Cảm nhận 2 khổ thơ cuối bài thơ Ánh Trăng | Văn mẫu lớp 9

TOP 9 bài Cảm nhận 2 khổ cuối Ánh Trăng SIÊU HAY, kèm 2 dàn ý chi tiết, giúp các em học sinh lớp 9 dễ dàng nhận ra những giá trị, cùng vẻ đẹp của ánh trăng để viết bài văn cảm nhận thêm sâu sắc hơn. Mời bạn đọc cùng theo dõi tại đây!

Thông tin:
31 trang 8 tháng trước

Bình luận

Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để gửi bình luận.

Cảm nhận 2 khổ thơ cuối bài thơ Ánh Trăng | Văn mẫu lớp 9

TOP 9 bài Cảm nhận 2 khổ cuối Ánh Trăng SIÊU HAY, kèm 2 dàn ý chi tiết, giúp các em học sinh lớp 9 dễ dàng nhận ra những giá trị, cùng vẻ đẹp của ánh trăng để viết bài văn cảm nhận thêm sâu sắc hơn. Mời bạn đọc cùng theo dõi tại đây!

132 66 lượt tải Tải xuống
Văn mẫu lp 9: Cm nhn 2 kh thơ cuối bài thơ Ánh Trăng
1
Sơ đồ tư duy Cảm nhận 2 khổ cuối Ánh trăng
Dàn ý cảm nhận 2 khổ thơ cuối bài Ánh Trăng
Dàn ý chi tiết số 1
A. Mở bài
Giới thiệu nhà thơ Nguyễn Duy.
Tập thơ “Ánh trăng” của ông được tặng giải A của Hội Nhà Văn Việt
Nam năm 1984. Trong đó, có bài thơ mà tựa đề dùng làm nhan đề cho cả
tập thơ: Ánh Trăng.
Hai khổ thơ cuối bài thơ cho ta thấy sự thức tỉnh của con người và nhắc
nhở đạo lí “Uống nước nhớ nguồn” của dân tộc ta.
B. Phân tích:
Cảm xúc và suy ngẫm của tác giả trước vầng trăng.
Hình ảnh “trăng cứ tròn vành vạnh” là tượng trưng cho quá khứ nghĩa
tình, thủy chung, đầy đặn, bao dung, nhân hậu.
Văn mẫu lp 9: Cm nhn 2 kh thơ cuối bài thơ Ánh Trăng
2
Hình ảnh “ánh trăng im phăng phắc” mang ý nghĩa nghiêm khắc nhắc
nhở, là sự trách móc trong lặng im.
C. Kết luận
- Nội dung:
Hai khổ cuối bài thơ cho ta thấy sự thức tỉnh của con người.
Lời nhắn gửi con người không được lãng quên quá khứ gian khổ mà sâu
đậm nghĩa tình.
Lời nhắc nhở về nghĩa tình thiêng liêng của nhân dân, đất nước và đạo lí
uống nước nhớ nguồn.
- Nghệ thuật:
Thể thơ ngũ ngôn với nhiều sáng tạo độc đáo.
Sự kết hợp hài hòa giữa chất tự sự và trữ tình.
Ngôn ngữ, hình ảnh giản dị, gần gũi mà giàu sức gợi.
Giọng điệu tâm tình thấm thía, khi thì thiết tha cảm xúc, lúc lại trầm lắng,
suy tư.
Dàn ý chi tiết số 2
A. Giới thiệu chung:
- Giới thiệu nhà thơ Nguyễn Duy, nhà thơ quân đội, đã được giải nhất cuộc thi
thơ của báo Văn Nghệ 1972 1973, một gương mặt tiêu biểu cho lớp nhà thơ
trẻ thời chống Mĩ cứu nước.
- Tập thơ Ánh trăngcủa ông được tặng giải A của Hội Nhà Văn Việt Nam
năm 1984. Trong đó, bài thơ tựa đề dùng làm nhan đề cho cả tập thơ :
Ánh Trăng. Bài thơ một câu chuyện riêng nhưng ý nghĩa triết như một
Văn mẫu lp 9: Cm nhn 2 kh thơ cuối bài thơ Ánh Trăng
3
lời tự nhắc nhở thấm thía của nhà thơ về lối sống nghĩa tình, thủy chung với quá
khứ gian lao, với thiên nhiên, đất nước và đồng đội.
-Hai khổ thơ cuối bài thơ cho ta thấy sự thức tỉnh của con người nhắc nhở
đạo lí “Uống nước nhớ nguồn” của dân tộc ta.
B. Phân tích:
Cảm xúc và suy ngẫm của tác giả trước vầng trăng.
- T“mặt” được dùng với nghĩa gốc nghĩa chuyển mặt trăng, mặt người
trăng và người cùng đối diện đàm tâm.
- Với thế “ngửa mặt lên nhìn mặt” người đọc cảm nhận sự lặng im, thành
kính trong phút chốc cảm xúc dâng trào khi gặp lại vầng trăng: “có cái
rưng rưng”. Rưng rưng của những niềm thương nỗi nhớ, của những lãng quên
lạnh nhạt với người bạn cố tri; của một lương tri đang thức tỉnh sau những ngày
đắm chìm trong cõi u mộng mị; rưng rưng của nỗi ân hận ăn năn về thái độ
của chính mình trong suốt thời gian qua. Một chút áy náy, một chút tiếc nuối,
một chút xót xa đau lòng, tất cả đã làm nên cái “rưng rưng”,cái thổn thức trong
sâu thẳm trái tim người lính.
- trong phút giây nhân vật trữ tình nhìn thẳng vào trăng- biểu tượng đẹp đẽ
của một thời xa vắng, nhìn thẳng vào tâm hồn của mình, bao kỉ niệm chợt ùa về
chiếm trọn tâm tư. Kí ức về quãng đời ấu thơ trong sáng, về lúc chiến tranh máu
lửa, về cái ngày xưa hồn hậu hiện lên dần theo dòng cảm nhận trào dâng
“như đồng bể, như sông rừng”. Đồng, bể, sông, rừng, những hình ảnh
gắn bó nơi khoảng trời kỉ niệm.
-> Cấu trúc song hành của hai câu thơ, nhịp điệu dồn dập cùng biện pháp tu từ
so sánh, điệp ngữ và liệt kê như muốn khắc họa rõ hơn kí ức về thời gian gắn bó
chan hòa với thiên nhiên, với vầng trăng lớn lao sâu nặng, nghĩa tình, tri kỉ.
Văn mẫu lp 9: Cm nhn 2 kh thơ cuối bài thơ Ánh Trăng
4
Chính thứ ánh sáng dung dị đôn hậu đó của trăng đã chiếu tỏ nhiều kỉ niệm thân
thương, đánh thức bao tâm tình vốn tưởng chừng ngủ quên trong góc tối tâm
hồn người lính. Chất thơ mộc mạc chân thành nvầng trăng hiền hòa, ngôn
ngữ hàm súc, giàu tính biểu cảm như “có cái gì rưng rưng”,đoạn thơ đã đánh
động tình cảm nơi người đọc.
- Hình ảnh “trăng cứ tròn vành vạnh” tượng trưng cho quá khứ nghĩa tình,
thủy chung, đầy đặn, bao dung, nhân hậu.
- Hình ảnh “ánh trăng im phăng phắc” mang ý nghĩa nghiêm khắc nhắc nhở,
sự trách móc trong lặng im. Chính cái im phăng phắc của vầng trăng đã đánh
thức con người, làm xáo động tâm hồn người lính năm xưa. Con người “giật
mình” trước ánh trăng là sự bừng tỉnh của nhân cách, là sự trở về với lương tâm
trong sạch, tốt đẹp. Đó là lời ân hận, ăn năn day dứt, làm đẹp con người.
C. Kết luận
- Nội dung:
Hai khổ cuối bài thơ cho ta thấy sự thức tỉnh của con người.
Lời nhắn gửi con người không được lãng quên quá khứ gian khổ mà sâu
đậm nghĩa tình.
Lời nhắc nhở về nghĩa tình thiêng liêng của nhân dân, đất nước và đạo lí
uống nước nhớ nguồn.
- Nghệ thuật:
Thể thơ ngũ ngôn với nhiều sáng tạo độc đáo.
Sự kết hợp hài hòa giữa chất tự sự và trữ tình.
Ngôn ngữ, hình ảnh giản dị, gần gũi mà giàu sức gợi.
Giọng điệu tâm tình thấm thía, khi thì thiết tha cảm xúc, lúc lại trầm lắng,
suy tư.
Văn mẫu lp 9: Cm nhn 2 kh thơ cuối bài thơ Ánh Trăng
5
Cảm nhận 2 khổ thơ cuối bài Ánh Trăng - Mẫu 1
Bao trùm cả bài thơ “Ánh trăng” của nhà thơ Nguyễn Duy một nỗi day dứt,
ăn năn cứ kéo dài triền miên khôn nguôi. ngay cái tên bài thơ cũng đủ để ta
thấy được chủ đề của cả bài thơ. Bởi lẽ, khác với "vầng trăng” hình ảnh cụ
thể thì "ánh trăng” là những tia sáng. Tia sáng ấy đã soi rọi vào góc tối của con
người, đánh thức lương tâm của con người, làm sáng bừng lên cả một quá khứ
đầy ắp những kỉ niệm đẹp đẽ, thân thương.
Khổ thơ thứ năm hình tượng vầng trăng cảm xúc, suy ngẫm của nhà thơ.
Còn đến khổ thơ thứ sáu những suy ngẫm triết nhân sinh của nhà thơ
qua hình tượng trăng:
Ngửa mặt lên nhìn mặt
có cái gì rưng rưng
như là đồng là bể
như là sông là rừng
Từ “mặttrong khổ thơ được dùng với nghĩa gốc và nghĩa chuyển mặt trăng,
mặt người trăng người cùng đối diện đàm tâm. Với thế “ngửa mặt lên
nhìn mặt” người đọc cảm nhận slặng im, thành kính trong phút chốc cảm
xúc dâng trào khi gặp lại vầng trăng: “có cái rưng rưng”. Rưng rưng của
những niềm thương nỗi nhớ, của những lãng quên lạnh nhạt với người bạn cố
tri; của một lương tri đang thức tỉnh sau những ngày đắm chìm trong cõi u
mộng mị; rưng rưng của nỗi ân hận ăn năn về thái độ của chính mình trong suốt
thời gian qua. Một chút áy náy, một chút tiếc nuối, một chút xót xa đau lòng, tất
cả đã làm nên cái “rưng rưng”, cái thổn thức trong sâu thẳm trái tim người lính.
Văn mẫu lp 9: Cm nhn 2 kh thơ cuối bài thơ Ánh Trăng
6
trong phút giây nhân vật trữ tình nhìn thẳng vào trăng - biểu tượng đẹp đẽ
của một thời xa vắng, nhìn thẳng vào tâm hồn của mình, bao kỉ niệm chợt ùa về
chiếm trọn tâm tư. Kí ức về quãng đời ấu thơ trong sáng, về lúc chiến tranh máu
lửa, về cái ngày xưa hồn hậu hiện lên dần theo dòng cảm nhận trào dâng,
“như đồng bể, như sông rừng”. Đồng, bể, sông, rừng, những hình ảnh
gắn bó nơi khoảng trời kỉ niệm.
Cấu trúc song hành của hai câu thơ, nhịp điệu dồn dập cùng biện pháp tu từ so
sánh, điệp ngữ liệt kê như muốn khắc họa hơn ức về thời gian gắn
chan hòa với thiên nhiên, với vầng trăng lớn lao sâu nặng, nghĩa tình, tri kỉ.
Chính thứ ánh sáng dung dị đôn hậu đó của trăng đã chiếu tỏ nhiều kỉ niệm thân
thương, đánh thức bao tâm tình vốn tưởng chừng ngủ quên trong góc tối tâm
hồn người lính. Chất thơ mộc mạc chân thành nvầng trăng hiền hòa, ngôn
ngữ hàm súc, giàu tính biểu cảm như “có cái gì rưng rưng”,đoạn thơ đã đánh
động tình cảm nơi người đọc.
Nhà thơ lặng lẽ đối diện với trăng trong thế lặng im phần thành kính:
“Ngửa mặt lên nhìn mặt”. Từ “mặt” cuối câu thơ từ nhiều nghĩa, tạo nên sự
đa dạng nghĩa của ý thơ. Nhà thơ đối diện với mặt trăng, người bạn tri kỉ mình
đã lãng quên, vầng trăng đối diện với con người hay nói cách khác quá khứ đối
diện với hiện tại, thủy chung tình nghĩa đối diện với bạc bẽo tình lãng
quên để tự thú về sự bội bạc của mình.
Khi người đối mặt với trăng, cái đó khiến cho người lính áy náy cho
không bị quở trách một lời nào. Hai từ “mặt” trong cùng một dòng thô: mặt
trăng và mặt người đang cùng nhau trò chuyện. Người lính cảm thấy cái
“rưng rưng” tự trong tận đáy lòng và dường như nước mắt đang muốn trào ra
xúc động trước lòng vị tha của người bạn “tri kỉ” của mình. Đối mặt với vầng
trăng, bỗng người lính cảm thấy như đang xem một thước phim quay chậm về
tuổi thơ của mình ngày nào, nơi có “sông” và có “bể”.
Văn mẫu lp 9: Cm nhn 2 kh thơ cuối bài thơ Ánh Trăng
7
Chính những thước phim quay chậm ấy làm người lính trào dâng nhưng nỗi
niềm những giọt nước mắt tuôn ra tự nhiên, không chút gượng ép nào!
Những giọt nước mắt ấy đã phần nào làm cho người lính trở nên thanh thản
hơn, làm tâm hồn anh trong sáng lại. Một lần nữa những hình tượng trong tuổi
thơ chiến tranh được láy lại làm sáng tỏ những điều con người cảm nhận
được. Cái tâm hồn ấy, cái vđẹp mộc mạc ấy không bao giờ bị mất đi, luôn
lặng lẽ sống trong tâm hồn mỗi con người sẽ lên tiếng khi con người bị
tổn thương. Đoạn thơ hay ở chất thơ mộc mạc, chân thành, ngôn ngữ bình dị
thấm thía, những hình ảnh đi vào lòng người.
Những suy ngẫm và triết lí nhân sinh của nhà thơ được thể qua hình tượng trăng
ở khổ thơ cuối:
Trăng cứ tròn vành vạnh
kể chi người vô tình
ánh trăng im phăng phắc
đủ cho ta giật mình
Hình ảnh “trăng cứ tròn vành vạnh” là tượng trưng cho quá khứ nghĩa tình, thủy
chung, đầy đặn, bao dung, nhân hậu. Rồi đến hình ảnh “ánh trăng im phăng
phắc” mang ý nghĩa nghiêm khắc nhắc nhở, sự trách móc trong lặng im.
Chính cái im phăng phắc của vầng trăng đã đánh thức con người, làm xáo động
tâm hồn người lính năm xưa. Con người “giật mình” trước ánh trăng là sự bừng
tỉnh của nhân cách, sự trở về với lương tâm trong sạch, tốt đẹp. Đó lời ân
hận, ăn năn day dứt, làm đẹp con người.
Trong cuộc gặp lại không lời này trăng và người như có sự đối lập. Trăng đã trở
thành biểu tượng cho sự bất biến, vĩnh hằng không đổi thay. “Trăng cứ tròn
Văn mẫu lp 9: Cm nhn 2 kh thơ cuối bài thơ Ánh Trăng
8
vành vạnh” biểu tượng cho sự tròn đầy thủy chung, trọn vẹn của thiên nhiên,
quá khứ dù cho con người đổi thay “vô tình”.
Ánh trăng còn được nhân hóa “im phăng phắc” không một lời trách cứ, gợi liên
tưởng đến cái nhìn nghiêm khắc, bao dung, độ lượng của người bạn thủy chung,
tình nghĩa, nhắc nhở nhà thơ mỗi chúng ta: con người thể tình quên
nhưng thiên nhiên nghĩa tình quá khứ luôn tròn đầy bất diệt.
Tình cảm của trăng, tấm lòng của trăng chính là tình cảm của những người đồng
chí, đồng đội, đồng bào, nhân dân. Sự im lặng ấy làm nhà thơ “giật mình” thức
tỉnh, cái “giật mình” của lương tâm nhà thơ thật đáng trân trọng, thể hiện sự
suy nghĩ, trăn trở tự đấu tranh với chính mình để sống tốt hơn. Giật mình đ
không chìm vào lãng quên. Giật mình để không đánh mất quá khứ. Con người
giật mình trước ánh sáng lặng lẽ sự thức tỉnh của nhân dân cách trở về với
lương tâm trong sạch, tốt đẹp.
Dòng thơ cuối dồn nén biết bao tâm sự, lời sám hối ăn năn không cất lên
nhưng chính thế càng trở nên ám ảnh, day dứt. Qua đó Nguyễn Duy muốn
gửi đến mọi người lời nhắc nhở về lẽ sống, đạo đức lí ân nghĩa thủy chung.
Trong cuộc gặp lại không lời này, trăng va người như sự đối lập. Trăng
hình ảnh của thiên nhiên, trong cảm nhận của con người, giờ đây theo quy luật
tuần hoàn của nó, vẫn chiếu sáng, vẫn “tròn vành vạnh” dẫu cho “người
tình”. Suốt bài thơ, vầng trăng luôn được miêu tả gắn với các định ngữ (“tình
nghĩa”, “tròn”), đến khổ cuối kết tinh trong hình ảnh “tròn vành vạnh”, đó ân
nghĩa thủy chung, những giá trị tốt đẹp của quá khứ mãi vẹn nguyên. Cái im
lặng của trăng, cái ánh sáng dịu mát của trăng không phải là một sự bất động mà
lại làm cho con người suy ngẫm về mình.
Con người như có sự ân hận, xót xa vì đã “vô tình”, vô tình với trăng cũng là vô
tình với cuộc sống, với con người và cả với những thân thuộc, với quá khứ,
Văn mẫu lp 9: Cm nhn 2 kh thơ cuối bài thơ Ánh Trăng
9
với hiện tại. Cái “im phăng phắc”, sự im lặng đầy tình nghĩa, không một lời
trách cứ phần nghiêm khắc của trăng đã đánh thức con người, làm xáo
động tâm hồn người lính xưa. Con người “giật mình” trước ánh trăng lặng lẽ
sự bừng tỉnh của nhân cách, trở về với lương tâm trong sạch, tốt đẹp. Đó một
nỗi ăn năn nhân bản, thức tỉnh tâm linh, làm đẹp con người. Cái “giật mình”
chứa đựng cả tin yêu, hi vọng. Sự xao động trong lặng yên này như một mạch
nước ngầm vọt trào lên sẽ xua đi bao lỗi lầm đvững vàng tạo một cuộc sống
đẹp đẽ.
Giọng thơ tthiết tha đến trầm lắng trong cảm xúc và suy lặng lẽ. Không
phải ngẫu nhiên trong bài tác giả nhiều lần nhắc đến “vầng trăng tròn”, còn
đến đây lại nhắc đến Ánh trăng tên tập thơ cũng Ánh trăng. “Vầng trăng
tròn” để nói về quá khứ thủy chung, tình nghĩa, vẹn nguyên, còn “ánh trăng” để
nói đến vầng hào quang của quá khứ, ánh sáng của lương tâm, của đạo đức, cái
ánh sáng rọi soi, thức tỉnh, để xua đi khuất tối trong tâm hồn.
Hình ảnh thơ đến đây gợi ra chiều sâu tưởng triết lí: vầng trăng không chỉ
hiện thân cho vẻ đẹp của thiên nhiên còn biểu tượng cho quá khứ nghĩa
tình, hơn thế, trăng còn là vẻ đẹp bình dị mà vĩnh hằng của đời sống. Vầng trăng
cứ tròn đầy lặng lẽ kể chi người “vô tình” biểu tượng cho sự bao dung, độ
lượng, cho nghĩa tình thủy chung, trọn vẹn, trong sáng, tư, không đòi hỏi s
đền đáp. Đó chính phẩm chất cao cả của nhân dânNguyễn Duy cũng như
nhiều nhà thơ cùng thời đã phát hiện và cảm nhận một cách sâu sắc trong thơ từ
thời chiến tranh chống Mĩ.
Vầng trăng cứ tròn vành vạnh tượng trưng cho quá khứ đẹp đẽ, vẹn nguyên,
chẳng thể mờ phai. “Ánh trăng im phăng phắc” chính người bạn, nhân chứng
nghĩa tình nghiêm khắc đang nhắc nhở nthơ (và cả trong mỗi chúng ta).
Con người thể tình, lãng quên, nhưng thiên nhiên, nghĩa tình quá khứ t
luôn tròn đầy, bất diệt. Ánh trăng thế không chỉ chuyện của một người,
Văn mẫu lp 9: Cm nhn 2 kh thơ cuối bài thơ Ánh Trăng
10
một thế hệ thế htừng sống hào hùng suốt một thời đánh giặc, ý nghĩa
với nhiều người, với mọi thời. Nó có ý nghĩa cảnh tỉnh, gợi cho mọi người sống
ý nghĩa, sống đẹp, xứng đáng với, những người đã khuất, xứng đáng với chính
mình, trân trọng quá khứ để vững bước trên đường tới tương lai.
Bài thơ nói chuyện trăng mà lại là chuyện đời, khơi đúng cái mạch nguồn đạo lí
truyền thống của dân tộc: thủy chung, nghĩa tình, uống nước nhớ nguồn, lời thơ
thấm thía, xúc động, bởi trước hết lời tự nhắc nhở với giọng trầm tĩnh
lắng sâu.
Cảm nhận 2 khổ thơ cuối bài Ánh Trăng - Mẫu 2
Trăng một đề tài quen thuộc trong thơ ca. Trăng như một biểu tượng thơ
mộng gắn với tâm hồn thi sĩ. Nhưng một nhà thơ cũng viết về trăng, không
chỉ tìm thấy đấy cái thơ mộng, còn gửi gắm những nỗi niềm tâm sự mang
tính hàm nghĩa độc đáo. Đó là trường hợp bài thơ Ánh trăng của Nguyễn Duy.
Vầng trăng đã từng gắn với tuổi thơ, với cuộc đời người lính, đã trở thành
người bạn tri kỉ, ngỡ không bao giờ quên. nhưng hoàn cảnh sống đổi thay, con
người cũng thay đổi, lúc cũng trở nên tình. Sau chiến thắng trở về thành
phố, quen ánh điện cửa gương, khiến cho vầng trăng tình nghĩa tình bị lãng
quên. nhưng một tình huống đời thường xảy ra làm cho con người phải giật
mình tỉnh ngộ, phải đối mặt với vầng trăng mà sám hối:
Ngửa mặt lên nhìn mặt
Có cái gì rưng rưng
Như là đồng là bể
Như là sông là rừng.
Văn mẫu lp 9: Cm nhn 2 kh thơ cuối bài thơ Ánh Trăng
11
Rưng rưng là biểu hiện xúc động, nước mắt đang ứa ra, sắp khóc. Giọt nước mắt
làm cho lòng người thanh thản lại, trong sáng lại. Bao kỉ niệm đẹp ùa về, tâm
hồn gắn chan hòa với thiên nhiên, với vầng trăng xưa, với đồng với bể,với
sông với rừng. Cấu trúc câu thơ song hành với các biện pháp tu từ so sánh, điệp
ngữ cho thấy ngòi bút Nguyễn Duy thật tài hoa. Đoạn thơ hay chất thơ bộc
bạch chân thành, tính biểu cảm, ngôn từ hình ảnh thơ đi vào lòng người,
khắc sâu một cách nhẹ nhàng thấm thía những nhà thơ muốn tâm sự với
chúng ta. Khổ thơ cuối mang hàm ý độc đáo và sâu sắc:
Trăng cứ tròn vành vạnh
Kể chi người vô tình
Ánh trăng im phăng phắc
Đủ cho ta giật mình.
Tròn vành vạnh trăng rằm, một vđẹp viên mãn. Trăng vẫn thuỷ chung mặc
cho ai thay đổi, vô tình với trăng. Ánh trăng im phăng phắc, không một lời trách
cứ. Trăng bao dung và độ lượng biết bao. Tấm lòng bao dung độ lượng ấy khiến
cho ta phải giật mình. Sự giật mình để tự lột xác, đtrở về. Trở về với chính
mình tốt đẹp xưa kia. Đó là cái giật mình để tự hoàn thiện.
Tóm lại, với giọng thơ trầm tĩnh, sâu lắng, đoạn thơ trên đã gây nhiều xúc động
cho người đọc. như lời tâm sự, lời tự thú, lời tnhắc chân thành. Qua
đoạn thơ, tác giả muốn nói rằng: phải thuỷ chung, trọn vẹn, phải nghĩa tình sắt
son với nhân dân, với đất nước, và ngay với chính bản thân mình.
Cảm nhận 2 khổ thơ cuối bài Ánh Trăng - Mẫu 3
“Ăn quả nhớ kẻ trồng cây” đó truyền thống lâu đời của dân tộc Việt Nam.
Truyền thống ấy đã được nhắc đến rất nhiều trong các tác phẩm văn học từ bao
Văn mẫu lp 9: Cm nhn 2 kh thơ cuối bài thơ Ánh Trăng
12
đời nay. Chỉ bàn đến các tác phẩm văn học hiện đại lớp 9, hẳn chúng ta đều biết
đến các tác phẩm thuộc chủ đề này: “Bếp lửa” của Bằng Việt, “Ánh trăng” của
Nguyễn Duy. Qua các bài thơ, các tác giả đã kín đáo bộc lộ những suy nghĩ,
chiêm nghiệm về một lẽ sống ân nghĩa thủy chung cao qtrong cuộc đời của
mỗi con người.
Bằng hình tượng “Ánh trăng” thấm đượm ý nghĩa nhân văn tưởng triết
luận, Nguyễn Duy đã thẳng thắn quả cảm gửi tới chúng ta một bức thông
điệp tha thiết, đẹp đẽ: “Hãy lắng lại một phút cái chen lấn, bận bịu của cuộc
sống để nhìn lại bản thân nh!” để trở về với cội nguồn đạo “nhớ nguồn”
của dân tộc thông qua việc xây dựng nhân vật trữ tình biết tự soi rọi, tự ý thức
về những lầm lỗi của mình, để hướng thiện.
Lời nhắn nhủ của nhà thơ giống như một câu chuyện nhỏ với giọng điệu tâm
tình. Đây câu chuyện của chính nhà thơ. Lời thơ mở đầu như đưa người đọc
trở về với quá khứ tuổi thơ của tác giả với một giọng kể nhỏ nhẹ. Đó là một tuổi
thơ gắn bó thân thiết với thiên nhiên. Tuổi thơ được cảm nhận những điều kì thú
của thiên nhiên. Đến khi trở thành người lính, sống trong rừng vầng trăng lại
thành tri kỉ. Người chiến thể nằm ngủ dưới trăng, đứng gác dưới trăng,
trăng cùng chia snhững gian lao của cuộc đời người lính. Trăng cũng đã cùng
vui niềm vui thắng trận của người chiến sĩ. Rõ ràng tình cảm của người chiến
trăng tình cảm keo sơn gắn bó, tưởng như tình cảm đó gắn mãi mãi.
Nhưng câu chuyện chuyển biến về hiện tại, điều “ngỡ không bao giờ quên” bây
giờ đã quên. Giọng thơ như trầm lắng lại với nét trầm ngâm, suy khi kể tới.
Cảnh phồn hoa nơi đô thị tấp nập, đời sống của con người cũng bắt đầu thay
đổi. Ánh sáng của điện đã thay cho ánh sáng của trăng. Bởi thế lòng người
lúc này cũng thay đổi. Vẫn vầng trăng xưa, bây giờ vầng trăng ấy lại đi qua
ngõ. Thế nhưng người bạn ấy bây giờ đã thành người dưng tức không hề
quen biết. Sự đổi thay này diễn ra trong lòng người lính. Anh đã quên đi người
bạn năm xưa, người bạn đã từng chịu chung gian khổ rừng, cùng gắn với
Văn mẫu lp 9: Cm nhn 2 kh thơ cuối bài thơ Ánh Trăng
13
anh tuổi ấu thơ. Giọng thơ thầm thì như lời trò chuyện. Anh đang trò chuyện với
chính mình, suy nghĩ về việc mình đã thay đổi tình cảm quên đi vẻ đẹp của
thiên nhiên, bình dị. Phải chăng, sự suy ngẫm này như một sự sám hối, tự trách
mình. Sống trong hiện tại quên đi quá khứ, sống trong hòa bình đầy đủ
vật chất mà quên đi những ngày gian khổ.
Nhưng nhà thơ không dừng lại ở đó mà còn sáng tạo ra một cuộc sống chân thật
cũng rất quen thuộc xảy ra đô thị đó hthống đèn điện tắt cả. Một
không gian phòng - đinh tối om. Người chiến sĩ cũng giống như bao người khác
vội bật tung cửa sổ, đột ngột thấy vầng trăng. Như vậy trăng xưa lại đến với
người vẫn tròn vẫn đẹp và thuỷ chung với mọi người.
Ngửa mặt lên nhìn mặt
có cái gì rưng rưng
như là đồng, là bể
như là sông, là rừng
Người ngắm trăng và suy ngẫm bâng khuâng “Ngửa mặt lên nhìn mặt”. Hai chữ
“mặt” trong một vần thơ, mặt trăng và mặt người đối diện nhau. Đó nhìn mặt
tri kỉ, mặt của tình nghĩa bấy lâu nay mình dửng dưng. Nguyễn Duy gặp lại
ánh trăng ngặp lại người bạn tuổi thơ, ngặp lại người bạn từng sát cánh
bên nhau trong những tháng năm gian khổ. Trăng chẳng nói chẳng trách nhưng
tâm trạng của người lính đó rưng rưng. Phải chăng đó tâm trạng xúc
động nghẹn ngào. Nước mắt như chực ứa ra. Bao kỉ niệm đẹp của một đời
người đã ùa về trong tâm trí người chiến sĩ. Từ "rưng rưng" gợi tả nỗi xúc động
của thi sĩ. Những kỷ niệm ngày nào bấy lâu tưởng bị chôn vùi nay lại ùa về
đánh thức tâm hồn người trong cuộc "như đồng bể, như sông rừng”.
Câu trúc của câu thơ sóng đôi kết hợp với phép tu từ so sánh, từ “là" được nhắc
lại bốn lần cho ta thấy ngòi bút của Nguyễn Duy thật tài hoa. Ông đã gợi ta
Văn mẫu lp 9: Cm nhn 2 kh thơ cuối bài thơ Ánh Trăng
14
được sự gắn chan hòa với thiên nhiên của người chiến trong quá khứ. Bởi
lẽ nhớ tới đồng, tới sông, tới bể là nói tới thời ấu thơ, nói tới rừng là nói tới thời
chiến tranh. Hai hình ảnh thơ này được lặp lại khổ thơ đầu. Như vậy vầng
trăng trong đoạn thơ không chỉ vẻ đẹp của thiên nhiên còn biểu tượng
của quá khứ tình nghĩa. Vầng trăng đã đánh thức dậy tất cả, từ những năm tháng
hoa niên cho đến khi cầm súng hành quân đuổi giặc dưới những cánh rừng. Hóa
ra những ức đẹp đấy đã không mất đi con người không phải hoàn toàn
tâm đến thế. ức ấy chỉ tạm lắng xuống, con người trong lúc bận rộn
thể lãng quên đi nhưng chỉ cần một tác động nhỏ nào đó, chúng sẽ sống dậy vẹn
nguyên, thậm chí còn đằm sâu hơn, tạo nên vẻ đẹp không sánh nổi của tâm
hồn con người.
Nguyễn Duy đưa người đọc cùng đắm chìm tong suy tư, trong chiêm nghiệm về
"vầng trăng tình nghĩa" một thời:
Trăng cứ tròn vành vạnh
kể chi người vô tình
ánh trăng im phăng phắc
đủ cho ta giật mình
Bài thơ dừng cảm xúc "rưng rưng" cũng đã chủ đề. Nhưng thêm một đoạn
cuối, ý tưởng bài thơ được đẩy cao thêm, hơn mạnh hơn trong sự bình
luận về một thái độ sống. Hình ảnh "vầng trăng” còn được nhà thơ nhìn lại "tròn
vành vạnh" thật là đẹp, một cái đẹp viên mãn không hề bị khiếm khuyết ai
kia thay đổi, tình. Ánh trăng sáng tròn đầy hay chính cái đẹp của tình
nghĩa thủy chung, nhân hậu? Ánh trăng vừa nghiêm khắc, lạnh lùng, vừa bao
dung độ lượng: “kể chi người vô tình”. Chính ánh trăng vô ngôn, không một lời
trách cứ ấy đã khiến cho “người vô tình” thấy cái khiếm khuyết của bản thân
mà không khỏi “giật mình“ tỉnh ngộ. Thật khó diễn tả cho hết tâm trạng của con
Văn mẫu lp 9: Cm nhn 2 kh thơ cuối bài thơ Ánh Trăng
15
người lúc ấy, biết bao ý nghĩa hàm ẩn trong hai chữ "giật mình". Cái "giật
mình" chân thành thay cho một lời sám hối ăn năn. lời sám hối ấy không
được cất lên nhưng chính vì thế lại làm cho ý thơ trở nên ám ảnh, day dứt
hơn. Cả bài thơ vô nhân xưng, đến đây tác giả mới xưng "ta" đnhận lỗi, để
tạ tội. Một cái giật mình tái mặt khi nhận ra chân tướng của chính mình. Đằng
sau cái giật mình ấy người đọc cảm nhận được niềm ân hận day dứt của một con
người đã nghiêm khắc nhìn thẳng vào mình để nhận ra cái sai của mình. Người
xưa hay nói "trong cái rủi cái may". Một sự cố rất bình thường của nền văn
minh hiện đại đã thức tỉnh con người trở về với những giá trị cao đẹp, vĩnh
hằng. Đó chính là cái hay và độc đáo của bài thơ có sức cảm hóa lòng người.
Đọc bài thơ người đọc đều cảm nhận thấy đây không chỉ câu chuyện riêng
của nhà thơ cũng chuyện của mình. Từ câu chuyện ấy gợi ra cho người
đọc ssuy ngẫm liên tưởng tới cách sống của chính mình . Nhà thơ tâm sự
với bạn đọc những điều sâu kín nơi lòng mình nhưng cũng đgửi tới người
đọc một bức thông điệp về cách sống đẹp trong hoàn cảnh đất nước hòa bình.
Qua tâm sự sâu kín của Nguyễn Duy bài thơ "Ánh trăng", chúng ta như được
thanh lọc lại tâm hồn mình, như lay động miền ký ức mà có lúc vô tình chúng ta
đã lãng quên. Mong sao những ai từng với sông, với biển, với đồng, với
rừng… trong những năm tháng gian lao ấy luôn luôn có được tình cảm này.
Cảm nhận 2 khổ thơ cuối bài Ánh Trăng - Mẫu 4
Trăng con người đã gặp nhau trong một giây phút tình cờ. Con người không
còn muốn trốn chạy vầng trăng, trốn chạy cả bản thân mình được nữa. thế
“ngửa mặt lên nhìn mặt” là tư thế đối mặt: “mặt” ở đây chính là vầng trăng tròn.
Con người thấy mặt trăng là thấy được người bạn tri kỷ ngày nào. Cách viết thật
lạ sâu sắc dùng những từ không trực tiếp để diễn tả sự xúc động cảm động
chợt dâng trào trong lòng anh khi gặp lại vầng trăng.
Văn mẫu lp 9: Cm nhn 2 kh thơ cuối bài thơ Ánh Trăng
16
Cảm xúc “rưng ng”: Tâm hồn đang rung động, xao xuyến, gợi nhớ gợi
thương. Nhịp thơ hối hả dâng trào như tình người dào dạt. Niềm hạnh phúc của
nhà thơ như đang được sống lại một giấc chiêm bao.
Sự xuất hiện đột ngột của vầng trăng làm ùa dậy tâm trí nhà thơ bao kỷ niệm
quá khứ tốt đẹp khi cuộc sống còn quá nghèo nàn, gian lao. Lúc ấy con người
với thiên nhiên trăng là tri kỷ, tình nghĩa.
Khổ thơ kết lại bài thơ bằng hai vế đối lập mà song song:
“Trăng cứ tròn vành vạnh
… Đủ cho ta giật mình”
Ở đây có sự đối lập giữa “tròn vành vạnh” và “kẻ vô tình”, giữa cái im lặng của
ánh trăng với sự giật mình” thức tỉnh của con người. Vầng trăng ý nghĩa
biểu tượng sâu sắc. Hình ảnh “vầng trăng tròn vành vạnh”, ngoài nghĩa đen
vẻ đẹp tự nó mãi mãi vĩnh hằng của cuộc sống còn có nghĩa tượng trưng cho
vẻ đẹp của nghĩa tình quá khứ, đầy đặn, thuỷ chung, nhân hậu bao dung của
thiên nhiên, của cuộc đời, con người, nhân dân, đất nước.
Hình ảnh “ánh trăng im phăng phắc” ý nghĩa nghiêm khắc nhắc nhở nhà thơ
cả mỗi chúng ta con người thể tình, thể lãng quên nhưng thiên
nhiên, nghĩa tình quá khứ thì luôn tròn đầy, bất diệt. Sự không vui, sự trách móc
trong lặng im của vầng trăng stvấn lương tâm dẫn đến cái “giật mình”
câu thơ cuối. Cái “giật mình” cảm giác phản xtâm thật của một
người biết suy nghĩ, chợt nhận ra sự tình, bạc bẽo, sự nông nổi trong cách
sống của mình.
Cái “giật mình” của sự ăn năn, tự trách, tự thấy phải đổi thay trong cách sống.
Cái “giật mình” tự nhắc nhở bản thân không bao giờ được làm người phản bội
quá khứ, phản bội thiên nhiên, sùng bái hiện tại coi rẻ thiên nhiên. Thiên
Văn mẫu lp 9: Cm nhn 2 kh thơ cuối bài thơ Ánh Trăng
17
nhiên thật nghiêm khắc, lạnh lùng nhưng cũng thật ân tình, độ lượng bao dung,
vầng trăng và thiên nhiên là trường tồn, bất diệt. Thì ra những bài học sâu sắc về
đạo làm người đâu cứ phải tìm trong sách vhay từ những khái niệm trừu
tượng xa xôi.
Ánh trăng thật sự đã như một tấm gương soi để thấy được gương mặt thực của
mình, để tìm lại cái đẹp tinh khôi chúng ta tưởng đã ngủ ngon trong quên
lãng.
Cảm nhận khổ 5, 6 bài thơ Ánh trăng
Nguyn Duy thuc thế h nhà văn trưởng thành trong kháng chiến chống Mĩ.
c ra t cuc chiến, hồn thơ Nguyễn Duy lại đau đáu, trăn trở vi nhng
min kí ức xa xưa và ân nghĩa trong kháng chiến thu nào. Bài thơ “Ánh trăng”
th hin mt phn tâm s như thế của nhà thơ. Đoạn thơ sau đây thể hin rt rõ
điều đó:
...T hi v thành ph
đủ cho ta git mình.
(Ánh trăng - Nguyn Duy)
Bài thơ ra đời khi đất nước đã đi qua những cuc chiến tranh gian khó. Nhà thơ
ri nhng chiến trường để v vi hoà bình, v vi m êm. C ng rng cuộc đời
t nay ch có ph phường, đèn điện; những năm tháng cũ đã qua rồi, tt c mt
đi không trở li...
T những năm tháng tuổi thơ bươn trải nhc nhn gn bó với đồng, vi sông ri
vi b cho đến nhng năm tháng chiến tranh gian kh sng vi rng, bao gi
trăng cũng gần gũi, thân thiết. Giữa con người vi thiên nhiên, với trăng là mối
Văn mẫu lp 9: Cm nhn 2 kh thơ cuối bài thơ Ánh Trăng
18
quan h chung sng, quan h thâm tình khăng khít. Trăng là người bạn đồng
hành trên mỗi bước đường gian lao nên trăng hiện diện như là hình ảnh ca quá
kh, là hin thân ca kí ức chan hoà tình nghĩa. Người ta c đinh ninh về s bn
cht ca mi giao tình ấy, nhưng:
T hi v thành ph
quen ánh điện, cửa gương
vầng trăng đi qua ngõ
như người dưng qua đường…
Cuc sng hiện đại vi ánh sáng chói loà của ánh điện, cửa gương đã làm lu mờ
ánh sáng ca vầng trăng. Tác giả đã tạo ra s đối lp gia hình nh vầng trăng
tri kỉ, tình nghĩa trong quá khứ và vầng trăng "như người dưng qua đường"
trong hin ti. S đối lp này din t những đổi thay trong tình cm ca con
ngưi. Thủa trước, ta hn nhiên sng với đồng, vi sông, vi b, vi gian lao "
rng", khi ấy trăng chan hoà tình nghĩa, thiên nhiên và con người gần gũi, hoà
hp. Bây gi, thói quen cuc sống phương tiện đủ đầy khiến ta không còn thy
trăng là tri kỉ, nghĩa tình nữa. Nhà thơ nói về trăng là để nói thế thái, nhân tình.
Tuy nhiên, cuc sng hiện đại luôn có nhng bt trc. Và chính trong nhng bt
trc y, ánh sáng ca quá kh, ca ân tình li bng tỏ, là lúc người ta nhn thy
giá tr ca quá kh gian lao mà tình nghĩa, thiếu thốn mà đủ đầy:
Thình lình đèn điện tt
phòng buyn-đinh tối om
vi bt tung ca s
đột ngt vầng trăng tròn…
Đây là khổ thơ quan trọng trong cu t ca toàn bài, là s chuyn biến có ý
nghĩa bước ngot ca mch cm xúc, bc l rõ ch đề tư tưởng của bài thơ.
Văn mẫu lp 9: Cm nhn 2 kh thơ cuối bài thơ Ánh Trăng
19
Không ch là s thay thế đúng lúc của ánh trăng cho ánh điện, đây còn là sự
thc tnh, bng ng v ý nghĩa của những ngày tháng đã qua, của nhng cái
bình d ca cuc sng, ca t nhiên, là sc sống vượt ra ngoài không gian, thi
gian ca tri kỉ, nghĩa tình. Các từ "bật tung", "đột ngt" din t trng thái cm
xúc mnh m, bt ngờ. Có cái gì như thảng tht, lo âu trong hình nh "vi bt
tung ca s". Vầng trăng tròn đâu phải khi "đèn điện tt" mới có? Cũng như
những tháng năm quá khứ, v đẹp của đồng, sông, b, rng không h mất đi.
Ch có điều con người có nhn ra hay không mà thôi. Và thế là trong cái khonh
khắc "thình lình" đối din với trăng ấy, ân tình xưa "rưng rưng" sống dy, thn
thức lòng người:
Nga mt lên nhìn mt
có cái gì rưng rưng
như là đồng là b
như là sông là rừng…
“Ngửa mt lên nhìn mặt” viết như vậy để hai gương mặt - hai người bạn cũ nhìn
thẳng vào nhau, để t hi nhau rng còn nh nhau chăng, để nhng k niệm xưa
cht vt v trong kí ức, để làm se thắt lòng người vì nhng vô tình h hng ca
chính mình. Qu có vậy, đối din với trăng là đối din vi chính mình, vi con
ngưi hin ti và c với con người trong quá kh. Vầng trăng mang ý nghĩa biểu
ng. Mt trăng đối din vi mặt người, mặt trăng cũng là mặt người, là quá
kh đang sáng trong thực tại, trăng là tri kỉ, ân tình xưa,...
Trăng cứ tròn vành vnh
K chi người vô tình
ánh trăng im phăng phắc
Đủ cho ta git mình
Văn mẫu lp 9: Cm nhn 2 kh thơ cuối bài thơ Ánh Trăng
20
Vầng trăng đột ngt hin ra vi mt v đẹp ám ảnh lòng người. ’’Trăng cứ tròn
vành vạnh”, thời điểm trăng tròn chính là vào ngày rằm hàng tháng. Câu thơ gợi
đến v đầy đặn, tròn tra ca vầng trăng và cũng là vẻ sáng tươi hiền du ca th
ánh sáng trong lành nhất vũ trụ. Đêm trăng tròn, trăng để khp không gian tràn
đi ánh sáng vàng dịu, sóng sánh như mật ngọt. Trăng như rải bc trên mt nước.
Trăng như tưới sạch, làm đẹp, làm bóng lên những lùm cây. Trăng làm mặt
ngưi hn h vui cười. Và nói như nhà văn Nam Cao: trăng làm mọi th đẹp
lên! Nhưng vẻ “tròn vành vạnh” của vầng trăng còn gợi đến một suy tưởng khác:
vầng trăng còn tròn đầy “vành vạnh” nghĩa là trăng vẫn còn trn vn nhng ân
nghĩa xưa với những người lính năm nào. Và điều đáng quý, đáng nghĩ là trăng
vn tròn ngay c khi người đã “vô tình":
“Trăng cứ tròn vành vnh
K chi người vô tình".
Câu thơ gieo vào lòng người đọc mt thoáng giật mình để ri thấy ăn năn, day
dt. Vầng trăng kia cũng giống như bao con người, bao kí ức đẹp đẽ đã đi qua
đời ta. Những con người ca quá kh, nhng kí ức xa xưa... tất thy vn còn
nguyên tm lòng thu chung trn vn. Còn riêng ta, mi mt chút phù hoa, danh
lợi mà đã quên đi những ân tình, nhng th nguyền thiêng liêng xưa cũ. Và rồi,
ta càng thy day dứt, băn khoăn hơn bởi khong lng mênh mang ca vng
trăng tròn cao thượng:
"Ánh trăng im phăng phắc
Đủ cho ta giật mình”.
"Ánh trăng im phăng phắc" để ngân mãi nhng dòng ánh sáng to đi khắp nhân
gian. Điều đó cũng có nghĩa trăng mãi hao dung, hiền t và độ ợng. Cái đáng
s là cái im lng ca kí ức. Ta đã quên đi quá khứ, ta đã có lỗi với người xưa để
sng mt cuộc đời n ào, náo nhiệt nhưng tất c vn im lng dõi theo ta vi cái
Văn mẫu lp 9: Cm nhn 2 kh thơ cuối bài thơ Ánh Trăng
21
nhìn bao dung, rng m. Và chính bi s cao thượng ấy đã khiến ta “giật mình”.
“Giật mình” để nhn ra s cao đẹp của người xưa. “Giật mình” để nhn ra phn
h hững, lãng quên đáng chê trách của mình. “Giật mình” còn để biết nhìn li
mình cho đúng. Tiền tài danh lợi, đó chưa phải là điều quý giá nht đời. Phi
biết sống có tình, có nghĩa, thuỷ chung trn vẹn trước sau mi khiến lòng người
sch trong và thanh thn.
Không dùng nhiu th pháp ngh thut cu k, tinh xảo, đoạn thơ của Nguyn
Duy đi vào lòng người bi s gin d ca quy lut tình cm rất con người. Đọc
kh thơ, người đọc thy thm thía triết lí sâu xa mà nhà thơ đã gửi gm. Phi
biết sống đủ đầy, trn vn vi những ân tình xưa cũ để chúng ta được sống đủ
đầy, thanh thn trong cuộc đời.
Bài thơ giống như một câu chuyn riêng, mt câu chuyn ân tình giữa người vi
trăng. Sự kết hp gia yếu t t s và tr tình to nên giọng điệu tâm tình cho
c bài thơ. Nhịp thơ nhịp nhàng theo li k t nhiên ca nhân vt tr tình,
nhưng cũng có khi ngân nga, tha thiết hay có khi trm lng, suy tư.
Cảm nhận khổ thơ 5 và 6 bài thơ Ánh trăng
Bài thơ Ánh trăng của Nguyn Duy mang dáng dp mt câu chuyn nh, mt
li tâm tình k theo trình t thi gian. Dòng cm hng trnh của nhà thơ chảy
theo mch t s đó. Ở quãng thi gian gia quá kh và thc ti đã có một s
biến đổi, mt s thực đáng chú ý: bắt đu t hi c v “hi nhỏ”, ‘hồi chiến
tranh” sống gần gũi, gắn bó vi thiên nhiên, vi vầng trăng: “không bao giờ
quên cái vầng trăng tình nghĩa”. Tiếp đó là sự đổi thay ca hoàn cnh hin ti:
“T hi v thành phổ”, con người sng vi nhng tin nghi hiện đại mà quên đi
vầng trăng: “vầng trăng đi qua ngõ như người dưng qua đường”.
Văn mẫu lp 9: Cm nhn 2 kh thơ cuối bài thơ Ánh Trăng
22
Trước hết, ánh trăng của Nguyn Duy là hình ảnh đẹp ca thiên nhiên vi tt c
nhng gì là thi v, gần gũi, hồn nhiên, tươi mát. Ánh trăng gần vi tui ấu t
ca tác gi. Vng trăng ấy hồn nhiên như cuộc sống, như đất tri. Cuc sng
hoà bình “ánh điện của gương, buyn đinh” đã khiến cho nhà thơ nhìn ánh trăng
như một “người dưng qua đường”. Con người tng mt thi chiến đu, tng
ngang dc trên nhiu chiến trường đã có lúc như lãng quên quá khứ
ng chừng như tất c là l thường tình nếu không có s c y xảy đến. Trong
dòng din biến theo thi gian, s vic bất thường kh thơ thứ tư: “thình lình
đèn điện tắt” chính là bước ngoặt để tác gi bc l cm xúc, th hin ch đề tác
phm. Vầng trăng tròn ở ngoài kia, trên kia đối lp với “phòng buyn-đinh tối
om”. Chính vì xuất hiện đột ngt trong bi cnh y, vầng trăng bất ng mà t
nhiên đã gợi ra bao k niệm nghĩa tình. Phải đột ngột như thế. Phi bt ng như
thế, vầng trăng mới làm thc dậy trong tâm trí con người bao cm xúc:
“Nga mt lên nhìn mt
có cái gì rưng rưng
như là đồng là b
như là sông là rừng”
Nhà thơ lặng l đi din vi vầng trăng trong tư thế lng im có phn thành kính:
“ngửa mt lên nhìn mặt”. Từ “mặt” cuối câu thơ là từ nhiều nghĩa, tạo nên s đa
dạng nghĩa của ý thơ. Đối din với trăng, nhà thơ làm thức tnh tình cảm, lương
tâm con người: như nhìn thấy c mặt trong đó và tư vấn lương tâm, hổ then, ân
hn v s thay đi ca mình.
Cuộc đối thoi không li trong khonh khc ấy đã làm nhà thơ “rưng rưng” xúc
động vì quá kh vt vả, gian lao nhưng tràn ngập nim vui cùng với trăng, với
thiên nhiên bấy lâu tưởng đã lãng quên bỗng ùa v trong ni nh khiến nhà thơ
nghẹn ngào… Vầng trăng trong bài thơ còn có ý nghĩa biểu tượng: biểu tượng
Văn mẫu lp 9: Cm nhn 2 kh thơ cuối bài thơ Ánh Trăng
23
cho quá kh nghĩa tình, biểu tượng cho v đẹp bình d và vĩnh hằng của đời
sng. Vầng trăng đâu chỉ làm ùa dy trong tâm trí nhng hình nh ca thiên
nhiên, của quê hương đất nước, mà còn đánh thức trong tâm trí con người bao
k nim hn nhiên ca thi tui nh, bao k niệm nghĩa tình của mt thi gian
lao chiến đấu.
Cuc sng hin tại như ngừng lại để con người soi vào quá kh, vào mt thi h
đã lãng quên. Con người có cơ hội soi vào chính mình, nhn ly li lm. Có quá
kh xa và gn, có đất nước và quê hương, thiên nhiên và cuộc sống, lao động và
chiến đấu, có tp th và cá nhân.
Trăng còn gợi lên hình nh ca hin ti, s giàu đẹp, ni gian lao, vt v còn
phi phấn đấu, nim tin và hy vng, s hùng vĩ của thiên nhiên đất nước và sc
mnh của con người trong cuc sng thông qua mt lot các điệp t “như là”
cùng nhịp thơ dồn dp, các hình nh liệt kê: “như là đồng là bể”, “như là sông là
rừng”. Tất c làm cho người đọc thc s xúc động và hoà chung cm xúc vi
tr tình của bài thơ.
Kh thơ cui th hin nhng suy ngm sâu sc và triết lý nhân sinh của nhà thơ
qua hình tượng trăng. Trong cuộc gp g không hn trước này trăng và người
như có sự đối lp:
“Trăng cứ tròn vành vnh
k chi người vô tình
ánh trăng im phăng phắc
đủ cho ta giật mình”
Trăng đã trở thành biểu tượng cho s bt biến, vĩnh hằng không thay đổi, “cứ
tròn vành vạnh” biểu tượng cho s tròn đầy, thu chung, nghĩa tình trọn vn ca
thiên nhiên, ca quá khứ, dù cho con người đổi thay hay “vô tình” đi chăng nữa.
Văn mẫu lp 9: Cm nhn 2 kh thơ cuối bài thơ Ánh Trăng
24
Ánh trăng còn được nhân hoá “im phăng phắc” không một li trách c, gi liên
ởng đến cái nhìn nghiêm khắc mà bao dung, độ ng của người bn thu
chung, tình nghĩa, nhắc nh nhà thơ và mỗi chúng ta: con người có th vô tình
quên nhưng thiên nhiên, nghĩa tình quá khứ thì luôn thy chung, son sắt đến
muôn đời.
Tình cm và tm lòng ca vầng trăng chính là tình cảm ca những người đồng
chí đồng đội, của đồng bào, của nhân dân ta đối với người lính. S im lng y
làm nhà thơ “giật mình” thức tnh nhn ra li lầm. Cái “giật mình” của lương
tâm, lương tri nhà thơ thật đáng trân trong. Nó thể hin s suy nghĩ, trăn trở t
đấu tranh với chính mình để sng tốt hơn. Giật mình để không chìm vào lãng
quên. Giật mình để không đánh mất quá khứ. Con người giật mình trước ánh
trăng lặng l là s thc tnh ca nhân cách tr v với lương tâm trong sạch, tt
đẹp, cao quý.
Dòng thơ cuối dn nén biết bao nim tâm s, là li sám hối ăn năn dù không cất
lên nhưng chính vì thế càng tr nên ám nh, day dứt. Qua đó, Nguyễn Duy
mun gửi đến mi người li nhc nh v l sng, v đạo lý ân nghĩa thuỷ chung
ca dân tộc ta đến thế h mai sau: dù cuc sống có bao nhiêu thay đổi đi chăng
nữa thì cũng đừng bao gi lãng quên quá kh đau thương nhưng nghĩa tình thủy
chung ca dân tc.
“Ánh trăng” của Nguyn Duy gây nhiều xúc động bi cách din t bình d n
li tâm s, li t thú, nhc nh chân thành. Giọng thơ trầm tĩnh, sâu lắng, thì
thầm như rót vào lòng người. Bài thơ có ý nghĩa sâu sắc, khái quát bi li nhn
nh không ch dành riêng cho những người lính chng M mà nó có ý nghĩa với
tt c mọi người, mi thi trong đó có thế h chúng ta.
“Ánh trăng” không chỉ thành công triết lý sâu xa ca nhân vt tr tình mà còn
thành công ngh thut kết cu, giọng điệu. Đó là sự kết hp hài hoà, t nhiên
Văn mẫu lp 9: Cm nhn 2 kh thơ cuối bài thơ Ánh Trăng
25
gia t str tình. S vic trong t s dn mch cho cm xúc tr tình, làm
cho cm xúc chân thành, tha thiết. Th thơ 5 chữ phù hp vi cht t s đưc
th hin bng giọng điệu tâm tình, thm thía. Cách trình bày các ch đầu dòng
thơ làm cho các sự vic din ra lin mch v ý tưởng cũng như về hình ảnh thơ.
Nhịp thơ khi trôi chảy, t nhiên, nhp nhàng theo li k; khi ngân nga thiết tha
cm xúc; lúc li trm lắng đầy ắp suy tư. Kết cu, giọng điệu thơ làm nổi bt
ch đề ca tác phm to nên tính chân thc, chân thành sc truyn cm sâu sc
cho tác phm, gây n tượng mnh với người đọc.
Ch đề bài thơ có liên quan đến đạo lý, l sng ca dân tc Vit Nam ta. T mt
câu chuyện riêng, bài thơ cất lên li t nhc nh thm thía v thái độ, tình cm
đối vi những năm tháng quá khứ gian kh mà nghĩa tình đối vi thiên nhiên,
đất nước bình dị. Bài thơ gợi lên những suy nghĩ về đạo lý, l sng của người
Vit Nam. Nó không ch là câu chuyn của riêng nhà thơ, riêng một người mà là
ca c mt thế h đã trải qua nhng năm dài chiến tranh gian kh, mất mát, đã
tng sng gia thiên nhiên, sng giữa nhân dân tình nghĩa. Giờ đây sống trong
cnh hoà bình vi nhng tiện nghi đầy đủ, hiện đại, người ta có th thay đổi,
đánh mất quá khứ, đánh mất nghĩa tình để ri mt lúc nào đó lại phi ân hận, ăn
năn.
T câu chuyn v ánh trăng, khổ thơ 5 và 6 bài thơ Ánh trăng nhẹ nhàng nhc
nh chúng ta đừng bao gi quên quá kh, đng bao gi tr thành nhng k
tình, vô nghĩa, bạc bẽo, vô ơn. “Ánh trăng” nằm trong mch cảm xúc “uống
c nh nguồn” gợi lên đạo lý sng thu chung đã trở thành truyn thng tt
đẹp ca dân tc Vit Nam.
Phân tích 2 khổ thơ cuối bài thơ Ánh Trăng
Nhng truyn thng tốt đẹp lâu đời ca dân tc Việt Nam luôn được các tác
gi trong nước gi gìn khéo léo bc bch ngay chính các tác phm ca
Văn mẫu lp 9: Cm nhn 2 kh thơ cuối bài thơ Ánh Trăng
26
mình. Nguyễn Duy cũng là một trong s đó, khi tưởng ‘ăn quả nh k
trồng cây” ni dung xuyên suốt trong Ánh trăng- một bài thơ được xut bn
trong sách giáo khoa Ng văn 9.
Hình tượng chính trong bài đã đưc ông lấy làm tên bài thơ “Ánh trăng”, thm
đượm ý nghĩa nhân văn và tư tưởng triết lun. Nguyn Duy gi gắm vào đó biết
bao những suy nghĩ, chiêm nghim v l sng thy chung cao quý trong cuc
đời mỗi con người tha thiết mong mun gửi đến chúng ta một thông điệp:
“Hãy lắng li mt phút cái chen ln, bn bu ca cuc sống đ nhìn li bn thân
mình!”
l bi rằng ông luôn đau đáu một điều: Dân tc ta phi luôn nh v ci
ngun, biết t soi ri, t ý thc v nhng lm li của mình, để ng thin.
Nhưng tâm niệm đó không bị truyn ti theo cách gò bó hay cng nhc, Nguyn
Duy ch đơn giản là dùng giọng điệu tâm tình k mt câu chuyện cho người đọc,
câu chuyn cuộc đời ca chính tác gi.
T những câu thơ đầu tiên cất lên, người đọc được ông nh nhàng đưa v vi
quá kh và tuổi thơ tươi đẹp gn lin với thiên nhiên. Ông đưc t nhiên tìm tòi,
khám phá cm nhn những điều gần gũi nhất nuôi dưỡng mình trưởng thành
cho đến ngày chính thc tr thành một người lính.
Dn dn khi sng rừng sâu, ánh trăng tr thành tri k và bu bn. Nguyn Duy
th nm ng ới trăng, đứng gác ới trăng, trăng cùng chia s nhng gian
lao nim vui thng trn ca cuộc đời người lính. ràng tt c đã khiến ta
những tưởng rng mi quan h tình cm y s luôn gắn keo sơn, mãi i
chng ri.
Thế nhưng khi mch câu chuyn tr v hin tại thì điều “ngỡ không bao gi
quên” lại gần như chẳng còn tn ti trong tâm trí. Vi ging k trm ngâm,
mang nhiều nét suy tư, Nguyễn Duy đưa ta theo dòng thời gian ti cảnh đời
Văn mẫu lp 9: Cm nhn 2 kh thơ cuối bài thơ Ánh Trăng
27
sống con người bắt đầu thay đổi theo s tp np phn hoa của đô thị. Có l cũng
vậy lòng người cũng đổi theo, ánh sáng của đèn điện gi đã thay cho
ánh sáng của ánh trăng.Từng là người bn tri k, thế nhưng giờ thấy trăng đi qua
ngõ cũng chỉ giống như hai người xa l t qua nhau.
S thay đổi này cũng diễn ra trong chính lòng người lính. Giọng tthì thầm
như nhắc nh việc anh đã quên mất đi người bạn năm xưa, người đã tng theo
anh sut những năm tháng tuổi thơ, người đã luôn bên cạnh nhng ngày tháng
gian lao trong rng. Phải chăng anh đã thực s thay đổi, cn phi t trách
sám hi?
Anh lính y va k cho người đọc cũng t nói chuyn với chính mình, suy nghĩ
v vic bản thân đã thay đi tình cảm quên đi vẻ đẹp ca thiên nhiên, bình d.
Anh có đang chỉ sng cho hin tại mà quên đi quá khứ? Hưởng th yên vui hin
ti mà quên mt đi giá trị ca nhng ngày tháng gian kh?
Không dng li đó, một cuc sng vô cùng chân thật được Nguyn Du sáng
tạo nên, đưa tất c chìm vào bóng ti. H thống đèn điện nơi đô thị bng cht
vt tắt, không gian phòng đinh tối om. Như bao người khác, phn x đầu tiên
của người chiến sĩ là vội bt tung ca s tìm kiếm ánh sáng.
đột ngt làm sao, anh cht nhn ra hóa ra vầng trăng vẫn đó, tròn đẹp
thủy chung đợi ch:
"Nga mt lên nhìn mt
Có cái gì rưng rưng
Như là đồng, là b
hư là sông, là rừng"
Ngưi ngắm trăng suy ngẫm bâng khuâng “Ngửa mt lên nhìn mặt”. Mặt
ngưi mặt trăng đối nhau trong tích tắc cũng được din t ch bng mt
Văn mẫu lp 9: Cm nhn 2 kh thơ cuối bài thơ Ánh Trăng
28
vần thơ. Gương mt kia của trăng kia sao vừa xa l li va thân quen, n
chứa nghĩa tình tri kỷ mà bấy lâu nay người lính dửng dưng.
Sau rt nhiều năm vẫn luôn cạnh nhưng chẳng bao gi tiếp xúc, cui cùng
hai người bạn đã thc s gp li nhau. vầng trăng kia chẳng trách móc, thế
nhưng lại cũng đủ để người lính rưng rưng xúc động, nghn ngào. Biết bao
nhng ức tươi đẹp cht ùa v trong m trí người lính khiến nước mt anh
trào ra. Anh như nhìn thy biết bao hình ảnh "như đồng là bể, như sông
rừng” quen thuộc vào mến thương nhường nào.
Câu trúc của câu thơ sóng đôi kết hp vi phép tu t so sánh, t “là" được nhc
li bn ln cho ta thy ngòi bút ca Nguyn Duy tht tài hoa. S gn chan
hòa giữa người lính thiên nhiên trong quá kh đưc ông gi lên tht sng
động. Tht khéo léo làm sao, bởi nói đến đất nước, đến đồng, đến sông, đến
bể, … là nhắc đến nhng gì gn bó sâu sc nht vi tuổi thơ và chiến tranh.
kh thơ đầu ta cũng tng thy nhng hình nh này xut hin mt ln. Hóa ra
trăng kia xuất hin với vai trò như một biểu tượng ca quá kh, mt quá kh
đầy nghĩa tình đã tm b lãng quên nhưng chưa bao giờ biến mất. đánh thức
những năm tháng hoa niên ấy cho đến khi cầm súng hành quân đuổi giặc dưới
nhng cánh rng.
Nhng c sống động y ch cn mt tác nh đã trở nên ràng sâu đậm
hơn bao giờ hết. C người đọc tác gi cùng chìm đm chiêm nghim v
ánh trăng tình nghĩa một thi:
Trăng cứ tròn vành vnh
K chi người vô tình
Ánh trăng im phăng phắc
Đủ cho ta git mình
Văn mẫu lp 9: Cm nhn 2 kh thơ cuối bài thơ Ánh Trăng
29
chuyn xảy ra, ánh trăng kia vn luôn tròn vnh, thy chung nhân
hậu như thế. Mặc cho con người vô tình vẫn luôn bao dung độ ng không mt
li trách c đ mt ngày k ti git mình nhìn thy khiếm khuyết, va tnh
ng và va biết ơn.
Thế nhưng vậy cũng thực s rất khó để t hết được tâm trng khi y ca con
ngưi bng li. Trong hai ch “giật mình” như còn n cha c cảm giác ăn năn
và hi lỗi đầy chân thành. Dù không th ct lên thành li thế nhưng cũng vì vậy
thơ Nguyễn Duy li chút day dt vào ám ảnh hơn. Ông cũng bắt đầu đưa
vào bài nhân xưng “ta” như muốn để t li với ánh trăng.
Người xưa vẫn câu “Trong cái rủi cái may”, l s c mất điện ca
thành ph đã mang lại cho độc gi Nguyn Duy mt món quà ln: Chân
ng s vic. Dù s tht y có khiến con người cm nhn nim ân hn, day dt
nhng vn thật đáng giá bởi khiến ta nghiêm khc nhìn thng vào nhng sai
lm và hiểu được điều gì mi thc s quý giá, cao đẹp và vĩnh hằng.
Bài thơ là lời t s ca tác giả, nhưng cũng thật đặc bit bởi ta cũng thể thy
câu chuyn của chính mình qua đó. T nhng tâm tình, k nim sâu kín trong
lòng ca Nguyễn Duy người đọc hội nhìn nhn li li sng hin ti
nhận được những thông điệp v s đáng giá của quá khứ. Đây cũng chính
đim hay nht ca bài khi sc mnh cảm hóa được lòng người.
Nh những dòng thơ c quý báu ca Nguyn Duy, tâm hn mỗi độc gi
như được thanh lc hoàn toàn khi nhng bn b thường ngày, lay động li
những điều quý báu đã bị thi gian chôn vùi.
Văn mẫu lp 9: Cm nhn 2 kh thơ cuối bài thơ Ánh Trăng
30
Viết đoạn văn nêu cảm nhận của em về 2 khổ thơ cuối Ánh trăng
trong đó có sử dụng câu cảm thán
Mẫu 1
Trong bài thơ Ánh trăng của Nguyn Duy Nhuệ, đã cho người đọc li khuyên
nh: phi biết thy chung, phi biết ơn nghĩa tình nng vi nhân dân, với đất
c.
Nga mt lên nhìn mt
Có cái gì rưng rưng
Như là đồng là b
Như là sông là rừng.
Trăng cứ tròn vành vnh
K chi người vô tình
Ánh trăng im phăng phắc
Đủ cho ta git mình.
Trăng người bn tri âm tri k không ch vi những người lính mà là biết bao
thế hệ. Nhưng khi cuộc sống thay đi thì con người cũng không còn tha thiết
ngắm trăng nữa. H không còn nh đến s hin din của trăng nên trăng mi
"rưng rưng" khóc. Trăng cho con người v đẹp để h ngm cho tâm hồn vơi nhẹ
ni lòng. y vậy sao con người li n xao nhãng v đẹp và không còn tha thiết
với trăng nữa? Bng phép điệp cu trúc và so sánh, Nguyễn Duy đã khiến trăng
hin lên là mt tình nghĩa nhưng lại b người đời quên lãng. Còn kh thơ cuối,
trăng lại hin lên là mt s nhân t. Dẫu người đi có quên lãng nó, trăng vẫn
im "phăng phắc". Trăng vẫn mt lòng thy chung son st, vn không oán trách
người đi. Chao ôi, tht là mt vng trăng không ch có v đp viên mn mà
Văn mẫu lp 9: Cm nhn 2 kh thơ cuối bài thơ Ánh Trăng
31
cn có tm lng nhân hu biết bao! Đọc những câu thơ v trăng, chắc hn ai
cũng cm thấy yêu trăng hơn vì phm chất đáng quý ca nó.
Mẫu 2
Nga mt lên nhìn mt
có cái gì rưng rưng
như là đồng là b
như là sông là rừng
Trăng cứ tròn vành vnh
k chi người vô tình
ánh trăng im phăng phắc
đủ cho ta git mình
Hai kh thơ cuối bài tÁnh trăng nhng xúc cảm ăn năn ca nhân vt tr
tình khi nhìn v vầng trăng trên cao. Hành đng "nga mt" lên "nhìn mt"
đó xót xa, cay đng biết bao! Quá kh b lãng quên nay tr v ào ào như
mạch nước ngầm. "rưng rưng" kia hn giọt nước mt của đau xót, của
chua chát trong lòng. So sánh, liệt trong "như là đồng bể/ như sông
rng" n cha ức tươi đẹp ca mt thi. Thiên nhiên tươi đẹp đã cùng người
lính chiến đấu nay tr v trong li nhc nh đầy nghiêm nghị. Nhưng dầu
con người đổi thay thì đó, vẫn mãi "trăng cứ tròn vành vnh" - vn
nguyên tình cùng thủy chung. Con người "vô tình" không làm trăng kia
thay đổi. Nhân hóa "ánh trăng im phăng phắc" giúp người đọc hình dung v s
nghiêm cn, nhc nh ca vầng trăng. Đủ để git mình, giật mình ăn năn,
hi hận và hơn thế là làm con người biết lỗi sai để sửa, để thay đổi mình.
| 1/31

Preview text:

Văn mẫu lớp 9: Cảm nhận 2 khổ thơ cuối bài thơ Ánh Trăng
Sơ đồ tư duy Cảm nhận 2 khổ cuối Ánh trăng
Dàn ý cảm nhận 2 khổ thơ cuối bài Ánh Trăng
Dàn ý chi tiết số 1 A. Mở bài
● Giới thiệu nhà thơ Nguyễn Duy.
● Tập thơ “Ánh trăng” của ông được tặng giải A của Hội Nhà Văn Việt
Nam năm 1984. Trong đó, có bài thơ mà tựa đề dùng làm nhan đề cho cả tập thơ: Ánh Trăng.
● Hai khổ thơ cuối bài thơ cho ta thấy sự thức tỉnh của con người và nhắc
nhở đạo lí “Uống nước nhớ nguồn” của dân tộc ta. B. Phân tích:
● Cảm xúc và suy ngẫm của tác giả trước vầng trăng.
● Hình ảnh “trăng cứ tròn vành vạnh” là tượng trưng cho quá khứ nghĩa
tình, thủy chung, đầy đặn, bao dung, nhân hậu. 1
Văn mẫu lớp 9: Cảm nhận 2 khổ thơ cuối bài thơ Ánh Trăng
● Hình ảnh “ánh trăng im phăng phắc” mang ý nghĩa nghiêm khắc nhắc
nhở, là sự trách móc trong lặng im. C. Kết luận - Nội dung:
● Hai khổ cuối bài thơ cho ta thấy sự thức tỉnh của con người.
● Lời nhắn gửi con người không được lãng quên quá khứ gian khổ mà sâu đậm nghĩa tình.
● Lời nhắc nhở về nghĩa tình thiêng liêng của nhân dân, đất nước và đạo lí uống nước nhớ nguồn. - Nghệ thuật:
● Thể thơ ngũ ngôn với nhiều sáng tạo độc đáo.
● Sự kết hợp hài hòa giữa chất tự sự và trữ tình.
● Ngôn ngữ, hình ảnh giản dị, gần gũi mà giàu sức gợi.
● Giọng điệu tâm tình thấm thía, khi thì thiết tha cảm xúc, lúc lại trầm lắng, suy tư.
Dàn ý chi tiết số 2
A. Giới thiệu chung:
- Giới thiệu nhà thơ Nguyễn Duy, nhà thơ quân đội, đã được giải nhất cuộc thi
thơ của báo Văn Nghệ 1972 – 1973, một gương mặt tiêu biểu cho lớp nhà thơ
trẻ thời chống Mĩ cứu nước.
- Tập thơ “Ánh trăng” của ông được tặng giải A của Hội Nhà Văn Việt Nam
năm 1984. Trong đó, có bài thơ mà tựa đề dùng làm nhan đề cho cả tập thơ :
Ánh Trăng. Bài thơ là một câu chuyện riêng nhưng có ý nghĩa triết lý như một 2
Văn mẫu lớp 9: Cảm nhận 2 khổ thơ cuối bài thơ Ánh Trăng
lời tự nhắc nhở thấm thía của nhà thơ về lối sống nghĩa tình, thủy chung với quá
khứ gian lao, với thiên nhiên, đất nước và đồng đội.
-Hai khổ thơ cuối bài thơ cho ta thấy sự thức tỉnh của con người và nhắc nhở
đạo lí “Uống nước nhớ nguồn” của dân tộc ta. B. Phân tích:
Cảm xúc và suy ngẫm của tác giả trước vầng trăng.
- Từ “mặt” được dùng với nghĩa gốc và nghĩa chuyển – mặt trăng, mặt người –
trăng và người cùng đối diện đàm tâm.
- Với tư thế “ngửa mặt lên nhìn mặt” người đọc cảm nhận sự lặng im, thành
kính và trong phút chốc cảm xúc dâng trào khi gặp lại vầng trăng: “có cái gì
rưng rưng”. Rưng rưng của những niềm thương nỗi nhớ, của những lãng quên
lạnh nhạt với người bạn cố tri; của một lương tri đang thức tỉnh sau những ngày
đắm chìm trong cõi u mê mộng mị; rưng rưng của nỗi ân hận ăn năn về thái độ
của chính mình trong suốt thời gian qua. Một chút áy náy, một chút tiếc nuối,
một chút xót xa đau lòng, tất cả đã làm nên cái “rưng rưng”,cái thổn thức trong
sâu thẳm trái tim người lính.
- Và trong phút giây nhân vật trữ tình nhìn thẳng vào trăng- biểu tượng đẹp đẽ
của một thời xa vắng, nhìn thẳng vào tâm hồn của mình, bao kỉ niệm chợt ùa về
chiếm trọn tâm tư. Kí ức về quãng đời ấu thơ trong sáng, về lúc chiến tranh máu
lửa, về cái ngày xưa hồn hậu hiện lên rõ dần theo dòng cảm nhận trào dâng
“như là đồng là bể, như là sông là rừng”. Đồng, bể, sông, rừng, những hình ảnh
gắn bó nơi khoảng trời kỉ niệm.
-> Cấu trúc song hành của hai câu thơ, nhịp điệu dồn dập cùng biện pháp tu từ
so sánh, điệp ngữ và liệt kê như muốn khắc họa rõ hơn kí ức về thời gian gắn bó
chan hòa với thiên nhiên, với vầng trăng lớn lao sâu nặng, nghĩa tình, tri kỉ. 3
Văn mẫu lớp 9: Cảm nhận 2 khổ thơ cuối bài thơ Ánh Trăng
Chính thứ ánh sáng dung dị đôn hậu đó của trăng đã chiếu tỏ nhiều kỉ niệm thân
thương, đánh thức bao tâm tình vốn tưởng chừng ngủ quên trong góc tối tâm
hồn người lính. Chất thơ mộc mạc chân thành như vầng trăng hiền hòa, ngôn
ngữ hàm súc, giàu tính biểu cảm như “có cái gì rưng rưng”,đoạn thơ đã đánh
động tình cảm nơi người đọc.
- Hình ảnh “trăng cứ tròn vành vạnh” là tượng trưng cho quá khứ nghĩa tình,
thủy chung, đầy đặn, bao dung, nhân hậu.
- Hình ảnh “ánh trăng im phăng phắc” mang ý nghĩa nghiêm khắc nhắc nhở, là
sự trách móc trong lặng im. Chính cái im phăng phắc của vầng trăng đã đánh
thức con người, làm xáo động tâm hồn người lính năm xưa. Con người “giật
mình” trước ánh trăng là sự bừng tỉnh của nhân cách, là sự trở về với lương tâm
trong sạch, tốt đẹp. Đó là lời ân hận, ăn năn day dứt, làm đẹp con người. C. Kết luận - Nội dung:
● Hai khổ cuối bài thơ cho ta thấy sự thức tỉnh của con người.
● Lời nhắn gửi con người không được lãng quên quá khứ gian khổ mà sâu đậm nghĩa tình.
● Lời nhắc nhở về nghĩa tình thiêng liêng của nhân dân, đất nước và đạo lí uống nước nhớ nguồn. - Nghệ thuật:
● Thể thơ ngũ ngôn với nhiều sáng tạo độc đáo.
● Sự kết hợp hài hòa giữa chất tự sự và trữ tình.
● Ngôn ngữ, hình ảnh giản dị, gần gũi mà giàu sức gợi.
● Giọng điệu tâm tình thấm thía, khi thì thiết tha cảm xúc, lúc lại trầm lắng, suy tư. 4
Văn mẫu lớp 9: Cảm nhận 2 khổ thơ cuối bài thơ Ánh Trăng
Cảm nhận 2 khổ thơ cuối bài Ánh Trăng - Mẫu 1
Bao trùm cả bài thơ “Ánh trăng” của nhà thơ Nguyễn Duy là một nỗi day dứt,
ăn năn cứ kéo dài triền miên khôn nguôi. Ở ngay cái tên bài thơ cũng đủ để ta
thấy được chủ đề của cả bài thơ. Bởi lẽ, khác với "vầng trăng” là hình ảnh cụ
thể thì "ánh trăng” là những tia sáng. Tia sáng ấy đã soi rọi vào góc tối của con
người, đánh thức lương tâm của con người, làm sáng bừng lên cả một quá khứ
đầy ắp những kỉ niệm đẹp đẽ, thân thương.
Khổ thơ thứ năm là hình tượng vầng trăng và cảm xúc, suy ngẫm của nhà thơ.
Còn đến khổ thơ thứ sáu là những suy ngẫm và triết lí nhân sinh của nhà thơ qua hình tượng trăng:
Ngửa mặt lên nhìn mặt
có cái gì rưng rưng
như là đồng là bể
như là sông là rừng
Từ “mặt” trong khổ thơ được dùng với nghĩa gốc và nghĩa chuyển – mặt trăng,
mặt người – trăng và người cùng đối diện đàm tâm. Với tư thế “ngửa mặt lên
nhìn mặt” người đọc cảm nhận sự lặng im, thành kính và trong phút chốc cảm
xúc dâng trào khi gặp lại vầng trăng: “có cái gì rưng rưng”. Rưng rưng của
những niềm thương nỗi nhớ, của những lãng quên lạnh nhạt với người bạn cố
tri; của một lương tri đang thức tỉnh sau những ngày đắm chìm trong cõi u mê
mộng mị; rưng rưng của nỗi ân hận ăn năn về thái độ của chính mình trong suốt
thời gian qua. Một chút áy náy, một chút tiếc nuối, một chút xót xa đau lòng, tất
cả đã làm nên cái “rưng rưng”, cái thổn thức trong sâu thẳm trái tim người lính. 5
Văn mẫu lớp 9: Cảm nhận 2 khổ thơ cuối bài thơ Ánh Trăng
Và trong phút giây nhân vật trữ tình nhìn thẳng vào trăng - biểu tượng đẹp đẽ
của một thời xa vắng, nhìn thẳng vào tâm hồn của mình, bao kỉ niệm chợt ùa về
chiếm trọn tâm tư. Kí ức về quãng đời ấu thơ trong sáng, về lúc chiến tranh máu
lửa, về cái ngày xưa hồn hậu hiện lên rõ dần theo dòng cảm nhận trào dâng,
“như là đồng là bể, như là sông là rừng”. Đồng, bể, sông, rừng, những hình ảnh
gắn bó nơi khoảng trời kỉ niệm.
Cấu trúc song hành của hai câu thơ, nhịp điệu dồn dập cùng biện pháp tu từ so
sánh, điệp ngữ và liệt kê như muốn khắc họa rõ hơn kí ức về thời gian gắn bó
chan hòa với thiên nhiên, với vầng trăng lớn lao sâu nặng, nghĩa tình, tri kỉ.
Chính thứ ánh sáng dung dị đôn hậu đó của trăng đã chiếu tỏ nhiều kỉ niệm thân
thương, đánh thức bao tâm tình vốn tưởng chừng ngủ quên trong góc tối tâm
hồn người lính. Chất thơ mộc mạc chân thành như vầng trăng hiền hòa, ngôn
ngữ hàm súc, giàu tính biểu cảm như “có cái gì rưng rưng”,đoạn thơ đã đánh
động tình cảm nơi người đọc.
Nhà thơ lặng lẽ đối diện với trăng trong tư thế lặng im có phần thành kính:
“Ngửa mặt lên nhìn mặt”. Từ “mặt” cuối câu thơ là từ nhiều nghĩa, tạo nên sự
đa dạng nghĩa của ý thơ. Nhà thơ đối diện với mặt trăng, người bạn tri kỉ mình
đã lãng quên, vầng trăng đối diện với con người hay nói cách khác quá khứ đối
diện với hiện tại, thủy chung tình nghĩa đối diện với bạc bẽo vô tình và lãng
quên để tự thú về sự bội bạc của mình.
Khi người đối mặt với trăng, có cái gì đó khiến cho người lính áy náy dù cho
không bị quở trách một lời nào. Hai từ “mặt” trong cùng một dòng thô: mặt
trăng và mặt người đang cùng nhau trò chuyện. Người lính cảm thấy có cái gì
“rưng rưng” tự trong tận đáy lòng và dường như nước mắt đang muốn trào ra vì
xúc động trước lòng vị tha của người bạn “tri kỉ” của mình. Đối mặt với vầng
trăng, bỗng người lính cảm thấy như đang xem một thước phim quay chậm về
tuổi thơ của mình ngày nào, nơi có “sông” và có “bể”. 6
Văn mẫu lớp 9: Cảm nhận 2 khổ thơ cuối bài thơ Ánh Trăng
Chính những thước phim quay chậm ấy làm người lính trào dâng nhưng nỗi
niềm và những giọt nước mắt tuôn ra tự nhiên, không chút gượng ép nào!
Những giọt nước mắt ấy đã phần nào làm cho người lính trở nên thanh thản
hơn, làm tâm hồn anh trong sáng lại. Một lần nữa những hình tượng trong tuổi
thơ và chiến tranh được láy lại làm sáng tỏ những điều mà con người cảm nhận
được. Cái tâm hồn ấy, cái vẻ đẹp mộc mạc ấy không bao giờ bị mất đi, nó luôn
lặng lẽ sống trong tâm hồn mỗi con người và nó sẽ lên tiếng khi con người bị
tổn thương. Đoạn thơ hay ở chất thơ mộc mạc, chân thành, ngôn ngữ bình dị mà
thấm thía, những hình ảnh đi vào lòng người.
Những suy ngẫm và triết lí nhân sinh của nhà thơ được thể qua hình tượng trăng ở khổ thơ cuối:
Trăng cứ tròn vành vạnh
kể chi người vô tình
ánh trăng im phăng phắc
đủ cho ta giật mình
Hình ảnh “trăng cứ tròn vành vạnh” là tượng trưng cho quá khứ nghĩa tình, thủy
chung, đầy đặn, bao dung, nhân hậu. Rồi đến hình ảnh “ánh trăng im phăng
phắc” mang ý nghĩa nghiêm khắc nhắc nhở, là sự trách móc trong lặng im.
Chính cái im phăng phắc của vầng trăng đã đánh thức con người, làm xáo động
tâm hồn người lính năm xưa. Con người “giật mình” trước ánh trăng là sự bừng
tỉnh của nhân cách, là sự trở về với lương tâm trong sạch, tốt đẹp. Đó là lời ân
hận, ăn năn day dứt, làm đẹp con người.
Trong cuộc gặp lại không lời này trăng và người như có sự đối lập. Trăng đã trở
thành biểu tượng cho sự bất biến, vĩnh hằng không đổi thay. “Trăng cứ tròn 7
Văn mẫu lớp 9: Cảm nhận 2 khổ thơ cuối bài thơ Ánh Trăng
vành vạnh” biểu tượng cho sự tròn đầy thủy chung, trọn vẹn của thiên nhiên,
quá khứ dù cho con người đổi thay “vô tình”.
Ánh trăng còn được nhân hóa “im phăng phắc” không một lời trách cứ, gợi liên
tưởng đến cái nhìn nghiêm khắc, bao dung, độ lượng của người bạn thủy chung,
tình nghĩa, nhắc nhở nhà thơ và mỗi chúng ta: con người có thể vô tình quên
nhưng thiên nhiên nghĩa tình quá khứ luôn tròn đầy bất diệt.
Tình cảm của trăng, tấm lòng của trăng chính là tình cảm của những người đồng
chí, đồng đội, đồng bào, nhân dân. Sự im lặng ấy làm nhà thơ “giật mình” thức
tỉnh, cái “giật mình” của lương tâm nhà thơ thật đáng trân trọng, nó thể hiện sự
suy nghĩ, trăn trở tự đấu tranh với chính mình để sống tốt hơn. Giật mình để
không chìm vào lãng quên. Giật mình để không đánh mất quá khứ. Con người
giật mình trước ánh sáng lặng lẽ là sự thức tỉnh của nhân dân cách trở về với
lương tâm trong sạch, tốt đẹp.
Dòng thơ cuối dồn nén biết bao tâm sự, lời sám hối ăn năn dù không cất lên
nhưng chính vì thế càng trở nên ám ảnh, day dứt. Qua đó Nguyễn Duy muốn
gửi đến mọi người lời nhắc nhở về lẽ sống, đạo đức lí ân nghĩa thủy chung.
Trong cuộc gặp lại không lời này, trăng va người như có sự đối lập. Trăng –
hình ảnh của thiên nhiên, trong cảm nhận của con người, giờ đây theo quy luật
tuần hoàn của nó, vẫn chiếu sáng, vẫn “tròn vành vạnh” dẫu cho “người vô
tình”. Suốt bài thơ, vầng trăng luôn được miêu tả gắn với các định ngữ (“tình
nghĩa”, “tròn”), đến khổ cuối kết tinh trong hình ảnh “tròn vành vạnh”, đó là ân
nghĩa thủy chung, là những giá trị tốt đẹp của quá khứ mãi vẹn nguyên. Cái im
lặng của trăng, cái ánh sáng dịu mát của trăng không phải là một sự bất động mà
lại làm cho con người suy ngẫm về mình.
Con người như có sự ân hận, xót xa vì đã “vô tình”, vô tình với trăng cũng là vô
tình với cuộc sống, với con người và cả với những gì thân thuộc, với quá khứ, 8
Văn mẫu lớp 9: Cảm nhận 2 khổ thơ cuối bài thơ Ánh Trăng
với hiện tại. Cái “im phăng phắc”, sự im lặng đầy tình nghĩa, không một lời
trách cứ mà có phần nghiêm khắc của trăng đã đánh thức con người, làm xáo
động tâm hồn người lính xưa. Con người “giật mình” trước ánh trăng lặng lẽ là
sự bừng tỉnh của nhân cách, trở về với lương tâm trong sạch, tốt đẹp. Đó là một
nỗi ăn năn nhân bản, thức tỉnh tâm linh, làm đẹp con người. Cái “giật mình”
chứa đựng cả tin yêu, hi vọng. Sự xao động trong lặng yên này như một mạch
nước ngầm vọt trào lên sẽ xua đi bao lỗi lầm để vững vàng tạo một cuộc sống đẹp đẽ.
Giọng thơ từ thiết tha đến trầm lắng trong cảm xúc và suy tư lặng lẽ. Không
phải ngẫu nhiên mà trong bài tác giả nhiều lần nhắc đến “vầng trăng tròn”, còn
đến đây lại nhắc đến Ánh trăng và tên tập thơ cũng là Ánh trăng. “Vầng trăng
tròn” để nói về quá khứ thủy chung, tình nghĩa, vẹn nguyên, còn “ánh trăng” để
nói đến vầng hào quang của quá khứ, ánh sáng của lương tâm, của đạo đức, cái
ánh sáng rọi soi, thức tỉnh, để xua đi khuất tối trong tâm hồn.
Hình ảnh thơ đến đây gợi ra chiều sâu tư tưởng triết lí: vầng trăng không chỉ là
hiện thân cho vẻ đẹp của thiên nhiên mà còn là biểu tượng cho quá khứ nghĩa
tình, hơn thế, trăng còn là vẻ đẹp bình dị mà vĩnh hằng của đời sống. Vầng trăng
cứ tròn đầy và lặng lẽ kể chi người “vô tình” là biểu tượng cho sự bao dung, độ
lượng, cho nghĩa tình thủy chung, trọn vẹn, trong sáng, vô tư, không đòi hỏi sự
đền đáp. Đó chính là phẩm chất cao cả của nhân dân mà Nguyễn Duy cũng như
nhiều nhà thơ cùng thời đã phát hiện và cảm nhận một cách sâu sắc trong thơ từ
thời chiến tranh chống Mĩ.
Vầng trăng cứ tròn vành vạnh tượng trưng cho quá khứ đẹp đẽ, vẹn nguyên,
chẳng thể mờ phai. “Ánh trăng im phăng phắc” chính là người bạn, nhân chứng
nghĩa tình mà nghiêm khắc đang nhắc nhở nhà thơ (và cả trong mỗi chúng ta).
Con người có thể vô tình, lãng quên, nhưng thiên nhiên, nghĩa tình quá khứ thì
luôn tròn đầy, bất diệt. Ánh trăng vì thế không chỉ là chuyện của một người, 9
Văn mẫu lớp 9: Cảm nhận 2 khổ thơ cuối bài thơ Ánh Trăng
một thế hệ – thế hệ từng sống hào hùng suốt một thời đánh giặc, mà có ý nghĩa
với nhiều người, với mọi thời. Nó có ý nghĩa cảnh tỉnh, gợi cho mọi người sống
ý nghĩa, sống đẹp, xứng đáng với, những người đã khuất, xứng đáng với chính
mình, trân trọng quá khứ để vững bước trên đường tới tương lai.
Bài thơ nói chuyện trăng mà lại là chuyện đời, khơi đúng cái mạch nguồn đạo lí
truyền thống của dân tộc: thủy chung, nghĩa tình, uống nước nhớ nguồn, lời thơ
thấm thía, xúc động, bởi trước hết nó là lời tự nhắc nhở với giọng trầm tĩnh mà lắng sâu.
Cảm nhận 2 khổ thơ cuối bài Ánh Trăng - Mẫu 2
Trăng là một đề tài quen thuộc trong thơ ca. Trăng như một biểu tượng thơ
mộng gắn với tâm hồn thi sĩ. Nhưng có một nhà thơ cũng viết về trăng, không
chỉ tìm thấy ở đấy cái thơ mộng, mà còn gửi gắm những nỗi niềm tâm sự mang
tính hàm nghĩa độc đáo. Đó là trường hợp bài thơ Ánh trăng của Nguyễn Duy.
Vầng trăng đã từng gắn bó với tuổi thơ, với cuộc đời người lính, đã trở thành
người bạn tri kỉ, ngỡ không bao giờ quên. nhưng hoàn cảnh sống đổi thay, con
người cũng thay đổi, có lúc cũng trở nên vô tình. Sau chiến thắng trở về thành
phố, quen ánh điện cửa gương, khiến cho vầng trăng tình nghĩa vô tình bị lãng
quên. nhưng một tình huống đời thường xảy ra làm cho con người phải giật
mình tỉnh ngộ, phải đối mặt với vầng trăng mà sám hối:
Ngửa mặt lên nhìn mặt
Có cái gì rưng rưng
Như là đồng là bể
Như là sông là rừng. 10
Văn mẫu lớp 9: Cảm nhận 2 khổ thơ cuối bài thơ Ánh Trăng
Rưng rưng là biểu hiện xúc động, nước mắt đang ứa ra, sắp khóc. Giọt nước mắt
làm cho lòng người thanh thản lại, trong sáng lại. Bao kỉ niệm đẹp ùa về, tâm
hồn gắn bó chan hòa với thiên nhiên, với vầng trăng xưa, với đồng với bể,với
sông với rừng. Cấu trúc câu thơ song hành với các biện pháp tu từ so sánh, điệp
ngữ cho thấy ngòi bút Nguyễn Duy thật tài hoa. Đoạn thơ hay ở chất thơ bộc
bạch chân thành, ở tính biểu cảm, ngôn từ và hình ảnh thơ đi vào lòng người,
khắc sâu một cách nhẹ nhàng mà thấm thía những gì nhà thơ muốn tâm sự với
chúng ta. Khổ thơ cuối mang hàm ý độc đáo và sâu sắc:
Trăng cứ tròn vành vạnh
Kể chi người vô tình
Ánh trăng im phăng phắc
Đủ cho ta giật mình.
Tròn vành vạnh là trăng rằm, một vẻ đẹp viên mãn. Trăng vẫn thuỷ chung mặc
cho ai thay đổi, vô tình với trăng. Ánh trăng im phăng phắc, không một lời trách
cứ. Trăng bao dung và độ lượng biết bao. Tấm lòng bao dung độ lượng ấy khiến
cho ta phải giật mình. Sự giật mình để tự lột xác, để trở về. Trở về với chính
mình tốt đẹp xưa kia. Đó là cái giật mình để tự hoàn thiện.
Tóm lại, với giọng thơ trầm tĩnh, sâu lắng, đoạn thơ trên đã gây nhiều xúc động
cho người đọc. Nó như là lời tâm sự, lời tự thú, lời tự nhắc chân thành. Qua
đoạn thơ, tác giả muốn nói rằng: phải thuỷ chung, trọn vẹn, phải nghĩa tình sắt
son với nhân dân, với đất nước, và ngay với chính bản thân mình.
Cảm nhận 2 khổ thơ cuối bài Ánh Trăng - Mẫu 3
“Ăn quả nhớ kẻ trồng cây” – đó là truyền thống lâu đời của dân tộc Việt Nam.
Truyền thống ấy đã được nhắc đến rất nhiều trong các tác phẩm văn học từ bao 11
Văn mẫu lớp 9: Cảm nhận 2 khổ thơ cuối bài thơ Ánh Trăng
đời nay. Chỉ bàn đến các tác phẩm văn học hiện đại lớp 9, hẳn chúng ta đều biết
đến các tác phẩm thuộc chủ đề này: “Bếp lửa” của Bằng Việt, “Ánh trăng” của
Nguyễn Duy. Qua các bài thơ, các tác giả đã kín đáo bộc lộ những suy nghĩ,
chiêm nghiệm về một lẽ sống ân nghĩa thủy chung cao quý trong cuộc đời của mỗi con người.
Bằng hình tượng “Ánh trăng” thấm đượm ý nghĩa nhân văn và tư tưởng triết
luận, Nguyễn Duy đã thẳng thắn và quả cảm gửi tới chúng ta một bức thông
điệp tha thiết, đẹp đẽ: “Hãy lắng lại một phút cái chen lấn, bận bịu của cuộc
sống để nhìn lại bản thân mình!” – để trở về với cội nguồn đạo lý “nhớ nguồn”
của dân tộc thông qua việc xây dựng nhân vật trữ tình biết tự soi rọi, tự ý thức
về những lầm lỗi của mình, để hướng thiện.
Lời nhắn nhủ của nhà thơ giống như một câu chuyện nhỏ với giọng điệu tâm
tình. Đây là câu chuyện của chính nhà thơ. Lời thơ mở đầu như đưa người đọc
trở về với quá khứ tuổi thơ của tác giả với một giọng kể nhỏ nhẹ. Đó là một tuổi
thơ gắn bó thân thiết với thiên nhiên. Tuổi thơ được cảm nhận những điều kì thú
của thiên nhiên. Đến khi trở thành người lính, sống ở trong rừng vầng trăng lại
thành tri kỉ. Người chiến sĩ có thể nằm ngủ dưới trăng, đứng gác dưới trăng,
trăng cùng chia sẻ những gian lao của cuộc đời người lính. Trăng cũng đã cùng
vui niềm vui thắng trận của người chiến sĩ. Rõ ràng tình cảm của người chiến sĩ
và trăng là tình cảm keo sơn gắn bó, tưởng như tình cảm đó gắn bó mãi mãi.
Nhưng câu chuyện chuyển biến về hiện tại, điều “ngỡ không bao giờ quên” bây
giờ đã quên. Giọng thơ như trầm lắng lại với nét trầm ngâm, suy tư khi kể tới.
Cảnh phồn hoa nơi đô thị tấp nập, đời sống của con người cũng bắt đầu thay
đổi. Ánh sáng của điện đã thay cho ánh sáng của trăng. Bởi thế mà lòng người
lúc này cũng thay đổi. Vẫn là vầng trăng xưa, bây giờ vầng trăng ấy lại đi qua
ngõ. Thế nhưng người bạn ấy bây giờ đã thành người dưng tức là không hề
quen biết. Sự đổi thay này diễn ra trong lòng người lính. Anh đã quên đi người
bạn năm xưa, người bạn đã từng chịu chung gian khổ ở rừng, cùng gắn bó với 12
Văn mẫu lớp 9: Cảm nhận 2 khổ thơ cuối bài thơ Ánh Trăng
anh tuổi ấu thơ. Giọng thơ thầm thì như lời trò chuyện. Anh đang trò chuyện với
chính mình, suy nghĩ về việc mình đã thay đổi tình cảm quên đi vẻ đẹp của
thiên nhiên, bình dị. Phải chăng, sự suy ngẫm này như một sự sám hối, tự trách
mình. Sống trong hiện tại mà quên đi quá khứ, sống trong hòa bình có đầy đủ
vật chất mà quên đi những ngày gian khổ.
Nhưng nhà thơ không dừng lại ở đó mà còn sáng tạo ra một cuộc sống chân thật
mà cũng rất quen thuộc xảy ra ở đô thị đó là hệ thống đèn điện tắt cả. Một
không gian phòng - đinh tối om. Người chiến sĩ cũng giống như bao người khác
vội bật tung cửa sổ, đột ngột thấy vầng trăng. Như vậy trăng xưa lại đến với
người vẫn tròn vẫn đẹp và thuỷ chung với mọi người.
Ngửa mặt lên nhìn mặt
có cái gì rưng rưng
như là đồng, là bể
như là sông, là rừng
Người ngắm trăng và suy ngẫm bâng khuâng “Ngửa mặt lên nhìn mặt”. Hai chữ
“mặt” trong một vần thơ, mặt trăng và mặt người đối diện nhau. Đó là nhìn mặt
tri kỉ, mặt của tình nghĩa mà bấy lâu nay mình dửng dưng. Nguyễn Duy gặp lại
ánh trăng như gặp lại người bạn tuổi thơ, như gặp lại người bạn từng sát cánh
bên nhau trong những tháng năm gian khổ. Trăng chẳng nói chẳng trách nhưng
tâm trạng của người lính có gì đó rưng rưng. Phải chăng đó là tâm trạng xúc
động nghẹn ngào. Nước mắt như chực ứa ra. Bao kỉ niệm đẹp của một đời
người đã ùa về trong tâm trí người chiến sĩ. Từ "rưng rưng" gợi tả nỗi xúc động
của thi sĩ. Những kỷ niệm ngày nào bấy lâu tưởng bị chôn vùi nay lại ùa về
đánh thức tâm hồn người trong cuộc "như là đồng là bể, như là sông là rừng”.
Câu trúc của câu thơ sóng đôi kết hợp với phép tu từ so sánh, từ “là" được nhắc
lại bốn lần cho ta thấy ngòi bút của Nguyễn Duy thật tài hoa. Ông đã gợi ta 13
Văn mẫu lớp 9: Cảm nhận 2 khổ thơ cuối bài thơ Ánh Trăng
được sự gắn bó chan hòa với thiên nhiên của người chiến sĩ trong quá khứ. Bởi
lẽ nhớ tới đồng, tới sông, tới bể là nói tới thời ấu thơ, nói tới rừng là nói tới thời
chiến tranh. Hai hình ảnh thơ này được lặp lại ở khổ thơ đầu. Như vậy vầng
trăng trong đoạn thơ không chỉ là vẻ đẹp của thiên nhiên mà còn là biểu tượng
của quá khứ tình nghĩa. Vầng trăng đã đánh thức dậy tất cả, từ những năm tháng
hoa niên cho đến khi cầm súng hành quân đuổi giặc dưới những cánh rừng. Hóa
ra những ký ức đẹp đẽ ấy đã không mất đi và con người không phải hoàn toàn
vô tâm đến thế. Ký ức ấy chỉ tạm lắng xuống, con người trong lúc bận rộn có
thể lãng quên đi nhưng chỉ cần một tác động nhỏ nào đó, chúng sẽ sống dậy vẹn
nguyên, thậm chí còn đằm sâu hơn, tạo nên vẻ đẹp không gì sánh nổi của tâm hồn con người.
