Tìm hiểu về công cuộc cải cách của Trung Quốc hình
Chủ nghĩa hội mang đặc sắc Trung Quốc
I. Cuộc cải cách Trung Quốc
1. Nguyên nhân Trung Quốc phải tiến hành cải cách, mở cửa năm 1978:
a. Khách quan:
- Năm 1973, cuộc khủng hoảng dầu mỏ bùng nổ, tiếp theo khủng hoảng về
chính trị, kinh tế, tài chính,... Những cuộc khủng hoảng này đặt nhân loại
đúng trước những vấn đề bức thiết phải giải quyết như tình trạng vơi cạn gần
nguồn tài nguyên, bùng nổ dân số,...
- Yêu cầu cải cách về kinh tế, chính trị, hội để thích nghi với sự phát triển
nhanh chóng của cách mạng khoa học - thuật sự giao lưu, hợp tác quốc
tế ngày càng phát triển mạnh mẽ theo xu thế hòa hoãn.
- Trong bối cảnh trên, yêu cầu lịch sử đặt ra đối với tất cả các nước là phải
nhanh chóng cải cách về kinh tế, chính trị - hội để thích ứng.
b. Chủ quan:
- Đối nội: từ năm 1959 đến năm 1978, Trung Quốc trải qua 20 năm không ổn
định về kinh tế, chính trị, hội. Với việc thực hiện đường lối Ba ngọn cờ
hồng nền kinh tế Trung Quốc rơi vào tình trạng hỗn loạn, sản xuất giảm sút
nghiêm trọng, đời sống nhân dân gặp nhiều khó khăn… Trong nội bộ Đảng
Nhà nước Trung Quốc diễn ra những bất đồng gay gắt về đường lối, tranh
chấp quyền lực, đỉnh cao cuộc Đại cách mạng n hóa sản (1966-
1976)
-
Đối ngoại: ủng hộ cuộc đấu tranh chống Mỹ của nhân dân Việt Nam… xảy ra
những cuộc xung đột biên giới giũa Trung Quốc với các nước n Độ, Liên
Xô… Tháng 2-1972, Tổng thống Mỹ R.Níchxơn sang thăm Trung Quốc, mở
đầu quan hệ mới theo chiều hướng hòa dịu giữa hai nước.
2. Đường lối, chính sách cải cách, mở cửa năm 1978:
Tháng 12
1978, hội ngh Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung
Quốc do Đặng Tiểu Bình khởi xướng, đã vạch ra đường lối đổi mới, mở đầu cho
công cuộc cải cách kinh tế, hội Trung Quốc. Đến đại hội Đảng Cộng sản Trung
Quốc lần thứ XIII (cuối năm 1987) đường lối này được nâng n thành đường lối
chung cu Đảng Cộng sản Nhà nước Trung Quốc.
- Trong giai đoạn này sẽ xây dựng “chủ nghĩa hội mang màu sắc Trung Quốc”,
kiên trì bốn nguyên tắc bản, bao gồm: con đường hội chủ nghĩa, chuyên chính
dân chủ nhân dân, sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Trung Quốc, chủ nghĩa Mác
Lênin tưởng Mao Trạch Đông. Giai đoạn này lấy phát triển kinh tế làm trọng
tâm, tiến hành cải cách mở cửa, chuyển từ kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang
nên kinh tế thị trường hội chủ nghĩa nhằm hiện địa hóa xây dựng hội chủ
nghĩa mang đặc sắc Trung Quốc, biến Trung Quốc thành nước giàu mạnh, dân chủ
văn minh
+ Giai đoạn đầu tập trung vào chuyển đổi thể chế kinh tế với việc “khoán ruộng đất”,
“phát triển nghiệp hương trấn” nông thôn, sau đó tiến hành mở rộng thí điểm
quyền tự chủ kinh doanh của nghiệp quốc hữu thành phố, tiến hành mở cửa,
xây dựng đặc khu kinh tế, xây dựng các loại thị trường.
+ Những năm 1984 - 1991, cải cách nghiệp quốc hữu trọng tâm, cải cách giá cả
then chốt trong toàn b cuộc cải cách. Trong giai đoạn chuyển đổi thể chế kinh tế
(1979 - 1991), Trung Quốc đã tìm tòi, tổ chức t điểm, từng bước tiếp nhận chế
thị trường, sửa chữa những khuyết điểm của thể chế kinh tế kế hoạch.
3. Thành tựu
Hội nghị Trung ương 3 khóa XI Đảng Cộng sản Trung Quốc (năm 1978) mang ý
nghĩa lịch sử quan trọng, mở ra một thời kỳ mới cho nước Cộng hòa nhân dân
Trung Hoa trong công cuộc cải cách, mở cửa, hội nhập quốc tế. Trải qua 40 năm,
sự nghiệp cải cách, mở cửa của Trung Quốc đạt nhiều thành tựu to lớn trên các lĩnh
vực chính trị, kinh tế, văn hóa, hội, tạo sở vững chắc đưa quốc gia này tiếp
tục tiến lên con đường chủ nghĩa hội đặc sắc Trung Quốc.
- Kinh tế :
+ Sau 10 năm cải cách (từ 1978 - 1988) mức tăng bình quân hàng năm
của tổng sản phẩm quốc dân 9,6%, xuất nhập khẩu tăng gấp 4 lần,
thu nhập bình quân hàng năm của nông dân tăng 11,8%, của dân
thành thị tăng 6,5%. m 1988, tổng g trị sản phẩm quốc dân tăng
1.401,5 tỷ nhân dân tệ, thu nhập quốc dân 1.177 tỷ nhân dân tệ
(tăng 20 lần so với năm 1949). Sản lượng công nghiệp t 1978 đến
1990 tăng trung bình hàng năm 12,6%.
+ Từ sau Đại hội lần thứ XIV của Đảng Cộng sản Trung Quốc (tháng 10
- 1992), công cuộc cải cách kinh tế càng được đẩy mạnh hơn nữa với
những quan niệm mới. Từ trao đổi hàng hoá Trung Quốc đã chuyển
sang chứng khoán trái phiếu. Nhiều đặc khu kinh tế được mở ra
cùng với hoạt động của thị trường chứng khoán như Thượng Hải,
Thẩm Quyến... theo các khẩu hiệu: “Cải cách hơn nữa, mở cửa hơn
nữa”, “Làm giàu vinh quang”. Các nhà quan sát nước ngoài cho
rằng “Đằng sau tất cả những điều này sự thay đổi đáng chú ý về
quan niệm, trước hết trong giới lãnh đạo Trung Quốc”. Quan điểm của
Trung Quốc về “một Nhà nước hai chế độ trong quá trình tiếp nhận
Hồng Kông (1997) Makao (1999) đã thể hiện điều này.
+ Từ năm 1993 đến 1997, tỷ lệ tăng trưởng GDP của Trung Quốc
10,9%, riêng năm 1997 đạt tới 17,8% với giá trị tuyệt đối 7400 tỷ nhân
dân tệ (khoảng 900 tỷ USD), đứng vị trí thứ 7 trên toàn cầu. Tổng
ngạch xuất nhập khẩu của Trung Quốc năm 1997 325 tỷ USD, xếp
thứ 10 so với các nước. Hiện nay Trung Quốc ớc dự trữ ngoại
tệ nhiều thứ hai của thế giới sau Nhật Bản, nh đến cuối năm 1997
143 tỷ USD. Với tiềm năng kinh tế đó, Trung Quốc đã vững vàng vượt
qua cơn khủng hoảng tài chính, tiền tệ châu Á trong năm 1997 - 1998.
Năm 1999 kinh tế Trung Quốc vẫn giữ mức tăng trưởng 7,1%, công
nghiệp 9% 6 tháng đầu năm 2000 tốc độ tăng trưởng kinh tế của
Trung Quốc 7,5%.
Với những thành tựu kinh tế đạt được, đời sống nhân dân Trung Quốc đã được
cải thiện rệt. Thu nhập quốc dân bình quân đầu người thành phố tăng 12% (đạt
200300 nhân dân tệ/người), nông thôn ng 2% (đạt 860% nhân n tệ/người) so
với năm 1992.
- Chính trị - hội : đời sống nhân dân không ngừng được nâng cao. Thu hồi
được Hồng Kông (7
1997) Ma Cao (12
1999)
- Nền khoa học - kỹ thuật, văn hóa, giáo dục :
+ Sau ngày giải phóng (1949) Trung Quốc chỉ 30 viện, sở nghiên cứu
khoa học với 50.000 cán bộ, nhân viên, trong đó chỉ 500 người
đang tiến hành công tác nghiên cứu. Ngày nay, Trung Quốc 11 triệu
cán bộ khoa học - kỹ thuật với 5400 viện, sở nghiên cứu khoa học kỹ
thuật không ngừng đạt được những thành tựu to lớn.
+ Từ năm 1964, Trung Quốc đã thành công trong cuộc thử nghiệm nổ
bom nguyên tử đầu tiên
+ năm 1965 thành công trong nghiên cứu bom khinh khí, đưa Trung
Quốc trở thành một ờng quốc hạt nhân.
+ Ngày 24-2-1970, Trung Quốc phóng thành công vệ tinh nhân tạo đầu
tiên, đến nay Trung Quốc đã phóng hàng chục vệ tinh c loại. Số
lượng vệ tinh của Trung Quốc đứng hàng thứ 4 thế giới phục vụ
hiệu qủa cho công tác nghiên cứu khoa học, phát triển kinh tế cũng
như tăng cường sức mạnh quốc phòng.
- Về đối ngoại :
+ Từ chính sách “đối ngoại theo kiểu Hồng vệ binh” của thời kỳ “Đại cách
mạng văn hoá”, sau 1978 chính sách đối ngoại của Trung Quốc được
sửa đổi, chuyển sang “hoà dịu” hướng về phương Tây. Thực tế,
chính ch đối ngoại hướng về phương Tây của Trung Quốc đã bắt
đầu từ những năm 70 của thế kỷ XX, tuy nhiên chính sách thời kỳ đó
khác hẳn với hiện nay, chỉ phục vụ cho ý định tạo lập nên hệ thống
“Tam giác chiến lược” chứ không phải phục vụ cho công cuộc xây
dựng đất nước như hiện nay. Theo xu hướng “hòa dịu” này, từ những
năm 80 Trung Quốc bắt đầu khởi động q trình bình thường hóa
quan hệ với Liên Xô, Mông Cổ, Lào, Inđônêxia, Việt Nam... mở rộng
quan hệ hợp tác với các nước trên thế giới, góp sức giải quyết các vụ
tranh chấp quốc tế, trong đó vấn đề Campuchia tìm mọi cách
nâng cao địa vị của Trung Quốc trên trường quốc tế.
+ Nhằm tạo dựng lòng tin c nước trên thế giới, Trung Quốc đã nhấn
mạnh:
- Trung Quốc chống chủ nghĩa quyền bảo vệ hoà bình thế giới;
- Trung Quốc không gắn với một nước nào không khuất phục
trước sức ép của bất kỳ nước lớn nào. Trung Quốc quyết định chính sách của mình
theo từng trường hợp;
- Không gia nhập liên minh về quan hệ chiến lược với bất kỳ nước
lớn nào;
- Mở rộng đoàn kết hợp c với các nước trên thế giới thứ ba
khác được xem chính sách đối ngoại bản của Trung Quốc;
- Trung Quốc đã sẵn sàng phát triển sự hợp tác kinh tế, buôn bán
kỹ thuật với tất cả c nước đã hoặc đang phát triển, trên sở bình
đẳng cùng lợi;
Trung Quốc tuân thủ 5 nguyên tắc chung sống hoà bình mong muốn phát
triển sự hợp tác hữu nghị với tất cả các nước theo những nguyên tắc này.
+ Từ thập kỷ 90 của thế kỷ 20, Trung Quốc đã tích cực tham gia nhiều diễn đàn
quốc tế, hoạt động trong nhiều khu vực, nhiều tổ chức chính trị kinh tế
quốc tế như APEC, GATT, mở rộng quan hệ các nước như Nam Phi,
Vatican, Ixraen... nhằm ơn lên trưởng thành một “cực” quan trọng trong xu
thế đa cực của thế giới. Các mối quan hệ đối ngoại của Trung Quốc đều tuân
theo tưởng chỉ đạo: đặt lợi ích dân tộc lên hàng đầu, “bỏ qua quá khứ,
hướng về tương lai”. Hiện nay chính ch đối ngoại của Trung Quốc tập
trung vào Mĩ, Nhật, Tây Âu Đông Nam á.
+ Trong quan hệ với các nước láng giềng xung quanh, Trung Quốc đặc biệt coi
trọng thúc đẩy quan hệ mọi mặt với các ớc trong tổ chức ASEAN, năm
1993 được coi “năm ASEAN của Trung Quốc”. Hiện nay Trung Quốc
một đối tác quan trọng của ASEAN.
Lời phát biểu của Tập Cận Bình nhân dịp kỉ niệm 40 năm đổi mới :
“Tại một quốc gia rộng lớn như Trung Quốc, với hơn 5 ngàn năm văn minh dân
số hơn 1,3 tỷ người, t không một sách giáo khoa nào thể viết ra những quy
tắc ng nhằm thúc đẩy cải cách phát triển kinh tế cũng như không ai thể ra
lệnh cho người Trung Quốc nên hay không nên làm gì, chúng ta sẽ cần cải cách
những cần sự thay đổi’’
=> Tập Cận Bình nhấn mạnh những thành tựu Trung Quốc đạt được trong 40
năm, cam kết thúc đẩy công cuộc cải cách cảnh báo “không ai thể gây sức ép
lên Trung Quốc”
=> Nhà lãnh đạo Trung Quốc nhấn mạnh cải cách mở cửa một cuộc thức tỉnh
đại của Đảng Cộng sản Trung Quốc, cội nguồn của sáng tạo trong cả học
thuyết thực tiễn chính phủ Trung Quốc.Trung Quốc cam kết theo đuổi chính sách
hòa bình, hợp tác, phát triển
Sự kiện Thiên An Môn :
Quảng trường Thiên An Môn một địa điểm du lịch nổi tiếng thủ đô Bắc Kinh của
Trung Quốc. Cái tên “Thiên An Môn” nghĩa
“Cổng trời Bình an”
. Nhưng
quảng trường này đã biến thành bể máu vào ngày 4/6/1989. Khi đó, quân đội Trung
Quốc súng vào các sinh viên ủng hộ dân chủ; dùng xe tăng cán người; giết chết
làm bị thương hàng trăm, thậm chí hàng ngàn sinh viên, trí thức dân thường
- Nguyên nhân : 3 nguyên nhân chính
1. Từ cái chết của Hồ Diệu Bang : Vào ngày 15/4/1989, Hồ Diệu
Bang qua đời. một nhà lãnh đạo ủng hộ cải ch, cái chết
của ông đã khiến nhiều người thương tiếc.
2. Giới nh đạo không lắng nghe, sinh viên thêm bức xúc :
ĐCSTQ tổ chức một lễ tang cấp nhà ớc cho H Diệu Bang
vào ngày 22/4. Đám tang được tổ chức vội vã, ch kéo dài 40
phút. Các sinh viên vượt qua hàng rào phong tỏa Quảng
trường để cố gắng trình đơn kiến nghị. Nhưng không lãnh
đạo nào ra khỏi Đại lễ đường. Điều này khiến các sinh viên
càng thêm thất vọng bất bình hơn nữa.
3. Thành lập Liên đoàn tự trị sinh viên : Ngày 23/4, các sinh
viên tổ chức một cuộc họp với sự tham gia của khoảng 40 sinh
viên từ 21 trường đại học. Cuộc họp thống nhất thành lập Liên
đoàn tự trị của sinh viên Bắc Kinh (còn gọi Liên minh). Liên
minh này sau đó kêu gọi bãi khóa tất cả các trường đại học
Bắc Kinh. Một tổ chức hình thành bên ngoài thẩm quyền của
ĐCSTQ đã gióng lên hồi chuông báo động cho các nhà cầm
quyền Bắc Kinh.
- Con số thương vong trong cuộc đàn áp Thiên An Môn :
Chính phủ Trung Quốc liên tục thay đổi tuyên bố của mình về sự kiện Lục Tứ. Ban
đầu họ nói rằng không phát súng nào nổ ra không ai bị giết hại vào ngày
4/6/1989. Lời nói dối quá lý, nhiều phóng viên quốc tế đã ghi lại các cuộc n súng
giết hại.
vậy, sau đó Bắc Kinh tuyên bố một số người chết. Con số họ đưa ra không
nhất quán, ban đầu nói vài chục, sau đó đổi thành vài trăm. ĐCSTQ tuyên bố
những người tử vong chủ yếu là các binh sỹ bị “các phần t phản cách mạng” giết
hại
Tuy nhiên, các nhà báo nước ngoài, những người chứng kiến vụ thảm sát ước tính
ít nhất 3.000 người chết trong Sự kiện Thiên An Môn..
=> Liệu sự kiện này minh chứng cho việc Trung Quốc che giấu sự thiếu t
trong bộ máy chính quyền, kiểm soát truyền thông với thế giới, đi ngược lại với nội
dung chính trị nhà nước Trung Quốc đề cập trong nội dung Chủ nghĩa hội hóa
Trung Quốc?
https://www.youtube.com/watch?v=QS6oHq2cZRw
https://truyenhinhthanhhoa.vn/chu-tich-trung-quoc-co-bai-dien-van-quan-trong-nhan-dip-40-
nam-cai-cach-mo-cua-1808169824.htm
https://m.nguyenuoc.com/su-kien-thien-an-mon-1989-su-that-2-13943.html/
amp#2_Boi_canh_Nguyen_nhan_bieu_tinh_ly_do_dan_ap
II. Chủ nghĩa hội đặc sắc Trung Quốc
- Đặc điểm :
Trong quan niệm cùa Đảng Cộng sản Trung Quốc, khái niệm chủ nghĩa hội đặc
sắc Trung Quốc thời đại mới (Socialism with Chinese Characteristic for a New Era)
được giải là: “Chủ nghĩa hội đặc sắc Trung Quốc ớc vào thời đại mới nghĩa
dân tộc Trung Hoa trải qua muôn vàn khó khăn từ thờii cận đại đến nay đã đón chào
đón sự ngày vọt đại từ đứng lên, giàu n đến mạnh lên, triển vọng sáng lạn thực
hiện sự phục hưng đại dân tộc Trung Hoa...”'. Thời đại mới mà Trung Quốc nhắc
đến đây chính thế kỷ XXI (cụ thể từ sau Đại hội XIX - 2017). Thế kỷ Trung
Quốc đặt ra những mục tiêu cùng đại, như hoàn thành xây dựng hội khá giả
toàn diện (vào năm 2021), phấn đấu đưa Trung Quốc trở thành cường quốc hội chủ
nghĩa hiện đại, giàu mąnh, n chủ, văn minh, i hòa, tươi đęp vào giữa thế kỷ XXI;
thời kỳ Trung Quốc ngày càng tiến gần hơn tới trung tâm đài thế giới
- Quá trình: Trung Quốc a CN Mác thực hiện 2 lần do Mao Trạch Đông
Đặng Tiểu Bình.
Theo ch phân kỳ lịch sử Đảng của ĐCS Trung Quốc hiện hành, ĐCS Trung Quốc từ
khi thành lập (1-7-1921) đến nay đã trải qua 3 thời kỳ lớn là: Cách mạng (1921-1949),
Xây dựng (1949-1978) Cải cách m cửa (1978-2018).
Cải cách mở cửa một sự nghiệp hoàn toàn mới, được ví như một cuộc cách mạng.
Trong quá trình lãnh đạo 40 m Cải cách m cửa, ĐCS Trung Quốc đã tìm ra được
một hệ thống luận về CNXH đặc sắc Trung Quốc Con đường xây dựng CNXH
đặc sắc Trung Quốc. Hệ thống lý luận này cho đến nay bao gồm: Lý luận Đặng Tiểu
Bình, ởng Ba đại diện, Quan điểm phát triển khoa học tưởng XHCN đặc
sắc Trung Quốc thời đại mới Tập Cận Bình. thể nói, quá trình hình thành hệ thống
luận về CNXH đặc sắc Trung Quốc cũng quá trình các thế hệ nh đạo của ĐCS
Trung Quốc không ngừng tìm i với những đột phá về mặt luận và coi trọng tổng
kết thực tiễn, sau đó khái quát hóa thành luận để trở lại chỉ đạo thực tiễn mới của
cải cách mở cửa.
- Các khía cạnh: Thực tiễn xây dựng CNXHĐS Trung Quốc diễn ra một cách toàn
diện mọi lĩnh vực của đời sống hội
a.
Về kinh tế
Một là, Trung Quốc chuyến từ “tăng trưởng cao” về tốc độ sang giai đoạn phát triển chất
lượng cao
Đảng Cộng sàn Trung Quốc cho rằng, thúc đẩy phát triển chất lượng cao yêu cầu tất
yếuu duy trì kinh tế phát triển lành mąnh, bền vững, thích ứng vói thay đổi mâu thuẫn
hội chính cùa Trung Quốc hội khá giả toàn diện, xây dựng toàn diện quốc gia hiện
đạii hóa hoi ch nghĩa, tuân theo quy luật kinh tế thị trường. Thúc đẩy phát triển chất
lượng cao yêu cầu căn bản c định duy phát triển từ nay về sau, đặt ra chính sách
kinh tế, thực thi điều tiết vi mô, đẩy nhanh hình thành hệ thống chi tiêu, hệ thống chính
sách, tiêu chuẩn, thống kê, đánh giá thành tích, khảo hạch thành tích, thúc đẩy phát triển
chất lượng cao, xây dựng hoàn thiện môi trường chế độ, thúc đẩy kinh tế Trung Quốc
không ngùng tiến triển mới trong thực hiện phát triển chất lượng cao. Theo đó, nền kinh
tế Trung Quốc đã chuyển từ giai doąn phát triển nhanh sang giai đoạn phát triển chất lượng
cao, chú trọng tới chất lượng hơn tốc độ, thay đổi mục tiêu từ số lượng sang chất lượng
trong khu vực chế tạo, chuyển từ “Made in China” (sản xuất tąi Trung Quốc) sang
“Created in China” (sáng tạo tąi Trung Quốc).
Hai là, đẩy nhanh xây dựng đất nước theo hình sáng tạo
Sáng tąo chính động lực quan trọng nhất dẫn dắt sự phát triển kinh tế trong thời đại mới.
Để đạt mục tiêu đó, cần đặc biệt quan tâm phát triển khoa học công nghệ, gồm cả nghiên cứu
bản, nghiên cứu ứng dụng, phấn đấu đưa Trung Quốc trở thành cường quốc về khoa học
công nghệ. Trung Quốc chủ trương tăng cường xây dựng hệ thống sáng tạo quốc gia, ng
cường sức mạnh khoa học công nghệ chiến lược. Đi sâu cải cách thể chế khoa học công
nghệ, lấy doanh nghiệp làm chủ thể, lấy thị trường làm định hướng, tạo mối liên kết giữa các
ngành, lĩnh vực kinh tế vói các trường đại học, viện nghiên cứu. Tăng cường bảo vệ quyền sở
hữu trí tuệ, đào tạo nhân tài khoa học.
Ba là,thực hiện chiến Iược chấn hưng nông thôn.
Yêu cầu chung của sự phát triển nông thôn là: “ngành nghề thịnh vượng, môi trường sinh
thái tốt lành, nếp sống văn minh, quản hiệu quả, cuộc sống giàu có. Một s giải pháp
chủ yếu phát triển nông thôn là: hoàn thiện chế độ kinh doanh bản của nông thôn, đi sâu
cải cách ruộng đất, bảo đảm an ninh lương thực, phát triển các hình thức kinh tế tập thể,
gắn nông nghiệp với công nghiệp, dịch vụ.
Bốn là, thực thi chiến lược phát triển nhịp nhàng giữa các khu vực.
Tập trung cao độ hỗ trợ phát triển các vùng căn cứ địa cách mạng, vùng dân tộc, các vùng
còn nhiều khó khăn. Bảo đảm hài hòa sự phát triển giữa thành thị nông thôn; giữa các khu
công nghiệp truyền thống c khu công nghiệp mới. Cân bằng sự phát triển c dịch vụ
công cộng bản, kết hợp hài hòa sự phát triển các trung tâm lớn Bắc Kinh - Thiên Tân - Hà
Bắc. Mở rộng các yếu tố của thị trường theo nguyên tắc trật tự, nắm chắc hoàn thiện
pháp luật liên quan đến đầu nước ngoài, tăng cường bảo vệ sở hữu trí tuệ, nâng cao chất
lượng xuất khẩu.
Năm là, đẩy nhanh hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường hội chủ nghĩa.
Trong đó, lấy hoàn thiện chế độ quyền sở hữu tài sản yếu tố phân bổ thị trường trọng
điểm, thực hiện khuyến khích hiệu quả quyền sở hữu tài sản, yếu tố lưu thông tự do, giá cả
phản ứng linh hoạt, cạnh tranh công bằng trật tự. Một số biện pháp cụ thể như: hoàn thiện
thể chế quản tài sản nhà nước; đi sâu cải cách doanh nghiệp nhà nước; cải cách chế độ
hành chính ngành công thương; đẩy nhanh y dựng chế độ tài chính hiện đại...
Sáu là, thúc đẩy hình thành bố cục mở cửa toàn diện.
Trung Quốc chủ trương xây dựng “Vành đai con đường” làm trọng điểm, chú trọng, đồng
thời, thu hút nguồn lực t bên ngoài đầu ra bên ngoài, nh thành bố cục mở cửa kết nối
tương tác giữa n trong bên ngoài.
b.
Về chính trị (dân chủ và nhà ớc pháp quyền)
Bản chất của chế độ chính tr hội chủ nghĩa đặc sắc Trung Quốc thời đại mới
nền chuyên chính dân chủ nhân dân do giai cấp công nhân lãnh đạo, lấy liên minh
công - ng m nền tảng, mọi quyền lực nhà nước đều thuộc về nhân dân, gồm:
i) Sự thống nhất hữu giữa lãnh đạo của Đảng Cộng sản Trung Quốc, nhân dân làm
chủ, quản đất ớc theo pháp luật. Sự lãnh đạo của Đảng bảo đảm căn bản cho
nhân dân làm chủ; quản đất ớc theo pháp luật; nhân n làm chủ đặc trưng
mang nh bản chất của nền chính trị dân chủ XHCN; quản đất nước theo pháp luật
phương thức bản để Đảng lãnh đạo nhân dân quản đất nước; ba mặt thống
nhất với nhau trong thực tiễn đại của nền chính trị dân chủ XHCN của Trung Quốc.
Với ý nghĩa đó, sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Trung Quốc đặc trưng bản chất
nhất, ưu thế lớn nhất của nền chính trị n chủ XHCN Trung Quốc của CNXH
đặc sắc Trung Quốc thời đại mới.
ii) Chế độ Đại hội Đại biểu nhân dân chế độ chính trị căn bản bảo đảm cho nhân
dân Trung Quốc làm chủ. Hiến pháp Cộng hòa nhân dân Trung Hoa quy định: tất cả
mọi quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước
thông qua quan đại diện Đại hội Đại biểu nhân dân toàn quốc (Nhân đại) Đại
hội Đại biểu nhân dân các cấp địa phương. c quan nhà nước được tổ chức
hoạt động dựa trên sở nguyên tắc tập trung dân chủ. Đại hội Đại biểu nhân dân
toàn quốc Đại hội Đại biểu nhân dân c cấp đều chịu trách nhiệm trước nhân dân,
chịu sự giám sát của nhân dân. Công n Trung Quốc tròn 18 tuổi đều quyền bầu
cử thể được bầu c làm đại biểu nhân dân.
iii) Hiệp thương chính trị Nhân dân chế độ hợp tác đa đảng phái do Đảng Cộng sản
Trung Quốc lãnh đạo chế độ chính trị bản, hình thức đặc biệt ưu thế độc
đáo của nền chính trị dân chủ XHCN Trung Quốc. Các đảng phái dân ch Trung
Quốc không phải đảng đối lập, các đảng phái tham chính. Phương châm
bản hợp tác giữa Đảng Cộng sản Trung Quốc với các đảng phái dân chủ “Chung
sống lâu dài, giám sát lẫn nhau, đối xử chân thành với nhau, vinh nhục nhau”.
iv) Thực hiện chế độ tự trị dân tộc và “hòa bình thống nhất, một nước hai chế độ”
sự nghiệp phục hưng dân tộc Trung Hoa. Nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa gồm
04 thành phố trực thuộc Trung ương, 23 tỉnh 05 khu tự trị, 02 đặc khu hành chính.
Việc thực hiện chế độ tự tr dân tộc “hòa bình thống nhất, một ớc hai chế độ”
một quyết sách chiến lược, một đặc trưng, nội dung quan trọng của quá trình tìm kiếm
con đường, phương thức xây dựng nền chính trị n chủ XHCN đặc sắc Trung Quốc.
quan trọng nhân dân Trung Quốc trực tiếp thực hiện quyền lợi n chủ theo pháp
luật.
c.
Về văn a
Một là, nắm vững quyền nh đạo đối với công c ý thức hệ.
Đảng Cộng sản Trung Quốc cho rằng, ý thức hệ quyết định ớng đi lên con
đường phát triển của văn a, do vậy, cần thúc đẩy Trung Quốc hóa, thời đại hóa,
quần chúng hóa chủ nghĩa Mác. Trung Quốc coi trọng việc xây dựng đổi mới c
biện pháp truyền thông, nâng cao sức truyền bá, hướng dẫn, ảnh hưởng, độ tin cậy của
luận báo chí. Tăng cường xây dựng nội dung trên mạng Internet, hệ thống quản
tổng hợp mạng, không gian mạng trong sạch. Tăng cường xây dựng quản thế
trận tưởng, chú ý phân biệt vấn đề nguyên tắc chính trị, nhận thức tưởng, quan
điểm học thuật trong đấu tranh, phản bác các quan điểm sai trái, thù địch.
Hai , bồi dưỡng thực hiện “giá trị quan” cốt lõi hội chủ nghĩa.
Giá trị quan cốt lõi hội chủ nghĩa thể hiện s tập trung của tinh thần Trung Quốc
đương đại, gắn với sự theo đuổi giá trị chung của toàn thể nhân dân. Tăng cường
hướng vai trò dẫn dắt của giá trị quan cốt lõi hội chủ nghĩa trong nền giáo dục quốc
dân, trong hoạt động n hóa khoa học. Đi sâu khai thác những quan niệm
tưởng, tinh thần nhân văn, quy phạm đạo đức chứa đựng trong văn hóa truyền thống
ưu Trung Hoa, kết hợp với yêu cầu thời đại, kế thừa sáng tạo để văn hóa Trung Hoa
thể hiện sức lôi cuốn vĩnh cửu phong thái thời đại.
Ba là, tăng cường xây dựng đạo đức tưởng.
Đảng Cộng sản Trung Quốc cho rằng, nhân dân có niềm tin, đất nước mới sức
mạnh, dân tộc mới hy vọng. Do vậy, cần nâng cao sự giác ngộ ởng, trình độ
đạo đức, tố chất văn minh của nhân n. Nâng cao trình độ văn minh của toàn xã hội.
Triển khai rộng rãi giáo dục về niềm tin, tưởng, đi sâu tuyên truyền giáo dục về chủ
nghĩa hội đặc sắc Trung C Lấc mộng Trung Hoa”, tôn vinh tinh thần thời đại
tinh thần dân tộc. ng cường giáo dục ch nghĩa yêu nước, chủ nghĩa tập thể, ch
nghĩa hội.
Bốn là, phát triển văn a ngh thuật hội chủ nghĩa.
Kiên trì hướng sáng tác lấy nhân dân làm trung tâm, tạo ra các sản phẩm văn hóa nghệ
thuật xứng đáng với thời đại gắn bó với đời sống, bám rễ trong nhân dân. Phát huy
dân chủ trong học thuật, nghệ thuật, nâng cao năng lực sáng tác văn hóa nghệ thuật,
thúc đẩy sáng tạo văn hóa nghệ thuật. Tăng cường xây dựng đội ngũ cán bộ làm công
tác văn hóa nghệ thuật, vừa tinh thần cách mạng, vừa sáng tạo trong hoạt động
nghệ thuật.
Năm là, thúc đẩy phát triển sự nghiệp văn hóa ngành công nghiệp văn a.
Đảng Cộng sản Trung Quốc nhấn mạnh, muốn đáp ng được mong đợi của nhân dân
về một cuộc sống ơi đẹp hơn thì cần phải cung cấp những món ăn tinh thần phong
phú. Cần đi sâu cải cách th chế văn hóa, hoàn thiện chế độ quản văn a, đẩy
nhanh xây dựng chế, thể chế đặt hiệu quả hội lên vị trí hàng đầu, coi trọng cả
hiệu quả hội hiệu qu kinh tế. Hoàn thiện hệ thống dịch vụ văn hóa công cộng,
đi sâu thực hiện những sản phẩm văn hóa đem lại lợi ích cho nhân dân, làm phong phú
hoạt động văn hóa của quần chúng. Tăng cường bảo vệ các di sản văn a. Kiện toàn
hệ thống ngành nghề hệ thống thị trường của văn hóa hiện đại, đổi mới chế sản
xuất kinh doanh, hoàn thiện chính sách kinh tế văn hóa, vun đắp hình thái ngành văn
hóa kiểu mới.
d.
Về xã hội
Đảng Cộng sản Trung Quốc lãnh đạo nhân dân y dựng hội hài hòa hội chủ
nghĩa rãi giáo theo u cầu chung dân chủ pháp trị, công bằng chính nghĩa, thành
tín hữu ái, tràn đầy sức sống, yên ổn trật tự, con người chung sống hài hòa với thiên
nhiên. Nguyên tắc thực hiện cùng xây cùng hưởng, lấy bảo đảm cải thiện đời
sống nhân dân làm trọng điểm, giải quyết tốt các vấn đề lợi ích nhân dân quan trọng
nhất, trực tiếp nhất, thực tế nhất, làm cho thành quả phát triển đất nước đến với toàn
thể nhân dân được nhiều n, công bằng hơn, nỗ lực hình thành cục diện toàn thể
nhân dân người người làm hết năng lực, người người được ởng lợi chung sống
hài hòa. Tăng cường sáng tạo quản hội. Để thực hiện được quan điểm mục
tiêu đó, phải phân biệt ràng xử đúng đắn hai loại mâu thuẫn khác nhau về tính
chất mâu thuẫn địch - ta mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân. Tăng cường xử lý
tổng hợp trị an hội, căn cứ theo pháp luật kiên quyết tấn công tội phạm các phần
tử làm phương hại đến an ninh lợi ích quốc gia, ổn định hội, đất nước.
e.
Văn minh sinh thái
Đảng Cộng sản Trung Quốc c định, xây dựng văn minh sinh thái liên quan tới hạnh
phúc của nhân dân, liên quan đến phương kế lâu dài trong tương lai của dân tộc. Văn
minh sinh thái là phương thức, giải pháp chiến lược để giải quyết mâu thuẫn chủ yếu
của hội Trung quốc trong thời đại mới. Đó mâu thuẫn giữa nhu cầu ngày càng
tăng của nhân dân về một đời sống tốt đẹp với sự phát triển không cân bằng, không
hài hòa, không đầy đủ. Đứng trước tình hình nghiêm trọng như nguồn tài nguyên ngày
càng cạn kiệt, hệ thống sinh thái xuống cấp, nguồn nước, không khí, đất đai bị ô
nhiễm... nhất thiết phải xây dựng duy về văn minh sinh thái tôn trọng thiên nhiên,
hài hòa thiên nhiên, bảo vệ thiên nhiên, đặt xây dựng văn minh sinh thái vào vị trí nổi
bật, hòa cùng với toàn bộ quá trình xây dựng kinh tế, chính trị, văn hóa, hội, tạo ra
sự phát triển hài hòa, toàn diện, bền vững.
- sở ý nghĩa của luận ch nghĩa hội đặc sắc Trung Quốc
sở luận
Một là, chủ nghĩa Mác - nin, sở tư tưởng chủ yếu của luận chủ nghĩa hội
đặc sắc Trung Quốc thời đại mới. Đảng Cộng sản Trung Quốc trước sau như một
khẳng định lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm kim chỉ nam cho hành động của Đảng.
Hai là, tưởng của các nhà lãnh đạo tiền bối của Đảng Cộng sản Trung Quốc, tiêu
biểu như: “tư tưởng Mao Trạch Đông”, “lý luận Đặng Tiểu Bình”, tưởng quan
trọng ba đại diện” và “quan điểm phát triển khoa học”
s thực tiễn
Một , bối cảnh thời đại: sự sụp đổ của CNXH hiện thực Liên và các nước
Đông Âu vào thập kỷ cuối của thế kỷ XX đặt ra u cầu phải nhận thức lại toàn diện,
sâu sắc hơn luận của chủ nghĩa Mác - Lênin về hình con đường đi n CNXH
phù hợp với đặc điểm cụ thể của mỗi quốc gia, dân tộc thời đại
Hai là, bối cảnh cụ thể Trung Quốc: Những thành tựu phát triển kinh tế, chính trị,
hội, khoa học công nghệ của Trung Quốc sau gần 40 năm thực hiện cải cách, mở cửa
5 m thực hiện Nghị quyết Đại hội XVIII đã tạo ra tiền đề mới cho xây dựng
CNXH đặc sắc Trung Quốc
Ý nghĩa của lý luận
Một , về ý nghĩa chính trị: CNXH đặc sắc Trung Quốc thời đại mới thể hiện duy,
vị thế chính tr của một thế hệ lãnh đạo mới đứng đầu là Tổng thư, Chủ tịch nước
Tập Cận Bình đối với lịch sử, nhân dân Trung Quốc và thế giới hiện nay. Không phải
ngẫu nhiên, mỗi thế hệ lãnh đạo của Đảng Cộng sản Trung Quốc đều đưa ra một
“tuyên ngôn” hay “cương lĩnh hành động” riêng của mình
Hai , ý nghĩa chiến ợc: CNXH đặc sắc Trung Quốc thời đại mới là ngọn cờ luận
dẫn dắt nhân n Trung Quốc xây dựng CNXH trong thời đại mới với nhiều đột phá
về tưởng, mục tiêu chính sách thực hiện; phản ánh những yêu cầu của hội
Trung Quốc thực tiễn thời đại
Ba , tưởng CNXH đặc sắc Trung Quốc thời đại mới cũng sự vận dụng đúng
đắn phương pháp luận khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin, phát triển nội dung của
CNXH khoa học
Bốn , bên cạnh những ý nghĩa trên, cũng còn những ý kiến quan ngại về “ch
nghĩa hội đặc sắc Trung Quốc thời đại mới”, cho rằng luận này đang đi vào con
đường dân tộc chủ nghĩa; nhất việc Trung Quốc diễn giải nhiều luận điểm của chủ
nghĩa Mác theo cách
của nh
Những nội dung bản của luận chủ nghĩa hội đặc sắc Trung Quốc
Một là, về khái niệm “thời đại mới
Khái niệm chủ nghĩa hội đặc sắc Trung Quốc thời đại mớ iđược thể hiện ngay
chủ đề Đại hội XIX Đảng Cộng sản Trung Quốc: Không quên ởng ban đầu, khắc
ghi sứ mệnh, dương cao ngọn cờ đại ch nghĩa hội đặc sắc Trung Quốc, quyết
tâm hoàn thành thắng lợi xây dựng hội khá giả toàn diện, giành thắng lợi đại của
chủ nghĩa hội đặc sắc Trung Quốc thời đại mới, phấn đấu không mệt mỏi giấc
Trung Quốc phục hưng đại dân tộc Trung Hoa”
Hai , về xác định nhiệm vụ, bố cục tổng thể, mâu thuẫn chủ yếu của chủ nghĩa
hội đặc sắc Trung Quốc thời đại mới
Nhiệm vụ tổng thể: Đảng Cộng sản Trung Quốc cho rằng nhiệm vụ tổng th của
CNXH đặc sắc Trung Quốc thời đại mới là: thực hiện hiện đại hóa CNXH phục
hưng đại dân tộc Trung Hoa (gồm hai ớc, bước 1: xây dựng hội khá giả toàn
diện; bước hai, thành cường quốc XHCN hiện đại, giàu mạnh, dân chủ, công bằng,
văn minh, hài hòa, ơi đẹp).
Ba , tưởng phương châm chiến lược của chủ nghĩa hội đặc sắc Trung Quốc
thời đại mới
Ngày 30-3-1979, tại Hội ngh nghiên cứu công tác luận của Đảng, Đặng Tiểu Bình
lần đầu tiên đưa ra khái quát “bốn nguyên tắc bản”, đó là: “kiên trì con đường
hội chủ nghĩa; kiên trì chuyên chính sản; kiên trì sự lãnh đạo của Đảng cộng sản;
kiên trì chủ nghĩa Mác tưởng Mao Trạch Đông”. Những nguyên tắc này được
các thế hệ lãnh đạo tiếp sau quán triệt một cách triệt để.
- Những gợi mở với Việt Nam hiện nay (Liên hệ)
Trung Quốc nước láng giềng nhiều tương đồng về lịch sử, trình độ phát triển
kinh tế hội, đặc điểm văn hóa thể chế chính trị với Việt Nam; trong quá trình
xây dựng chủ nghĩa hội hiện nay, bên cạnh những thời , Việt Nam đã đang
phải đối mặt với nhiều thách thức nên những tìm tòi, sáng tạo về luận của Trung
Quốc, những kinh nghiệm thực tiễn của Trung Quốc, c kinh nghiệm thành công
kinh nghiệm không thành ng trong quá trình xây dựng chủ nghĩa hội đều rất bổ
ích đối với Việt Nam.
Thứ nhất, nghiên cứu s phát triển luận của Đảng Cộng sản Trung Quốc thời kỳ cải
cách mở cửa cho thấy, hình chủ nghĩa hội đặc sắc Trung Quốc thường xuyên
sự điều chỉnh, từ hình “ba trong một” đến bốn trong một”, rồi “năm trong một”
nhưng mục tiêu tương đối nhất quán của Trung Quốc mưu cầu hạnh phúc cho nhân
dân Trung Quốc. Đây ởng chỉ đạo xuyên suốt của Đảng Cộng sản Trung
Quốc.
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác Lênin, giải phóng con người mục tiêu cao nhất
của chủ nghĩa hội, nguyên tắc mang tính khách quan và thể hiện tính nhân văn
cao cả của CNXH. Trong chủ đề Đại hội XIX, Đảng Cộng sản Trung Quốc cũng
khẳng định tâm nguyện ban đầu sứ mệnh của mỗi đảng viên toàn Đảng Cộng
sản Trung Quốc chính là u cầu hạnh phúc cho nhân dân Trung Quốc. Đây vừa
mục tiêu vừa động lực để mỗi đảng viên không ngừng nỗ lực phấn đấu vươn lên.
Như vậy, diễn đạt khác nhau, mục tiêu của ch nghĩa hội đặc sắc Trung Quốc
thời đại mới cũng nhằm giải phóng con người khỏi áp bức, bất công, tiến tới cùng giàu
có. Mục tiêu y cũng phù hợp với quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin.
Thứ hai, luận chủ nghĩa hội đặc sắc Trung Quốc thời đại mới là sự kế thừa
phát triển của chủ nghĩa c - Lênin, tưởng Mao Trạch Đông, lý luận Đặng Tiểu
Bình, tưởng quan trọng Ba đại diện”, quan điểm phát triển khoa học, thành quả
mới nhất của việc Trung Quốc hóa chủ nghĩa c - Lênin, kết tinh kinh nghiệm
thực tiễn trí tuệ tập thể của Đảng nhân dân, bộ phận cấu thành quan trọng của
hệ thống luận chủ nghĩa hội đặc sắc Trung Quốc, kim ch nam hành động để
toàn Đảng, toàn dân phấn đấu thực hiện công cuộc phục hưng vĩ đại dân tộc Trung
Hoa”. Gắn liền với việc Trung Quốc hóa chủ nghĩa Mác, Trung Quốc thực hiện thời
đại hóa, cập nhật hóa, đại chúng a chủ nghĩa Mác. Với Trung Quốc, tưởng Tập
Cận Bình về chủ nghĩa hội đặc sắc Trung Quốc thời đại mới chủ nghĩa Mác
Trung Quốc đương đại. Đây con đường, cách thức không ngừng tăng cường sức
sống cho ch nghĩa Mác Trung Quốc Việt Nam cần tham khảo trong nghiên cứu,
bổ sung, phát triển, ph biến vận dụng chủ nghĩa c - Lênin, tưởng Hồ Chí
Minh. Tuy nhiên, cũng cần lưu ý, nguy t cách làm y dễ sa vào con đường dân
tộc chủ nghĩa, kể cả chủ nghĩa n tộc cực đoan, tệ sùng bái nhân tầm thường
hóa chủ nghĩa Mác, thậm chí từ bỏ chủ nghĩa Mác, phản bội chủ nghĩa xã hội.
Thứ ba, xây dựng thực hiện luận chủ nghĩa hội đặc sắc Trung Quốc thời đại
mới Trung Quốc đã giải quyết được vấn đề no ấm cho hơn 1 tỷ dân, bản thực hiện
khá giả sẽ sớm hoàn thành y dựng hội khá giả toàn diện nên nhu cầu về một
đời sống tốt đẹp của nhân dân ngày ng đòi hỏi cao hơn về đời sống vật chất văn a,
về dân chủ, pháp trị, công bằng, chính nghĩa, an ninh, i trường sinh thái. Tuy vậy,
bao trùm xuyên suốt, trước hết trên hết vẫn lợi ích của Trung Quốc, sự
nghiệp phục hưng đại n tộc Trung Hoa.
REF:
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần th XVIII Đảng Cộng sản Trung Quốc, Nxb Chính trị quốc gia, Nội,
2013, tr.105-106, 106, 107, 108, 109.
Đảng Cộng sản Trung Quốc: Báo cáo chính trị tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIX, https://vov.vn.
Viện nghiên cứu lịch sử phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, Trường Đại học Nhân dân Trung Quốc, Lịch s chủ
nghĩa Mác, t.4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004, tr.1094, 1092.
New era of socialism with Chinese characteristics, https://news.cgtn.com
http://lyluanchinhtri.vn/home/index.php/quoc-te/item/2532-co-so-hinh-thanh-va-mot-so-noi-dung-cot-loi-cua-ly-
luan-chu-nghia-xa-hoi-dac-sac-trung-quoc-thoi-dai-moi.html
luận TS Phạm Thị Hoàng Hà, TS Nguyễn Văn Quyết Học viện Chính trị Quốc gia H Chí Minh
III. Liên hệ bài học
1. Nguyên nhân thành công:
Rốt cuộc phải tổng kết n thế nào về thành tựu kinh nghiệm 30 năm cải cách
mở cửa của Trung Quốc? đây vừa những nhân tố lãnh đạo sự nghiệp cải cách
mở cửa của Đảng Cộng sản Trung Quốc, vừa những nguyên nhân chính sách
cải ch mở cửa được đông đảo quần chúng nhân dân ng h tích cực; vừa vai
trò chỉ đạo phương ớng của chính sách phát triển kinh tế, vừa hiệu quả quản
hội nhịp nhàng tổng hợp. Trong bài viết này chỉ xuất phát từ luận phát triển
hội để quy nạp thành 2 điểm nhận thức:
Luôn luôn có mục tiêu phát triển rõ ràng nguyên nhân quan trọng
giúp Trung Quốc phát triển thành công.
Đánh giá một chế độ hội tốt đẹp hay không, đầu tiên phải xem thể chỉnh
hợp nguồn lực hội hay không. Một cách làm thành ng trong quá trình phát triển
hiện đại hoá của Trung Quốc đó chính khéo léo trong việc tập trung sức mạnh m
để việc lớn. Lý giải theo cách thông thường, tập trung sức mạnh làm việc lớn chính
dùng chiến thuật biển người, khuyếch trương rầm rộ, dùng sức mạnh để giành
thắng lợi v.v... Còn theo cách giải thích của luận phát triển hội, ý nghĩa thật sự
của nói về việc làm thế nào để chỉnh hợp một cách hiệu quả nguồn tài
nguyên hội. Tài nguyên hội vừa bao gồm những nhân tố cấu thành nên hội
cũng bao gồm cả những nhân tố tự nhiên. thế. không chỉ xem xét vấn đề các
khâu sản xuất hội, n hết cần phải xem xét vấn đề hiệu quả của toàn bộ quá
trình quy hoạch, động viên tổ chức.
Căn cứ theo “sự so sánh của quốc tế những quốc gia hậu phát” hay còn gọi
những quốc gia đang phát triển sau chiến tranh thế giới thứ 2 phổ biến đều nhận
thức rằng bản thân mình thua m so với các nước phát triển, đồng thời phổ biến
nhận thức phải rút ngắn khoảng cách, đuổi kịp c nước phát triển, nhưng kết quả
lại không giống nhau. Nguyên nhân u xa đó phần lớn các quốc gia do không
mục tiêu ràng, thế hình chế độ được hình thành không hiệu quả, gây ra
sự yếu kém trong thành qu phát triển sau này, thậm chí gây ra những cuộc khủng
hoảng không ngớt. Trung Quốc mục tiêu ràng, đồng thời thực hiện mục tiêu đó
một cách hiệu quả, điều đó chứng tỏ chất lượng của hình chế độ tốt.
Trong suốt quá trình cải ch mở cửa, Trung Quốc đều những chiến lược phát
triển mục tiêu rệt, đồng thời thông báo chiến lược đó cho mọi thành viên trong
hội, để thuận lợi cho việc hoàn thành mục tiêu chiến lược. Ban dầu mục tiêu
phấn đấu “4 hiện đại hoá được đưa ra lần đầu tiên trong kỳ họp thứ nhất Quốc hội
khóa III, được nhắc lại lần nữa trong Kỳ họp thứ nhất Quốc hội khóa IV. Tháng 3 -
1978, lần đầu tiên Đặng Tiểu Bình sử dụng khái niệm hiện đại hoá theo kiểu Trung
Quốc”; tháng 12 - 1979, trong buổi nói chuyện giữa Đặng Tiểu Bình Masayoshi
Ohira, lần đầu tiên đưa ra khái niệm “khá giả” (tiểu khang). Tháng 1 - 1980, trong
buổi nghe báo cáo của Bộ Chính trị, ông lại một lần nữa đưa ra phải căn cứ theo
tiêu chuẩn khá giả thực hiện GDP bình quân đầu người là 1000 USD để thiết kế
chiến lược phát triển của Trung Quốc. Đưa ra khái niệm khá giả, lần đầu tiên đưa
mục tiêu hiện đại hoá Đảng đề xướng liên hệ trực tiếp với đời sống của quần
chúng nhân dân, đồng thời bằng ch nói đơn giản nhất ph thông để giải thích
thêm. Không lâu sau đó, Đặng Tiểu Bình đưa ra chiến lược phát triển ba bước đi”
từ no ấm” đến “khá giả” rồi đến “cơ bản thực hiện hiện đại hoá”. Thông qua tuyên
truyền rộng rãi, “tăng gấp bốn”, bình quân đầu người 800 USD” (sau này sửa
thành 1000 USD), “gia đình khá giả” trở thành cụm từ quen thuộc của mọi người,
mọi nhà. Cho làm nghề gì, cho dùng thuộc tầng lớp nào, mọi người đều biết mình
làm việc mục đích gì, đều một mục tiêu đ cố gắng phấn đấu. Đó chính một
dạng thức chỉnh hợp tài nguyên một tầng thứ cao hơn, sự chỉnh hợp của lực
hướng tâm.
Cuối thế kỷ trước, Trung Quốc thực hiện mục tiêu ‘tăng gấp bốn lần’ trước thời hạn,
GDP bình quân đầu người đạt 1000 USD. Tại thời khắc quan trọng đó, Đảng
Chính phủ Trung Quốc không hề chủ quan, vẫn tỉnh táo nhận ra rằng: sự khá giả
Trung Quốc đạt được trình độ thấp, sự khá giả không toàn diện, sự phát
triển không cân bằng. Sức sản xuất, khoa học kỹ thuật giáo dục còn tương đối
lạc hậu, kết cấu kinh tế nhị nguyên thành thị nông thôn vẫn chưa thay đổi, thực hiện
công nghiệp hoá hiện đại hoá còn một chặng đường dài phải đi, từ đó đã đưa ra
mục tiêu chiến lược “xây dựng toàn diện hội khá giả”.
Bước sang thế kỷ mới, Đảng Chính phủ Trung Quốc nhận thức được một loạt
đặc trưng mang tính giai đoạn mới ngày càng lộ trong q trình phát triển của
Trung Quốc, bao gồm cả những thành tựu như thực lực kinh tế ngày càng được
tăng cường rệt, thể chế kinh tế XHCN bước đầu được xây dựng, đời sống nhân
dân về tổng thể đã đạt mức độ khá giả, phát triển hài hoà, nhịp nhàng đạt được
thành tích rệt, bên cạnh đó còn tồn tại cả những vấn đề như trình độ phát triển
sức sản xuất về tổng thể vẫn chưa cao, năng lực t chủ sáng tạo chưa mạnh, mâu
thuẫn mang tính kết cấu phương thức tăng trưởng quảng canh hình thành từ lâu
dài vẫn chưa được thay đổi căn bản, những trở ngại về thể chế chế đối với sự
phát triển vẫn còn tồn tại, xu thế mở rộng khoảng cách phân phối thu nhập vẫn chưa
được xoay chuyển về căn bản, cục diện phát triển trì trệ nông thôn còn chưa biến
chuyển. Từ đó đưa ra kết luận tình hình trong nước của Trung Quốc vẫn chưa thay
đổi sẽ tiếp tục trong giai đoạn đầu của CNXH, mâu thuẫn chủ yếu của hội
mâu thuẫn nhu cầu văn hoá vật chất ngày càng tăng của nhân dân với sản xuất
hội lạc hậu vẫn kết luận không thay đổi, kết hợp với những hội thách thức
mới khi Trung Quốc gia nhập toàn diện vào toàn cầu hoá, hoàn thành nhiệm vụ mới
trong tình hình mới công nghiệp hoá, thông tin hoá, đô thị hoá, thị trường a, quốc
tế h ngày càng phát triển sâu rộng, đưa ra nhiệm vụ phải lấy quan điểm phát triển
khoa học để thống lĩnh sự phát triển kinh tế, hội, xây dựng toàn diện hội khá
giả trình độ cao hơn đem lại lợi ích cho hơn 1 tỷ người, mở rộng môi trường phát
triển cho mục tiêu phấn đấu CNXH đặc sắc Trung Quốc.
Giúp sức cho những chiến lược phát triển này các Quy hoạch - Kế hoạch Quốc
gia 5 năm. Cho đến nay Trung Quốc đang quán triệt thực hiện Quy hoạch 5 năm lần
thứ XI.
Ngoài các chiến lược tổng thể, Đảng Nhà nước Trung Quốc cũng kịp thời đặt ra
những chiến lược phát triển trung dài hạn. Liên quan đến chiến lược mang tính
toàn cục Chiến lược khoa giáo hưng quốc, Chiến lược nhân tài cường quốc,
Chiến lược phát triển bền vững. Liên quan tới phát triển khu vực Chiến lược khai
phát miền Tây, Chiến lược miền Trung quật khởi, Chiến lược chấn hưng các sở
công nghiệp vùng Đông Bắc. Liên quan với một lĩnh vực nào đó hay một
phương diện nào đó “Kế hoạch đốm lửa nhỏ”, “Kế hoạch đuốc”, “Kế hoạch
863”. “Kế hoạch 973”. n hàng loạt các kế hoạch chuyên biệt phát triển khoa
học kỹ thuật như “Kế mạch đốm lửa nhỏ”, “Kế hoạch bó đuốc”, “Kế hoạch 863”, “Kế
hoạch 973” lần lượt được thực hiện không những tạo ra sự trợ giúp khoa học hiệu
quả đối với sự phát triển kinh tế hội, còn quy tụ, bồi dưỡng đào tạo nên
một đội ngũ nhân tài kiệt xuất, trở thành lực ợng ng cốt tiếp nối xây dựng đất
c.
hai biện pháp để thực hiện hoàn thành các chiến lược phát triển quốc gia: Một
là, tuyên truyền giải thích. Làm cho những chiến lược phát triển này đều được nhân
dân biết nắm vững, trở thành hành động tự giác của quần chúng nhân dân. Hai
là, phương hướng chỉ đạo chính sách. Nhấn mạnh một chính ch nào đó hay phát
triển thiên lệch một chính sách nào đó, thu hút nguồn vốn sắp xếp của cải, giúp
cho chiến lược phát triển được quán triệt chấp hành hiệu quả.
Tiếp theo, chỉnh hợp hiệu quả nguồn lực hội trong việc tổ chức, động viên các
lực lượng hội hoàn thành các dự án trọng đại trong vòng một thời gian ngắn,
nhanh chóng hình thành sức sản xuất hội. Tập trung lực lượng làm việc lớn,
ưu thế hình thành dài hạn trong thể chế quốc gia của nước Trung Quốc mới. T dự
án mới xây dựng quan trọng 156” vào những năm 50, 60 của thế kỷ XX đến “Kế
hoạch 43” của những năm 70, xây dựng Bảo Cương (gang thép Bảo Sơn) trong thời
kỳ đầu cải cách mở cửa đến công trình xuyên thế kỷ “Tam Hiệp”, đều không hề
giống nhau. Sở nước Trung Quốc mới thể phát triển công nghiệp nặng trong
một khoảng thời gian tương đối ngắn, hình thành nên hệ thống công nghiệp tương
đối hoàn thiện, phần lớn nhờ áp dụng những phương thức như vậy.
Năm 1990, Đặng Tiểu Bình đi thị sát tình hình chuẩn bị Á Vận hội Bắc Kinh, khi nhận
thấy thôn Á Vận hội vừa mới được hoàn thành đã thốt lên rằng: “Nếu không phải
do CNXH tốt, thì Bắc Kinh cải tạo được nhanh như thế này hay không? CNXH
thể tập trung được lực lượng để làm việc lớn, cho khó khăn đều th làm
được”. Nhưng đáng tiếc rằng, ông không thể chứng kiến Thế Vận hội Bắc Kinh.
Năm 2008, Thế Vận hội Bắc Kinh đã thực hiện được lời hứa tôn nghiêm, hoàn thành
đúng thời hạn với lối kiến trúc đặc biệt, công trình nhà thi đấu hàm ợng kỹ thuật
cao. Ngoại trừ những hành động gây rối, Bắc Kinh đã t chức một kỳ Thế Vận hội
thành công xuất sắc, được uỷ ban Olympic quốc tế, vận động viên các nước giới
truyền thông khẳng định. Điểm sáng nữa của Thế Vận hội Bắc Kinh đó khoảng
1.7 triệu tình nguyện viên. H không ngại nắng mưa vẫn mỉm cười phục vụ trong
các nhà thi đấu, bên các nhà ga bến tàu, tại các điểm giao thông, trên những con
phố ngõ hẻm, trở thành cảnh tượng đặc sắc, làm cho thế Vận hội Bắc Kinh khác
hẳn với các thế Vận hội trước đây. Đạt được những thành tích đó do nước Trung
Quốc XHCN thể tập trung sức mạnh làm việc lớn, lời giải thích sức thuyết
phục nhất cho việc th làm tốt việc đại sự.
Đối mặt với những sự kiện ngoài ý muốn, càng thể kiểm nghiệm năng lực động
viên, huy động lực lượng của chính quyền. Trận động đất lớn xảy ra vào ngày 12-5-
2008 tại Văn Xuyên tỉnh T xuyên trận thiên tai sức phá hoại mạnh nhất: phạm
vi ảnh hưởng rộng nhất, mức đ thiệt hại nặng nề nhất kể từ khi ớc Trung Quốc
mới được thành lập. Sau trận động đất, mệnh lệnh của Chính phủ được thông suốt
từ Trung ương đến địa phương, thống nhất bước đi, các bộ ngành căn cứ theo tình
hình cụ thể, hợp tác chặt ch với nhau, hình thành nên hợp lực to lớn cùng nhau
khắc phục khó khăn, chiến thắng thiên tai. Chính phủ Trung ương nhanh chóng gây
quỹ cứu nạn từ nguồn dự trữ chiến lược quốc gia c địa phương, xây dựng n
tuyến đường vận chuyển nhiều tầng thứ bao gồm tuyến đường trên không, đường sắt,
đường bộ, đường thuỷ, đã vận chuyển liên tục đến vùng bị nạn hàng trăm vạn tấn
lương thực, thuốc men, lều vải, máy móc cứu hộ. Chỉ trong vòng nửa tháng, quân
đội các lực lượng bộ đội cảnh sát được điều đi hơn 137 nghìn người, hơn
2300 lượt máy bay các loại, sử dụng khoảng 120 nghìn chiếc (cái) xe vận chuyển cỡ
lớn, cần cẩu, thuyền xung kích, thiết bị thông tin cầm tay, máy phát điện, điều
khoảng 162 đội y tế, đội phòng dịch, đội chuyên gia tâm lý, phân phát khoảng 4,92
triệu bộ (chiếc) vật các loại như đồ quân dụng (chăn mền, thảm, phục trang), thực
phẩm, thuốc men cấp cứu, lều bạt, khối lượng vật được điều động n 100
nghìn tấn. Trong tình hình kết cấu địa chất cùng phức tạp, đường cầu cống bị
phá hoại nghiêm trọng, các hiện tượng sạt lở đất đá nghiêm trọng liên tiếp xảy ra, lực
lượng của các tổ chức chính quyền, trong thời gian một i ngày đã nối thông tuyến
đường sinh mệnh cho vùng gặp nạn, đồng thời tu sửa toàn diện mạng lưới điện,
thông tin, đã tạo nên kỳ tích trong lịch sử cứu nạn thế giới. Ngoài ra, n khởi động 9
loại vệ tinh số 15 vẽ ảnh mây khí tượng, tiến hành đưa thông tin qua vệ tinh, thăm
hình dạng bề mặt trái đất, phi thuyền dẫn đường. Sử dụng mạng vệ tinh nhân tạo
viễn thám để kiểm tra cứu người bị thương. Giúp cho những người trong khu
vực bị nạn được cứu giúp kịp thời, qua đó cũng thể thấy được thực lực hùng
hậu của Trung Quốc sau 30 năm cải cách mở cửa phát triển. Trước thực tế đó,
giới truyền thông báo chí nước ngoài cũng đã phải thốt lên rằng: “Đánh giá một
nền chính thể tốt hay xấu, cần phải nhìn vào nền chính thể đó nguyện vọng
năng lực đưa ra sự phục vụ nhân dân cần hay không”.
Kết cấu hội mối quan hệ hội điều kiện quan trọng quyết định
sự phát triển nhanh chóng của sức sản xuất hội.
Từ những năm 70, 80 của thế kỷ XX trở lại đây giới học thuật quốc tế bắt đầu đi tìm
kiếm những nguyên nhân quyết định sự phát triển giàu mạnh của một quốc gia,
quy nạp lại 5 dòng giả thuyết đó là: vận may luận, địa luận, văn h luận, hội
nhập kinh tế quốc tế thương mại của các quốc gia theo hình hướng ngoại
luận hình chế độ luận. Trong đó sự giải thích về hình chế đ phổ biến
thịnh hành nhất. Cải cách của Trung Quốc diễn ra trong điều kiện CNXH, là sự tự
hoàn thiện của chế độ XHCN, vậy, sự phát triển t nhiên của Trung Quốc cũng
không thể tách rời khỏi nhân tố chế độ. Một điểm quan trọng trong hình chế độ
chỗ đó một kết cấu hội tốt hơn nữa trong kết cấu hội tốt mối quan hệ
hội hài hoà, đó điều kiện n bản nhất cho sự phát triển của bất kể một quốc gia
nào. Học giả nổi tiếng về luận phát triển Emmanuel Wallerstein đã từng nói: “Kết
cấu hội một dạng đá san trong mối quan hệ con người”, nghĩa là, quan
sát kết cấu hội con đường tốt nhất để giải hội loài người.
Hình thái hội của nước Trung Quốc một hội nửa phong kiến nửa thực dân,
mâu thuẫn dân tộc mâu thuẫn giai cấp sâu sắc tạo nên một chính thể hội
trong cơn chấn động đối kháng kịch liệt. Vào thời đó, đừng nói đến sự phát triển
tiến bộ, ngay cả sự ổn định tối thiểu của hội cũng không thể nào bảo đảm được.
Sau khi nước Trung Quốc mới được thành lập, vào đầu những năm 50 thế kỷ XX
Trung Quốc bắt đầu tiến hành cải cách ruộng đất, xoá bỏ triệt để chế độ sở hữu
ruộng đất phong kiến đã tồn tại hơn 2000 năm Trung Quốc, nông dân chiếm 90%
dân số nông thôn chiếm hữu hơn 90% đất canh tác, đó không những một phong
trào cải cách ruộng đất với quy lớn nhất trong hài sử Trung Quốc, còn thực
hiện sự thay đổi kết cấu chế độ mang tính căn bản hội nông thôn, đã giải
phóng tối đa sức sản xuất nông thôn, tạo điều kiện để thực hiện hợp tác hóa nông
nghiệp công nghiệp hóa sau này. Tiếp theo đó, Trung Quốc tiến hành ba cuộc cải
tạo lớn, tiếp tục trải qua một cuộc cải cách hội sâu sắc phức tạp, về bản đã
xoá bỏ được chế độ bóc lột TBCN, đây một điều chưa từng xảy ra trong lịch sử
Trung Quốc, từ đó kết cấu hội của Trung Quốc không còn tồn tại đối lập giai cấp
nữa, trong cả hội, lợi ích căn bản của mọi người thống nhất, mâu thuẫn chủ
yếu của hội mâu thuẫn phi đối kháng, từ đó tạo ra con đường bằng phẳng cho
sự phát triển lành mạnh của hội. Ba cuộc cải tạo đã hoàn thành thuận lợi, không
gây ra cơn chấn động nào trong hội, “Kế hoạch 5 năm lần thứ nhất” hoàn thành
trước thời hạn, đã chứng minh cuộc vận động đúng hướng giữa kết cấu hội
quan hệ hội đã thúc đẩy sự phát triển của sức sản xuất hội. Xuất phát từ ý
nghĩa đó để nhận thức vấn đề, Đại hội XVII Đảng Cộng sản Trung Quốc đã đưa ra
kết luận “xây dựng chế độ bản XHCN, đã đặt tiền đề chính trị sở chế độ
căn bản cho sự phát triển tiến bộ toàn diện của Trung Quốc”.
Thập niên 60, 70 của thế kỷ XX, Trung Quốc đã trải qua 10 năm nội loạn của cuộc
“Đại cách mạng văn hoá”, với thực tiễn sai lầm “lấy đấu tranh giai cấp làm ơng
lĩnh, con người đất đai đã tạo ra những kẻ t về giai cấp, quan hệ hội
vào trạng thái căng thẳng toàn diện. Nhưng may mắn là, Đảng Cộng sản Trung
Quốc đã kịp thời sửa chữa sai lầm của cuộc “Đại cách mạng văn hóa”, chấn chỉnh
lại phương hướng phát triển của Trung Quốc.
Hội nghị Trung ương 3 khóa XI Đảng Cộng sản Trung Quốc bước ngoặt đại
trong lịch sử đương đại Trung Quốc. Sau Hội nghị Trung ương 3, đồng thời với việc
thực hiện chuyển đổi trọng tâm công tác, công cuộc lập lại trật tự hội được triển
khai toàn diện. Một trong những nội dung chủ yếu của công tác lập lại trật tự hội
đó sửa lại những vụ án oan sai. Đến cuối m 1982, không những sửa lại án xử
sai trong “Đại cách mạng văn hoá”, còn sửa được những vụ án oan sai trước
thời kỳ' “Đại cách mạng văn hoá”, đã điều chỉnh lại mối quan hệ chính trị hội, đời
sống hội đi theo hướng bình thường hoá, giúp cho hàng trăm triệu người được
giải phóng khỏi bóng tối chính trị, hình thành nên môi trường bầu không khí nhân
dân toàn quốc đồng tâm đồng lòng thực hiện 4 hiện đại hoá. Điều này một lần nữa
nói lên rằng cuộc vận động đúng hướng giữa kết cấu hội quan hệ hội sẽ
thúc đẩy sản xuất hội phát triển. Từ đó trở đi, Đảng Cộng sản Trung Quốc ngày
càng chú trọng hơn việc củng cố xây dựng chế độ ưu hoá kết cấu hội, từ sự
trình bày về môi trường chính trị không sự đoàn kết n ổn, không trật tự
hội ổn định, việc cũng không làm được dưới thời Đặng Tiểu Bình đến quan điểm
thúc đẩy phát triển nhịp nhàng giữa xây dựng văn minh vật chất, văn minh chính trị,
văn minh tinh thần XHCN, thúc đẩy sự tiến bộ toàn diện của con người ới thời
Giang Trạch Dân; từ thời Giang Trạch Dân phải kiên t n định trên hết, giải quyết
đúng đắn mối quan hệ giữa cải ch, phát triển ổn định, coi việc không ngừng cải
thiện đời sống nhân dân ch trương giải quyết mối quan hệ giữa cải cách, phát
triển ổn định đến thời Hồ Cẩm Đào nhấn mạnh phải kiên trì quan điểm phát triển
khoa học lấy con người làm gốc, xây dựng hội hài hoà hội chủ nghĩa, đã tập
trung thể hiện tính ưu việt của hình chế độ, hình thành cỗ máy đẩy cho kinh tế
cất nh.
Thời kỳ đầu cải cách mở cửa, nhiệm vụ chủ yếu Trung Quốc phải đối mặt đó
phát triển kinh tế, con đường chủ yếu giải quyết vấn đ đó chính đa nguyên hóa
thành phần kinh tế. Trải qua mấy chục năm cố gắng n lực, vật đổi sao dời, nay hơn
hẳn xưa, không những kinh tế - hội đạt được ớc tiến dài, năng lực khống chế
nền kinh tế thị trường của Chính phủ hơn hẳn trước đây. Nhưng những vấn đề
được giải quyết những vấn đề mới lại nảy sinh. Cùng với sự đa nguyên hóa thành
phần kinh tế đã làm xuất hiện sự đa dạng hóa chủ thể lợi ích; khắc phục những trở
ngại của chủ nghĩa bình quân, chấp nhận chế cạnh tranh, lại làm xuất hiện vấn
đề mất cân đối trong phát triển giữa kinh tế hội, giữa thành thị nông thôn
giữa các vùng miền khoảng ch chênh lệch thu nhập quá lớn giữa các thành
viên trong hội. Sự chênh lệch trong kết cấu hội làm cho quan hệ hội ngày
càng căng thẳng. Trước tình nh đó, Hội nghị Trung ương 6 khóa XVI ĐCS Trung
Quốc đã kịp thời đưa ra b cục tổng thể xây dựng hiện đại hoá XHCN đặc sắc Trung
Quốc gồm 4 trụ cột chính (tứ vị nhất thể) đó xây dựng kinh tế, y dựng chính trị,
xây dựng văn hoá xây dựng hội, hội hài hoà thuộc tính bản chất của
CNXH đặc sắc Trung Quốc. Đại hội XVII ĐCS Trung Quốc thêm một bước nữa đưa
ra thúc đẩy nhanh xây dựng hội lấy cải thiện dân sinh làm trọng điểm, xây dựng
hội phải cố gắng hình thành nên cục diện toàn thể nhân dân người người làm hết
năng lực, mỗi người mỗi việc chung sống hài hoà với nhau. Như vậy, đưa ra một
tầng thứ cao hơn trong tình hình mới thông qua việc ưu hoá kết cấu hội, cải thiện
quan hệ hội để tạo điều kiện môi trường tốt đẹp cho sự xây dựng phát triển
nhanh chóng của sức sản xuất hội. Đảng Chính phủ Trung Quốc còn quy
hoạch cụ thể nhiệm vụ thúc đẩy nhanh xây dựng nông thôn mới XHCN, từng bước

Preview text:

Tìm hiểu về công cuộc cải cách của Trung Quốc và mô hình
Chủ nghĩa Xã hội mang đặc sắc Trung Quốc
I. Cuộc cải cách Trung Quốc
1. Nguyên nhân Trung Quốc phải tiến hành cải cách, mở cửa năm 1978: a. Khách quan:
- Năm 1973, cuộc khủng hoảng dầu mỏ bùng nổ, tiếp theo là khủng hoảng về
chính trị, kinh tế, tài chính,... Những cuộc khủng hoảng này đặt nhân loại
đúng trước những vấn đề bức thiết phải giải quyết như tình trạng vơi cạn gần
nguồn tài nguyên, bùng nổ dân số,...
- Yêu cầu cải cách về kinh tế, chính trị, xã hội để thích nghi với sự phát triển
nhanh chóng của cách mạng khoa học - kĩ thuật và sự giao lưu, hợp tác quốc
tế ngày càng phát triển mạnh mẽ theo xu thế hòa hoãn.
- Trong bối cảnh trên, yêu cầu lịch sử đặt ra đối với tất cả các nước là phải
nhanh chóng cải cách về kinh tế, chính trị - xã hội để thích ứng. b. Chủ quan:
- Đối nội: từ năm 1959 đến năm 1978, Trung Quốc trải qua 20 năm không ổn
định về kinh tế, chính trị, xã hội. Với việc thực hiện đường lối “ Ba ngọn cờ
hồng “ nền kinh tế Trung Quốc rơi vào tình trạng hỗn loạn, sản xuất giảm sút
nghiêm trọng, đời sống nhân dân gặp nhiều khó khăn… Trong nội bộ Đảng
và Nhà nước Trung Quốc diễn ra những bất đồng gay gắt về đường lối, tranh
chấp quyền lực, đỉnh cao là cuộc “ Đại cách mạng văn hóa vô sản (1966- 1976)
- Đối ngoại: ủng hộ cuộc đấu tranh chống Mỹ của nhân dân Việt Nam… xảy ra
những cuộc xung đột biên giới giũa Trung Quốc với các nước Ấn Độ, Liên
Xô… Tháng 2-1972, Tổng thống Mỹ R.Níchxơn sang thăm Trung Quốc, mở
đầu quan hệ mới theo chiều hướng hòa dịu giữa hai nước.
2. Đường lối, chính sách cải cách, mở cửa năm 1978:
– Tháng 12 – 1978, hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung
Quốc do Đặng Tiểu Bình khởi xướng, đã vạch ra đường lối đổi mới, mở đầu cho
công cuộc cải cách kinh tế, xã hội ở Trung Quốc. Đến đại hội Đảng Cộng sản Trung
Quốc lần thứ XIII (cuối năm 1987) đường lối này được nâng lên thành đường lối
chung cuả Đảng Cộng sản và Nhà nước Trung Quốc.
- Trong giai đoạn này sẽ xây dựng “chủ nghĩa xã hội mang màu sắc Trung Quốc”,
kiên trì bốn nguyên tắc cơ bản, bao gồm: con đường xã hội chủ nghĩa, chuyên chính
dân chủ nhân dân, sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Trung Quốc, chủ nghĩa Mác –
Lênin và tư tưởng Mao Trạch Đông. Giai đoạn này lấy phát triển kinh tế làm trọng
tâm, tiến hành cải cách và mở cửa, chuyển từ kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang
nên kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa nhằm hiện địa hóa và xây dựng xã hội chủ
nghĩa mang đặc sắc Trung Quốc, biến Trung Quốc thành nước giàu mạnh, dân chủ và văn minh
+ Giai đoạn đầu tập trung vào chuyển đổi thể chế kinh tế với việc “khoán ruộng đất”,
“phát triển xí nghiệp hương trấn” ở nông thôn, sau đó tiến hành mở rộng thí điểm
quyền tự chủ kinh doanh của xí nghiệp quốc hữu ở thành phố, tiến hành mở cửa,
xây dựng đặc khu kinh tế, xây dựng các loại thị trường.
+ Những năm 1984 - 1991, cải cách xí nghiệp quốc hữu là trọng tâm, cải cách giá cả
là then chốt trong toàn bộ cuộc cải cách. Trong giai đoạn chuyển đổi thể chế kinh tế
(1979 - 1991), Trung Quốc đã tìm tòi, tổ chức thí điểm, từng bước tiếp nhận cơ chế
thị trường, sửa chữa những khuyết điểm của thể chế kinh tế kế hoạch. 3. Thành tựu
Hội nghị Trung ương 3 khóa XI Đảng Cộng sản Trung Quốc (năm 1978) mang ý
nghĩa lịch sử quan trọng, mở ra một thời kỳ mới cho nước Cộng hòa nhân dân
Trung Hoa trong công cuộc cải cách, mở cửa, hội nhập quốc tế. Trải qua 40 năm,
sự nghiệp cải cách, mở cửa của Trung Quốc đạt nhiều thành tựu to lớn trên các lĩnh
vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, tạo cơ sở vững chắc đưa quốc gia này tiếp
tục tiến lên con đường chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc. - Kinh tế :
+ Sau 10 năm cải cách (từ 1978 - 1988) mức tăng bình quân hàng năm
của tổng sản phẩm quốc dân là 9,6%, xuất nhập khẩu tăng gấp 4 lần,
thu nhập bình quân hàng năm của nông dân tăng 11,8%, của cư dân
thành thị tăng 6,5%. Năm 1988, tổng giá trị sản phẩm quốc dân tăng
1.401,5 tỷ nhân dân tệ, thu nhập quốc dân là 1.177 tỷ nhân dân tệ
(tăng 20 lần so với năm 1949). Sản lượng công nghiệp từ 1978 đến
1990 tăng trung bình hàng năm là 12,6%.
+ Từ sau Đại hội lần thứ XIV của Đảng Cộng sản Trung Quốc (tháng 10
- 1992), công cuộc cải cách kinh tế càng được đẩy mạnh hơn nữa với
những quan niệm mới. Từ trao đổi hàng hoá Trung Quốc đã chuyển
sang chứng khoán và trái phiếu. Nhiều đặc khu kinh tế được mở ra
cùng với hoạt động của thị trường chứng khoán như Thượng Hải,
Thẩm Quyến... theo các khẩu hiệu: “Cải cách hơn nữa, mở cửa hơn
nữa”, “Làm giàu là vinh quang”. Các nhà quan sát nước ngoài cho
rằng “Đằng sau tất cả những điều này là sự thay đổi đáng chú ý về
quan niệm, trước hết trong giới lãnh đạo Trung Quốc”. Quan điểm của
Trung Quốc về “một Nhà nước hai chế độ” trong quá trình tiếp nhận
Hồng Kông (1997) và Makao (1999) đã thể hiện điều này.
+ Từ năm 1993 đến 1997, tỷ lệ tăng trưởng GDP của Trung Quốc là
10,9%, riêng năm 1997 đạt tới 17,8% với giá trị tuyệt đối 7400 tỷ nhân
dân tệ (khoảng 900 tỷ USD), đứng vị trí thứ 7 trên toàn cầu. Tổng
ngạch xuất nhập khẩu của Trung Quốc năm 1997 là 325 tỷ USD, xếp
thứ 10 so với các nước. Hiện nay Trung Quốc là nước có dự trữ ngoại
tệ nhiều thứ hai của thế giới sau Nhật Bản, tính đến cuối năm 1997 là
143 tỷ USD. Với tiềm năng kinh tế đó, Trung Quốc đã vững vàng vượt
qua cơn khủng hoảng tài chính, tiền tệ châu Á trong năm 1997 - 1998.
Năm 1999 kinh tế Trung Quốc vẫn giữ mức tăng trưởng 7,1%, công
nghiệp 9% và 6 tháng đầu năm 2000 tốc độ tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc là 7,5%.
Với những thành tựu kinh tế đạt được, đời sống nhân dân Trung Quốc đã được
cải thiện rõ rệt. Thu nhập quốc dân bình quân đầu người ở thành phố tăng 12% (đạt
200300 nhân dân tệ/người), ở nông thôn tăng 2% (đạt 860% nhân dân tệ/người) so với năm 1992. -
Chính trị - xã hội : đời sống nhân dân không ngừng được nâng cao. Thu hồi
được Hồng Kông (7 – 1997) và Ma Cao (12 – 1999) -
Nền khoa học - kỹ thuật, văn hóa, giáo dục :
+ Sau ngày giải phóng (1949) Trung Quốc chỉ có 30 viện, sở nghiên cứu
khoa học với 50.000 cán bộ, nhân viên, trong đó chỉ có 500 người
đang tiến hành công tác nghiên cứu. Ngày nay, Trung Quốc có 11 triệu
cán bộ khoa học - kỹ thuật với 5400 viện, sở nghiên cứu khoa học kỹ
thuật không ngừng đạt được những thành tựu to lớn.
+ Từ năm 1964, Trung Quốc đã thành công trong cuộc thử nghiệm nổ bom nguyên tử đầu tiên
+ năm 1965 thành công trong nghiên cứu bom khinh khí, đưa Trung
Quốc trở thành một cường quốc hạt nhân.
+ Ngày 24-2-1970, Trung Quốc phóng thành công vệ tinh nhân tạo đầu
tiên, đến nay Trung Quốc đã phóng hàng chục vệ tinh các loại. Số
lượng vệ tinh của Trung Quốc đứng hàng thứ 4 thế giới và phục vụ có
hiệu qủa cho công tác nghiên cứu khoa học, phát triển kinh tế cũng
như tăng cường sức mạnh quốc phòng. - Về đối ngoại :
+ Từ chính sách “đối ngoại theo kiểu Hồng vệ binh” của thời kỳ “Đại cách
mạng văn hoá”, sau 1978 chính sách đối ngoại của Trung Quốc được
sửa đổi, chuyển sang “hoà dịu” và hướng về phương Tây. Thực tế,
chính sách đối ngoại hướng về phương Tây của Trung Quốc đã bắt
đầu từ những năm 70 của thế kỷ XX, tuy nhiên chính sách thời kỳ đó
khác hẳn với hiện nay, nó chỉ phục vụ cho ý định tạo lập nên hệ thống
“Tam giác chiến lược” chứ không phải phục vụ cho công cuộc xây
dựng đất nước như hiện nay. Theo xu hướng “hòa dịu” này, từ những
năm 80 Trung Quốc bắt đầu khởi động quá trình bình thường hóa
quan hệ với Liên Xô, Mông Cổ, Lào, Inđônêxia, Việt Nam... mở rộng
quan hệ hợp tác với các nước trên thế giới, góp sức giải quyết các vụ
tranh chấp quốc tế, trong đó có vấn đề Campuchia và tìm mọi cách
nâng cao địa vị của Trung Quốc trên trường quốc tế.
+ Nhằm tạo dựng lòng tin ở các nước trên thế giới, Trung Quốc đã nhấn mạnh:
- Trung Quốc chống chủ nghĩa bá quyền và bảo vệ hoà bình thế giới;
- Trung Quốc không gắn với một nước nào và không khuất phục
trước sức ép của bất kỳ nước lớn nào. Trung Quốc quyết định chính sách của mình theo từng trường hợp;
- Không gia nhập liên minh về quan hệ chiến lược với bất kỳ nước lớn nào;
- Mở rộng đoàn kết và hợp tác với các nước trên thế giới thứ ba
khác được xem là chính sách đối ngoại cơ bản của Trung Quốc;
- Trung Quốc đã sẵn sàng phát triển sự hợp tác kinh tế, buôn bán và
kỹ thuật với tất cả các nước đã hoặc đang phát triển, trên cơ sở bình đẳng và cùng có lợi;
Trung Quốc tuân thủ 5 nguyên tắc chung sống hoà bình và mong muốn phát
triển sự hợp tác hữu nghị với tất cả các nước theo những nguyên tắc này.
+ Từ thập kỷ 90 của thế kỷ 20, Trung Quốc đã tích cực tham gia nhiều diễn đàn
quốc tế, hoạt động trong nhiều khu vực, nhiều tổ chức chính trị và kinh tế
quốc tế như APEC, GATT, mở rộng quan hệ các nước như Nam Phi,
Vatican, Ixraen... nhằm vươn lên trưởng thành một “cực” quan trọng trong xu
thế đa cực của thế giới. Các mối quan hệ đối ngoại của Trung Quốc đều tuân
theo tư tưởng chỉ đạo: đặt lợi ích dân tộc lên hàng đầu, “bỏ qua quá khứ,
hướng về tương lai”. Hiện nay chính sách đối ngoại của Trung Quốc tập
trung vào Mĩ, Nhật, Tây Âu và Đông Nam á.
+ Trong quan hệ với các nước láng giềng xung quanh, Trung Quốc đặc biệt coi
trọng và thúc đẩy quan hệ mọi mặt với các nước trong tổ chức ASEAN, năm
1993 được coi là “năm ASEAN của Trung Quốc”. Hiện nay Trung Quốc là
một đối tác quan trọng của ASEAN.
Lời phát biểu của Tập Cận Bình nhân dịp kỉ niệm 40 năm đổi mới :
“Tại một quốc gia rộng lớn như Trung Quốc, với hơn 5 ngàn năm văn minh và dân
số hơn 1,3 tỷ người, thì không có một sách giáo khoa nào có thể viết ra những quy
tắc vàng nhằm thúc đẩy cải cách và phát triển kinh tế cũng như không ai có thể ra
lệnh cho người Trung Quốc nên hay không nên làm gì, chúng ta sẽ cần cải cách
những gì cần sự thay đổi’
=> Tập Cận Bình nhấn mạnh những thành tựu mà Trung Quốc đạt được trong 40
năm, cam kết thúc đẩy công cuộc cải cách và cảnh báo “không ai có thể gây sức ép lên Trung Quốc”
=> Nhà lãnh đạo Trung Quốc nhấn mạnh cải cách và mở cửa là một cuộc thức tỉnh
vĩ đại của Đảng Cộng sản Trung Quốc, là cội nguồn của sáng tạo trong cả học
thuyết và thực tiễn chính phủ Trung Quốc.Trung Quốc cam kết theo đuổi chính sách
hòa bình, hợp tác, phát triển
Sự kiện Thiên An Môn :
Quảng trường Thiên An Môn là một địa điểm du lịch nổi tiếng ở thủ đô Bắc Kinh của
Trung Quốc. Cái tên “Thiên An Môn” có nghĩa là “Cổng trời Bình an”. Nhưng
quảng trường này đã biến thành bể máu vào ngày 4/6/1989. Khi đó, quân đội Trung
Quốc nã súng vào các sinh viên ủng hộ dân chủ; dùng xe tăng cán người; giết chết
và làm bị thương hàng trăm, thậm chí hàng ngàn sinh viên, trí thức và dân thường
- Nguyên nhân : 3 nguyên nhân chính
1. Từ cái chết của Hồ Diệu Bang : Vào ngày 15/4/1989, Hồ Diệu
Bang qua đời. Là một nhà lãnh đạo ủng hộ cải cách, cái chết
của ông đã khiến nhiều người thương tiếc.
2. Giới lãnh đạo không lắng nghe, sinh viên thêm bức xúc :
ĐCSTQ tổ chức một lễ tang cấp nhà nước cho Hồ Diệu Bang
vào ngày 22/4. Đám tang được tổ chức vội vã, chỉ kéo dài 40
phút. Các sinh viên vượt qua hàng rào phong tỏa ở Quảng
trường để cố gắng trình đơn kiến nghị. Nhưng không có lãnh
đạo nào ra khỏi Đại lễ đường. Điều này khiến các sinh viên
càng thêm thất vọng và bất bình hơn nữa.
3. Thành lập Liên đoàn tự trị sinh viên : Ngày 23/4, các sinh
viên tổ chức một cuộc họp với sự tham gia của khoảng 40 sinh
viên từ 21 trường đại học. Cuộc họp thống nhất thành lập Liên
đoàn tự trị của sinh viên Bắc Kinh (còn gọi là Liên minh). Liên
minh này sau đó kêu gọi bãi khóa ở tất cả các trường đại học ở
Bắc Kinh. Một tổ chức hình thành bên ngoài thẩm quyền của
ĐCSTQ đã gióng lên hồi chuông báo động cho các nhà cầm quyền Bắc Kinh. -
Con số thương vong trong cuộc đàn áp Thiên An Môn :
Chính phủ Trung Quốc liên tục thay đổi tuyên bố của mình về sự kiện Lục Tứ. Ban
đầu họ nói rằng không có phát súng nào nổ ra và không có ai bị giết hại vào ngày
4/6/1989. Lời nói dối quá vô lý, nhiều phóng viên quốc tế đã ghi lại các cuộc nổ súng và giết hại.
Vì vậy, sau đó Bắc Kinh tuyên bố có một số người chết. Con số họ đưa ra là không
nhất quán, ban đầu nói là vài chục, sau đó đổi thành vài trăm. ĐCSTQ tuyên bố
những người tử vong chủ yếu là các binh sỹ bị “các phần tử phản cách mạng” giết hại
Tuy nhiên, các nhà báo nước ngoài, những người chứng kiến vụ thảm sát ước tính
có ít nhất 3.000 người chết trong Sự kiện Thiên An Môn..
=> Liệu sự kiện này có là minh chứng cho việc Trung Quốc che giấu sự thiếu sót
trong bộ máy chính quyền, kiểm soát truyền thông với thế giới, đi ngược lại với nội
dung chính trị mà nhà nước Trung Quốc đề cập trong nội dung Chủ nghĩa xã hội hóa Trung Quốc?
https://www.youtube.com/watch?v=QS6oHq2cZRw
https://truyenhinhthanhhoa.vn/chu-tich-trung-quoc-co-bai-dien-van-quan-trong-nhan-dip-40-
nam-cai-cach-mo-cua-1808169824.htm
https://m.nguyenuoc.com/su-kien-thien-an-mon-1989-su-that-2-13943.html/
amp#2_Boi_canh_Nguyen_nhan_bieu_tinh_ly_do_dan_ap
I . Chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc - Đặc điểm :
Trong quan niệm cùa Đảng Cộng sản Trung Quốc, khái niệm chủ nghĩa xã hội đặc
sắc Trung Quốc thời đại mới (Socialism with Chinese Characteristic for a New Era)
được lý giải là: “Chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc bước vào thời đại mới có nghĩa
là dân tộc Trung Hoa trải qua muôn vàn khó khăn từ thờii cận đại đến nay đã đón chào
đón sự ngày vọt vĩ đại từ đứng lên, giàu lên đến mạnh lên, có triển vọng sáng lạn thực
hiện sự phục hưng vĩ đại dân tộc Trung Hoa. .”'. Thời đại mới mà Trung Quốc nhắc
đến ở đây chính là thế kỷ XXI (cụ thể là từ sau Đại hội XIX - 2017). Thế kỷ mà Trung
Quốc đặt ra những mục tiêu vô cùng vĩ đại, như hoàn thành xây dựng xã hội khá giả
toàn diện (vào năm 2021), phấn đấu đưa Trung Quốc trở thành cường quốc xã hội chủ
nghĩa hiện đại, giàu mąnh, dân chủ, văn minh, hài hòa, tươi đęp vào giữa thế kỷ XXI;
là thời kỳ Trung Quốc ngày càng tiến gần hơn tới trung tâm vũ đài thế giới
- Quá trình: Trung Quốc hóa CN Mác thực hiện 2 lần do Mao Trạch Đông và Đặng Tiểu Bình.
Theo cách phân kỳ lịch sử Đảng của ĐCS Trung Quốc hiện hành, ĐCS Trung Quốc từ
khi thành lập (1-7-1921) đến nay đã trải qua 3 thời kỳ lớn là: Cách mạng (1921-1949),
Xây dựng (1949-1978) và Cải cách mở cửa (1978-2018).
Cải cách mở cửa là một sự nghiệp hoàn toàn mới, được ví như một cuộc cách mạng.
Trong quá trình lãnh đạo 40 năm Cải cách mở cửa, ĐCS Trung Quốc đã tìm ra được
một hệ thống lý luận về CNXH đặc sắc Trung Quốc và Con đường xây dựng CNXH
đặc sắc Trung Quốc. Hệ thống lý luận này cho đến nay bao gồm: Lý luận Đặng Tiểu
Bình, Tư tưởng Ba đại diện, Quan điểm phát triển khoa học và Tư tưởng XHCN đặc
sắc Trung Quốc thời đại mới Tập Cận Bình. Có thể nói, quá trình hình thành hệ thống
lý luận về CNXH đặc sắc Trung Quốc cũng là quá trình các thế hệ lãnh đạo của ĐCS
Trung Quốc không ngừng tìm tòi với những đột phá về mặt lý luận và coi trọng tổng
kết thực tiễn, sau đó khái quát hóa thành lý luận để trở lại chỉ đạo thực tiễn mới của cải cách mở cửa.
- Các khía cạnh: Thực tiễn xây dựng CNXHĐS Trung Quốc diễn ra một cách toàn
diện ở mọi lĩnh vực của đời sống xã hội a. Về kinh tế
Một là, Trung Quốc chuyến từ “tăng trưởng cao” về tốc độ sang giai đoạn phát triển chất lượng cao
Đảng Cộng sàn Trung Quốc cho rằng, thúc đẩy phát triển chất lượng cao là yêu cầu tất
yếuu duy trì kinh tế phát triển lành mąnh, bền vững, thích ứng vói thay đổi mâu thuẫn xã
hội chính cùa Trung Quốc và xã hội khá giả toàn diện, xây dựng toàn diện quốc gia hiện
đạii hóa xã hoi chủ nghĩa, tuân theo quy luật kinh tế thị trường. Thúc đẩy phát triển chất
lượng cao là yêu cầu căn bản xác định tư duy phát triển từ nay về sau, đặt ra chính sách
kinh tế, thực thi điều tiết vi mô, đẩy nhanh hình thành hệ thống chi tiêu, hệ thống chính
sách, tiêu chuẩn, thống kê, đánh giá thành tích, khảo hạch thành tích, thúc đẩy phát triển
chất lượng cao, xây dựng và hoàn thiện môi trường chế độ, thúc đẩy kinh tế Trung Quốc
không ngùng có tiến triển mới trong thực hiện phát triển chất lượng cao. Theo đó, nền kinh
tế Trung Quốc đã chuyển từ giai doąn phát triển nhanh sang giai đoạn phát triển chất lượng
cao, chú trọng tới chất lượng hơn là tốc độ, thay đổi mục tiêu từ số lượng sang chất lượng
trong khu vực chế tạo, chuyển từ “Made in China” (sản xuất tąi Trung Quốc) sang
“Created in China” (sáng tạo tąi Trung Quốc).
Hai là, đẩy nhanh xây dựng đất nước theo mô hình sáng tạo
Sáng tąo chính là động lực quan trọng nhất dẫn dắt sự phát triển kinh tế trong thời đại mới.
Để đạt mục tiêu đó, cần đặc biệt quan tâm phát triển khoa học công nghệ, gồm cả nghiên cứu
cơ bản, nghiên cứu ứng dụng, phấn đấu đưa Trung Quốc trở thành cường quốc về khoa học
công nghệ. Trung Quốc chủ trương tăng cường xây dựng hệ thống sáng tạo quốc gia, tăng
cường sức mạnh khoa học công nghệ chiến lược. Đi sâu cải cách thể chế khoa học công
nghệ, lấy doanh nghiệp làm chủ thể, lấy thị trường làm định hướng, tạo mối liên kết giữa các
ngành, lĩnh vực kinh tế vói các trường đại học, viện nghiên cứu. Tăng cường bảo vệ quyền sở
hữu trí tuệ, đào tạo nhân tài khoa học.
Ba là,thực hiện chiến Iược chấn hưng nông thôn.
Yêu cầu chung của sự phát triển nông thôn là: “ngành nghề thịnh vượng, môi trường sinh
thái tốt lành, nếp sống văn minh, quản lý hiệu quả, cuộc sống giàu có. Một số giải pháp
chủ yếu phát triển nông thôn là: hoàn thiện chế độ kinh doanh cơ bản của nông thôn, đi sâu
cải cách ruộng đất, bảo đảm an ninh lương thực, phát triển các hình thức kinh tế tập thể,
gắn nông nghiệp với công nghiệp, dịch vụ.
Bốn là, thực thi chiến lược phát triển nhịp nhàng giữa các khu vực.
Tập trung cao độ hỗ trợ phát triển các vùng căn cứ địa cách mạng, vùng dân tộc, các vùng
còn nhiều khó khăn. Bảo đảm hài hòa sự phát triển giữa thành thị và nông thôn; giữa các khu
công nghiệp truyền thống và các khu công nghiệp mới. Cân bằng sự phát triển các dịch vụ
công cộng cơ bản, kết hợp hài hòa sự phát triển các trung tâm lớn Bắc Kinh - Thiên Tân - Hà
Bắc. Mở rộng các yếu tố của thị trường theo nguyên tắc có trật tự, nắm chắc và hoàn thiện
pháp luật liên quan đến đầu tư nước ngoài, tăng cường bảo vệ sở hữu trí tuệ, nâng cao chất lượng xuất khẩu.
Năm là, đẩy nhanh hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa.
Trong đó, lấy hoàn thiện chế độ quyền sở hữu tài sản và yếu tố phân bổ thị trường là trọng
điểm, thực hiện khuyến khích hiệu quả quyền sở hữu tài sản, yếu tố lưu thông tự do, giá cả
phản ứng linh hoạt, cạnh tranh công bằng có trật tự. Một số biện pháp cụ thể như: hoàn thiện
thể chế quản lý tài sản nhà nước; đi sâu cải cách doanh nghiệp nhà nước; cải cách chế độ
hành chính ngành công thương; đẩy nhanh xây dựng chế độ tài chính hiện đại. .
Sáu là, thúc đẩy hình thành bố cục mở cửa toàn diện.
Trung Quốc chủ trương xây dựng “Vành đai và con đường” làm trọng điểm, chú trọng, đồng
thời, thu hút nguồn lực từ bên ngoài và đầu tư ra bên ngoài, hình thành bố cục mở cửa kết nối
tương tác giữa bên trong và bên ngoài.
b. Về chính trị (dân chủ và nhà nước pháp quyền)
Bản chất của chế độ chính trị xã hội chủ nghĩa đặc sắc Trung Quốc thời đại mới là
nền chuyên chính dân chủ nhân dân do giai cấp công nhân lãnh đạo, lấy liên minh
công - nông làm nền tảng, mọi quyền lực nhà nước đều thuộc về nhân dân, gồm:
i) Sự thống nhất hữu cơ giữa lãnh đạo của Đảng Cộng sản Trung Quốc, nhân dân làm
chủ, quản lý đất nước theo pháp luật. Sự lãnh đạo của Đảng là bảo đảm căn bản cho
nhân dân làm chủ; quản lý đất nước theo pháp luật; nhân dân làm chủ là đặc trưng
mang tính bản chất của nền chính trị dân chủ XHCN; quản lý đất nước theo pháp luật
là phương thức cơ bản để Đảng lãnh đạo nhân dân quản lý đất nước; ba mặt thống
nhất với nhau trong thực tiễn vĩ đại của nền chính trị dân chủ XHCN của Trung Quốc.
Với ý nghĩa đó, sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Trung Quốc là đặc trưng bản chất
nhất, là ưu thế lớn nhất của nền chính trị dân chủ XHCN ở Trung Quốc và của CNXH
đặc sắc Trung Quốc thời đại mới.
ii) Chế độ Đại hội Đại biểu nhân dân là chế độ chính trị căn bản bảo đảm cho nhân
dân Trung Quốc làm chủ. Hiến pháp Cộng hòa nhân dân Trung Hoa quy định: tất cả
mọi quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước
thông qua cơ quan đại diện là Đại hội Đại biểu nhân dân toàn quốc (Nhân đại) và Đại
hội Đại biểu nhân dân các cấp địa phương. Các cơ quan nhà nước được tổ chức và
hoạt động dựa trên cơ sở nguyên tắc tập trung dân chủ. Đại hội Đại biểu nhân dân
toàn quốc và Đại hội Đại biểu nhân dân các cấp đều chịu trách nhiệm trước nhân dân,
chịu sự giám sát của nhân dân. Công dân Trung Quốc tròn 18 tuổi đều có quyền bầu
cử và có thể được bầu cử làm đại biểu nhân dân.
iii) Hiệp thương chính trị Nhân dân và chế độ hợp tác đa đảng phái do Đảng Cộng sản
Trung Quốc lãnh đạo là chế độ chính trị cơ bản, là hình thức đặc biệt và ưu thế độc
đáo của nền chính trị dân chủ XHCN ở Trung Quốc. Các đảng phái dân chủ ở Trung
Quốc không phải là đảng đối lập, mà là các đảng phái tham chính. Phương châm cơ
bản hợp tác giữa Đảng Cộng sản Trung Quốc với các đảng phái dân chủ là “Chung
sống lâu dài, giám sát lẫn nhau, đối xử chân thành với nhau, vinh nhục có nhau”.
iv) Thực hiện chế độ tự trị dân tộc và “hòa bình thống nhất, một nước hai chế độ” vì
sự nghiệp phục hưng dân tộc Trung Hoa. Nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa gồm
04 thành phố trực thuộc Trung ương, 23 tỉnh và 05 khu tự trị, 02 đặc khu hành chính.
Việc thực hiện chế độ tự trị dân tộc và “hòa bình thống nhất, một nước hai chế độ” là
một quyết sách chiến lược, một đặc trưng, nội dung quan trọng của quá trình tìm kiếm
con đường, phương thức xây dựng nền chính trị dân chủ XHCN đặc sắc Trung Quốc.
quan trọng mà nhân dân Trung Quốc trực tiếp thực hiện quyền lợi dân chủ theo pháp luật. c. Về văn hóa
Một là, nắm vững quyền lãnh đạo đối với công tác ý thức hệ.
Đảng Cộng sản Trung Quốc cho rằng, ý thức hệ quyết định hướng đi lên và con
đường phát triển của văn hóa, do vậy, cần thúc đẩy Trung Quốc hóa, thời đại hóa,
quần chúng hóa chủ nghĩa Mác. Trung Quốc coi trọng việc xây dựng và đổi mới các
biện pháp truyền thông, nâng cao sức truyền bá, hướng dẫn, ảnh hưởng, độ tin cậy của
dư luận báo chí. Tăng cường xây dựng nội dung trên mạng Internet, hệ thống quản lý
tổng hợp mạng, không gian mạng trong sạch. Tăng cường xây dựng và quản lý thế
trận tư tưởng, chú ý phân biệt vấn đề nguyên tắc chính trị, nhận thức tư tưởng, quan
điểm học thuật trong đấu tranh, phản bác các quan điểm sai trái, thù địch.
Hai là, bồi dưỡng và thực hiện “giá trị quan” cốt lõi xã hội chủ nghĩa.
Giá trị quan cốt lõi xã hội chủ nghĩa là thể hiện sự tập trung của tinh thần Trung Quốc
đương đại, gắn với sự theo đuổi giá trị chung của toàn thể nhân dân. Tăng cường
hướng vai trò dẫn dắt của giá trị quan cốt lõi xã hội chủ nghĩa trong nền giáo dục quốc
dân, trong hoạt động văn hóa và khoa học. Đi sâu khai thác những quan niệm tư
tưởng, tinh thần nhân văn, quy phạm đạo đức chứa đựng trong văn hóa truyền thống
ưu tú Trung Hoa, kết hợp với yêu cầu thời đại, kế thừa sáng tạo để văn hóa Trung Hoa
thể hiện sức lôi cuốn vĩnh cửu và phong thái thời đại.
Ba là, tăng cường xây dựng đạo đức tư tưởng.
Đảng Cộng sản Trung Quốc cho rằng, nhân dân có niềm tin, đất nước mới có sức
mạnh, dân tộc mới có hy vọng. Do vậy, cần nâng cao sự giác ngộ tư tưởng, trình độ
đạo đức, tố chất văn minh của nhân dân. Nâng cao trình độ văn minh của toàn xã hội.
Triển khai rộng rãi giáo dục về niềm tin, lý tưởng, đi sâu tuyên truyền giáo dục về chủ
nghĩa xã hội đặc sắc Trung C Lấc mộng Trung Hoa”, tôn vinh tinh thần thời đại và
tinh thần dân tộc. Tăng cường giáo dục chủ nghĩa yêu nước, chủ nghĩa tập thể, chủ nghĩa xã hội.
Bốn là, phát triển văn hóa nghệ thuật xã hội chủ nghĩa.
Kiên trì hướng sáng tác lấy nhân dân làm trung tâm, tạo ra các sản phẩm văn hóa nghệ
thuật xứng đáng với thời đại gắn bó với đời sống, bám rễ trong nhân dân. Phát huy
dân chủ trong học thuật, nghệ thuật, nâng cao năng lực sáng tác văn hóa nghệ thuật,
thúc đẩy sáng tạo văn hóa nghệ thuật. Tăng cường xây dựng đội ngũ cán bộ làm công
tác văn hóa nghệ thuật, vừa có tinh thần cách mạng, vừa sáng tạo trong hoạt động nghệ thuật.
Năm là, thúc đẩy phát triển sự nghiệp văn hóa và ngành công nghiệp văn hóa.
Đảng Cộng sản Trung Quốc nhấn mạnh, muốn đáp ứng được mong đợi của nhân dân
về một cuộc sống tươi đẹp hơn thì cần phải cung cấp những món ăn tinh thần phong
phú. Cần đi sâu cải cách thể chế văn hóa, hoàn thiện chế độ quản lý văn hóa, đẩy
nhanh xây dựng cơ chế, thể chế đặt hiệu quả xã hội lên vị trí hàng đầu, coi trọng cả
hiệu quả xã hội và hiệu quả kinh tế. Hoàn thiện hệ thống dịch vụ văn hóa công cộng,
đi sâu thực hiện những sản phẩm văn hóa đem lại lợi ích cho nhân dân, làm phong phú
hoạt động văn hóa của quần chúng. Tăng cường bảo vệ các di sản văn hóa. Kiện toàn
hệ thống ngành nghề và hệ thống thị trường của văn hóa hiện đại, đổi mới cơ chế sản
xuất kinh doanh, hoàn thiện chính sách kinh tế văn hóa, vun đắp hình thái ngành văn hóa kiểu mới. d. Về xã hội
Đảng Cộng sản Trung Quốc lãnh đạo nhân dân xây dựng xã hội hài hòa xã hội chủ
nghĩa rãi giáo theo yêu cầu chung là dân chủ pháp trị, công bằng chính nghĩa, thành
tín hữu ái, tràn đầy sức sống, yên ổn trật tự, con người chung sống hài hòa với thiên
nhiên. Nguyên tắc thực hiện là cùng xây cùng hưởng, lấy bảo đảm và cải thiện đời
sống nhân dân làm trọng điểm, giải quyết tốt các vấn đề lợi ích nhân dân là quan trọng
nhất, trực tiếp nhất, thực tế nhất, làm cho thành quả phát triển đất nước đến với toàn
thể nhân dân được nhiều hơn, công bằng hơn, nỗ lực hình thành cục diện toàn thể
nhân dân người người làm hết năng lực, người người được hưởng lợi và chung sống
hài hòa. Tăng cường và sáng tạo quản lý xã hội. Để thực hiện được quan điểm và mục
tiêu đó, phải phân biệt rõ ràng và xử lý đúng đắn hai loại mâu thuẫn khác nhau về tính
chất là mâu thuẫn địch - ta và mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân. Tăng cường xử lý
tổng hợp trị an xã hội, căn cứ theo pháp luật kiên quyết tấn công tội phạm và các phần
tử làm phương hại đến an ninh và lợi ích quốc gia, ổn định xã hội, đất nước. e. Văn minh sinh thái
Đảng Cộng sản Trung Quốc xác định, xây dựng văn minh sinh thái liên quan tới hạnh
phúc của nhân dân, liên quan đến phương kế lâu dài trong tương lai của dân tộc. Văn
minh sinh thái là phương thức, giải pháp chiến lược để giải quyết mâu thuẫn chủ yếu
của xã hội Trung quốc trong thời đại mới. Đó là mâu thuẫn giữa nhu cầu ngày càng
tăng của nhân dân về một đời sống tốt đẹp với sự phát triển không cân bằng, không
hài hòa, không đầy đủ. Đứng trước tình hình nghiêm trọng như nguồn tài nguyên ngày
càng cạn kiệt, hệ thống sinh thái xuống cấp, nguồn nước, không khí, đất đai bị ô
nhiễm. . nhất thiết phải xây dựng tư duy về văn minh sinh thái tôn trọng thiên nhiên,
hài hòa thiên nhiên, bảo vệ thiên nhiên, đặt xây dựng văn minh sinh thái vào vị trí nổi
bật, hòa cùng với toàn bộ quá trình xây dựng kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, tạo ra
sự phát triển hài hòa, toàn diện, bền vững.
- Cơ sở và ý nghĩa của lý luận chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc ● Cơ sở lý luận
Một là, chủ nghĩa Mác - Lênin, cơ sở tư tưởng chủ yếu của lý luận chủ nghĩa xã hội
đặc sắc Trung Quốc thời đại mới. Đảng Cộng sản Trung Quốc trước sau như một
khẳng định lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm kim chỉ nam cho hành động của Đảng.
Hai là, tư tưởng của các nhà lãnh đạo tiền bối của Đảng Cộng sản Trung Quốc, tiêu
biểu như: “tư tưởng Mao Trạch Đông”, “lý luận Đặng Tiểu Bình”, “tư tưởng quan
trọng “ba đại diện” và “quan điểm phát triển khoa học” ● Cơ sở thực tiễn
Một là, bối cảnh thời đại: sự sụp đổ của CNXH hiện thực ở Liên Xô và các nước
Đông Âu vào thập kỷ cuối của thế kỷ XX đặt ra yêu cầu phải nhận thức lại toàn diện,
sâu sắc hơn lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin về mô hình và con đường đi lên CNXH
phù hợp với đặc điểm cụ thể của mỗi quốc gia, dân tộc và thời đại
Hai là, bối cảnh cụ thể Trung Quốc: Những thành tựu phát triển kinh tế, chính trị, xã
hội, khoa học công nghệ của Trung Quốc sau gần 40 năm thực hiện cải cách, mở cửa
và 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội XVIII đã tạo ra tiền đề mới cho xây dựng CNXH đặc sắc Trung Quốc
Ý nghĩa của lý luận
Một là, về ý nghĩa chính trị: CNXH đặc sắc Trung Quốc thời đại mới thể hiện tư duy,
vị thế chính trị của một thế hệ lãnh đạo mới đứng đầu là Tổng Bí thư, Chủ tịch nước
Tập Cận Bình đối với lịch sử, nhân dân Trung Quốc và thế giới hiện nay. Không phải
ngẫu nhiên, mỗi thế hệ lãnh đạo của Đảng Cộng sản Trung Quốc đều đưa ra một
“tuyên ngôn” hay “cương lĩnh hành động” riêng của mình
Hai là, ý nghĩa chiến lược: CNXH đặc sắc Trung Quốc thời đại mới là ngọn cờ lý luận
dẫn dắt nhân dân Trung Quốc xây dựng CNXH trong thời đại mới với nhiều đột phá
về tư tưởng, mục tiêu và chính sách thực hiện; nó phản ánh những yêu cầu của xã hội
Trung Quốc và thực tiễn thời đại
Ba là, tư tưởng CNXH đặc sắc Trung Quốc thời đại mới cũng là sự vận dụng đúng
đắn phương pháp luận khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin, phát triển nội dung của CNXH khoa học
Bốn là, bên cạnh những ý nghĩa trên, cũng còn có những ý kiến quan ngại về “chủ
nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc thời đại mới”, cho rằng lý luận này đang đi vào con
đường dân tộc chủ nghĩa; nhất là việc Trung Quốc diễn giải nhiều luận điểm của chủ nghĩa Mác theo cách của mình
Những nội dung cơ bản của lý luận chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc
Một là, về khái niệm “thời đại mới”
Khái niệm chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc thời đại mớ iđược thể hiện ở ngay
chủ đề Đại hội XIX Đảng Cộng sản Trung Quốc: “Không quên lý tưởng ban đầu, khắc
ghi sứ mệnh, dương cao ngọn cờ vĩ đại chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc, quyết
tâm hoàn thành thắng lợi xây dựng xã hội khá giả toàn diện, giành thắng lợi vĩ đại của
chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc thời đại mới, phấn đấu không mệt mỏi vì giấc
mơ Trung Quốc phục hưng vĩ đại dân tộc Trung Hoa”
Hai là, về xác định nhiệm vụ, bố cục tổng thể, mâu thuẫn chủ yếu của chủ nghĩa xã
hội đặc sắc Trung Quốc thời đại mới
Nhiệm vụ tổng thể: Đảng Cộng sản Trung Quốc cho rằng nhiệm vụ tổng thể của
CNXH đặc sắc Trung Quốc thời đại mới là: thực hiện hiện đại hóa CNXH và phục
hưng vĩ đại dân tộc Trung Hoa (gồm hai bước, bước 1: xây dựng xã hội khá giả toàn
diện; bước hai, thành cường quốc XHCN hiện đại, giàu mạnh, dân chủ, công bằng,
văn minh, hài hòa, tươi đẹp).
Ba là, tư tưởng và phương châm chiến lược của chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc thời đại mới
Ngày 30-3-1979, tại Hội nghị nghiên cứu công tác lý luận của Đảng, Đặng Tiểu Bình
lần đầu tiên đưa ra khái quát “bốn nguyên tắc cơ bản”, đó là: “kiên trì con đường xã
hội chủ nghĩa; kiên trì chuyên chính vô sản; kiên trì sự lãnh đạo của Đảng cộng sản;
kiên trì chủ nghĩa Mác và tư tưởng Mao Trạch Đông”. Những nguyên tắc này được
các thế hệ lãnh đạo tiếp sau quán triệt một cách triệt để.
- Những gợi mở với Việt Nam hiện nay (Liên hệ)
Trung Quốc là nước láng giềng có nhiều tương đồng về lịch sử, trình độ phát triển
kinh tế xã hội, đặc điểm văn hóa và thể chế chính trị với Việt Nam; trong quá trình
xây dựng chủ nghĩa xã hội hiện nay, bên cạnh những thời cơ, Việt Nam đã và đang
phải đối mặt với nhiều thách thức nên những tìm tòi, sáng tạo về lý luận của Trung
Quốc, những kinh nghiệm thực tiễn của Trung Quốc, cả kinh nghiệm thành công và
kinh nghiệm không thành công trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội đều rất bổ ích đối với Việt Nam.
Thứ nhất, nghiên cứu sự phát triển lý luận của Đảng Cộng sản Trung Quốc thời kỳ cải
cách mở cửa cho thấy, mô hình chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc thường xuyên có
sự điều chỉnh, từ mô hình “ba trong một” đến “bốn trong một”, rồi “năm trong một”
nhưng mục tiêu tương đối nhất quán của Trung Quốc là mưu cầu hạnh phúc cho nhân
dân Trung Quốc. Đây là tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt của Đảng Cộng sản Trung Quốc.
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác Lênin, giải phóng con người là mục tiêu cao nhất
của chủ nghĩa xã hội, là nguyên tắc mang tính khách quan và thể hiện tính nhân văn
cao cả của CNXH. Trong chủ đề Đại hội XIX, Đảng Cộng sản Trung Quốc cũng
khẳng định tâm nguyện ban đầu và sứ mệnh của mỗi đảng viên và toàn Đảng Cộng
sản Trung Quốc chính là mưu cầu hạnh phúc cho nhân dân Trung Quốc. Đây vừa là
mục tiêu vừa là động lực để mỗi đảng viên không ngừng nỗ lực phấn đấu vươn lên.
Như vậy, dù diễn đạt khác nhau, mục tiêu của chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc
thời đại mới cũng nhằm giải phóng con người khỏi áp bức, bất công, tiến tới cùng giàu
có. Mục tiêu ấy cũng phù hợp với quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin.
Thứ hai, lý luận chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc thời đại mới là sự kế thừa và
phát triển của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Mao Trạch Đông, lý luận Đặng Tiểu
Bình, tư tưởng quan trọng “Ba đại diện”, quan điểm phát triển khoa học, là thành quả
mới nhất của việc Trung Quốc hóa chủ nghĩa Mác - Lênin, là kết tinh kinh nghiệm
thực tiễn và trí tuệ tập thể của Đảng và nhân dân, là bộ phận cấu thành quan trọng của
hệ thống lý luận chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc, là kim chỉ nam hành động để
toàn Đảng, toàn dân phấn đấu thực hiện công cuộc phục hưng vĩ đại dân tộc Trung
Hoa”. Gắn liền với việc Trung Quốc hóa chủ nghĩa Mác, Trung Quốc thực hiện thời
đại hóa, cập nhật hóa, đại chúng hóa chủ nghĩa Mác. Với Trung Quốc, tư tưởng Tập
Cận Bình về chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc thời đại mới là chủ nghĩa Mác ở
Trung Quốc đương đại. Đây là con đường, cách thức không ngừng tăng cường sức
sống cho chủ nghĩa Mác ở Trung Quốc mà Việt Nam cần tham khảo trong nghiên cứu,
bổ sung, phát triển, phổ biến và vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh. Tuy nhiên, cũng cần lưu ý, nguy cơ từ cách làm này là dễ sa vào con đường dân
tộc chủ nghĩa, kể cả chủ nghĩa dân tộc cực đoan, tệ sùng bái cá nhân và tầm thường
hóa chủ nghĩa Mác, thậm chí từ bỏ chủ nghĩa Mác, phản bội chủ nghĩa xã hội.
Thứ ba, xây dựng và thực hiện lý luận chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc thời đại
mới Trung Quốc đã giải quyết được vấn đề no ấm cho hơn 1 tỷ dân, cơ bản thực hiện
khá giả và sẽ sớm hoàn thành xây dựng xã hội khá giả toàn diện nên nhu cầu về một
đời sống tốt đẹp của nhân dân ngày càng đòi hỏi cao hơn về đời sống vật chất văn hóa,
về dân chủ, pháp trị, công bằng, chính nghĩa, an ninh, môi trường sinh thái. Tuy vậy,
bao trùm và xuyên suốt, trước hết và trên hết vẫn là vì lợi ích của Trung Quốc, vì sự
nghiệp phục hưng vĩ đại dân tộc Trung Hoa. REF:
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XVIII Đảng Cộng sản Trung Quốc, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2013, tr.105-106, 106, 107, 108, 109.
Đảng Cộng sản Trung Quốc: Báo cáo chính trị tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIX, https://vov.vn.
Viện nghiên cứu lịch sử phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, Trường Đại học Nhân dân Trung Quốc, Lịch sử chủ
nghĩa Mác, t.4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004, tr.1094, 1092.
New era of socialism with Chinese characteristics, https://news.cgtn.com
http://lyluanchinhtri.vn/home/index.php/quoc-te/item/2532-co-so-hinh-thanh-va-mot-so-noi-dung-cot-loi-cua-ly-
luan-chu-nghia-xa-hoi-dac-sac-trung-quoc-thoi-dai-moi.html
Lý luận TS Phạm Thị Hoàng Hà, TS Nguyễn Văn Quyết Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh
I I. Liên hệ và bài học
1. Nguyên nhân thành công:
Rốt cuộc phải tổng kết như thế nào về thành tựu và kinh nghiệm 30 năm cải cách
mở cửa của Trung Quốc? Ở đây vừa có những nhân tố lãnh đạo sự nghiệp cải cách
mở cửa của Đảng Cộng sản Trung Quốc, vừa có những nguyên nhân chính sách
cải cách mở cửa được đông đảo quần chúng nhân dân ủng hộ tích cực; vừa có vai
trò chỉ đạo phương hướng của chính sách phát triển kinh tế, vừa có hiệu quả quản
lý xã hội nhịp nhàng tổng hợp. Trong bài viết này chỉ xuất phát từ lý luận phát triển
xã hội để quy nạp thành 2 điểm nhận thức:
● Luôn luôn có mục tiêu phát triển rõ ràng là nguyên nhân quan trọng
giúp Trung Quốc phát triển thành công.
Đánh giá một chế độ xã hội có tốt đẹp hay không, đầu tiên phải xem nó có thể chỉnh
hợp nguồn lực xã hội hay không. Một cách làm thành công trong quá trình phát triển
hiện đại hoá của Trung Quốc đó chính là khéo léo trong việc tập trung sức mạnh làm
để việc lớn. Lý giải theo cách thông thường, tập trung sức mạnh làm việc lớn chính
là dùng chiến thuật biển người, khuyếch trương rầm rộ, dùng sức mạnh để giành
thắng lợi v.v... Còn theo cách giải thích của lý luận phát triển xã hội, ý nghĩa thật sự
của nó là nói về việc làm thế nào để chỉnh hợp một cách có hiệu quả nguồn tài
nguyên xã hội. Tài nguyên xã hội vừa bao gồm những nhân tố cấu thành nên xã hội
cũng bao gồm cả những nhân tố tự nhiên. Vì thế. không chỉ xem xét vấn đề các
khâu sản xuất xã hội, mà hơn hết cần phải xem xét vấn đề hiệu quả của toàn bộ quá
trình quy hoạch, động viên và tổ chức.
Căn cứ theo “sự so sánh của quốc tế những quốc gia hậu phát” hay còn gọi là
những quốc gia đang phát triển sau chiến tranh thế giới thứ 2 phổ biến đều có nhận
thức rằng bản thân mình thua kém so với các nước phát triển, đồng thời phổ biến
nhận thức phải rút ngắn khoảng cách, đuổi kịp các nước phát triển, nhưng kết quả
lại không giống nhau. Nguyên nhân sâu xa đó là phần lớn các quốc gia do không có
mục tiêu rõ ràng, vì thế mô hình chế độ được hình thành không có hiệu quả, gây ra
sự yếu kém trong thành quả phát triển sau này, thậm chí gây ra những cuộc khủng
hoảng không ngớt. Trung Quốc có mục tiêu rõ ràng, đồng thời thực hiện mục tiêu đó
một cách có hiệu quả, điều đó chứng tỏ chất lượng của mô hình chế độ tốt.
Trong suốt quá trình cải cách mở cửa, Trung Quốc đều có những chiến lược phát
triển và mục tiêu rõ rệt, đồng thời thông báo chiến lược đó cho mọi thành viên trong
xã hội, để thuận lợi cho việc hoàn thành mục tiêu chiến lược. Ban dầu là mục tiêu
phấn đấu “4 hiện đại hoá” được đưa ra lần đầu tiên trong kỳ họp thứ nhất Quốc hội
khóa III, được nhắc lại lần nữa trong Kỳ họp thứ nhất Quốc hội khóa IV. Tháng 3 -
1978, lần đầu tiên Đặng Tiểu Bình sử dụng khái niệm hiện đại hoá theo kiểu Trung
Quốc”; tháng 12 - 1979, trong buổi nói chuyện giữa Đặng Tiểu Bình và Masayoshi
Ohira, lần đầu tiên đưa ra khái niệm “khá giả” (tiểu khang). Tháng 1 - 1980, trong
buổi nghe báo cáo của Bộ Chính trị, ông lại một lần nữa đưa ra phải căn cứ theo
tiêu chuẩn khá giả thực hiện GDP bình quân đầu người là 1000 USD để thiết kế
chiến lược phát triển của Trung Quốc. Đưa ra khái niệm khá giả, lần đầu tiên đưa
mục tiêu hiện đại hoá mà Đảng đề xướng liên hệ trực tiếp với đời sống của quần
chúng nhân dân, đồng thời bằng cách nói đơn giản nhất và phổ thông để giải thích
thêm. Không lâu sau đó, Đặng Tiểu Bình đưa ra chiến lược phát triển “ba bước đi”
từ “no ấm” đến “khá giả” rồi đến “cơ bản thực hiện hiện đại hoá”. Thông qua tuyên
truyền rộng rãi, “tăng gấp bốn”, “bình quân đầu người là 800 USD” (sau này sửa
thành 1000 USD), “gia đình khá giả” trở thành cụm từ quen thuộc của mọi người,
mọi nhà. Cho dù làm nghề gì, cho dùng thuộc tầng lớp nào, mọi người đều biết mình
làm việc vì mục đích gì, đều có một mục tiêu để cố gắng phấn đấu. Đó chính là một
dạng thức chỉnh hợp tài nguyên ở một tầng thứ cao hơn, là sự chỉnh hợp của lực hướng tâm.
Cuối thế kỷ trước, Trung Quốc thực hiện mục tiêu ‘tăng gấp bốn lần’ trước thời hạn,
GDP bình quân đầu người đạt 1000 USD. Tại thời khắc quan trọng đó, Đảng và
Chính phủ Trung Quốc không hề chủ quan, vẫn tỉnh táo nhận ra rằng: sự khá giả mà
Trung Quốc đạt được là ở trình độ thấp, là sự khá giả không toàn diện, là sự phát
triển không cân bằng. Sức sản xuất, khoa học kỹ thuật và giáo dục còn tương đối
lạc hậu, kết cấu kinh tế nhị nguyên thành thị nông thôn vẫn chưa thay đổi, thực hiện
công nghiệp hoá và hiện đại hoá còn một chặng đường dài phải đi, từ đó đã đưa ra
mục tiêu chiến lược “xây dựng toàn diện xã hội khá giả”.
Bước sang thế kỷ mới, Đảng và Chính phủ Trung Quốc nhận thức được một loạt
đặc trưng mang tính giai đoạn mới ngày càng lộ rõ trong quá trình phát triển của
Trung Quốc, bao gồm cả những thành tựu như thực lực kinh tế ngày càng được
tăng cường rõ rệt, thể chế kinh tế XHCN bước đầu được xây dựng, đời sống nhân
dân về tổng thể đã đạt mức độ khá giả, phát triển hài hoà, nhịp nhàng đạt được
thành tích rõ rệt, bên cạnh đó còn tồn tại cả những vấn đề như trình độ phát triển
sức sản xuất về tổng thể vẫn chưa cao, năng lực tự chủ sáng tạo chưa mạnh, mâu
thuẫn mang tính kết cấu và phương thức tăng trưởng quảng canh hình thành từ lâu
dài vẫn chưa được thay đổi căn bản, những trở ngại về thể chế cơ chế đối với sự
phát triển vẫn còn tồn tại, xu thế mở rộng khoảng cách phân phối thu nhập vẫn chưa
được xoay chuyển về căn bản, cục diện phát triển trì trệ ở nông thôn còn chưa biến
chuyển. Từ đó đưa ra kết luận tình hình trong nước của Trung Quốc vẫn chưa thay
đổi và sẽ tiếp tục ở trong giai đoạn đầu của CNXH, mâu thuẫn chủ yếu của xã hội là
mâu thuẫn nhu cầu văn hoá vật chất ngày càng tăng của nhân dân với sản xuất xã
hội lạc hậu vẫn là kết luận không thay đổi, kết hợp với những cơ hội và thách thức
mới khi Trung Quốc gia nhập toàn diện vào toàn cầu hoá, hoàn thành nhiệm vụ mới
trong tình hình mới công nghiệp hoá, thông tin hoá, đô thị hoá, thị trường hóa, quốc
tế hoá ngày càng phát triển sâu rộng, đưa ra nhiệm vụ phải lấy quan điểm phát triển
khoa học để thống lĩnh sự phát triển kinh tế, xã hội, xây dựng toàn diện xã hội khá
giả ở trình độ cao hơn đem lại lợi ích cho hơn 1 tỷ người, mở rộng môi trường phát
triển cho mục tiêu phấn đấu CNXH đặc sắc Trung Quốc.
Giúp sức cho những chiến lược phát triển này là các Quy hoạch - Kế hoạch Quốc
gia 5 năm. Cho đến nay Trung Quốc đang quán triệt thực hiện Quy hoạch 5 năm lần thứ XI.
Ngoài các chiến lược tổng thể, Đảng và Nhà nước Trung Quốc cũng kịp thời đặt ra
những chiến lược phát triển trung và dài hạn. Liên quan đến chiến lược mang tính
toàn cục có Chiến lược khoa giáo hưng quốc, Chiến lược nhân tài cường quốc,
Chiến lược phát triển bền vững. Liên quan tới phát triển khu vực có Chiến lược khai
phát miền Tây, Chiến lược miền Trung quật khởi, Chiến lược chấn hưng các cơ sở
công nghiệp cũ ở vùng Đông Bắc. Liên quan với một lĩnh vực nào đó hay một
phương diện nào đó có “Kế hoạch đốm lửa nhỏ”, “Kế hoạch bó đuốc”, “Kế hoạch
863”. “Kế hoạch 973”. Ví như hàng loạt các kế hoạch chuyên biệt phát triển khoa
học kỹ thuật như “Kế mạch đốm lửa nhỏ”, “Kế hoạch bó đuốc”, “Kế hoạch 863”, “Kế
hoạch 973” lần lượt được thực hiện không những tạo ra sự trợ giúp khoa học hiệu
quả đối với sự phát triển kinh tế xã hội, mà còn quy tụ, bồi dưỡng và đào tạo nên
một đội ngũ nhân tài kiệt xuất, trở thành lực lượng nòng cốt tiếp nối xây dựng đất nước.
Có hai biện pháp để thực hiện và hoàn thành các chiến lược phát triển quốc gia: Một
là, tuyên truyền giải thích. Làm cho những chiến lược phát triển này đều được nhân
dân biết và nắm vững, trở thành hành động tự giác của quần chúng nhân dân. Hai
là, phương hướng chỉ đạo chính sách. Nhấn mạnh một chính sách nào đó hay phát
triển thiên lệch một chính sách nào đó, thu hút nguồn vốn và sắp xếp của cải, giúp
cho chiến lược phát triển được quán triệt chấp hành có hiệu quả.
Tiếp theo, chỉnh hợp có hiệu quả nguồn lực xã hội trong việc tổ chức, động viên các
lực lượng xã hội hoàn thành các dự án trọng đại trong vòng một thời gian ngắn,
nhanh chóng hình thành sức sản xuất xã hội. Tập trung lực lượng làm việc lớn, là
ưu thế hình thành dài hạn trong thể chế quốc gia của nước Trung Quốc mới. Từ dự
án mới xây dựng quan trọng “156” vào những năm 50, 60 của thế kỷ XX đến “Kế
hoạch 43” của những năm 70, xây dựng Bảo Cương (gang thép Bảo Sơn) trong thời
kỳ đầu cải cách mở cửa đến công trình xuyên thế kỷ “Tam Hiệp”, đều không hề
giống nhau. Sở dĩ nước Trung Quốc mới có thể phát triển công nghiệp nặng trong
một khoảng thời gian tương đối ngắn, hình thành nên hệ thống công nghiệp tương
đối hoàn thiện, phần lớn là nhờ áp dụng những phương thức như vậy.
Năm 1990, Đặng Tiểu Bình đi thị sát tình hình chuẩn bị Á Vận hội Bắc Kinh, khi nhận
thấy thôn Á Vận hội vừa mới được hoàn thành đã thốt lên rằng: “Nếu không phải là
do CNXH tốt, thì Bắc Kinh có cải tạo được nhanh như thế này hay không? CNXH có
thể tập trung được lực lượng để làm việc lớn, cho dù khó khăn gì đều có thể làm
được”. Nhưng đáng tiếc rằng, ông không thể chứng kiến Thế Vận hội Bắc Kinh.
Năm 2008, Thế Vận hội Bắc Kinh đã thực hiện được lời hứa tôn nghiêm, hoàn thành
đúng thời hạn với lối kiến trúc đặc biệt, công trình nhà thi đấu có hàm lượng kỹ thuật
cao. Ngoại trừ những hành động gây rối, Bắc Kinh đã tổ chức một kỳ Thế Vận hội
thành công xuất sắc, được uỷ ban Olympic quốc tế, vận động viên các nước và giới
truyền thông khẳng định. Điểm sáng nữa của Thế Vận hội Bắc Kinh đó là khoảng
1.7 triệu tình nguyện viên. Họ không ngại nắng mưa vẫn mỉm cười phục vụ trong
các nhà thi đấu, bên các nhà ga bến tàu, tại các điểm giao thông, trên những con
phố ngõ hẻm, trở thành cảnh tượng đặc sắc, làm cho thế Vận hội Bắc Kinh khác
hẳn với các thế Vận hội trước đây. Đạt được những thành tích đó là do nước Trung
Quốc XHCN có thể tập trung sức mạnh làm việc lớn, là lời giải thích có sức thuyết
phục nhất cho việc có thể làm tốt việc đại sự.
Đối mặt với những sự kiện ngoài ý muốn, càng có thể kiểm nghiệm năng lực động
viên, huy động lực lượng của chính quyền. Trận động đất lớn xảy ra vào ngày 12-5-
2008 tại Văn Xuyên tỉnh Tứ xuyên là trận thiên tai có sức phá hoại mạnh nhất: phạm
vi ảnh hưởng rộng nhất, mức độ thiệt hại nặng nề nhất kể từ khi nước Trung Quốc
mới được thành lập. Sau trận động đất, mệnh lệnh của Chính phủ được thông suốt
từ Trung ương đến địa phương, thống nhất bước đi, các bộ ngành căn cứ theo tình
hình cụ thể, hợp tác chặt chẽ với nhau, hình thành nên hợp lực to lớn cùng nhau
khắc phục khó khăn, chiến thắng thiên tai. Chính phủ Trung ương nhanh chóng gây
quỹ cứu nạn từ nguồn dự trữ chiến lược quốc gia và các địa phương, xây dựng nên
tuyến đường vận chuyển nhiều tầng thứ bao gồm tuyến đường trên không, đường sắt,
đường bộ, đường thuỷ, đã vận chuyển liên tục đến vùng bị nạn hàng trăm vạn tấn
lương thực, thuốc men, lều vải, máy móc cứu hộ. Chỉ trong vòng nửa tháng, quân
đội và các lực lượng bộ đội cảnh sát được điều đi là hơn 137 nghìn người, hơn
2300 lượt máy bay các loại, sử dụng khoảng 120 nghìn chiếc (cái) xe vận chuyển cỡ
lớn, cần cẩu, thuyền xung kích, thiết bị thông tin cầm tay, máy phát điện, điều
khoảng 162 đội y tế, đội phòng dịch, đội chuyên gia tâm lý, phân phát khoảng 4,92
triệu bộ (chiếc) vật tư các loại như đồ quân dụng (chăn mền, thảm, phục trang), thực
phẩm, thuốc men cấp cứu, lều bạt, khối lượng vật tư được điều động là hơn 100
nghìn tấn. Trong tình hình kết cấu địa chất vô cùng phức tạp, đường sá cầu cống bị
phá hoại nghiêm trọng, các hiện tượng sạt lở đất đá nghiêm trọng liên tiếp xảy ra, lực
lượng của các tổ chức chính quyền, trong thời gian một vài ngày đã nối thông tuyến
đường sinh mệnh cho vùng gặp nạn, đồng thời tu sửa toàn diện mạng lưới điện,
thông tin, đã tạo nên kỳ tích trong lịch sử cứu nạn thế giới. Ngoài ra, còn khởi động 9
loại vệ tinh số 15 vẽ ảnh mây khí tượng, tiến hành đưa thông tin qua vệ tinh, thăm dò
hình dạng bề mặt trái đất, phi thuyền dẫn đường. Sử dụng mạng vệ tinh nhân tạo
viễn thám để kiểm tra và cứu người bị thương. Giúp cho những người ở trong khu
vực bị nạn được cứu giúp kịp thời, qua đó cũng có thể thấy được thực lực hùng
hậu của Trung Quốc sau 30 năm cải cách mở cửa và phát triển. Trước thực tế đó,
giới truyền thông và báo chí nước ngoài cũng đã phải thốt lên rằng: “Đánh giá một
nền chính thể tốt hay xấu, cần phải nhìn vào nền chính thể đó có nguyện vọng và
năng lực đưa ra sự phục vụ mà nhân dân cần hay không”.
● Kết cấu xã hội và mối quan hệ xã hội là điều kiện quan trọng quyết định
sự phát triển nhanh chóng của sức sản xuất xã hội.
Từ những năm 70, 80 của thế kỷ XX trở lại đây giới học thuật quốc tế bắt đầu đi tìm
kiếm những nguyên nhân quyết định sự phát triển và giàu mạnh của một quốc gia,
quy nạp lại có 5 dòng giả thuyết đó là: vận may luận, địa lý luận, văn hoá luận, hội
nhập kinh tế quốc tế và thương mại của các quốc gia theo mô hình hướng ngoại
luận và mô hình chế độ luận. Trong đó sự giải thích về mô hình chế độ là phổ biến
và thịnh hành nhất. Cải cách của Trung Quốc diễn ra trong điều kiện CNXH, là sự tự
hoàn thiện của chế độ XHCN, vì vậy, sự phát triển tự nhiên của Trung Quốc cũng
không thể tách rời khỏi nhân tố chế độ. Một điểm quan trọng trong mô hình chế độ là
ở chỗ đó một kết cấu xã hội tốt hơn nữa trong kết cấu xã hội tốt có mối quan hệ xã
hội hài hoà, đó là điều kiện căn bản nhất cho sự phát triển của bất kể một quốc gia
nào. Học giả nổi tiếng về lý luận phát triển Emmanuel Wal erstein đã từng nói: “Kết
cấu xã hội là một dạng đá san hô trong mối quan hệ con người”, có nghĩa là, quan
sát kết cấu xã hội là con đường tốt nhất để lý giải xã hội loài người.
Hình thái xã hội của nước Trung Quốc cũ là một xã hội nửa phong kiến nửa thực dân,
mâu thuẫn dân tộc và mâu thuẫn giai cấp sâu sắc tạo nên một chính thể xã hội ở
trong cơn chấn động và đối kháng kịch liệt. Vào thời đó, đừng nói đến sự phát triển
và tiến bộ, ngay cả sự ổn định tối thiểu của xã hội cũng không thể nào bảo đảm được.
Sau khi nước Trung Quốc mới được thành lập, vào đầu những năm 50 thế kỷ XX
Trung Quốc bắt đầu tiến hành cải cách ruộng đất, xoá bỏ triệt để chế độ sở hữu
ruộng đất phong kiến đã tồn tại hơn 2000 năm ở Trung Quốc, nông dân chiếm 90%
dân số nông thôn chiếm hữu hơn 90% đất canh tác, đó không những là một phong
trào cải cách ruộng đất với quy mô lớn nhất trong hài sử Trung Quốc, mà còn thực
hiện sự thay đổi kết cấu chế độ mang tính căn bản ở xã hội nông thôn, đã giải
phóng tối đa sức sản xuất nông thôn, tạo điều kiện để thực hiện hợp tác hóa nông
nghiệp và công nghiệp hóa sau này. Tiếp theo đó, Trung Quốc tiến hành ba cuộc cải
tạo lớn, tiếp tục trải qua một cuộc cải cách xã hội sâu sắc và phức tạp, về cơ bản đã
xoá bỏ được chế độ bóc lột TBCN, đây là một điều chưa từng xảy ra trong lịch sử
Trung Quốc, từ đó kết cấu xã hội của Trung Quốc không còn tồn tại đối lập giai cấp
nữa, trong cả xã hội, lợi ích căn bản của mọi người là thống nhất, mâu thuẫn chủ
yếu của xã hội là mâu thuẫn phi đối kháng, từ đó tạo ra con đường bằng phẳng cho
sự phát triển lành mạnh của xã hội. Ba cuộc cải tạo đã hoàn thành thuận lợi, không
gây ra cơn chấn động nào trong xã hội, “Kế hoạch 5 năm lần thứ nhất” hoàn thành
trước thời hạn, đã chứng minh cuộc vận động đúng hướng giữa kết cấu xã hội và
quan hệ xã hội đã thúc đẩy sự phát triển của sức sản xuất xã hội. Xuất phát từ ý
nghĩa đó để nhận thức vấn đề, Đại hội XVII Đảng Cộng sản Trung Quốc đã đưa ra
kết luận “xây dựng chế độ cơ bản XHCN, đã đặt tiền đề chính trị và cơ sở chế độ
căn bản cho sự phát triển và tiến bộ toàn diện của Trung Quốc”.
Thập niên 60, 70 của thế kỷ XX, Trung Quốc đã trải qua 10 năm nội loạn của cuộc
“Đại cách mạng văn hoá”, với thực tiễn sai lầm “lấy đấu tranh giai cấp làm cương
lĩnh, con người vì đất đai mà đã tạo ra những kẻ thù về giai cấp, quan hệ xã hội ở
vào trạng thái căng thẳng toàn diện. Nhưng may mắn là, Đảng Cộng sản Trung
Quốc đã kịp thời sửa chữa sai lầm của cuộc “Đại cách mạng văn hóa”, chấn chỉnh
lại phương hướng phát triển của Trung Quốc.
Hội nghị Trung ương 3 khóa XI Đảng Cộng sản Trung Quốc là bước ngoặt vĩ đại
trong lịch sử đương đại Trung Quốc. Sau Hội nghị Trung ương 3, đồng thời với việc
thực hiện chuyển đổi trọng tâm công tác, công cuộc lập lại trật tự xã hội được triển
khai toàn diện. Một trong những nội dung chủ yếu của công tác lập lại trật tự xã hội
đó là sửa lại những vụ án oan sai. Đến cuối năm 1982, không những sửa lại án xử
sai trong “Đại cách mạng văn hoá”, mà còn sửa được những vụ án oan sai trước
thời kỳ' “Đại cách mạng văn hoá”, đã điều chỉnh lại mối quan hệ chính trị xã hội, đời
sống xã hội đi theo hướng bình thường hoá, giúp cho hàng trăm triệu người được
giải phóng khỏi bóng tối chính trị, hình thành nên môi trường và bầu không khí nhân
dân toàn quốc đồng tâm đồng lòng thực hiện 4 hiện đại hoá. Điều này một lần nữa
nói lên rằng cuộc vận động đúng hướng giữa kết cấu xã hội và quan hệ xã hội sẽ
thúc đẩy sản xuất xã hội phát triển. Từ đó trở đi, Đảng Cộng sản Trung Quốc ngày
càng chú trọng hơn việc củng cố xây dựng chế độ và ưu hoá kết cấu xã hội, từ sự
trình bày về môi trường chính trị không có sự đoàn kết yên ổn, không có trật tự xã
hội ổn định, việc gì cũng không làm được dưới thời Đặng Tiểu Bình đến quan điểm
thúc đẩy phát triển nhịp nhàng giữa xây dựng văn minh vật chất, văn minh chính trị,
văn minh tinh thần XHCN, thúc đẩy sự tiến bộ toàn diện của con người dưới thời
Giang Trạch Dân; từ thời Giang Trạch Dân phải kiên trì ổn định là trên hết, giải quyết
đúng đắn mối quan hệ giữa cải cách, phát triển và ổn định, coi việc không ngừng cải
thiện đời sống nhân dân là chủ trương giải quyết mối quan hệ giữa cải cách, phát
triển và ổn định đến thời Hồ Cẩm Đào nhấn mạnh phải kiên trì quan điểm phát triển
khoa học lấy con người làm gốc, xây dựng xã hội hài hoà xã hội chủ nghĩa, đã tập
trung thể hiện tính ưu việt của mô hình chế độ, hình thành cỗ máy đẩy cho kinh tế cất cánh.
Thời kỳ đầu cải cách mở cửa, nhiệm vụ chủ yếu mà Trung Quốc phải đối mặt đó là
phát triển kinh tế, con đường chủ yếu giải quyết vấn đề đó chính là đa nguyên hóa
thành phần kinh tế. Trải qua mấy chục năm cố gắng nỗ lực, vật đổi sao dời, nay hơn
hẳn xưa, không những kinh tế - xã hội đạt được bước tiến dài, năng lực khống chế
nền kinh tế thị trường của Chính phủ hơn hẳn trước đây. Nhưng những vấn đề cũ
được giải quyết những vấn đề mới lại nảy sinh. Cùng với sự đa nguyên hóa thành
phần kinh tế đã làm xuất hiện sự đa dạng hóa chủ thể lợi ích; khắc phục những trở
ngại của chủ nghĩa bình quân, chấp nhận cơ chế cạnh tranh, lại làm xuất hiện vấn
đề mất cân đối trong phát triển giữa kinh tế và xã hội, giữa thành thị và nông thôn và
giữa các vùng miền và khoảng cách chênh lệch thu nhập quá lớn giữa các thành
viên trong xã hội. Sự chênh lệch trong kết cấu xã hội làm cho quan hệ xã hội ngày
càng căng thẳng. Trước tình hình đó, Hội nghị Trung ương 6 khóa XVI ĐCS Trung
Quốc đã kịp thời đưa ra bố cục tổng thể xây dựng hiện đại hoá XHCN đặc sắc Trung
Quốc gồm 4 trụ cột chính (tứ vị nhất thể) đó là xây dựng kinh tế, xây dựng chính trị,
xây dựng văn hoá và xây dựng xã hội, xã hội hài hoà là thuộc tính bản chất của
CNXH đặc sắc Trung Quốc. Đại hội XVII ĐCS Trung Quốc thêm một bước nữa đưa
ra thúc đẩy nhanh xây dựng xã hội lấy cải thiện dân sinh làm trọng điểm, xây dựng
xã hội phải cố gắng hình thành nên cục diện toàn thể nhân dân người người làm hết
năng lực, mỗi người mỗi việc chung sống hài hoà với nhau. Như vậy, đưa ra một
tầng thứ cao hơn trong tình hình mới thông qua việc ưu hoá kết cấu xã hội, cải thiện
quan hệ xã hội để tạo điều kiện môi trường tốt đẹp cho sự xây dựng và phát triển
nhanh chóng của sức sản xuất xã hội. Đảng và Chính phủ Trung Quốc còn quy
hoạch cụ thể nhiệm vụ thúc đẩy nhanh xây dựng nông thôn mới XHCN, từng bước