyền trong lãnh địa của mình.
Tới giai đoạn nhà nước quân chủ trung ương tập quyền, bộ máy nhà nước phong kiến được tổ chức tương
đối chặt chẽ từ trung ương xuống đến địa phương. Ở trung ương, đứng đầu triều đình là vua (hoặc quốc
vương), giúp việc cho vua có các cơ quan với các chức vụ quan lại khác nhau giúp vua thực hiện sự cai trị.
3.3. Kiểu nhà nước tư sản
Kiểu nhà nước tư sản là kiểu nhà nước ra đời, tồn tại và phát triển trong lòng hình thái kinh tế -xã hội tư bản chủ nghĩa.
Bản chất của nhà nước tư sản do chính những điều kiện nội tại của xã hội tư sản quyết định, đó chính là cơ
sở kinh tế, cơ sở xã hội và cơ sở tư tưởng.
Nhà nước tư sản có những đặc điểm sau: thiết lập nguyên tắc chủ quyền nhà nước trên danh nghĩa thuộc
về nhân dân; cơ quan lập pháplà cơ quan đại diện của các tầng lớp dân cư trong xã hội do bầu cử lập nên;
thực hiện nguyên tắc phân chia quyền lực và kiềm chế, đối trọng giữa các cơ quan lập pháp, hành pháp, tư
pháp; thực hiện chế độ đa nguyên, đa đảng trong bầu cử nghị viện và tổng thống; hình thức chính thể phổ
biến của nhà nước tư sản là cộng hòa và quân chủ lập hiến
3.4. Kiểu nhà nước xã hội chủ nghĩa
Kiểu nhà nước xã hội chủ nghĩa là Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, kiểu nhà nước xã hội chủ
nghĩa là kiểu nhà nước cuối cùng trong lịch sử xã hội loài người, ra đời sau Cách mạng tháng Mười Nga năm 1917.
Nhà nước xã hội chủ nghĩa là công cụ cơ bản để thực hiện quyền lực của nhân dân lao động đặt dưới sự
lãnh đạo của đảng cộng sản. Nhà nước này bắt buộc phải đặt dưới sự lãnh đạo của đảng cộng sản, nếu
nhà nước không đặt dưới sự lãnh đạo của đảng cộng sản có thể làm thay đổi bản chất chế độ xã hội, có thể
lệch khỏi định hướng xã hội chủ nghĩa.
Nhà nước xã hội chủ nghĩa có đặc trưng về nguyên tắc khác hẳn với nhà nước tư sản, cũng là công cụ
chuyên chính giai cấp nhưng vì lợi ích của tất cả những người lao động, tức là tuyệt đại đa số nhân dân.
Nhà nước chuyên chính vô sản thực hiện việc trấn áp đối với những kẻ chống đối phá hoại sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa.