Cảm hứng thế sự và thiên nhiên trong thơ văn Nguyễn Khuyến | Đại học Sư Phạm Hà Nội

Cảm hứng thế sự và thiên nhiên trong thơ văn Nguyễn Khuyến | Đại học Sư Phạm Việt Nam với những kiến thức và thông tin bổ ích giúp sinh viên tham khảo, ôn luyện và phục vụ nhu cầu học tập của mình cụ thể là có định hướng, ôn tập, nắm vững kiến thức môn học và làm bài tốt trong những bài kiểm tra, bài tiểu luận, bài tập kết thúc học phần, từ đó học tập tốt và có kết quả cao cũng như có thể vận dụng tốt những kiến thức mình đã học vào thực tiễn cuộc sống.

BẢNG KHẢO SÁT CẢM HỨNG THIÊN NHIÊN TRONG THƠ
NÔM CỦA NGUYỄN KHUYẾN
stt Tên bài Nội dung thể hiện cảm hứng thiên nhiên
1 Ngày xuân
dặn các con
Chùm thơ “Ngày xuân dạy các con” gồm hai bài theo th thơ thất
ngôn bát Đường luật Giọng thơ nhẹ nhàng, ấm áp bao tình thương.
Trong bài đoạn thể hiện thời tiết không thuận, trời u ám “khói dày”
lại “mưa ít”. Núi để làm bạn thì núi trở thành xa tắp trong những ngày
đầu xuân. Cúcbạn cũ thì cúc cũng chỉ nở thơ cạnh tường. Thoáng
một chút cô đơn
2 Khai bút thể nói, bằng ngòi bút tài hoa từ những trải nghiệm chính cuộc
sống với những tình cảm gắn thiết tha với những người dân nghèo
khổ, Nguyễn Khuyến đã vẽ lên bức tranh đời sống dân dã, chân thực,
tinh tế và gần gũi.
3 Mùa hè năm
Nhâm Dần
Nguyễn Khuyến đã cực tả được cái oi ngột của ngoại cảnh qua hai nét
chấm phá điển hình là âm thanh của tiếng dế và đàn muỗi để thể hiện
những bức bối nội tâm
4 Thu điếu Bài thơ một bức tranh thiên nhiên mùa thu vắng Wng, lạnh lẽo
đượm buồn, đồng thời cũng thể hiện tình yêu thiên nhiên trong tâm hồn
người thi sX. Đọc bài thơ người đọc ấn tượng bởi cảnh sắc mùa thu đẹp
tXnh Wng cùng tình yêu thiên nhiên của Nguyễn Khuyến, đồng thời
cũng cho thấy những nỗi niYm thời đại, tình yêu nước thương dân dạt
dào trong trái tim thi sX.
5 Thu ẩm Bài thơ dòng cảm xúc của con người yêu đời, yêu quê hương, đất
nước. Trong hình ảnh thu đó là hình ảnh đồng quê Bắc Bộ với dáng thu,
hồn thu lung linh. Ngõ tối đêm sâu đóm lập loè. Không giống như
những tác giả khác chọn không gian sáng làm tôn lên bức tranh thu.
6 Bức tranh mùa thu với màu sắc thanh đạm, đường nét uyển chuyển,Thu vịnh
không gian cao rộng, cảnh vật huyYn ảo dưới ánh nắng trắng trong thể
hiện nỗi lòng tha thiết của nhà thơ đối với quê hương đất nước. Nhân vẻ
đẹp của đêm thu. Nhà thơ cũng bộc bạch tâm sự sâu kín, chân thật của
mình hết sức cảm động.
8 Câu cá mùa
thu
Bài thơ Câumùa thu dường như đã mở ra cho người đọc một khung
cảnh trời thu trong trẻo tuyệt đẹp nhưng cũng rất đỗi gần gũi, giản dị.
Cảm nhận bài thơ Câu mùa thu cho ta thấy được bức tranh thiên
nhiên vY mùa thu qua đôi bàn tay khéo léo của Nguyễn Khuyến lại trở
nên sinh động lạ thường.
9 Vịnh cúc qua thiên nhiên đã thể hiện sự đổ vỡ vY tinh thần. Từ khi cáo quan vY ở
ẩn, nỗi buồn triYn miên day dứt cứ trở đi trở lại trong thơ ông như một
nỗi ám ảnh. Chủ trương một lối sống lánh đời tất mang sắc thái lội
ngược dòng, ánh đục vY trong và tất có nét cô độc vì cảnh
10 Cuốc kêu cảm
hứng
Cuốc kêu cảm hứng tiêu biểu nhất cho hồn thơ Nguyễn Khuyến sau khi đã cáo
quan lui vY sống giữa xóm làng quê hương: man mác bâng khuâng buồn, cô
đơn...
BẢNG KHẢO SÁT CẢM HỨNG THẾ SỰ TRONG T
NÔM CỦA NGUYỄN KHUYẾN
STT Cảm hứng thế sự chủ đạo Tác phẩm chi tiết
1 Phản ánh hiện thực đời sống sinh
hoạt nông thôn nỗi khổ của
người nông dân
Thấu hiểu, cảm thông nỗi khổ, nỗi vất vả
của người nông dân
Chốn quê
Chợ Đồng
Nước lụt Hà Nam
Than nợ
Lên án, tố cáo bọn quan lại vơ vét, áp bức
người nông dân
Khuyển nhà nông
2 Phê phán trào phúng vY bức tranh
hội đương thời thối nát, mục
rữa
Phê phán, tố cáo hiện thực xã hội mà
đứng đầu là bọn quan tham, bọn địa
chủ cai trị
Hỏi thăm quan tuần mất cướp
Phơi bày hiện thực xã hội thông qua hiện
tượng lố lăng buổi giao thời
Hội Tây
Chế giễu cảnh thi cử nửa tây nửa ta
Vịnh tiến sX giấy
Lên án những nhà sư, thầy đồ mang thói
ăn chơi dung tục
Vịnh sư
Bỡn cô tiểu ngủ ngày
Thầy đồ ve gái
Thầy đồ bị gái lừa
BẢNG KHẢO SÁT SỰ GIAO THOA GIỮA CẢM HỨNG
THIÊN NHIÊN VÀ CẢM HỨNG THẾ SỰ TRONG THƠ NÔM
CỦA NGUYỄN KHUYẾN
STT Tên
bài
thơ
Biểu hiện của sự giao thoa
1 Thu
điếu
“Ao thu lạnh lẽo nước trong
veo,
Một chiếc thuyYn câu bé tẻo
teo.
Sóng biếc theo làn hơi gợn tí,
Lá vàng trước gió sẽ đưa vèo.
Tầng mây lơ lửng trời xanh
ngắt, Ngõ trúc quanh co
khách vắng teo. Tựa gối,
ôm cần lâu chẳng được,
Cá đâu đớp động dưới chân
Vẻ tuyệt mỹ của cảnh ao thu, thuyYn
thu, sóng thu, vàng thu, trời mây
cao rộng, ngõ trúc vắng…
Tiếng than thầm, phải chăng than cho
chuyến đi câu chưa kết quả, hay
than cho nỗi bất đắc chí trước thời
cuộc hỗn loạn, mơ hồ
bèo.”
2 Thu
vịnh
“Trời thu xanh ngắt mấy
tầng cao, Cần trúc lơ phơ
gió hắt hiu.
Nước biếc trông như tầng khói
phủ, Song thưa để mă Wc bóng
trăng vào. Mấy chùm trước
giậu hoa năm ngoái, Một tiếng
trên không ngỗng nước nào?
Nhân hứng cũng vừa toan cất
bút, NghX ra lại thẹn với ông
Đào.”
Bức thủy mă Wc toàn cảnh, bao quát vY
mùa thu vùng nông thôn
Nỗi niYm của thi nhân: đó nỗi thẹn
với đời, cái bất đắc chí của một kẻ sX
lực bất tòng tâm trước cảnh trước
cảnh bộ máy chính quyYn đã suy thoái
trầm trọng.
3 Cảm
hứng
“Đời loạn đi vY như hạc độc
Tuổi già hình bóng tựa mây côi
Hình ảnh thân hạc lẻ loi, mây
trắng quạnh trong tiếng thở dài
trước tình người bạc bẽo hay chính
là hình ảnh của thi nhân giữa lúc đất
nước loạn li, sự bất lực trở thành
con người thừa giữa thời thế
4 Cuốc
kêu
cảm
hứng
“Khắc khoải đưa sầu giọng
lửng lơ, Ấy hồn Thục đế
thác bao giờ?
Năm canh máu chảy đêm
vắng, Sáu khắc hồn tan
bóng nguyệt mờ. phải
tiếc xuân mà đứng gọi,
Hay là nhớ nước vẫn nằm mơ?
Thâu đêm ròng rã kêu ai đó?
Giục khách giang hồ dạ ngẩn
ngơ.”
Thông qua khắc họa hình ảnh
tiếng kêu khắc khoải của con cuốc,
Nguyễn Khuyến đã giãi bày một
tấm lòng yêu nước không nguôi,
một tâm trạng đầy bi kịch: xót xa
đau buồn, tủi nhụcnước mất nhà
tan.
SỰ GIAO THOA GIỮA CẢM HỨNG THIÊN NHIÊN
CẢM HỨNG THẾ SỰ TRONG THƠ NÔM CỦA NGUYỄN
KHUYẾN
1. KHÁI QUÁT
1.1. Lời mở đầu
Cuối thế kỷ XIX, hội Việt Nam khủng hoảng một cách trầm
trọng toàn diện. Sự trở lại xâm lược của Thực dân Pháp đã khiến
cho toàn bộ đất nước chịu ảnh hưởng sâu sắc đồng thời cũng tác
động lớn tới văn học với biểu hiện là sự đa dạng vY khuynh hướng sáng
tác. Ở chă Wng đường cuối cùng, văn học phát triển nhiYu khuynh hướng
cảm hứng như khuynh hướng yêu nước, khuynh hướng nhân đạo,
khuynh hướng thế sự, khuynh hướng thiên nhiên, khuynh hướng tôn
giáo...
nhưng khuynh hướng cảm hứng chủ đạo lẽ vẫn thế sự. Từ hiệu
ứng xã hội mà quan niệm nghệ thuật, thi pháp của tác giả trong khoảng
thời gian này cũngsự đổi thay. Với nhu cầu biểu hiện, người nghệ
sX muốn ghi lại được sự phong phú, sinh động của tình cảm, tư tưởng,
những biến động trong lòng người hội thì cần một ngôn ngữ
nghệ thuật chưng cất từ ngôn ngữ đời sống. Và văn học Nôm, đă Wc biệt
thơ Nôm sản phẩm đáp ứng được nhu cầu đó. Với đă Wc thù ngôn
ngữ dân tộc, thơ Nôm dễ dàng phản ánh hiện thực cuộc sống xây
dựng các hình tượng dễ thấm sâu vào cảm quan công chúng. thể
thấy rõ sự xuất hiện và phát triển hưng thịnh của văn học chữ Nôm đã
sản sinh ra nhiYu nhà thơ với những tác phẩm kiệt xuất góp phần làm
rạng rỡ nYn văn học dân tộc. Nguyễn Khuyến chính một trong
những số ít gương mă Wt tỏa sáng vY thơ Nôm trong giai đoạn cuối cùng
của văn học trung đại Việt Nam với hai khuynh hướng cảm hứng được
vận dụng linh hoạt đó là cảm hứng thế sự và cảm hứng thiên nhiên.
1.2. Tác giả
1.2.1. Cuộc đời
Nguyễn Khuyến (1835-1909) tên thật Nguyễn Thắng, hiệu
Quế Sơn. Nguyễn Khuyến sinh năm 1835, tại làng Hoàng Xá, huyện Ý
yên Nam Ðịnh. Lớn lên sống ở làng Yên Ðổ, huyện Bình Lục, tỉnh Hà
Nam. Lớn lên và sống chủ yếu quê nội - làng Và, xã Yên Đổ, huyện
Bình Lục, tỉnh Nam. Ông xuất thân trong một gia đình nhà nho
nghèo. Năm 1864, ông đỗ đầu thi Hương. Mấy sau thi tiếp lại
trượt, đến năm 1871, ông đỗ đầu cả thi Hội và thi Đình. Do đỗ đầu cả
ba kì thi nên Nguyễn Khuyến được gọi là Tam Nguyên Yên Đổ. Tuy đỗ
đạt cao nhưng ông chỉ làm quan hơn mười năm, còn phần lớn cuộc đời
là dạy học và sống thanh bạch ở quê nhà. Nguyễn Khuyến là người tài
năng, cốt cách thanh cao, tấm lòng yêu nước thương dân, từng
bày tỏ thái độ kiên quyết không hợp tác với chính quyYn thực dân
Pháp.
1
1.2.2. Sự nghiệp văn chương
Nguyễn Khuyến là nhà thơ lớn của nYn văn học dân tộc. Từ khi rất
nhỏ, ông đã bắt đầu sáng tác thơ ca. Nhưng thời kỳ sáng tác chủ yếu
của ông có lẽ mới chính là thời gian ông cáo quan vY ở ẩn tại quê nhà.
Nguyễn Khuyến sáng tác bằng cả chữ Hán và chữ Nôm với số lượng
tác phẩm khá lớn. Ông để lại hơn 800 tác phẩm gồm thơ, câu đối, văn
viết bằng chữ Hán và chữ Nôm, phần lớn đYu làm sau khi từ quan vY
làng. Với mảng thơ văn chữ Hán, Nguyễn Khuyến đã chứng tỏ sức
học phi thường, tri thức uyên bác của mình. Ngoài ra, ông cũng
nhiYu đóng góp nổi bật ở mảng thơ Nôm, có ý nghXa nhiYu mă Wt mă Wc dù
thơ Nôm của Nguyễn Khuyến có phần khiêm tốn hơn thơ chữ Hán.
Nội dung tác phẩm của Nguyễn Khuyến rất phong phú, nhưng tựu
trung lại gồm bốn chủ đY tiêu biểu: tâm sự của một nhà nho lạc
thời, thể hiện con người với chí hướng và phẩm cách trong sáng, nhà
thơ quê hương làng cảnh Việt Nam và tiếng cười phê phán, tố cáo xã
hội đương thời.
1.2.3. Thời đại loạn lạc – nguyên do của việc cáo quan về ở ẩn và
tiền đề của sự giao thoa cảm hứng trong thơ Nôm của Nguyễn
Khuyến
Wc dầu học rộng tài cao vậy nhưng lại ra làm quan trong cảnh
nước mất nhà tan, đạo đức Nho phong suy tàn, bản thân người trí sX
tỏ ra bất lực trước thời cuộc. Không thể làm được nên cái chí
muốn trị quốc bình thiên hạ của vị Tam nguyên đã gần như sụp đổ
hoàn toàn. Tiếng súng xâm lược của thực dân Pháp nổ ra đã khiến
đất nước ta suy sụp nghiêm trọng: đánh mất chủ quyYn đất nước đồng
thời nhân dân đYu trở thành nô lệ, mất tự do. Giữa thời điểm đất nước
loạn lạc rối ren như thế, những người dân đă Wc biệt tầng lớp trí
thức giống như Nguyễn Khuyến buộc phải đưa ra sự lựa chọn giữa
đấu tranh hoă Wc cam chịu làm tay sai. Không thể lựa chọn hai con
đường trên, Wc bản thân Nguyễn Khuyến cũng đã trót dấn thân
vào con đường hoạn lộ nhưng với nhãn quan sắc bén, ông nhìn
chân tường của thời cuộc, ông đã dứt khoát vứt bỏ mọi thứ vinh hoa
phú quý, khép áo lui chân vY quê cũ, quyết giữ khí tiết của bậc quân
tử. Dẫu đã trở vY với làng quê Yên Đổ, sống hòa hợp với thiên nhiên
nhưng trong lòng vị Tam nguyên vẫn chẳng thể nào yên an ở quê nhà
cứ khắc khoải lo lắng cho vận mệnh của dân tộc trước thời thế
lúc bấy giờ. Không thể làm chính trị, Nguyễn Khuyến một nhà
nho, nhà trí thức yêu nước đã gửi gắm tâm sự thầm kín của mình, thể
hiện thái độ bất bình sâu sắc trước hội thực dân phong kiến thối
nát và cũng qua thơ văn.
2
2. CẢM HỨNG THIÊN NHIÊN TRONG THƠ NÔM NGUYỄN
KHUYẾN 2.1. Bức tranh thiên nhiên bốn mùa
Thiên nhiên trong thơ Nguyễn Khuyến được đă Wt trong sự biến đổi
không ngừng vY thời gian, sự tuần hoàn vô hạn của tạo hóa đồng thời
được đă Wt trong thế giới tâm tư tình cảm của tác giả: xuân - hạ- thu -
đông. Sự tuần hoàn của vũ trụ thể hiện qua sự đắp đổi các mùa trong
năm. Thống kê trong những sáng tác viết vY thiên nhiên của Nguyễn
Khuyến, thấy có 13 bài thơ viết vY mùa xuân, 26 bài viết vY mùa hè,
28 bài viết vY mùa thu, 3 bài nói vY mùa đông. Phải chăng có một sự
thiên ái ở đây?
Đến Nguyễn Khuyến, thơ xuân không có cái đắm say, tâm hồn tác giả
không quan tâm nhiYu đến những giá trị thẩm mX cao đẹp của mùa
xuân thường nỗi cám cảnh cho thân phận con người, trong đó
chính nhà thơ. Với ông già Yên Đổ, mùa xuân giờ đây khơi dậy
nỗi đau thương li loạn:
‘Xuân về ngày loạn càng lơ láo,
Người gặp khi cùng, cũng ngất ngơ.
Lấn thân lấy chi đền tấc bóng,
Sao con đàn hát vẫn say sưa?”
(Ngày xuân dă Wn các con)
Rất hiếm có bài thơ nào thể hiện niYm hứng khởi của nhà thơ khi mùa
xuân vY. Thậm chí, ngày đầu xuân - khoảng thời gian dễ làm lòng
người phấn chấn, vui say với cảnh sắc đầu năm, lòng người rộn ràng
đón chờ một năm mới an lành, nhưng với Nguyễn Khuyến, niYm hứng
khởi ấy cũng thật miễn cưỡng. Trong bài "Khai bút", tác giả có viết:
“Ình ịch đêm qua tiếng trống làng,
Ai ai mà chẳng rước xuân sang.
Rượu ngon nhấp miệng đưa vài chén,
Bút mới thò tay thử mấy hàng.
Ngoài lũy nhấp nhô cò cụ Tổng,
Cách ao lẹt đẹt pháo thầy Nhang.”
3
Để rồi cuối bài thơ xuất hiện một tâm trạng ưu tư, còn nhiYu lo lắng,
phân vân: “Mỗi năm một tuổi trời cho tớ!
Tuổi tớ trời cho tớ lại càng...”
Còn đây là bức tranh mùa hè. Như con số thốngtrên đã chứng tỏ,
đây mùa được tác giả nói đến nhiYu nhất. Nguyễn Khuyến đã cực
tả được cái oi ngột của ngoại cảnh qua hai nét chấm phá điển hình
âm thanh của tiếng dế đàn muỗi để thể hiện những bức bối nội
tâm:
“ Hè này nóng khổ quá,
Cỏ khô, đầm cạn cả.
Lại thêm ngọn gió tây,
Vật gì chẳng tàn tạ.
Than ôi! khổ trăm chiều!
Sao lại còn nghiệt ngã”
(Mùa hè năm Nhâm Dần)
Bài thơ thể hiện cái oi bức ngột nồng đến rã rượi. Chưa bao giờ cái ấn
tượng vY nhiệt lại bức bối trong thơ như Nguyễn Khuyến. Bởi những
vật vì thời tiết mùa này thật ra là sự vật trong tâm can Nguyễn
Khuyến. Và chính vì nghXa này mà tần suất dày đă Wc của mùa hè trong
thơ Nguyễn Khuyến thành một chi tiết nghXa phá cách, cách
liên tưởng thì dường như không mới.
thi sX của cảnh quê, của các mùa nông thôn, Nguyễn Khuyến làm
nhiYu bài vY mùa xuân, mùa hạ, mùa đông nhưng nhiYu nhất vẫn
mùa thu. Với không gian nhè nhẹ, bàng bạc, đậm chất u hoài, hơi thu se
sắt thấu tận tâm can, vạn vật chớm tàn phai nhưng lại đẹp đến nao lòng.
Đáng kể nhất à chùm thơ thu 3 bài của Nguyễn Khuyến: Thu ẩm, Thu
điếu, Thu vịnh. Mỗi bài mang một nét đẹp khác nhau, đYu thể hiện
được sự giao hòa giữa cảnh thu và nhà thơ. ĐiYu đáng chú ý cả 3 ài
thơ thu này đYu nói đến màu xanh của bầu trời thu. Đây là cái ấn tượng,
điểm nhấn vY không gian trong tâm hồn nhà thơ Yên Đổ. cái hồn,
cái thần nằm ở bầu trời thu xanh ngắt đó.
Ở "Thu điếu" là:
“Tầng mây lơ ửng trời xanh ngắt.”
4
Trong "Thu ẩm" là:
“Da trời ai nhuộm mà xanh ngắt.”
Còn ở "Thu vịnh" là:
“Trời thu xanh ngắt mấy tầng cao”
Thế nhưng, khoảnh khắc đẹp của mùa thu như đã khảo sát trên không
phải nhiYu. ĐiYu đă Wc biệt trong những bài thơ vY mùa thu của
Nguyễn Khuyến là ám ảnh vY thời tiết với những lo âu:
Mùa thu là thời điểm người nông dân vào mùa gă Wt hái. Công việc này
phụ thuộc rất nhiYu vào thời tiết, ấy thế mà trời cứ "gió gió mưa mưa"
khiến nhà thơ lo lắng cho vụ mùa “sợ lại mất không”
Còn với mùa đông, Nguyễn Khuyến dường như bị ám ảnh vY cái lạnh
tái Nguyễn Khuyếnrất nhiYu thơ vY bốn mùa, vY những chuyển
động của mùa vụ, tiết trời nhưng có một điYu dường như " bất dịch" đó
tâm trạng bất lực, không lối thoát của thi nhân. Đọc thơ Nguyễn
Khuyến thể nhận ra rấtsự chu chuyển âm dương thể hiện thành
vòng xoay bốn mùa, song dường như nó chỉ chu chuyển một thứ, đó là
tâm sự " lui vY" của một bộ phận không nhỏ trí thức nho học lúc bấy
giờ. Trạng thái này thể coi một kiểu hòa trộn cũ- mới trong cách
nhìn, cách sử dụng thiên nhiên.
2.2. Thiên nhiên sống động mang không khí xã hội (cảnh làng quê cảnh
sinh hoạt)
Khi tác giả vY ở ẩn tại Yên Đổ, không gian sống gắn liYn với ao sâu, ngõ tối,
ruộng, vườn, ngôi nhà...., gắn với những hình ảnh nhỏ bé, bình dị. Tác giả
tự miêu tả như cuộc sống của mình như một lão nông trong thiên nhiên,
trong không khí làng quê. Môi trường đó thuần khiết bởi dường như chỉ có
quan hệ giữ tác giả với núi sông, cây cỏ, thú chim, trăng, gió... Trong môi
sinh làng quê, vườn một trong những nơi chốn được Nguyễn Khuyến
nói đến nhiYu. Vườn trong thơ ông, dù có tên (Bùi viên) hay không có tên
(Tiểu viên) đYu à những không gian nhỏ. Nhà thơ thường chọn khoảng
thời gian ban ngày để miêu tả mảnh vườn với sắc màu, âm thanh và hương
thơm. không gian này, nhà thơ dường như tìm thấy sự thư thái trong tâm
hồn. Và chính nhờ gần gũi với đời sống thường nhật đó, tác giả đã đưa thơ
ca vY với cuộc sống.
Nhắc đến môi sinh làng quê, bên cạnh không gian vườn, còn phải kể đến
không gian ruộng. Người dân làng quê ông lấy nghY trồng lúa nước làm
nghY
5
chính nên không gian này rất quen thuộc...Vùng quê Yên Đổ của tác
giả là vùng chiêm trũng nên ấn tượng vY ruộng ở đây à thường thấp,
và bị ngập úng.
Khi trở vY Yên Đổ, phần loạn lạc, phần tuổi già nên Nguyễn Khuyến ít
đi đâu xa. Không gian gắn bó nhất với ông là ngôi nhà mình. Đó cũng là lí
do vì sao không gian này xuất hiệ n nhiYu nhất trong thơ ông.
Một không gian nữa nơi làng quê cũng được nhắc đến nhiYu trong thơ
Nguyễn Khuyến là ao. Quê hương tác giả trước đây lắm ao, lắm vùng.
Ao xuất hiện trong thơ ông 15 lần gắn với thú vui câu cá. không
riêng Nguyễn Khuyến dân quê cả vùng nhất các ông già, lúc
rảnh rỗi thường lên thuyYn nan ngồi thả mồi câu cá, coi đó một thú
tiêu khiển chăng Đối với cụ Tam nguyên câudưới ao quả là một lạc
thú. Chẳng vậy, chỉ tính riêng chùm thơ thu 3 bài: Vịnh mùa thu, Câu
cá mùa thu, Uống rượu mùa thu đYu xuất hiện không gian ao:
“Nước biếc trông như tầng khói phủ.”
(Vịnh mùa thu)
“Ao thu lạnh lẽo nước trong veo,
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo.”
(Câu cá mùa thu)
“Làn ao óng ánh óng trăng loe.”
(Uống rượu mùa thu)
Tóm lại, vườn, ruộng, ngôi nhà, ngõ, ao hay rộng hơn à thiên nhiên và
thế giới tự nhiên trong thơ Nguyễn Khuyến đã trở thành một điểm nhấn
quan trọng khi lí giải mối gắn kết giữa lịch sử của mỗi cá nhân và nơi
nuôi dưỡng họ
2.3. Cảnh thiên nhiên mang ngụ ý tâm trạng, cảm xúc của tác giả
Đọc thơ của Nguyễn Khuyến thể nhận ra rằng chính tâm trạng bế
tắc, bất mãn của ông là nguyên nhân dẫn đến sự thay đổi cách nhìn vY
thiên nhiên: không còn chỉ một thiên nhiên hài hòa, thanh khiết,
tưởng như đã trình bày trênthay vào đó là một thiên nhiên bất an,
thảm họa, thiên nhiên tách khỏi con người. ĐiYu đáng lưu ý đây
nhà thơ đã mượn thiên nhiên để phản ánh sự đổ vỡ trong tưởng
sự đổ vỡ của xã hội.
Trước tiên, qua thiên nhiên đã thể hiện sự đổ vỡ vY tinh thần. Từ khi
cáo quan vY ở ẩn, nỗi buồn triYn miên day dứt cứ trở đi trở lại trong
thơ ông như một nỗi
6
ám ảnh. Chủ trương một lối sống tránh đời tất mang sắc thái lội ngược
dòng, lánh đục vY trong và tất có nét cô độc vì cảnh: "độc hành kì đạo,
độc thiện kì thân":
“Độc dương hàn tuế thùy vi ngẫu,
Bất lạc phương tâm chân khả ai.
Chọi rét một thân ai à bạn,
Chẳng lạt lòng son thật đáng thương.”
(Vịnh cúc)
Thật đáng trọng nhưng cũng thật đáng thương. Câu thơ chua xót biết
bao! Cũng lúc ông bị người đời lãng quên như loài hoa mai trong
vườn. Thơ Nguyễn Khuyến thể hiện mối quan hệ tương thông, tương
cảm hai chiYu giữa nhà thơ và thiên nhiên. Thiên nhiên được nhân cách
hóa như người bạn tri âm tri kỉ chia sẻ
với ông mọi tâm tư nỗi niYm. Vì vậy đã có không ít lần thiên nhiên
thành nơi chia sẻ cùng ông nỗi niYm xót xa:
“Có phải tiếc xuân mà đứng gọi,
Hay là nhớ nước vẫn nằm mơ.
Thâu đêm ròng rã kêu ai đó,
Giục khách giang hồ dạ ngẫn ngơ.”
(Cuốc kêu cảm hứng)
Khảo sát những sáng tác viết vY thiên nhiên của Nguyễn Khuyến, ta
cũng nhận thấy, trạng thái giao hòa Nguyễn Khuyến khác với những tác
giả trước ông. Càng vY sau, tâm trạng của tác giả xuất hiện nhiYu bi
kịch nên chi phối cách nhìn thiên nhiên - một môi sinh ất an. Theo đó,
mối quan hệ giữa con người thiên nhiên cũng xuất hiện những
khoảng cách.
Tất cả hiện thực này không được tác giả miêu tả trực tiếp mà nó được ẩn
giấu trong những bức tranh thiên nhiên. Ông nhìn cuộc khai thác, cướp
bóc nước ta thực dân Pháp đang tiến hành việc làm man rợ,
hoang dã
Càng vY cuối đời thơ Nguyễn Khuyến càng hằn lên những cảm nhận cay
đắng, bi thương vY thời gian. Ông tìm vY quá khứ, không gian phế tích.
Cảm xúc này đã được Nguyễn Khuyến thể hiện trong hàng loạt bài thơ
như: "Miếu vua Lê", "ĐYn Cuông - núi Dạ", "ĐYn hai trạng nguyên",
"Chùa Hàng", " Hồ Hoàn Kiếm "...
7
3. CẢM HỨNG THẾ SỰ TRONG THƠ NÔM CỦA NGUYỄN
KHUYẾN 3.1. Khái niệm cảm hứng thế sự
Trong văn học trung đại, cảm hứng thế sự sự bày tỏ những suy
nghX, tình cảm vY hiện thực đời sống, hiện thực hội; phản ánh các
vấn đY hội nhân sinh, thế tục. Tác phẩm văn học hướng tới hiện
thực, ghi lại những điYu trông thấy qua đó tác giả bộc lộ tình cảm
yêu, ghét, lên án và cả khát vọng và hoài bão của con người.
3.2. Biểu hiện cảm hứng thế sự trong thơ Nôm Nguyễn Khuyến 3.2.1. Thơ
Nôm Nguyễn Khuyến phản ánh hiện thực đời sống sinh hoạt nông thôn
và nỗi khổ của người nông dân
Nguyễn Khuyến là nhà thơ gắnvới đời sống nông thôn; điYu này
tạo nên vốn hiểu biết sâu sắc cũng như tình cảm sâu đậm của nhà thơ
đối với vùng quê Yên Đỗ. Làng quê hiện lên trong thơ ông luôn phải
đối diện với mất mùa, đói, nghèo, cuộc sống vất vả:
“Năm nay cày cấy vẫn chân thua
Chiêm mất đằng chiêm, mùa mất mùa”
(Chốn quê)
Ông thấu hiểu nỗi khổ, nỗi vất vả của người nông dân. Từ “vẫn”
được sử dụng không chỉ miêu tả được nỗi khổ dầm mưa dãi nắng
nhưng “vẫn chân thua”; mà còn báo hiệu cho tương lai mịt mù,
không thấy lối thoát, không thấy ánh sáng; cái đói, cái nghèo vẫn bủa
vây cuộc sống của những người nông dân ngày này qua tháng nọ.
“Tháng chạp hai mươi bốn chợ Đồng
Năm nay hop chợ có đông không?
Dở trời, mưa bụi còn hơi rét
Nếm rượu tường đến được mấy ông?
Hàng quán người về nghe xao xác
Nợ nần năm hết hỏi lung tung”
(Chợ Đồng)
Hay:
“Sớm trưa dưa muối cho qua bữa
Chợ búa trầu cau chẳng dám mua
Tằn tiện thế mà không khá nhỉ
Nhà trời rồi cũng mấy gian kho”
(Chốn quê)
8
Cái đói, cái nghèo đeo bám đến tận những ngày cuối năm. Chợ ngày
thường đã vắng, chợ ngày cuối năm còn vắng hơn; bởi bát cơm còn
chẳng có mà ăn, họ đâu dám ước mơ vY những món hàng. Ngày họp
chợ càng trở nên hiu hắt, buồn bã vì những câu chuyện vY món nợ
còn bỏ dở, những sưu cao, thuế nă Wng mà người nông dân phải chịu.
Không chỉ phải chịu cảnh mất mùa, đói kém; những người nông dân
còn là nạn nhân của thiên tai, bão lũ:
“Quai Mễ Thanh Liêm đã lở rồi
Vùng ta thôi cũng lụt mà thôi”
“Tiếng sáo vo ve chiều nước vọng
Chiếc thuyền len lỏi bong trăng trôi”
(Nước lụt Hà Nam)
Mỗi trận lũ đi qua cuốn đi hết của cải tích cóp cả năm trời của người
nông dân. Câu thơ như tiếng thở dài vào hư không, như một sự chấp
nhận thực tại đầy túng quẫn. Nhà thơ không thi vị hóa nỗi đau, nỗi
khổ của người nông dân mà ông đã dùng ngòi bút hiện thực ghi lại
nét, chân thực tâm lý, nỗi lo của người dân.
Cuộc đời người nông dân đầy bế tắc, vừa tích cóp được một chút thì
liYn bị bọn quan lại ra sức vơ vét, bóc lột:
“Hoa tuyết có ý cứu dân khỏi đói,
Chuột lớn kia thù gì mà ăn lúa của ta”
(Khuyển nhà nông)
Chuột lớn kia nào đâu chỉ chuột theo nghXa thực phá hoại mùa
màng, đồng áng của người dân chuột lớn kia còn những bọn
nhà giàu, bọn địa chủ. Bọn chúng cũng như chuột đồng cứ đến
mùa lại thay nhau đến cướp thóc lúa, phá hoại mùa màng của nhân
dân.
Đến cùng, khi chẳng còn nổi một chút tiYn nào trong tay, họ lại lâm
vào cảnh nợ nần chồng chất:
“Quản chi công nợ có là bao
Nay đã nên to đến thế nào
Lãi mẹ lãi con sinh đẻ mãi
Chục năm chục bảy tính nhiều sao?”
(Than nợ)
“Phần thuế quan Tây, phần trả nợ
Nửa công đứa ở nửa thuê bò”
(Chốn quê)
9
“Gạo dăm ba bát cơ còn kém
Thuế một vài nguyên dáng vẫn đòi”
(Nước lụt Hà Nam)
Bài toán nợ nần, lãi mẹ đẻ lãi con khiến họ điêu đứng. Đồng tiYn lên
ngôi, thân phận người lao động chỉ cỏ cây. Người nông dân mãi
mãi bị giam cầm trong vòng dây xiYng xích của chế độ phong kiến
thực dân tàn ác, tham lam, bất nhân. Đây chính là vòng tròn cuộc đời
luẩn quẩn, bế tắc của người nông dân trong thơ Nguyễn Khuyến.
Đến cuối cùng, người được lợi chỉ có bọn quan lại, địa chủ.
3.2.2. Thơ Nguyễn Khuyến còn là tiếng cười trào phúng về bức tranh xã
hội đương thời thối nát, mục rữa.
Đầu tiên, ngòi bút của Nguyễn Khuyến hướng thẳng vào phê phán,
tố cáo hiện thực xã hội mà đứng đầu là bọn quan tham, bọn địa chủ
cai trị:
“Tôi nghe kẻ cướp nó lèn ông,
Nó lại lôi ông đến giữa đồng.
Lấy của đánh người, quân tệ nhỉ!
Thân già da cóc, có đau không?
Bây giờ mới khẽ sầy da trán,
Ngày trước đi đâu mất mảy lông.
Thôi cũng đừng nên ky cóp nữa.
Kẻo mang tiếng dại với phường ngông!”
(Hỏi thăm quan tuần mất cướp)
Mở đầu bài thơ lời hỏi thăm tưởng như đầy quan tâm của nhà
thơ dành cho ông quan vừa bị cướp. Nguyễn Khuyến “thương xót”
cho “thân già gia cóc”, nhưng lời lại đầy ý mỉa mai. Mượn câu nói
của cha ông “ki cóp cọp ăn”, ông đã cho ta thấy bộ mă Wt thật của quan
lại thời xưa, bộ mă Wt tham lam, đê tiện, cướp bóc của người dân
Không chỉ chê bai, phê phán bọn quan lại, Nguyễn Khuyến phơi bày
hiện thực xã hội thông qua hiện tượng lố lăng buổi giao thời:
“Bà quan tênh nghếch xem bơi trải,
Thằng bé lom khom nghé hát chèo.
Cậy sức cây đu nhiều chị nhún,
Tham tiền cột mỡ lắm anh leo.”
(Hội Tây)
10
Hình ảnh thơ hiện lên thật sinh động, khiến ta cảm nhận được không
khí tươi vui, náo nức của ngày hội. Thế nhưng, ẩn sau đó lời phê
phán thói nhố nhăng, mị dân của bọn thống trị, quan Tây lẫn quan ta.
Hình ảnh bà quan trong cái thế “tênh nghếch” được đă Wt đối cùng hình
ảnh thằng bé “lom khom” tạo nên bức tranh thế sự đầy đau đớn. Đó
là thực tại cảnh mất nước, người dân sống “lom khom” dưới gót giày
của bọn thống trị. Chua xót hơn là người dân lại chẳng hY
ý thức được tình cảnh của mình mà vẫn vui vẻ, hồ hởi tham gia hội
chơi; để rồi tác giả phải cất lên tiếng đầy mỉa mai:
“Khen ai khéo vẽ trò vui thế,
Vui thế bao nhiêu nhục bấy nhiêu!”
(Hội Tây)
Xã hội buổi giao thời hỗn loạn, những kỳ thi Hán học như “những
phiên chợ chiYu đã tàn”. Để chế giễu cảnh thi cử nửa tây nửa ta,
Nguyễn Khuyến đã mượn hình ảnh “tiến sX giấy”, qua đó nhằm miêu
tả tiến sX thật:
“Cũng cờ, cũng biển, cũng cân đai.
Cũng gọi ông nghè có kém ai.
Mảnh giấy làm nên thân giáp bảng,
Nét son điểm rõ mặt văn khôi.
Tấm thân xiêm áo sao mà nhẹ?
Cái giá khoa danh ấy mới hời!”
(Vịnh tiến sX giấy)
Những tiến sX thời bấy giờ cũng là “ông nghè có kém ai”; nhưng thực
chất cái học vị danh giá ấy cũng chỉ là một tờ giấydấu son đỏ lòe
loẹt do triYu đình cấp. Thế nên, cái chức danh này mới “nhẹ”, mới
đơn giản làm sao; khi chỉ cần tiYn mua được chức tiến sX.
Nguyễn Khuyến đã bày ra trước mắt người đọc
một bức tranh xã hội mục nát, nơi đồng tiYn có thể chi phối mọi thứ;
cuối cùng, ông ngậm ngùi rằng:
Nghĩ rằng đồ thật, hoá đồ chơi!
(Vịnh tiến sX giấy)
hội không chỉ mục nát từ những kẻ đứng đầu, đến cả những
nhà sư, những thầy đồ cũng mang cái thói ăn chơi dung tục. Lãnh đạo
hội thì mục nát, ấy thế những vị lo toan vY tinh thần cũng chả
tốt hơn bao. Họ lợi dụng cửa thiYn chứ không thực sự đến để tu
hành. Nguyễn Khuyến tuy trọng vọng những bậc chân tu nhưng cũng
không quên đùa cợt với các nhà sư không trọn đạo:
“Đầu trọc tếch bình vôi,
Nhảy tót lên chùa ngồi
Y, a kinh một bộ,
11
Lóc cóc mõ ba hồi”
(Vịnh sư)
Ngay đến những cô tiểu nơi cửa thiYn cũng bị thi nhân đem ra trêu cợt
khi thấy dáng điệu cô nằm ngủ thật là gợi cảm:
“Ôm kinh gối mõ gáy khò khò,
Gió lọt buồng thiền mát mẻ cô.
Then cửa từ bi gài nửa cánh,
Nén hương tế độ đốt đầy lò.”
(Bỡn cô tiểu ngủ ngày)
Sự suy sụp của đạo lý không chỉ lan đến cửa chùa, mà còn làm bại
hoại cả tầng lớp trí thức. Tiêu biểu nhất là các thầy đồ. Mang danh
nhà mô phạm, nhưng sự đời đảo điên, tình dục đã làm mờ ám lương tri
để rồi Nguyễn Khuyến lên tiếng:
“Ở goá thế gian này mấy mụ,
Đi ve thiên hạ thiếu chi thầy.
Yêu con cũng muốn cho thầy dạy,
Dạy cháu nên rồi mẹ cháu ngây.”
(Thầy đồ ve gái)
Nếu có những “Thầy đồ ve gái” thì cũng có những “Thầy đồ bị gái lừa”:
‘Cùng nhau chửa được mấy ngày,
Cô tiêu cũng lắm thầy vay cũng nhiều.
Yêu người, người lại chẳng yêu,
Chiều hoa, hoa lại chẳng chiều mới căm.”
(Thầy đồ bị gái lừa)
thể nói với thơ Nôm, Nguyễn Khuyến đã bày những suy
nghX tình cảm vY cuộc sống con người, việc đời thế sự. Ông đã
hướng tới hiện thực, ghi lại những điYu trông thấy, qua đó tác giả bộc
lộ thái độcả hoài bão của mình. Với ngòi bút trào phúng sâu cay
mà đầy chua xót, Nguyễn Khuyến đã phơi bày, lột trần xã hội phong
kiến mục nát – nơi mà đồng tiYn lên ngôi, thật giả lẫn lộn; nơi mà đời
sống nhân dân lầm lũi, đói khổ, không có nổi lấy một tia ánh sáng.
4. SỰ GIAO THOA GIỮA CẢM HỨNG THIÊN NHIÊN VÀ CẢM
HỨNG THẾ SỰ TRONG THƠ NÔM CỦA NGUYỄN KHUYẾN
4.1. Về khái niệm: giao thoa, giao thoa trong văn học và giao thoa trong thi
hứng của Nguyễn Khuyến
Giao thoa vốn là một khái niệm thuộc vY phạm trù vật lý, chỉ sự “bắt
tréo”, chồng lên nhau của hai tần số ánh sáng, chúng “có thể làm
nhau mạnh lên, hoă Wc
12
triệt tiêu nhau cho đến khi biến mất hoàn toàn” (theo “Từ điển” -
Văn Đức). Đă Wt khái niệm “giao thoa” vào việc phân tích văn học nói
chung, ta có thể hiểu theo nghXa chuyển: đó là sự gă Wp gỡ, giao lưu
song hành của hai yếu tố văn học (như nhân vật, thể loại, cốt truyện,
cảm hứng,…), giữa tác phẩm với tác phẩm kia, hoă Wc sự giao thoa
diễn ra ngay trong lòng một tác phẩm,… Kết quả của quá trình giao
thoa thi hứng, văn hứng sẽ thể càng làm ý nghXa của tác phẩm
thêm trọn vẹn sâu sắc. Người đọc thể chứng minh luận điểm
này dễ dàng khi soi chiếu vào những sự “giao thoa” thi hứng trong
khá nhiYu tác phẩm thơ Nguyễn Khuyến.
Đối với thơ Nguyễn Khuyến nói riêng, ta nhận thấy sự giao thoa
của hai “tần số” cảm hứng, cũng hai tần số nhịp đập gần như
xuyên suốt trong sự nghiệp thi ca của tác giả: đó sự ngưỡng mộ,
yêu mến vẻ tươi đẹp, bình dị của cảnh non nước và cái nhìn trầm tư,
bi ai trước thời cuộc xoay vần.
Hai dòng cảm hứng chủ đạo trên trong thơ Nguyễn Khuyến chưa
từng hoàn toàn tách biệt, “rạch ròi” khỏi nhau. Wt khác, hai dòng
cảm hứng này đan xen và khăng khít, từ đó làm tường minh, sâu sắc
thêm ý nghXa và giá trị mà kho tàng thi ca của thi nhân đã để lại. Nói
vY thơ của vị thi nhân “Tam Nguyên Yên Đổ”, Đă Wng Thị Hảo trong
bài viết “ĐY tài thiên nhiên quan niệm thẩm mX” đã từng đY cập:
“... thơ thiên nhiên chỉ chiếm một phần ba trong tổng số hơn bốn
trăm bài thơ ông để lại”, song, trong số một phần ba những bài thơ
tràn ngập cảm hứng thiên nhiên đó, không khó để độc giả nhận ra
những chiêm nghiệm thế sự của nhà thơ, hay như trong các bài thơ
thể hiện nỗi lòng với thời cuộc khi cơ đồ nhà Nguyễn đang ở thì mạt
vận, ta vẫn hay bắt Wp những hình ảnh thiên nhiên được tác giả lồng
ghép đầy tinh tế.
4.2. Một số biểu hiện tiêu biểu cho sự giao thoa giữa thiên nhiên và thế sự
trong thơ Nguyễn Khuyến
Đi vào nhận định và khảo sát một số tác phẩm cụ thể của Nguyễn
Khuyến, người đọc thể nhận thấy làn sóng giao thoa giữa hai
nguồn cảm hứng mà ông vẫn hằng say sưa trong từng dòng thơ của
mình. Sự kết hợp thú vị này xuất hiện trong cả những tác phẩm được
sáng tác bằng chữ Hán lẫn chữ Nôm của tác giả. Đến với phạm vi
thơ chữ Nôm, độc giả dễ dàng thấy được sự giao thoa của cảm hứng
thiên nhiên với thế sự, khi thơ Nôm chính là nơi mà ngòi bút của Nho
sX Yên Đổ thực sự tỏa sáng hơn cả. Trong những tác phẩm cảm
hứng chủ đạo là thiên nhiên, cảm hứng thế sự sẽ được thi nhân thầm
kín thể hiện sau bức tranh cảnh vật, hoàn thiện thêm giá trị nghệ
thuật của bài. Đối với những tác phẩm
13
theo lối châm biếm, xót xa hay u hoài trước thời cuộc, cảm hứng
thiên nhiên sẽ có thể trở thành “chất dẫn” cho dòng cảm hứng thế sự
được thăng hoa. Rất khó để phân biệt rạch ròi hai dòng cảm hứng
này trong cùng một bài thơ của Nguyễn Khuyến, bởi chúng vốn phải
song hành. Thiếu mất một trong hai, ý nghXa của bài thơ ấy sẽsự
khuyết thiếu, ta cũng sẽ chỉ thể thấy được đơn lẻ một Nguyễn
Khuyến đang say trong cảnh thiên nhiên hoă Wc một vị hưu quan đang
tỉnh thức và đau lòng mà thôi.
4.2.1. Bức tranh thiên nhiên chất chứa nỗi buồn thầm kín về thời thế loạn
lạc
Trong những bài thơ mang cảm hứng thưởng thiên nhiên, ngắm
cảnh đẹp, nguồn cảm hứng thế sự được thầm kín tinh tế thể hiện
trong tầng chìm, trở thành một nét chấm phá giúp trọn vẹn thêm ý
nghXa của bài thơ. Những bài thơ ngợi khen cảnh sắc vậy, phong
thái của thi sX thưởng cảnh thư thái thế, nhưng trong lòng cụ Tam
nguyên vẫn chưa thôi Wng gánh tâm sự vY thế thái. Như trong “Thu
điếu”:
“Ao thu lạnh lẽo nước trong veo,
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo.
Sóng biếc theo làn hơi gợn tí,
Lá vàng trước gió sẽ đưa vèo.
Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt,
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo.
Tựa gối, ôm cần lâu chẳng được,
Cá đâu đớp động dưới chân bèo.”
(Thu điếu)
Với chủ đY là “Câu cá mùa thu” - vốn là một hoạt động giải khuây
cho những ngày nhàn rỗi, cảm hứng thiên nhiên tình yêu thiên
nhiên trong “Thu điếu” được bộc lộ ràng phần đầu, để phần sau
của thi phẩm ẩn giấu sức Wng của cảm hứng thế sự. Đối với việc
khắc họa cảnh thu Việt Nam, ngư ông “rằng quan nhà Nguyễn cáo vY
đã lâu” lựa chọn xa rời các hình ảnh vX, những điển tích điển cố
kinh điển vốn được tiếp thu từ nYn văn học cổ điển Trung Hoa, thay
vào đó, nhà thơ đi vào tán tụng vẻ tuyệt mỹ của cảnh ao thu, thuyYn
thu, sóng thu,vàng thu, trời mây cao rộng, ngõ trúc vắng… vốn
những gì gần gũi, mộc mạc nhất của làng quê Việt Nam. Đối diện với
bức tranh mùa thu nơi thôn dã trong veo, xanh ngắt với nét chấm phá
sắc vàng chiếcthu trước gió “sẽ đưa vèo”, ngồi buông cần giữa
một không gian thanh bình yênđến tXnh Wng gần như tuyệt đối,
ấy vậy là mà lòng ngư ông không thôi trầm tư. “Tựa gối, ôm cần lâu
14
chẳng được” như một tiếng than thầm, phải chăng than cho chuyến đi
câu chưa có kết quả, hay than cho nỗi bất đắc chí trước thời cuộc hỗn
loạn, hồ? Ao thu giờ lại giống như thế sự mịt sương thu, khi
con thuyYn câu tẻo teo bên trên Wt nước lại như trái tim của vị
quan đã hồi hương. Nếu theo lối chiết tự chữ Hán, “thu” đi với “tim”
- “tâm” lại hóa thành “sầu”; tán dương cảnh thu vậy, nhưng vẫn
còn đó trong lòng vị thi nhân là nỗi buồn thời thế, từ nỗi mă Wc cảm bản
thân chưa thể giúp nước, giúp dân nay hóa thành niYm chán chường
trước cơ đồ suy đồi, sau cùng là lòng yêu nước khôn nguôi.
Cũng vịnh thiên nhiên cùng vịnh cảnh thư nhàn, đến với “Thu
vịnh”, một thi phẩm cũng nằm trong chùm thơ thu nức tiếng của
Nguyễn Khuyến, độc giả một lần nữa nhận ra những giá trị vY cảm
hứng thế sự được lồng ghép tinh tế bên trong mùa thu của làng cảnh
Việt Nam:
“Trời thu xanh ngắt mấy tầng cao,
Cần trúc lơ phơ gió hắt hiu.
Nước biếc trông như tầng khói phủ,
Song thưa để mặc bóng trăng vào.
Mấy chùm trước giậu hoa năm ngoái,
Một tiếng trên không ngỗng nước nào?
Nhân hứng cũng vừa toan cất bút,
Nghĩ ra lại thẹn với ông Đào.”
Khác với “Thu điếu” hay “Thu ẩm” khi cả hai cùng đă Wc tả một thú
vui tao nhã của một ẩn sX lánh đời - khi thì “tựa gối, ôm cần”, lúc lại
“độ năm ba chén” giữa đất trời mùa thu thơ mộng, “Thu vịnh” có thể
coi một bức thủy Wc toàn cảnh, bao quát vY mùa thu vùng nông
thôn. Trước hết, ta nhận ra sự quen thuộc trong những chất liệu ngôn
từ được dùng để diễn tả mùa thu. “Trời thu” vẫn một màu “xanh
ngắt” với “mấy tầng không” vô biên vô tận, là một khoảng không vời
vợi; nơi đầu gió “hắt hiu” cô quạnh và lă Wng im, “cần trúc” đi câu đứng
“lơ phơ” trơ trọi, như Wc theo chiYu gió; nước thu vẫn một màu
“biếc” đẹp mắt, tựa hồ còn một tầng khói phủ; song cửa hững hờ
“mă Wc” cho trăng thu soi vào;… Bốn câu đầu đYu dạt dào cảm hứng
thiên nhiên tuy trữ tình song lại tịch mịch phần hơi u buồn.
Cảnh vật không tràn đầy sức sống mà hiện lên với vẻ tịch liêu, nhỏ
trong trụ thu bao la. Ngắm cảnh vật ấy, lòng người mới sinh tình -
bốn câu sau chất chứa những nỗi niYm riêng của thi nhân khi đứng
trước cảnh thu mỹ lệ mà đượm buồn. Nếu như cảnh trước mắt gợi lên
một nỗi buồn cớ, thì cảnh trong tâm tưởng “hoa năm ngoái”,
“ngỗng nước nào” lại giãi bày nỗi buồn thời
15
thế. Chỉ mới đây thôi còn thấy “hoa năm ngoái”, nay vật đổi sao
dời, mấy chùm hoa thu xưa giờ chỉ còn hoài niệm, khiến lòng
người không khỏi chua xót phản vấn: “Một tiếng trên không
ngỗng nước nào”. Hình ảnh sinh vật lẽ duy nhất trong bài thơ,
ấy vậy lại là thứ lạc lõng nhất, tưởng như đang bị không gian mùa thu
đẩy ra xa, hay là chính tâm hồn thi nhân đang chối bỏ. Đây đâu còn là
ngỗng nước ta, đâu còn vùng trời nước ta nữa. Giă Wc ngoài đã tràn
sang thôn tính, triYu đình đã suy đồi, Nho giáo đã đếnmạt vật. Vậy
Tam Nguyên Yên Đổ còn biết đi đâu được nữa? Vừa “toan cất bút”,
Nguyễn Khuyến soi lại chính mình, “nghX ra lại thẹn với ông Đào”.
Màu sắc thơ cổ điển được bộc lộ đă Wc sắc ở câu thơ cuối với điển tích
Đào TiYm cáo quan vY ở ẩn, một hiYn nhân có hoàn cảnh tương tự với
Nguyễn Khuyến khi ấy. Nỗi “thẹn” của ông vừa khiêm nhường, vừa
xót xa nhưng rất thanh tao. Đó là nỗi thẹn với đời, cái bất đắc chí của
một kẻ sX lực bất tòng tâm, xưa kia đã không thể “dũng thoái” từ quan
như cổ nhân, lúng túng bất lực trong khi bộ máy chính quyYn đã
suy thoái trầm trọng. Ngẫm lại, ta thấy cụ Tam nguyên tuy tự nhận
mình “thẹn” mà khí tiết thì “Sạch như nước, trắng như ngà, trong như
tuyết” (“Mẹ Mốc” - Nguyễn Khuyến).
4.2.2. Cái nhìn bi uất, u hoài về thế cuộc được hình tượng hoá qua các
hình tượng thiên nhiên
Nguyễn Khuyến đã không ít lần lồng ghép hình ảnh thiên nhiên
vào những bài thơ mang cảm hứng chủ đạo thế sự. khi ta thấy
hình ảnh thân hạc lẻ loi, mây trắng cô quạnh trong tiếng thở dài trước
tình người bạc bẽo của cụ Tam Nguyên:
“Đời loạn đi về như hạc độc
Tuổi già hình bóng tựa mây côi”
(“Cảm hứng” - Nguyễn Khuyến)
Khi còn “lên lạy cửa trời”, xung quanh nhà thơ vẫn có những mối
giao du, có bạncùng lên chầu. Song sau khi cáo quanẩn vY nơi
“Vườn Bùi chốn cũ”, trớ trêu biết bao, những quan hệ “ngày trước”
bỗng hóa “lơ thơ sót mấy người”. Thứ tréo ngoe lòng người nguội
lạnh, đến rồi đi như gió thoảng, để rồi chút nghXa tình còn sót lại cũng
khiến cho thân hạc, áng mây đơn tuổi già như nhà thơ cũng phải
“hao mòn”, ngờ vực “chút thí lòng son chửa rõ mười”.
Cũng có khi, ta nghe ra tiếng cuốc thê lương, não lòng kêu lên
một nỗi nhớ nước khắc khoải:
16
Khắc khoải đưa sầu giọng lửng lơ,
Ấy hồn Thục đế thác bao giờ?
Năm canh máu chảy đêm hè vắng,
Sáu khắc hồn tan bóng nguyệt mờ.
Có phải tiếc xuân mà đứng gọi,
Hay là nhớ nước vẫn nằm mơ?
Thâu đêm ròng rã kêu ai đó?
Giục khách giang hồ dạ ngẩn ngơ.”
(Cuốc kêu cảm hứng)
Tiếng cuốc gọi lửng lơ trong không trung, là tiếng kêu “đưa sầu”
chứ không phải báo hỉ, là tiếng gọi hồn Thục đế đau đến xé lòng, đau
đến “máu chảy”, “hồn tan” trong năm canh “đêm vắng”, dưới
“bóng nguyệt mờ”. Đôi câu luận là că Wp câu phản vấn bật lên nỗi quan
hoài, hồ nghi nguyên do của tiếng cuốc kêu, nhưng trong đó đã có cả
sự thừa nhận nỗi đau mất nước, bởi vậy nên mới “tiếc” ngày xuân
thanh bình mà “đứng gọi”, mới “nhớ nước” mà “nằm mơ”. "Cuốc kêu
cảm hứng” khắc họa tiếng cuốc kêu nhưng thực chất bài chỉ là một sự
mượn lời, vịn vào tiếng cuốc gọi hồn Thục đế khi xưa mất nước để
nói cho lòng dạ “ngẩn ngơ” trước cảnh nước mất nhà tan của “khách
giang hồ” Nguyễn Khuyến. Lúc này, sinh vật trong thiên nhiên đã nói
thay cho tiếng lòng luôn một mực hướng vY thế sự của thi sX.
4.2.3. Đời sống khốn khó của người dân trước thiên tai và sự chèn ép, bóc
lột của tầng lớp thống trị thối nát
“Quai Mễ Thanh Liêm đã lở rồi,
Vùng ta thôi cũng lụt mà thôi
Gạo dăm ba bát cơ còn kém,
Thuế một vài nguyên dáng vẫn đòi.”
(Nước lụt Hà Nam)
Cấy hái đã khó khăn rồi thế nhưng trước những thảm họa của thiên
nhiên như bão lũ, lụt lội, cuộc sống người dân ta lại càng khốn đốn
hơn. Nhân dân đói kém, khổ sở sao? Thử hỏi nếu như bọn
phong kiến thực dân chăm lo đến đời sống của người dân thì họ đã
không phải chịu cảnh như thế. Như vậy, mọi nguyên do là từ chúng –
những kẻ hút máu nhân dân ta, chúng ra sức vét, bòn rút đến tận
xương tủy khiến dân chúng khổ thấu trời chẳng biết kêu than với
ai.
Không chỉ có những tác phẩm được đY cập đến ở trên, mà khi tìm đọc
thêm vY thơ ca Nguyễn Khuyến, người đọc sẽ còn nhiYu lần khám
phá ra hai mạch
17
nguồn cảm hứng thiên nhiên thế sự song hành bên nhau… Trong
thơ Nguyễn Khuyến, cảm hứng thiên nhiên - lòng yêu mến phong
cảnh làng quê Việt Nam, đã hội được Wp gỡ, hòa quyện vào
với cảm hứng thế sự - niYm khát khao thái bình thịnh trị được giấu
trong nỗi trăn trở, hổ thẹn Wc cảm khi nghX đến đồ đang trên
bờ suy kiệt. Tạo nên sự thành công cho sự giao thoa đă Wc sắc giữa hai
miYn cảm hứng ấy có thể kể đến những yếu tố như sở đắc phong phú,
lối vận dụng tài tình, phá cách trong vốn liếng chữ Nôm của nhà thơ;
sự tiếp thu sáng tạo trong việc thể hiện tác phẩm dựa trên sở
của những thành tựu đã của dòng thơ cổ điển cùng bút pháp “tả
cảnh ngụ tình”, hệ thống điển cố hàm súc giàu sức gợi; quan trọng
hơn cả, ắt hẳn chính tấm lòng chưa từng quên đi khát vọng dấn
thân của một bậc cựu thần bấy giờ đang đứng giữa “ngã ba lịch sử”,
đồng thời cũng là nỗi xót xa và bất lực trước cảnh quốc gia bên bờ vực
“nước mất nhà tan” cùng số phận những kiếp người nhỏ đương
thời.
Hiện tượng giao thoa trong văn học vốn không phải là một điYu hiếm
lạ, nhưng Nguyễn Khuyến đã để lại cho hậu thế một làn sóng giao
thoa thi hứng đủ độc đáo, mạnh mẽ và bYn bỉ với thời gian, và rồi khi
nhắc đến ông, người đọc vẫn hay ưu ái gọi với cái tên “nhà thơ của
quê hương làng cảnh Việt Nam”.
5. TỔNG KẾT
Bài viết một cuộc khảo sát phạm vi nhỏ vY thơ Nôm Nguyễn
Khuyến trong kho tàng thi ca đồ sộ khoảng hơn bốn trăm thi phẩm
nhà thơ để lại, song chúng tôi tin rằng kết quả của bài viết đã thể
chứng minh được phần nào cảm hứng thiên nhiên với cảm hứng thế sự
đã xuất hiện sự giao thoa, trở thành một trong những điểm sáng trong
sáng tác của nhà thơ. Những tác phẩm mang trong mình sự giao thoa
này là một trong những minh chứng nét cho sự tài hoa, tài tình của
bút pháp, cũng như minh chứng cho một hồn thơ yêu thiên nhiên từ núi
non hữu tình đến cảnh làng quê bình dị, ẩn sâu trong đó còn cất chứa
một mối quan hoài, đau đáu và khắc khoải với thế sự của vị thi nhân
“Tam Nguyên Yên Đổ” Nguyễn Khuyến.
18
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Biện Văn ĐiYn, Phong cách nghệ thuật Nguyễn Khuyến (Sự hình
thành và các đặc trưng), 2001, NXB KHXH
2. Nguyễn Thanh Liêm, Đến với Nguyễn Khuyến – nhà thơ trữ tình và
trào phúng xuất sắc, Tao Đàn.
3. Ngô Thị KiYu Oanh, Sự chuyển biến trong văn học nửa cuối thế kỉ
19 qua ba tác giả Nguyễn Đình Chiểu, Nguyễn Khuyến và Tú
Xương, 2012. 4. Thi viện, Trang thơ Nguyễn Khuyến,
5. Đă Wng Thị Hảo, . Đề tài thiên nhiên và quan niệm thẩm mỹ
6. Tuyển tập thơ chữ Nôm của Nguyễn Khuyến - thivien.net. 7. Vũ
Khắc Khoan, Xuất - bản Tao Đàn. 8. Luận đề về Nguyễn Khuyến,
Giáo trình Văn học trung đại Việt Nam tập 2, Khoa Ngữ văn –
Trường ĐHSP Hà Nội, NXB GD Việt Nam
9. PGS.TS Trần Thị Hoa Lê, Giọng phản vấn và cảm hứng phản tư
trong thơ Nguyễn Khuyến, 11/10/2020.
19
| 1/22

Preview text:

BẢNG KHẢO SÁT CẢM HỨNG THIÊN NHIÊN TRONG THƠ
NÔM CỦA NGUYỄN KHUYẾN stt Tên bài
Nội dung thể hiện cảm hứng thiên nhiên 1 Ngày xuân
Chùm thơ “Ngày xuân dạy các con” gồm có hai bài theo thể thơ thất dặn các con
ngôn bát cú Đường luật Giọng thơ nhẹ nhàng, ấm áp bao tình thương.
Trong bài có đoạn thể hiện thời tiết không thuận, trời u ám “khói dày”
lại “mưa ít”. Núi để làm bạn thì núi trở thành xa tắp trong những ngày
đầu xuân. Cúc là bạn cũ thì cúc cũng chỉ nở lơ thơ cạnh tường. Thoáng một chút cô đơn 2 Khai bút
Có thể nói, bằng ngòi bút tài hoa và từ những trải nghiệm chính cuộc
sống với những tình cảm gắn bó thiết tha với những người dân nghèo
khổ, Nguyễn Khuyến đã vẽ lên bức tranh đời sống dân dã, chân thực, tinh tế và gần gũi. 3 Mùa hè năm
Nguyễn Khuyến đã cực tả được cái oi ngột của ngoại cảnh qua hai nét Nhâm Dần
chấm phá điển hình là âm thanh của tiếng dế và đàn muỗi để thể hiện những bức bối nội tâm 4 Thu điếu
Bài thơ là một bức tranh thiên nhiên mùa thu vắng lă Wng, lạnh lẽo và
đượm buồn, đồng thời cũng thể hiện tình yêu thiên nhiên trong tâm hồn
người thi sX. Đọc bài thơ người đọc ấn tượng bởi cảnh sắc mùa thu đẹp
và tXnh lă Wng cùng tình yêu thiên nhiên của Nguyễn Khuyến, đồng thời
cũng cho thấy những nỗi niYm thời đại, tình yêu nước thương dân dạt dào trong trái tim thi sX. 5 Thu ẩm
Bài thơ là dòng cảm xúc của con người yêu đời, yêu quê hương, đất
nước. Trong hình ảnh thu đó là hình ảnh đồng quê Bắc Bộ với dáng thu,
hồn thu lung linh. Ngõ tối đêm sâu đóm lập loè. Không giống như
những tác giả khác chọn không gian sáng làm tôn lên bức tranh thu. 6 Thu vịnh
Bức tranh mùa thu với màu sắc thanh đạm, đường nét uyển chuyển,
không gian cao rộng, cảnh vật huyYn ảo dưới ánh nắng trắng trong thể
hiện nỗi lòng tha thiết của nhà thơ đối với quê hương đất nước. Nhân vẻ
đẹp của đêm thu. Nhà thơ cũng bộc bạch tâm sự sâu kín, chân thật của
mình hết sức cảm động. 8 Câu cá mùa
Bài thơ Câu cá mùa thu dường như đã mở ra cho người đọc một khung thu
cảnh trời thu trong trẻo tuyệt đẹp nhưng cũng rất đỗi gần gũi, giản dị.
Cảm nhận bài thơ Câu cá mùa thu cho ta thấy được bức tranh thiên
nhiên vY mùa thu qua đôi bàn tay khéo léo của Nguyễn Khuyến lại trở
nên sinh động lạ thường. 9 Vịnh cúc
qua thiên nhiên đã thể hiện sự đổ vỡ vY tinh thần. Từ khi cáo quan vY ở
ẩn, nỗi buồn triYn miên day dứt cứ trở đi trở lại trong thơ ông như một
nỗi ám ảnh. Chủ trương một lối sống lánh đời tất mang sắc thái lội
ngược dòng, ánh đục vY trong và tất có nét cô độc vì cảnh 10 Cuốc kêu cảm
Cuốc kêu cảm hứng tiêu biểu nhất cho hồn thơ Nguyễn Khuyến sau khi đã cáo hứng
quan lui vY sống giữa xóm làng quê hương: man mác bâng khuâng buồn, cô đơn...
BẢNG KHẢO SÁT CẢM HỨNG THẾ SỰ TRONG THƠ
NÔM CỦA NGUYỄN KHUYẾN STT
Cảm hứng thế sự chủ đạo Tác phẩm chi tiết 1
Phản ánh hiện thực đời sống sinh
• Thấu hiểu, cảm thông nỗi khổ, nỗi vất vả
hoạt nông thôn và nỗi khổ của của người nông dân người nông dân • Chốn quê • Chợ Đồng • Nước lụt Hà Nam • Than nợ
• Lên án, tố cáo bọn quan lại vơ vét, áp bức người nông dân • Khuyển nhà nông 2
Phê phán trào phúng vY bức tranh
• Phê phán, tố cáo hiện thực xã hội mà
xã hội đương thời thối nát, mục
đứng đầu là bọn quan tham, bọn địa rữa chủ cai trị
• Hỏi thăm quan tuần mất cướp
• Phơi bày hiện thực xã hội thông qua hiện
tượng lố lăng buổi giao thời • Hội Tây
• Chế giễu cảnh thi cử nửa tây nửa ta • Vịnh tiến sX giấy
• Lên án những nhà sư, thầy đồ mang thói ăn chơi dung tục • Vịnh sư
• Bỡn cô tiểu ngủ ngày • Thầy đồ ve gái
• Thầy đồ bị gái lừa
BẢNG KHẢO SÁT SỰ GIAO THOA GIỮA CẢM HỨNG
THIÊN NHIÊN VÀ CẢM HỨNG THẾ SỰ TRONG THƠ NÔM CỦA NGUYỄN KHUYẾN STT Tên
Biểu hiện của sự giao thoa bài thơ 1 Thu
“Ao thu lạnh lẽo nước trong
− Vẻ tuyệt mỹ của cảnh ao thu, thuyYn điếu veo,
thu, sóng thu, lá vàng thu, trời mây
Một chiếc thuyYn câu bé tẻo
cao rộng, ngõ trúc vắng… teo.
− Tiếng than thầm, phải chăng than cho
Sóng biếc theo làn hơi gợn tí,
chuyến đi câu chưa có kết quả, hay
Lá vàng trước gió sẽ đưa vèo.
than cho nỗi bất đắc chí trước thời
Tầng mây lơ lửng trời xanh cuộc hỗn loạn, mơ hồ ngắt, Ngõ trúc quanh co
khách vắng teo. Tựa gối,
ôm cần lâu chẳng được,
Cá đâu đớp động dưới chân bèo.” 2 Thu
“Trời thu xanh ngắt mấy
− Bức thủy mă Wc toàn cảnh, bao quát vY vịnh
tầng cao, Cần trúc lơ phơ mùa thu vùng nông thôn gió hắt hiu.
− Nỗi niYm của thi nhân: đó là nỗi thẹn
Nước biếc trông như tầng khói
với đời, cái bất đắc chí của một kẻ sX
phủ, Song thưa để mă Wc bóng
lực bất tòng tâm trước cảnh trước
trăng vào. Mấy chùm trước
cảnh bộ máy chính quyYn đã suy thoái
giậu hoa năm ngoái, Một tiếng trầm trọng.
trên không ngỗng nước nào?
Nhân hứng cũng vừa toan cất
bút, NghX ra lại thẹn với ông Đào.” 3 Cảm
“Đời loạn đi vY như hạc độc
Hình ảnh thân hạc lẻ loi, mây hứng
Tuổi già hình bóng tựa mây côi”
trắng cô quạnh trong tiếng thở dài
trước tình người bạc bẽo hay chính
là hình ảnh của thi nhân giữa lúc đất
nước loạn li, sự bất lực trở thành
con người thừa giữa thời thế 4 Cuốc
“Khắc khoải đưa sầu giọng
Thông qua khắc họa hình ảnh kêu
lửng lơ, Ấy hồn Thục đế
tiếng kêu khắc khoải của con cuốc, cảm thác bao giờ?
Nguyễn Khuyến đã giãi bày một hứng Năm canh máu chảy đêm
tấm lòng yêu nước không nguôi,
hè vắng, Sáu khắc hồn tan
một tâm trạng đầy bi kịch: xót xa
bóng nguyệt mờ. Có phải
đau buồn, tủi nhục vì nước mất nhà
tiếc xuân mà đứng gọi, tan.
Hay là nhớ nước vẫn nằm mơ?
Thâu đêm ròng rã kêu ai đó?
Giục khách giang hồ dạ ngẩn ngơ.”
SỰ GIAO THOA GIỮA CẢM HỨNG THIÊN NHIÊN VÀ
CẢM HỨNG THẾ SỰ TRONG THƠ NÔM CỦA NGUYỄN KHUYẾN 1. KHÁI QUÁT 1.1. Lời mở đầu
Cuối thế kỷ XIX, xã hội Việt Nam khủng hoảng một cách trầm
trọng và toàn diện. Sự trở lại xâm lược của Thực dân Pháp đã khiến
cho toàn bộ đất nước chịu ảnh hưởng sâu sắc và đồng thời cũng tác
động lớn tới văn học với biểu hiện là sự đa dạng vY khuynh hướng sáng
tác. Ở chă Wng đường cuối cùng, văn học phát triển nhiYu khuynh hướng
cảm hứng như khuynh hướng yêu nước, khuynh hướng nhân đạo,
khuynh hướng thế sự, khuynh hướng thiên nhiên, khuynh hướng tôn giáo...
nhưng khuynh hướng cảm hứng chủ đạo có lẽ vẫn là thế sự. Từ hiệu
ứng xã hội mà quan niệm nghệ thuật, thi pháp của tác giả trong khoảng
thời gian này cũng có sự đổi thay. Với nhu cầu biểu hiện, người nghệ
sX muốn ghi lại được sự phong phú, sinh động của tình cảm, tư tưởng,
những biến động trong lòng người và xã hội thì cần một ngôn ngữ
nghệ thuật chưng cất từ ngôn ngữ đời sống. Và văn học Nôm, đă Wc biệt
là thơ Nôm là sản phẩm đáp ứng được nhu cầu đó. Với đă Wc thù ngôn
ngữ dân tộc, thơ Nôm dễ dàng phản ánh hiện thực cuộc sống và xây
dựng các hình tượng dễ thấm sâu vào cảm quan công chúng. Có thể
thấy rõ sự xuất hiện và phát triển hưng thịnh của văn học chữ Nôm đã
sản sinh ra nhiYu nhà thơ với những tác phẩm kiệt xuất góp phần làm
rạng rỡ nYn văn học dân tộc. Nguyễn Khuyến chính là một trong
những số ít gương mă Wt tỏa sáng vY thơ Nôm trong giai đoạn cuối cùng
của văn học trung đại Việt Nam với hai khuynh hướng cảm hứng được
vận dụng linh hoạt đó là cảm hứng thế sự và cảm hứng thiên nhiên. 1.2. Tác giả 1.2.1. Cuộc đời
Nguyễn Khuyến (1835-1909) tên thật là Nguyễn Thắng, hiệu là
Quế Sơn. Nguyễn Khuyến sinh năm 1835, tại làng Hoàng Xá, huyện Ý
yên Nam Ðịnh. Lớn lên sống ở làng Yên Ðổ, huyện Bình Lục, tỉnh Hà
Nam. Lớn lên và sống chủ yếu ở quê nội - làng Và, xã Yên Đổ, huyện
Bình Lục, tỉnh Hà Nam. Ông xuất thân trong một gia đình nhà nho
nghèo. Năm 1864, ông đỗ đầu kì thi Hương. Mấy kì sau thi tiếp lại
trượt, đến năm 1871, ông đỗ đầu cả thi Hội và thi Đình. Do đỗ đầu cả
ba kì thi nên Nguyễn Khuyến được gọi là Tam Nguyên Yên Đổ. Tuy đỗ
đạt cao nhưng ông chỉ làm quan hơn mười năm, còn phần lớn cuộc đời
là dạy học và sống thanh bạch ở quê nhà. Nguyễn Khuyến là người tài
năng, có cốt cách thanh cao, có tấm lòng yêu nước thương dân, từng
bày tỏ thái độ kiên quyết không hợp tác với chính quyYn thực dân Pháp. 1
1.2.2. Sự nghiệp văn chương
Nguyễn Khuyến là nhà thơ lớn của nYn văn học dân tộc. Từ khi rất
nhỏ, ông đã bắt đầu sáng tác thơ ca. Nhưng thời kỳ sáng tác chủ yếu
của ông có lẽ mới chính là thời gian ông cáo quan vY ở ẩn tại quê nhà.
Nguyễn Khuyến sáng tác bằng cả chữ Hán và chữ Nôm với số lượng
tác phẩm khá lớn. Ông để lại hơn 800 tác phẩm gồm thơ, câu đối, văn
viết bằng chữ Hán và chữ Nôm, phần lớn đYu làm sau khi từ quan vY
làng. Với mảng thơ văn chữ Hán, Nguyễn Khuyến đã chứng tỏ sức
học phi thường, tri thức uyên bác của mình. Ngoài ra, ông cũng có
nhiYu đóng góp nổi bật ở mảng thơ Nôm, có ý nghXa nhiYu mă Wt mă Wc dù
thơ Nôm của Nguyễn Khuyến có phần khiêm tốn hơn thơ chữ Hán.
Nội dung tác phẩm của Nguyễn Khuyến rất phong phú, nhưng tựu
trung lại gồm có bốn chủ đY tiêu biểu: tâm sự của một nhà nho lạc
thời, thể hiện con người với chí hướng và phẩm cách trong sáng, nhà
thơ quê hương làng cảnh Việt Nam và tiếng cười phê phán, tố cáo xã hội đương thời.
1.2.3. Thời đại loạn lạc – nguyên do của việc cáo quan về ở ẩn và
tiền đề của sự giao thoa cảm hứng trong thơ Nôm của Nguyễn Khuyến
Mă Wc dầu học rộng tài cao là vậy nhưng lại ra làm quan trong cảnh
nước mất nhà tan, đạo đức Nho phong suy tàn, bản thân người trí sX
tỏ ra bất lực trước thời cuộc. Không thể làm được gì nên cái chí
muốn trị quốc bình thiên hạ của vị Tam nguyên đã gần như sụp đổ
hoàn toàn. Tiếng súng xâm lược của thực dân Pháp nổ ra đã khiến
đất nước ta suy sụp nghiêm trọng: đánh mất chủ quyYn đất nước đồng
thời nhân dân đYu trở thành nô lệ, mất tự do. Giữa thời điểm đất nước
loạn lạc và rối ren như thế, những người dân đă Wc biệt là tầng lớp trí
thức giống như Nguyễn Khuyến buộc phải đưa ra sự lựa chọn giữa
đấu tranh hoă Wc cam chịu làm tay sai. Không thể lựa chọn hai con
đường trên, mă Wc dù bản thân Nguyễn Khuyến cũng đã trót dấn thân
vào con đường hoạn lộ nhưng với nhãn quan sắc bén, ông nhìn rõ
chân tường của thời cuộc, ông đã dứt khoát vứt bỏ mọi thứ vinh hoa
phú quý, khép áo lui chân vY quê cũ, quyết giữ khí tiết của bậc quân
tử. Dẫu đã trở vY với làng quê Yên Đổ, sống hòa hợp với thiên nhiên
nhưng trong lòng vị Tam nguyên vẫn chẳng thể nào yên an ở quê nhà
mà cứ khắc khoải lo lắng cho vận mệnh của dân tộc trước thời thế
lúc bấy giờ. Không thể làm chính trị, Nguyễn Khuyến – một nhà
nho, nhà trí thức yêu nước đã gửi gắm tâm sự thầm kín của mình, thể
hiện thái độ bất bình sâu sắc trước xã hội thực dân phong kiến thối nát và cũng qua thơ văn. 2
2. CẢM HỨNG THIÊN NHIÊN TRONG THƠ NÔM NGUYỄN
KHUYẾN 2.1. Bức tranh thiên nhiên bốn mùa
Thiên nhiên trong thơ Nguyễn Khuyến được đă Wt trong sự biến đổi
không ngừng vY thời gian, sự tuần hoàn vô hạn của tạo hóa đồng thời
được đă Wt trong thế giới tâm tư tình cảm của tác giả: xuân - hạ- thu -
đông. Sự tuần hoàn của vũ trụ thể hiện qua sự đắp đổi các mùa trong
năm. Thống kê trong những sáng tác viết vY thiên nhiên của Nguyễn
Khuyến, thấy có 13 bài thơ viết vY mùa xuân, 26 bài viết vY mùa hè,
28 bài viết vY mùa thu, 3 bài nói vY mùa đông. Phải chăng có một sự thiên ái ở đây?
Đến Nguyễn Khuyến, thơ xuân không có cái đắm say, tâm hồn tác giả
không quan tâm nhiYu đến những giá trị thẩm mX cao đẹp của mùa
xuân mà thường là nỗi cám cảnh cho thân phận con người, trong đó
có chính nhà thơ. Với ông già Yên Đổ, mùa xuân giờ đây khơi dậy
nỗi đau thương li loạn:
‘Xuân về ngày loạn càng lơ láo,
Người gặp khi cùng, cũng ngất ngơ.
Lấn thân lấy chi đền tấc bóng,
Sao con đàn hát vẫn say sưa?”
(Ngày xuân dă Wn các con)
Rất hiếm có bài thơ nào thể hiện niYm hứng khởi của nhà thơ khi mùa
xuân vY. Thậm chí, ngày đầu xuân - khoảng thời gian dễ làm lòng
người phấn chấn, vui say với cảnh sắc đầu năm, lòng người rộn ràng
đón chờ một năm mới an lành, nhưng với Nguyễn Khuyến, niYm hứng
khởi ấy cũng thật miễn cưỡng. Trong bài "Khai bút", tác giả có viết:
“Ình ịch đêm qua tiếng trống làng,
Ai ai mà chẳng rước xuân sang.
Rượu ngon nhấp miệng đưa vài chén,
Bút mới thò tay thử mấy hàng.
Ngoài lũy nhấp nhô cò cụ Tổng,
Cách ao lẹt đẹt pháo thầy Nhang.” 3
Để rồi cuối bài thơ xuất hiện một tâm trạng ưu tư, còn nhiYu lo lắng,
phân vân: “Mỗi năm một tuổi trời cho tớ!
Tuổi tớ trời cho tớ lại càng...”
Còn đây là bức tranh mùa hè. Như con số thống kê trên đã chứng tỏ,
đây là mùa được tác giả nói đến nhiYu nhất. Nguyễn Khuyến đã cực
tả được cái oi ngột của ngoại cảnh qua hai nét chấm phá điển hình là
âm thanh của tiếng dế và đàn muỗi để thể hiện những bức bối nội tâm:
“ Hè này nóng khổ quá,
Cỏ khô, đầm cạn cả.
Lại thêm ngọn gió tây,
Vật gì chẳng tàn tạ.
Than ôi! khổ trăm chiều!
Sao lại còn nghiệt ngã”
(Mùa hè năm Nhâm Dần)
Bài thơ thể hiện cái oi bức ngột nồng đến rã rượi. Chưa bao giờ cái ấn
tượng vY nhiệt lại bức bối trong thơ như Nguyễn Khuyến. Bởi những
vật vã vì thời tiết mùa này thật ra là sự vật vã trong tâm can Nguyễn
Khuyến. Và chính vì nghXa này mà tần suất dày đă Wc của mùa hè trong
thơ Nguyễn Khuyến thành một chi tiết có nghXa phá cách, dù cách
liên tưởng thì dường như không mới.
Là thi sX của cảnh quê, của các mùa nông thôn, Nguyễn Khuyến làm
nhiYu bài vY mùa xuân, mùa hạ, mùa đông nhưng nhiYu nhất vẫn là
mùa thu. Với không gian nhè nhẹ, bàng bạc, đậm chất u hoài, hơi thu se
sắt thấu tận tâm can, vạn vật chớm tàn phai nhưng lại đẹp đến nao lòng.
Đáng kể nhất à chùm thơ thu 3 bài của Nguyễn Khuyến: Thu ẩm, Thu
điếu, Thu vịnh. Mỗi bài mang một nét đẹp khác nhau, đYu thể hiện
được sự giao hòa giữa cảnh thu và nhà thơ. ĐiYu đáng chú ý là cả 3 ài
thơ thu này đYu nói đến màu xanh của bầu trời thu. Đây là cái ấn tượng,
điểm nhấn vY không gian trong tâm hồn nhà thơ Yên Đổ. Có cái hồn,
cái thần nằm ở bầu trời thu xanh ngắt đó. Ở "Thu điếu" là:
“Tầng mây lơ ửng trời xanh ngắt.” 4 Trong "Thu ẩm" là:
“Da trời ai nhuộm mà xanh ngắt.”
Còn ở "Thu vịnh" là:
“Trời thu xanh ngắt mấy tầng cao”
Thế nhưng, khoảnh khắc đẹp của mùa thu như đã khảo sát trên không
phải là nhiYu. ĐiYu đă Wc biệt trong những bài thơ vY mùa thu của
Nguyễn Khuyến là ám ảnh vY thời tiết với những lo âu:
Mùa thu là thời điểm người nông dân vào mùa gă Wt hái. Công việc này
phụ thuộc rất nhiYu vào thời tiết, ấy thế mà trời cứ "gió gió mưa mưa"
khiến nhà thơ lo lắng cho vụ mùa “sợ lại mất không”
Còn với mùa đông, Nguyễn Khuyến dường như bị ám ảnh vY cái lạnh
tê tái Nguyễn Khuyến có rất nhiYu thơ vY bốn mùa, vY những chuyển
động của mùa vụ, tiết trời nhưng có một điYu dường như " bất dịch" đó
là tâm trạng bất lực, không lối thoát của thi nhân. Đọc thơ Nguyễn
Khuyến có thể nhận ra rất rõ sự chu chuyển âm dương thể hiện thành
vòng xoay bốn mùa, song dường như nó chỉ chu chuyển một thứ, đó là
tâm sự " lui vY" của một bộ phận không nhỏ trí thức nho học lúc bấy
giờ. Trạng thái này có thể coi là một kiểu hòa trộn cũ- mới trong cách
nhìn, cách sử dụng thiên nhiên.
2.2. Thiên nhiên sống động mang không khí xã hội (cảnh làng quê cảnh sinh hoạt)
Khi tác giả vY ở ẩn tại Yên Đổ, không gian sống gắn liYn với ao sâu, ngõ tối,
ruộng, vườn, ngôi nhà...., gắn với những hình ảnh nhỏ bé, bình dị. Tác giả
tự miêu tả như cuộc sống của mình như một lão nông trong thiên nhiên,
trong không khí làng quê. Môi trường đó thuần khiết bởi dường như chỉ có
quan hệ giữ tác giả với núi sông, cây cỏ, thú chim, trăng, gió... Trong môi
sinh làng quê, vườn là một trong những nơi chốn được Nguyễn Khuyến
nói đến nhiYu. Vườn trong thơ ông, dù có tên (Bùi viên) hay không có tên
(Tiểu viên) đYu à những không gian nhỏ. Nhà thơ thường chọn khoảng
thời gian ban ngày để miêu tả mảnh vườn với sắc màu, âm thanh và hương
thơm. không gian này, nhà thơ dường như tìm thấy sự thư thái trong tâm
hồn. Và chính nhờ gần gũi với đời sống thường nhật đó, tác giả đã đưa thơ ca vY với cuộc sống.
Nhắc đến môi sinh làng quê, bên cạnh không gian vườn, còn phải kể đến
không gian ruộng. Người dân làng quê ông lấy nghY trồng lúa nước làm nghY 5
chính nên không gian này rất quen thuộc...Vùng quê Yên Đổ của tác
giả là vùng chiêm trũng nên ấn tượng vY ruộng ở đây à thường thấp, và bị ngập úng.
Khi trở vY Yên Đổ, phần vì loạn lạc, phần vì tuổi già nên Nguyễn Khuyến ít
đi đâu xa. Không gian gắn bó nhất với ông là ngôi nhà mình. Đó cũng là lí
do vì sao không gian này xuất hiệ n nhiYu nhất trong thơ ông.
Một không gian nữa nơi làng quê cũng được nhắc đến nhiYu trong thơ
Nguyễn Khuyến là ao. Quê hương tác giả trước đây lắm ao, lắm vùng.
Ao xuất hiện trong thơ ông 15 lần gắn với thú vui câu cá. Có không
riêng gì Nguyễn Khuyến mà dân quê cả vùng nhất là các ông già, lúc
rảnh rỗi thường lên thuyYn nan ngồi thả mồi câu cá, coi đó là một thú
tiêu khiển chăng Đối với cụ Tam nguyên câu cá dưới ao quả là một lạc
thú. Chẳng vậy, chỉ tính riêng chùm thơ thu 3 bài: Vịnh mùa thu, Câu
cá mùa thu, Uống rượu mùa thu đYu xuất hiện không gian ao:
“Nước biếc trông như tầng khói phủ.” (Vịnh mùa thu)
“Ao thu lạnh lẽo nước trong veo,
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo.” (Câu cá mùa thu)
“Làn ao óng ánh óng trăng loe.” (Uống rượu mùa thu)
Tóm lại, vườn, ruộng, ngôi nhà, ngõ, ao hay rộng hơn à thiên nhiên và
thế giới tự nhiên trong thơ Nguyễn Khuyến đã trở thành một điểm nhấn
quan trọng khi lí giải mối gắn kết giữa lịch sử của mỗi cá nhân và nơi nuôi dưỡng họ
2.3. Cảnh thiên nhiên mang ngụ ý tâm trạng, cảm xúc của tác giả
Đọc thơ của Nguyễn Khuyến có thể nhận ra rằng chính tâm trạng bế
tắc, bất mãn của ông là nguyên nhân dẫn đến sự thay đổi cách nhìn vY
thiên nhiên: không còn chỉ có một thiên nhiên hài hòa, thanh khiết, lý
tưởng như đã trình bày trên mà thay vào đó là một thiên nhiên bất an,
thảm họa, thiên nhiên tách khỏi con người. ĐiYu đáng lưu ý ở đây là
nhà thơ đã mượn thiên nhiên để phản ánh sự đổ vỡ trong tư tưởng và
sự đổ vỡ của xã hội.
Trước tiên, qua thiên nhiên đã thể hiện sự đổ vỡ vY tinh thần. Từ khi
cáo quan vY ở ẩn, nỗi buồn triYn miên day dứt cứ trở đi trở lại trong thơ ông như một nỗi 6
ám ảnh. Chủ trương một lối sống tránh đời tất mang sắc thái lội ngược
dòng, lánh đục vY trong và tất có nét cô độc vì cảnh: "độc hành kì đạo, độc thiện kì thân":
“Độc dương hàn tuế thùy vi ngẫu,
Bất lạc phương tâm chân khả ai.
Chọi rét một thân ai à bạn,
Chẳng lạt lòng son thật đáng thương.” (Vịnh cúc)
Thật đáng trọng nhưng cũng thật đáng thương. Câu thơ chua xót biết
bao! Cũng có lúc ông bị người đời lãng quên như loài hoa mai trong
vườn. Thơ Nguyễn Khuyến thể hiện mối quan hệ tương thông, tương
cảm hai chiYu giữa nhà thơ và thiên nhiên. Thiên nhiên được nhân cách
hóa như người bạn tri âm tri kỉ chia sẻ
với ông mọi tâm tư nỗi niYm. Vì vậy đã có không ít lần thiên nhiên
thành nơi chia sẻ cùng ông nỗi niYm xót xa:
“Có phải tiếc xuân mà đứng gọi,
Hay là nhớ nước vẫn nằm mơ.
Thâu đêm ròng rã kêu ai đó,
Giục khách giang hồ dạ ngẫn ngơ.”
(Cuốc kêu cảm hứng)
Khảo sát những sáng tác viết vY thiên nhiên của Nguyễn Khuyến, ta
cũng nhận thấy, trạng thái giao hòa Nguyễn Khuyến khác với những tác
giả trước ông. Càng vY sau, tâm trạng của tác giả xuất hiện nhiYu bi
kịch nên chi phối cách nhìn thiên nhiên - một môi sinh ất an. Theo đó,
mối quan hệ giữa con người và thiên nhiên cũng xuất hiện những khoảng cách.
Tất cả hiện thực này không được tác giả miêu tả trực tiếp mà nó được ẩn
giấu trong những bức tranh thiên nhiên. Ông nhìn cuộc khai thác, cướp
bóc nước ta mà thực dân Pháp đang tiến hành là việc làm man rợ, hoang dã
Càng vY cuối đời thơ Nguyễn Khuyến càng hằn lên những cảm nhận cay
đắng, bi thương vY thời gian. Ông tìm vY quá khứ, không gian phế tích.
Cảm xúc này đã được Nguyễn Khuyến thể hiện trong hàng loạt bài thơ
như: "Miếu vua Lê", "ĐYn Cuông - núi Dạ", "ĐYn hai trạng nguyên",
"Chùa Hàng", " Hồ Hoàn Kiếm "... 7
3. CẢM HỨNG THẾ SỰ TRONG THƠ NÔM CỦA NGUYỄN
KHUYẾN 3.1. Khái niệm cảm hứng thế sự
Trong văn học trung đại, cảm hứng thế sự là sự bày tỏ những suy
nghX, tình cảm vY hiện thực đời sống, hiện thực xã hội; phản ánh các
vấn đY xã hội nhân sinh, thế tục. Tác phẩm văn học hướng tới hiện
thực, ghi lại những điYu trông thấy và qua đó tác giả bộc lộ tình cảm
yêu, ghét, lên án và cả khát vọng và hoài bão của con người.
3.2. Biểu hiện cảm hứng thế sự trong thơ Nôm Nguyễn Khuyến 3.2.1. Thơ
Nôm Nguyễn Khuyến phản ánh hiện thực đời sống sinh hoạt nông thôn
và nỗi khổ của người nông dân

Nguyễn Khuyến là nhà thơ gắn bó với đời sống nông thôn; điYu này
tạo nên vốn hiểu biết sâu sắc cũng như tình cảm sâu đậm của nhà thơ
đối với vùng quê Yên Đỗ. Làng quê hiện lên trong thơ ông luôn phải
đối diện với mất mùa, đói, nghèo, cuộc sống vất vả:
“Năm nay cày cấy vẫn chân thua
Chiêm mất đằng chiêm, mùa mất mùa”
(Chốn quê)
Ông thấu hiểu nỗi khổ, nỗi vất vả của người nông dân. Từ “vẫn”
được sử dụng không chỉ miêu tả được nỗi khổ dầm mưa dãi nắng
nhưng “vẫn chân thua”; mà còn báo hiệu cho tương lai mịt mù,
không thấy lối thoát, không thấy ánh sáng; cái đói, cái nghèo vẫn bủa
vây cuộc sống của những người nông dân ngày này qua tháng nọ.
“Tháng chạp hai mươi bốn chợ Đồng
Năm nay hop chợ có đông không?
Dở trời, mưa bụi còn hơi rét

Nếm rượu tường đến được mấy ông?
Hàng quán người về nghe xao xác
Nợ nần năm hết hỏi lung tung”
(Chợ Đồng) Hay:
“Sớm trưa dưa muối cho qua bữa
Chợ búa trầu cau chẳng dám mua
Tằn tiện thế mà không khá nhỉ

Nhà trời rồi cũng mấy gian kho” (Chốn quê) 8
Cái đói, cái nghèo đeo bám đến tận những ngày cuối năm. Chợ ngày
thường đã vắng, chợ ngày cuối năm còn vắng hơn; bởi bát cơm còn
chẳng có mà ăn, họ đâu dám ước mơ vY những món hàng. Ngày họp
chợ càng trở nên hiu hắt, buồn bã vì những câu chuyện vY món nợ
còn bỏ dở, những sưu cao, thuế nă Wng mà người nông dân phải chịu.
Không chỉ phải chịu cảnh mất mùa, đói kém; những người nông dân
còn là nạn nhân của thiên tai, bão lũ:
“Quai Mễ Thanh Liêm đã lở rồi
Vùng ta thôi cũng lụt mà thôi”
“Tiếng sáo vo ve chiều nước vọng

Chiếc thuyền len lỏi bong trăng trôi”
(Nước lụt Hà Nam)
Mỗi trận lũ đi qua cuốn đi hết của cải tích cóp cả năm trời của người
nông dân. Câu thơ như tiếng thở dài vào hư không, như một sự chấp
nhận thực tại đầy túng quẫn. Nhà thơ không thi vị hóa nỗi đau, nỗi
khổ của người nông dân mà ông đã dùng ngòi bút hiện thực ghi lại rõ
nét, chân thực tâm lý, nỗi lo của người dân.
Cuộc đời người nông dân đầy bế tắc, vừa tích cóp được một chút thì
liYn bị bọn quan lại ra sức vơ vét, bóc lột:
“Hoa tuyết có ý cứu dân khỏi đói,
Chuột lớn kia thù gì mà ăn lúa của ta” (Khuyển nhà nông)
Chuột lớn kia nào đâu chỉ là chuột theo nghXa thực phá hoại mùa
màng, đồng áng của người dân mà chuột lớn kia còn là những bọn
nhà giàu, bọn địa chủ. Bọn chúng cũng như lũ chuột đồng cứ đến
mùa lại thay nhau đến cướp thóc lúa, phá hoại mùa màng của nhân dân.
Đến cùng, khi chẳng còn nổi một chút tiYn nào trong tay, họ lại lâm
vào cảnh nợ nần chồng chất:
“Quản chi công nợ có là bao
Nay đã nên to đến thế nào
Lãi mẹ lãi con sinh đẻ mãi

Chục năm chục bảy tính nhiều sao?” (Than nợ)
“Phần thuế quan Tây, phần trả nợ
Nửa công đứa ở nửa thuê bò” (Chốn quê) 9
“Gạo dăm ba bát cơ còn kém
Thuế một vài nguyên dáng vẫn đòi”
(Nước lụt Hà Nam)
Bài toán nợ nần, lãi mẹ đẻ lãi con khiến họ điêu đứng. Đồng tiYn lên
ngôi, thân phận người lao động chỉ là cỏ cây. Người nông dân mãi
mãi bị giam cầm trong vòng dây xiYng xích của chế độ phong kiến
thực dân tàn ác, tham lam, bất nhân. Đây chính là vòng tròn cuộc đời
luẩn quẩn, bế tắc của người nông dân trong thơ Nguyễn Khuyến.
Đến cuối cùng, người được lợi chỉ có bọn quan lại, địa chủ.
3.2.2. Thơ Nguyễn Khuyến còn là tiếng cười trào phúng về bức tranh xã
hội đương thời thối nát, mục rữa.
Đầu tiên, ngòi bút của Nguyễn Khuyến hướng thẳng vào phê phán,
tố cáo hiện thực xã hội mà đứng đầu là bọn quan tham, bọn địa chủ cai trị:
“Tôi nghe kẻ cướp nó lèn ông,
Nó lại lôi ông đến giữa đồng.
Lấy của đánh người, quân tệ nhỉ!
Thân già da cóc, có đau không?
Bây giờ mới khẽ sầy da trán,
Ngày trước đi đâu mất mảy lông.
Thôi cũng đừng nên ky cóp nữa.
Kẻo mang tiếng dại với phường ngông!”
(Hỏi thăm quan tuần mất cướp)
Mở đầu bài thơ là lời hỏi thăm tưởng như đầy quan tâm của nhà
thơ dành cho ông quan vừa bị cướp. Nguyễn Khuyến “thương xót”
cho “thân già gia cóc”, nhưng lời lại đầy ý mỉa mai. Mượn câu nói
của cha ông “ki cóp cọp ăn”, ông đã cho ta thấy bộ mă Wt thật của quan
lại thời xưa, bộ mă Wt tham lam, đê tiện, cướp bóc của người dân
Không chỉ chê bai, phê phán bọn quan lại, Nguyễn Khuyến phơi bày
hiện thực xã hội thông qua hiện tượng lố lăng buổi giao thời:
“Bà quan tênh nghếch xem bơi trải,
Thằng bé lom khom nghé hát chèo.
Cậy sức cây đu nhiều chị nhún,
Tham tiền cột mỡ lắm anh leo.”
(Hội Tây) 10
Hình ảnh thơ hiện lên thật sinh động, khiến ta cảm nhận được không
khí tươi vui, náo nức của ngày hội. Thế nhưng, ẩn sau đó là lời phê
phán thói nhố nhăng, mị dân của bọn thống trị, quan Tây lẫn quan ta.
Hình ảnh bà quan trong cái thế “tênh nghếch” được đă Wt đối cùng hình
ảnh thằng bé “lom khom” tạo nên bức tranh thế sự đầy đau đớn. Đó
là thực tại cảnh mất nước, người dân sống “lom khom” dưới gót giày
của bọn thống trị. Chua xót hơn là người dân lại chẳng hY
ý thức được tình cảnh của mình mà vẫn vui vẻ, hồ hởi tham gia hội
chơi; để rồi tác giả phải cất lên tiếng đầy mỉa mai:
“Khen ai khéo vẽ trò vui thế,
Vui thế bao nhiêu nhục bấy nhiêu!” (Hội Tây)
Xã hội buổi giao thời hỗn loạn, những kỳ thi Hán học như “những
phiên chợ chiYu đã tàn”. Để chế giễu cảnh thi cử nửa tây nửa ta,
Nguyễn Khuyến đã mượn hình ảnh “tiến sX giấy”, qua đó nhằm miêu tả tiến sX thật:
“Cũng cờ, cũng biển, cũng cân đai.
Cũng gọi ông nghè có kém ai.
Mảnh giấy làm nên thân giáp bảng,
Nét son điểm rõ mặt văn khôi.
Tấm thân xiêm áo sao mà nhẹ?
Cái giá khoa danh ấy mới hời!”
(Vịnh tiến sX giấy)
Những tiến sX thời bấy giờ cũng là “ông nghè có kém ai”; nhưng thực
chất cái học vị danh giá ấy cũng chỉ là một tờ giấy có dấu son đỏ lòe
loẹt do triYu đình cấp. Thế nên, cái chức danh này mới “nhẹ”, mới
đơn giản làm sao; khi chỉ cần có tiYn là mua được chức tiến sX.
Nguyễn Khuyến đã bày ra trước mắt người đọc
một bức tranh xã hội mục nát, nơi đồng tiYn có thể chi phối mọi thứ;
cuối cùng, ông ngậm ngùi rằng:
Nghĩ rằng đồ thật, hoá đồ chơi!
(Vịnh tiến sX giấy)
Xã hội không chỉ mục nát từ những kẻ đứng đầu, mà đến cả những
nhà sư, những thầy đồ cũng mang cái thói ăn chơi dung tục. Lãnh đạo
xã hội thì mục nát, ấy thế mà những vị lo toan vY tinh thần cũng chả
tốt hơn là bao. Họ lợi dụng cửa thiYn chứ không thực sự đến để tu
hành. Nguyễn Khuyến tuy trọng vọng những bậc chân tu nhưng cũng
không quên đùa cợt với các nhà sư không trọn đạo:
“Đầu trọc tếch bình vôi,
Nhảy tót lên chùa ngồi Y, a kinh một bộ, 11 Lóc cóc mõ ba hồi” (Vịnh sư)
Ngay đến những cô tiểu nơi cửa thiYn cũng bị thi nhân đem ra trêu cợt
khi thấy dáng điệu cô nằm ngủ thật là gợi cảm:
“Ôm kinh gối mõ gáy khò khò,
Gió lọt buồng thiền mát mẻ cô.
Then cửa từ bi gài nửa cánh,

Nén hương tế độ đốt đầy lò.”
(Bỡn cô tiểu ngủ ngày)
Sự suy sụp của đạo lý không chỉ lan đến cửa chùa, mà còn làm bại
hoại cả tầng lớp trí thức. Tiêu biểu nhất là các thầy đồ. Mang danh
nhà mô phạm, nhưng sự đời đảo điên, tình dục đã làm mờ ám lương tri
để rồi Nguyễn Khuyến lên tiếng:
“Ở goá thế gian này mấy mụ,
Đi ve thiên hạ thiếu chi thầy.
Yêu con cũng muốn cho thầy dạy,
Dạy cháu nên rồi mẹ cháu ngây.”

(Thầy đồ ve gái)
Nếu có những “Thầy đồ ve gái” thì cũng có những “Thầy đồ bị gái lừa”:
‘Cùng nhau chửa được mấy ngày,
Cô tiêu cũng lắm thầy vay cũng nhiều.

Yêu người, người lại chẳng yêu,
Chiều hoa, hoa lại chẳng chiều mới căm.”
(Thầy đồ bị gái lừa)
Có thể nói với thơ Nôm, Nguyễn Khuyến đã bày những suy
nghX tình cảm vY cuộc sống con người, việc đời và thế sự. Ông đã
hướng tới hiện thực, ghi lại những điYu trông thấy, qua đó tác giả bộc
lộ thái độ và cả hoài bão của mình. Với ngòi bút trào phúng sâu cay
mà đầy chua xót, Nguyễn Khuyến đã phơi bày, lột trần xã hội phong
kiến mục nát – nơi mà đồng tiYn lên ngôi, thật giả lẫn lộn; nơi mà đời
sống nhân dân lầm lũi, đói khổ, không có nổi lấy một tia ánh sáng.
4. SỰ GIAO THOA GIỮA CẢM HỨNG THIÊN NHIÊN VÀ CẢM
HỨNG THẾ SỰ TRONG THƠ NÔM CỦA NGUYỄN KHUYẾN
4.1. Về khái niệm: giao thoa, giao thoa trong văn học và giao thoa trong thi
hứng của Nguyễn Khuyến
Giao thoa vốn là một khái niệm thuộc vY phạm trù vật lý, chỉ sự “bắt
tréo”, chồng lên nhau của hai tần số ánh sáng, chúng “có thể làm nhau mạnh lên, hoă Wc 12
triệt tiêu nhau cho đến khi biến mất hoàn toàn” (theo “Từ điển” - Lê
Văn Đức). Đă Wt khái niệm “giao thoa” vào việc phân tích văn học nói
chung, ta có thể hiểu theo nghXa chuyển: đó là sự gă Wp gỡ, giao lưu và
song hành của hai yếu tố văn học (như nhân vật, thể loại, cốt truyện,
cảm hứng,…), giữa tác phẩm với tác phẩm kia, hoă Wc sự giao thoa
diễn ra ngay trong lòng một tác phẩm,… Kết quả của quá trình giao
thoa thi hứng, văn hứng sẽ có thể càng làm ý nghXa của tác phẩm
thêm trọn vẹn và sâu sắc. Người đọc có thể chứng minh luận điểm
này dễ dàng khi soi chiếu vào những sự “giao thoa” thi hứng trong
khá nhiYu tác phẩm thơ Nguyễn Khuyến.
Đối với thơ Nguyễn Khuyến nói riêng, ta nhận thấy có sự giao thoa
của hai “tần số” cảm hứng, cũng là hai tần số có nhịp đập gần như
xuyên suốt trong sự nghiệp thi ca của tác giả: đó là sự ngưỡng mộ,
yêu mến vẻ tươi đẹp, bình dị của cảnh non nước và cái nhìn trầm tư,
bi ai trước thời cuộc xoay vần.
Hai dòng cảm hứng chủ đạo trên trong thơ Nguyễn Khuyến chưa
từng hoàn toàn tách biệt, “rạch ròi” khỏi nhau. Mă Wt khác, hai dòng
cảm hứng này đan xen và khăng khít, từ đó làm tường minh, sâu sắc
thêm ý nghXa và giá trị mà kho tàng thi ca của thi nhân đã để lại. Nói
vY thơ của vị thi nhân “Tam Nguyên Yên Đổ”, Đă Wng Thị Hảo trong
bài viết “ĐY tài thiên nhiên và quan niệm thẩm mX” đã từng đY cập:
“... thơ thiên nhiên chỉ chiếm một phần ba trong tổng số hơn bốn
trăm bài thơ ông để lại”, song, trong số một phần ba những bài thơ
tràn ngập cảm hứng thiên nhiên đó, không khó để độc giả nhận ra
những chiêm nghiệm thế sự của nhà thơ, hay như trong các bài thơ
thể hiện nỗi lòng với thời cuộc khi cơ đồ nhà Nguyễn đang ở thì mạt
vận, ta vẫn hay bắt gă Wp những hình ảnh thiên nhiên được tác giả lồng ghép đầy tinh tế.
4.2. Một số biểu hiện tiêu biểu cho sự giao thoa giữa thiên nhiên và thế sự
trong thơ Nguyễn Khuyến
Đi vào nhận định và khảo sát một số tác phẩm cụ thể của Nguyễn
Khuyến, người đọc có thể nhận thấy làn sóng giao thoa giữa hai
nguồn cảm hứng mà ông vẫn hằng say sưa trong từng dòng thơ của
mình. Sự kết hợp thú vị này xuất hiện trong cả những tác phẩm được
sáng tác bằng chữ Hán lẫn chữ Nôm của tác giả. Đến với phạm vi
thơ chữ Nôm, độc giả dễ dàng thấy được sự giao thoa của cảm hứng
thiên nhiên với thế sự, khi thơ Nôm chính là nơi mà ngòi bút của Nho
sX Yên Đổ thực sự tỏa sáng hơn cả. Trong những tác phẩm có cảm
hứng chủ đạo là thiên nhiên, cảm hứng thế sự sẽ được thi nhân thầm
kín thể hiện sau bức tranh cảnh vật, hoàn thiện thêm giá trị nghệ
thuật của bài. Đối với những tác phẩm 13
theo lối châm biếm, xót xa hay u hoài trước thời cuộc, cảm hứng
thiên nhiên sẽ có thể trở thành “chất dẫn” cho dòng cảm hứng thế sự
được thăng hoa. Rất khó để phân biệt rạch ròi hai dòng cảm hứng
này trong cùng một bài thơ của Nguyễn Khuyến, bởi chúng vốn phải
song hành. Thiếu mất một trong hai, ý nghXa của bài thơ ấy sẽ có sự
khuyết thiếu, ta cũng sẽ chỉ có thể thấy được đơn lẻ một Nguyễn
Khuyến đang say trong cảnh thiên nhiên hoă Wc một vị hưu quan đang
tỉnh thức và đau lòng mà thôi.
4.2.1. Bức tranh thiên nhiên chất chứa nỗi buồn thầm kín về thời thế loạn lạc
Trong những bài thơ mang cảm hứng thưởng thiên nhiên, ngắm
cảnh đẹp, nguồn cảm hứng thế sự được thầm kín và tinh tế thể hiện
trong tầng chìm, trở thành một nét chấm phá giúp trọn vẹn thêm ý
nghXa của bài thơ. Những bài thơ ngợi khen cảnh sắc là vậy, phong
thái của thi sX thưởng cảnh thư thái là thế, nhưng trong lòng cụ Tam
nguyên vẫn chưa thôi nă Wng gánh tâm sự vY thế thái. Như trong “Thu điếu”:
“Ao thu lạnh lẽo nước trong veo,
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo.
Sóng biếc theo làn hơi gợn tí,
Lá vàng trước gió sẽ đưa vèo.

Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt,
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo.
Tựa gối, ôm cần lâu chẳng được,
Cá đâu đớp động dưới chân bèo.”
(Thu điếu)
Với chủ đY là “Câu cá mùa thu” - vốn là một hoạt động giải khuây
cho những ngày nhàn rỗi, cảm hứng thiên nhiên và tình yêu thiên
nhiên trong “Thu điếu” được bộc lộ rõ ràng ở phần đầu, để phần sau
của thi phẩm ẩn giấu sức nă Wng của cảm hứng thế sự. Đối với việc
khắc họa cảnh thu Việt Nam, ngư ông “rằng quan nhà Nguyễn cáo vY
đã lâu” lựa chọn xa rời các hình ảnh kì vX, những điển tích điển cố
kinh điển vốn được tiếp thu từ nYn văn học cổ điển Trung Hoa, thay
vào đó, nhà thơ đi vào tán tụng vẻ tuyệt mỹ của cảnh ao thu, thuyYn
thu, sóng thu, lá vàng thu, trời mây cao rộng, ngõ trúc vắng… vốn là
những gì gần gũi, mộc mạc nhất của làng quê Việt Nam. Đối diện với
bức tranh mùa thu nơi thôn dã trong veo, xanh ngắt với nét chấm phá
là sắc vàng chiếc lá thu trước gió “sẽ đưa vèo”, ngồi buông cần giữa
một không gian thanh bình và yên ả đến tXnh lă Wng gần như tuyệt đối,
ấy vậy là mà lòng ngư ông không thôi trầm tư. “Tựa gối, ôm cần lâu 14
chẳng được” như một tiếng than thầm, phải chăng than cho chuyến đi
câu chưa có kết quả, hay than cho nỗi bất đắc chí trước thời cuộc hỗn
loạn, mơ hồ? Ao thu giờ lại giống như thế sự mịt mù sương thu, khi
con thuyYn câu bé tẻo teo bên trên mă Wt nước lại như trái tim của vị
quan đã hồi hương. Nếu theo lối chiết tự chữ Hán, “thu” đi với “tim”
- “tâm” lại hóa thành “sầu”; tán dương cảnh thu là vậy, nhưng vẫn
còn đó trong lòng vị thi nhân là nỗi buồn thời thế, từ nỗi mă Wc cảm bản
thân chưa thể giúp nước, giúp dân nay hóa thành niYm chán chường
trước cơ đồ suy đồi, sau cùng là lòng yêu nước khôn nguôi.
Cũng là vịnh thiên nhiên cùng vịnh cảnh thư nhàn, đến với “Thu
vịnh”, một thi phẩm cũng nằm trong chùm thơ thu nức tiếng của
Nguyễn Khuyến, độc giả một lần nữa nhận ra những giá trị vY cảm
hứng thế sự được lồng ghép tinh tế bên trong mùa thu của làng cảnh Việt Nam:
“Trời thu xanh ngắt mấy tầng cao,
Cần trúc lơ phơ gió hắt hiu.
Nước biếc trông như tầng khói phủ,
Song thưa để mặc bóng trăng vào.
Mấy chùm trước giậu hoa năm ngoái,
Một tiếng trên không ngỗng nước nào?
Nhân hứng cũng vừa toan cất bút,

Nghĩ ra lại thẹn với ông Đào.”
Khác với “Thu điếu” hay “Thu ẩm” khi cả hai cùng đă Wc tả một thú
vui tao nhã của một ẩn sX lánh đời - khi thì “tựa gối, ôm cần”, lúc lại
“độ năm ba chén” giữa đất trời mùa thu thơ mộng, “Thu vịnh” có thể
coi là một bức thủy mă Wc toàn cảnh, bao quát vY mùa thu vùng nông
thôn. Trước hết, ta nhận ra sự quen thuộc trong những chất liệu ngôn
từ được dùng để diễn tả mùa thu. “Trời thu” vẫn một màu “xanh
ngắt” với “mấy tầng không” vô biên vô tận, là một khoảng không vời
vợi; nơi đầu gió “hắt hiu” cô quạnh và lă Wng im, “cần trúc” đi câu đứng
“lơ phơ” trơ trọi, như mă Wc theo chiYu gió; nước thu vẫn một màu
“biếc” đẹp mắt, tựa hồ còn có một tầng khói phủ; song cửa hững hờ
“mă Wc” cho trăng thu soi vào;… Bốn câu đầu đYu dạt dào cảm hứng
thiên nhiên tuy trữ tình song lại tịch mịch và có phần hơi u buồn.
Cảnh vật không tràn đầy sức sống mà hiện lên với vẻ tịch liêu, nhỏ bé
trong vũ trụ thu bao la. Ngắm cảnh vật ấy, lòng người mới sinh tình -
bốn câu sau chất chứa những nỗi niYm riêng của thi nhân khi đứng
trước cảnh thu mỹ lệ mà đượm buồn. Nếu như cảnh trước mắt gợi lên
một nỗi buồn vô cớ, thì cảnh trong tâm tưởng “hoa năm ngoái”,
“ngỗng nước nào” lại giãi bày nỗi buồn thời 15
thế. Chỉ mới đây thôi còn thấy “hoa năm ngoái”, mà nay vật đổi sao
dời, mấy chùm hoa thu xưa giờ chỉ còn là hoài niệm, khiến lòng
người không khỏi chua xót mà phản vấn: “Một tiếng trên không
ngỗng nước nào”. Hình ảnh sinh vật có lẽ là duy nhất trong bài thơ,
ấy vậy lại là thứ lạc lõng nhất, tưởng như đang bị không gian mùa thu
đẩy ra xa, hay là chính tâm hồn thi nhân đang chối bỏ. Đây đâu còn là
ngỗng nước ta, đâu còn là vùng trời nước ta nữa. Giă Wc ngoài đã tràn
sang thôn tính, triYu đình đã suy đồi, Nho giáo đã đến kì mạt vật. Vậy
Tam Nguyên Yên Đổ còn biết đi đâu được nữa? Vừa “toan cất bút”,
Nguyễn Khuyến soi lại chính mình, “nghX ra lại thẹn với ông Đào”.
Màu sắc thơ cổ điển được bộc lộ đă Wc sắc ở câu thơ cuối với điển tích
Đào TiYm cáo quan vY ở ẩn, một hiYn nhân có hoàn cảnh tương tự với
Nguyễn Khuyến khi ấy. Nỗi “thẹn” của ông vừa khiêm nhường, vừa
xót xa nhưng rất thanh tao. Đó là nỗi thẹn với đời, cái bất đắc chí của
một kẻ sX lực bất tòng tâm, xưa kia đã không thể “dũng thoái” từ quan
như cổ nhân, lúng túng và bất lực trong khi bộ máy chính quyYn đã
suy thoái trầm trọng. Ngẫm lại, ta thấy cụ Tam nguyên tuy tự nhận
mình “thẹn” mà khí tiết thì “Sạch như nước, trắng như ngà, trong như
tuyết” (“Mẹ Mốc” - Nguyễn Khuyến).
4.2.2. Cái nhìn bi uất, u hoài về thế cuộc được hình tượng hoá qua các
hình tượng thiên nhiên
Nguyễn Khuyến đã không ít lần lồng ghép hình ảnh thiên nhiên
vào những bài thơ mang cảm hứng chủ đạo là thế sự. Có khi ta thấy
hình ảnh thân hạc lẻ loi, mây trắng cô quạnh trong tiếng thở dài trước
tình người bạc bẽo của cụ Tam Nguyên:
“Đời loạn đi về như hạc độc
Tuổi già hình bóng tựa mây côi”
(“Cảm hứng” - Nguyễn Khuyến)
Khi còn “lên lạy cửa trời”, xung quanh nhà thơ vẫn có những mối
giao du, có bạn bè cùng lên chầu. Song sau khi cáo quan ở ẩn vY nơi
“Vườn Bùi chốn cũ”, trớ trêu biết bao, những quan hệ “ngày trước”
bỗng hóa “lơ thơ sót mấy người”. Thứ tréo ngoe là lòng người nguội
lạnh, đến rồi đi như gió thoảng, để rồi chút nghXa tình còn sót lại cũng
khiến cho thân hạc, áng mây cô đơn tuổi già như nhà thơ cũng phải
“hao mòn”, ngờ vực “chút thí lòng son chửa rõ mười”.
Cũng có khi, ta nghe ra tiếng cuốc thê lương, não lòng kêu lên
một nỗi nhớ nước khắc khoải: 16
Khắc khoải đưa sầu giọng lửng lơ,
Ấy hồn Thục đế thác bao giờ?
Năm canh máu chảy đêm hè vắng,
Sáu khắc hồn tan bóng nguyệt mờ.
Có phải tiếc xuân mà đứng gọi,
Hay là nhớ nước vẫn nằm mơ?

Thâu đêm ròng rã kêu ai đó?
Giục khách giang hồ dạ ngẩn ngơ.”
(Cuốc kêu cảm hứng)
Tiếng cuốc gọi hè lửng lơ trong không trung, là tiếng kêu “đưa sầu”
chứ không phải báo hỉ, là tiếng gọi hồn Thục đế đau đến xé lòng, đau
đến “máu chảy”, “hồn tan” trong năm canh “đêm hè vắng”, dưới
“bóng nguyệt mờ”. Đôi câu luận là că Wp câu phản vấn bật lên nỗi quan
hoài, hồ nghi nguyên do của tiếng cuốc kêu, nhưng trong đó đã có cả
sự thừa nhận nỗi đau mất nước, bởi vậy nên mới “tiếc” ngày xuân
thanh bình mà “đứng gọi”, mới “nhớ nước” mà “nằm mơ”. "Cuốc kêu
cảm hứng” khắc họa tiếng cuốc kêu nhưng thực chất bài chỉ là một sự
mượn lời, vịn vào tiếng cuốc gọi hồn Thục đế khi xưa mất nước để
nói cho lòng dạ “ngẩn ngơ” trước cảnh nước mất nhà tan của “khách
giang hồ” Nguyễn Khuyến. Lúc này, sinh vật trong thiên nhiên đã nói
thay cho tiếng lòng luôn một mực hướng vY thế sự của thi sX.
4.2.3. Đời sống khốn khó của người dân trước thiên tai và sự chèn ép, bóc
lột của tầng lớp thống trị thối nát
“Quai Mễ Thanh Liêm đã lở rồi,
Vùng ta thôi cũng lụt mà thôi
Gạo dăm ba bát cơ còn kém,

Thuế một vài nguyên dáng vẫn đòi.”
(Nước lụt Hà Nam)
Cấy hái đã khó khăn rồi thế nhưng trước những thảm họa của thiên
nhiên như bão lũ, lụt lội, cuộc sống người dân ta lại càng khốn đốn
hơn. Nhân dân đói kém, khổ sở là vì sao? Thử hỏi nếu như bọn
phong kiến thực dân chăm lo đến đời sống của người dân thì họ đã
không phải chịu cảnh như thế. Như vậy, mọi nguyên do là từ chúng –
những kẻ hút máu nhân dân ta, chúng ra sức vơ vét, bòn rút đến tận
xương tủy khiến dân chúng khổ thấu trời mà chẳng biết kêu than với ai.
Không chỉ có những tác phẩm được đY cập đến ở trên, mà khi tìm đọc
thêm vY thơ ca Nguyễn Khuyến, người đọc sẽ còn nhiYu lần khám phá ra hai mạch 17
nguồn cảm hứng thiên nhiên và thế sự song hành bên nhau… Trong
thơ Nguyễn Khuyến, cảm hứng thiên nhiên - lòng yêu mến phong
cảnh làng quê Việt Nam, đã có cơ hội được gă Wp gỡ, hòa quyện vào
với cảm hứng thế sự - niYm khát khao thái bình thịnh trị được giấu
trong nỗi trăn trở, hổ thẹn và mă Wc cảm khi nghX đến cơ đồ đang trên
bờ suy kiệt. Tạo nên sự thành công cho sự giao thoa đă Wc sắc giữa hai
miYn cảm hứng ấy có thể kể đến những yếu tố như sở đắc phong phú,
lối vận dụng tài tình, phá cách trong vốn liếng chữ Nôm của nhà thơ;
sự tiếp thu và sáng tạo trong việc thể hiện tác phẩm dựa trên cơ sở
của những thành tựu đã có của dòng thơ cổ điển cùng bút pháp “tả
cảnh ngụ tình”, hệ thống điển cố hàm súc giàu sức gợi; quan trọng
hơn cả, ắt hẳn chính là tấm lòng chưa từng quên đi khát vọng dấn
thân của một bậc cựu thần bấy giờ đang đứng giữa “ngã ba lịch sử”,
đồng thời cũng là nỗi xót xa và bất lực trước cảnh quốc gia bên bờ vực
“nước mất nhà tan” cùng số phận những kiếp người bé nhỏ đương thời.
Hiện tượng giao thoa trong văn học vốn không phải là một điYu hiếm
lạ, nhưng Nguyễn Khuyến đã để lại cho hậu thế một làn sóng giao
thoa thi hứng đủ độc đáo, mạnh mẽ và bYn bỉ với thời gian, và rồi khi
nhắc đến ông, người đọc vẫn hay ưu ái gọi với cái tên “nhà thơ của
quê hương làng cảnh Việt Nam”. 5. TỔNG KẾT
Bài viết là một cuộc khảo sát phạm vi nhỏ vY thơ Nôm Nguyễn
Khuyến trong kho tàng thi ca đồ sộ khoảng hơn bốn trăm thi phẩm mà
nhà thơ để lại, song chúng tôi tin rằng kết quả của bài viết đã có thể
chứng minh được phần nào cảm hứng thiên nhiên với cảm hứng thế sự
đã xuất hiện sự giao thoa, trở thành một trong những điểm sáng trong
sáng tác của nhà thơ. Những tác phẩm mang trong mình sự giao thoa
này là một trong những minh chứng rõ nét cho sự tài hoa, tài tình của
bút pháp, cũng như minh chứng cho một hồn thơ yêu thiên nhiên từ núi
non hữu tình đến cảnh làng quê bình dị, ẩn sâu trong đó còn cất chứa
một mối quan hoài, đau đáu và khắc khoải với thế sự của vị thi nhân
“Tam Nguyên Yên Đổ” Nguyễn Khuyến. 18
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Biện Văn ĐiYn, Phong cách nghệ thuật Nguyễn Khuyến (Sự hình
thành và các đặc trưng), 2001, NXB KHXH
2. Nguyễn Thanh Liêm, Đến với Nguyễn Khuyến – nhà thơ trữ tình và
trào phúng xuất sắc, Tao Đàn.
3. Ngô Thị KiYu Oanh, Sự chuyển biến trong văn học nửa cuối thế kỉ
19 qua ba tác giả Nguyễn Đình Chiểu, Nguyễn Khuyến và Tú
Xương,
2012. 4. Thi viện, Trang thơ Nguyễn Khuyến,
5. Đă Wng Thị Hảo, Đề tài thiên nhiên và quan niệm thẩm mỹ.
6. Tuyển tập thơ chữ Nôm của Nguyễn Khuyến - thivien.net. 7. Vũ
Khắc Khoan, Luận đề về Nguyễn Khuyến, Xuất - bản Tao Đàn. 8.
Giáo trình Văn học trung đại Việt Nam tập 2, Khoa Ngữ văn –
Trường ĐHSP Hà Nội, NXB GD Việt Nam
9. PGS.TS Trần Thị Hoa Lê, Giọng phản vấn và cảm hứng phản tư
trong thơ Nguyễn Khuyến, 11/10/2020. 19