Nguyễn Duy đưa người đọc cùng đắm chìm tong suy tư, trong chiêm nghiệm về
"vầng trăng tình nghĩa" một thời:
Trăng cứ tròn vành vạnh
kể chi người vô tình
ánh trăng im phăng phắc
đủ cho ta giật mình
Bài thơ dừng ở cảm xúc "rưng rưng" cũng đã rõ chủ đề. Nhưng thêm một đoạn
cuối, ý tưởng bài thơ được đẩy cao thêm, rõ hơn và mạnh hơn trong sự bình
luận về một thái độ sống. Hình ảnh "vầng trăng” còn được nhà thơ nhìn lại "tròn
vành vạnh" thật là đẹp, một cái đẹp viên mãn không hề bị khiếm khuyết dù ai
kia thay đổi, vô tình. Ánh trăng sáng tròn đầy hay chính là cái đẹp của tình
nghĩa thủy chung, nhân hậu? Ánh trăng vừa nghiêm khắc, lạnh lùng, vừa bao
dung độ lượng: “kể chi người vô tình”. Chính ánh trăng vô ngôn, không một lời
trách cứ ấy đã khiến cho “người vô tình” thấy rõ cái khiếm khuyết của bản thân
mà không khỏi “giật mình“ tỉnh ngộ. Thật khó diễn tả cho hết tâm trạng của con 14
Văn mẫu lớp 9: Cảm nhận 2 khổ thơ cuối bài thơ Ánh Trăng
người lúc ấy, biết bao ý nghĩa hàm ẩn trong hai chữ "giật mình". Cái "giật
mình" chân thành thay cho một lời sám hối ăn năn. Dù lời sám hối ấy không
được cất lên nhưng chính vì thế nó lại làm cho ý thơ trở nên ám ảnh, day dứt
hơn. Cả bài thơ là vô nhân xưng, đến đây tác giả mới xưng "ta" để nhận lỗi, để
tạ tội. Một cái giật mình tái mặt khi nhận ra chân tướng của chính mình. Đằng
sau cái giật mình ấy người đọc cảm nhận được niềm ân hận day dứt của một con
người đã nghiêm khắc nhìn thẳng vào mình để nhận ra cái sai của mình. Người
xưa hay nói "trong cái rủi có cái may". Một sự cố rất bình thường của nền văn
minh hiện đại đã thức tỉnh con người trở về với những giá trị cao đẹp, vĩnh
hằng. Đó chính là cái hay và độc đáo của bài thơ có sức cảm hóa lòng người.
Đọc bài thơ người đọc đều cảm nhận thấy đây không chỉ là câu chuyện riêng
của nhà thơ mà cũng là chuyện của mình. Từ câu chuyện ấy gợi ra cho người
đọc sự suy ngẫm và liên tưởng tới cách sống của chính mình . Nhà thơ tâm sự
với bạn đọc những điều sâu kín nơi lòng mình nhưng cũng là để gửi tới người
đọc một bức thông điệp về cách sống đẹp trong hoàn cảnh đất nước hòa bình.
Qua tâm sự sâu kín của Nguyễn Duy ở bài thơ "Ánh trăng", chúng ta như được
thanh lọc lại tâm hồn mình, như lay động miền ký ức mà có lúc vô tình chúng ta
đã lãng quên. Mong sao những ai từng ở với sông, với biển, với đồng, với
rừng… trong những năm tháng gian lao ấy luôn luôn có được tình cảm này.
Cảm nhận 2 khổ thơ cuối bài Ánh Trăng - Mẫu 4
Trăng và con người đã gặp nhau trong một giây phút tình cờ. Con người không
còn muốn trốn chạy vầng trăng, trốn chạy cả bản thân mình được nữa. Tư thế
“ngửa mặt lên nhìn mặt” là tư thế đối mặt: “mặt” ở đây chính là vầng trăng tròn.
Con người thấy mặt trăng là thấy được người bạn tri kỷ ngày nào. Cách viết thật
lạ và sâu sắc – dùng những từ không trực tiếp để diễn tả sự xúc động cảm động
chợt dâng trào trong lòng anh khi gặp lại vầng trăng. 15
Văn mẫu lớp 9: Cảm nhận 2 khổ thơ cuối bài thơ Ánh Trăng
Cảm xúc “rưng rưng”: Tâm hồn đang rung động, xao xuyến, gợi nhớ gợi
thương. Nhịp thơ hối hả dâng trào như tình người dào dạt. Niềm hạnh phúc của
nhà thơ như đang được sống lại một giấc chiêm bao.
Sự xuất hiện đột ngột của vầng trăng làm ùa dậy ở tâm trí nhà thơ bao kỷ niệm
quá khứ tốt đẹp khi cuộc sống còn quá nghèo nàn, gian lao. Lúc ấy con người
với thiên nhiên trăng là tri kỷ, tình nghĩa.
Khổ thơ kết lại bài thơ bằng hai vế đối lập mà song song:
“Trăng cứ tròn vành vạnh
… Đủ cho ta giật mình”
Ở đây có sự đối lập giữa “tròn vành vạnh” và “kẻ vô tình”, giữa cái im lặng của
ánh trăng với sự “giật mình” thức tỉnh của con người. Vầng trăng có ý nghĩa
biểu tượng sâu sắc. Hình ảnh “vầng trăng tròn vành vạnh”, ngoài nghĩa đen là
vẻ đẹp tự nó và mãi mãi vĩnh hằng của cuộc sống còn có nghĩa tượng trưng cho
vẻ đẹp của nghĩa tình quá khứ, đầy đặn, thuỷ chung, nhân hậu bao dung của
thiên nhiên, của cuộc đời, con người, nhân dân, đất nước.
Hình ảnh “ánh trăng im phăng phắc” có ý nghĩa nghiêm khắc nhắc nhở nhà thơ
và cả mỗi chúng ta con người có thể vô tình, có thể lãng quên nhưng thiên
nhiên, nghĩa tình quá khứ thì luôn tròn đầy, bất diệt. Sự không vui, sự trách móc
trong lặng im của vầng trăng là sự tự vấn lương tâm dẫn đến cái “giật mình” ở
câu thơ cuối. Cái “giật mình” là cảm giác và phản xạ tâm lý có thật của một
người biết suy nghĩ, chợt nhận ra sự vô tình, bạc bẽo, sự nông nổi trong cách sống của mình.
Cái “giật mình” của sự ăn năn, tự trách, tự thấy phải đổi thay trong cách sống.
Cái “giật mình” tự nhắc nhở bản thân không bao giờ được làm người phản bội
quá khứ, phản bội thiên nhiên, sùng bái hiện tại mà coi rẻ thiên nhiên. Thiên 16
Văn mẫu lớp 9: Cảm nhận 2 khổ thơ cuối bài thơ Ánh Trăng
nhiên thật nghiêm khắc, lạnh lùng nhưng cũng thật ân tình, độ lượng bao dung,
vầng trăng và thiên nhiên là trường tồn, bất diệt. Thì ra những bài học sâu sắc về
đạo lý làm người đâu cứ phải tìm trong sách vở hay từ những khái niệm trừu tượng xa xôi.
Ánh trăng thật sự đã như một tấm gương soi để thấy được gương mặt thực của
mình, để tìm lại cái đẹp tinh khôi mà chúng ta tưởng đã ngủ ngon trong quên lãng.
Cảm nhận khổ 5, 6 bài thơ Ánh trăng
Nguyễn Duy thuộc thế hệ nhà văn trưởng thành trong kháng chiến chống Mĩ.
Bước ra từ cuộc chiến, hồn thơ Nguyễn Duy lại đau đáu, trăn trở với những
miền kí ức xa xưa và ân nghĩa trong kháng chiến thuở nào. Bài thơ “Ánh trăng”
thể hiện một phần tâm sự như thế của nhà thơ. Đoạn thơ sau đây thể hiện rất rõ điều đó:
...Từ hồi về thành phố
đủ cho ta giật mình.
(Ánh trăng - Nguyễn Duy)
Bài thơ ra đời khi đất nước đã đi qua những cuộc chiến tranh gian khó. Nhà thơ
rời những chiến trường để về với hoà bình, về với ấm êm. Cứ ngỡ rằng cuộc đời
từ nay chỉ có phố phường, đèn điện; những năm tháng cũ đã qua rồi, tất cả một đi không trở lại...
Từ những năm tháng tuổi thơ bươn trải nhọc nhằn gắn bó với đồng, với sông rồi
với bể cho đến những năm tháng chiến tranh gian khổ sống với rừng, bao giờ
trăng cũng gần gũi, thân thiết. Giữa con người với thiên nhiên, với trăng là mối 17
Văn mẫu lớp 9: Cảm nhận 2 khổ thơ cuối bài thơ Ánh Trăng
quan hệ chung sống, quan hệ thâm tình khăng khít. Trăng là người bạn đồng
hành trên mỗi bước đường gian lao nên trăng hiện diện như là hình ảnh của quá
khứ, là hiện thân của kí ức chan hoà tình nghĩa. Người ta cứ đinh ninh về sự bền
chặt của mối giao tình ấy, nhưng:
Từ hồi về thành phố
quen ánh điện, cửa gương
vầng trăng đi qua ngõ
như người dưng qua đường…
Cuộc sống hiện đại với ánh sáng chói loà của ánh điện, cửa gương đã làm lu mờ
ánh sáng của vầng trăng. Tác giả đã tạo ra sự đối lập giữa hình ảnh vầng trăng
tri kỉ, tình nghĩa trong quá khứ và vầng trăng "như người dưng qua đường"
trong hiện tại. Sự đối lập này diễn tả những đổi thay trong tình cảm của con
người. Thủa trước, ta hồn nhiên sống với đồng, với sông, với bể, với gian lao "ở
rừng", khi ấy trăng chan hoà tình nghĩa, thiên nhiên và con người gần gũi, hoà
hợp. Bây giờ, thói quen cuộc sống phương tiện đủ đầy khiến ta không còn thấy
trăng là tri kỉ, nghĩa tình nữa. Nhà thơ nói về trăng là để nói thế thái, nhân tình.
Tuy nhiên, cuộc sống hiện đại luôn có những bất trắc. Và chính trong những bất
trắc ấy, ánh sáng của quá khứ, của ân tình lại bừng tỏ, là lúc người ta nhận thấy
giá trị của quá khứ gian lao mà tình nghĩa, thiếu thốn mà đủ đầy:
Thình lình đèn điện tắt
phòng buyn-đinh tối om
vội bật tung cửa sổ
đột ngột vầng trăng tròn…
Đây là khổ thơ quan trọng trong cấu tứ của toàn bài, là sự chuyển biến có ý
nghĩa bước ngoặt của mạch cảm xúc, bộc lộ rõ chủ đề tư tưởng của bài thơ. 18
Văn mẫu lớp 9: Cảm nhận 2 khổ thơ cuối bài thơ Ánh Trăng
Không chỉ là sự thay thế đúng lúc của ánh trăng cho ánh điện, ở đây còn là sự
thức tỉnh, bừng ngộ về ý nghĩa của những ngày tháng đã qua, của những cái
bình dị của cuộc sống, của tự nhiên, là sức sống vượt ra ngoài không gian, thời
gian của tri kỉ, nghĩa tình. Các từ "bật tung", "đột ngột" diễn tả trạng thái cảm
xúc mạnh mẽ, bất ngờ. Có cái gì như thảng thốt, lo âu trong hình ảnh "vội bật
tung cửa sổ". Vầng trăng tròn đâu phải khi "đèn điện tắt" mới có? Cũng như
những tháng năm quá khứ, vẻ đẹp của đồng, sông, bể, rừng không hề mất đi.
Chỉ có điều con người có nhận ra hay không mà thôi. Và thế là trong cái khoảnh
khắc "thình lình" đối diện với trăng ấy, ân tình xưa "rưng rưng" sống dậy, thổn thức lòng người:
Ngửa mặt lên nhìn mặt
có cái gì rưng rưng
như là đồng là bể
như là sông là rừng…
“Ngửa mặt lên nhìn mặt” viết như vậy để hai gương mặt - hai người bạn cũ nhìn
thẳng vào nhau, để tự hỏi nhau rằng còn nhớ nhau chăng, để những kỉ niệm xưa
chợt vụt về trong kí ức, để làm se thắt lòng người vì những vô tình hờ hững của
chính mình. Quả có vậy, đối diện với trăng là đối diện với chính mình, với con
người hiện tại và cả với con người trong quá khứ. Vầng trăng mang ý nghĩa biểu
tượng. Mặt trăng đối diện với mặt người, mặt trăng cũng là mặt người, là quá
khứ đang sáng trong thực tại, trăng là tri kỉ, ân tình xưa,...
Trăng cứ tròn vành vạnh
Kể chi người vô tình
ánh trăng im phăng phắc
Đủ cho ta giật mình 19
Văn mẫu lớp 9: Cảm nhận 2 khổ thơ cuối bài thơ Ánh Trăng
Vầng trăng đột ngột hiện ra với một vẻ đẹp ám ảnh lòng người. ’’Trăng cứ tròn
vành vạnh”, thời điểm trăng tròn chính là vào ngày rằm hàng tháng. Câu thơ gợi
đến vẻ đầy đặn, tròn trịa của vầng trăng và cũng là vẻ sáng tươi hiền dịu của thứ
ánh sáng trong lành nhất vũ trụ. Đêm trăng tròn, trăng để khắp không gian tràn
đi ánh sáng vàng dịu, sóng sánh như mật ngọt. Trăng như rải bạc trên mặt nước.
Trăng như tưới sạch, làm đẹp, làm bóng lên những lùm cây. Trăng làm mặt
người hớn hở vui cười. Và nói như nhà văn Nam Cao: trăng làm mọi thứ đẹp
lên! Nhưng vẻ “tròn vành vạnh” của vầng trăng còn gợi đến một suy tưởng khác:
vầng trăng còn tròn đầy “vành vạnh” nghĩa là trăng vẫn còn trọn vẹn những ân
nghĩa xưa với những người lính năm nào. Và điều đáng quý, đáng nghĩ là trăng
vẫn tròn ngay cả khi người đã “vô tình":
“Trăng cứ tròn vành vạnh
Kể chi người vô tình".
Câu thơ gieo vào lòng người đọc một thoáng giật mình để rồi thấy ăn năn, day
dứt. Vầng trăng kia cũng giống như bao con người, bao kí ức đẹp đẽ đã đi qua
đời ta. Những con người của quá khứ, những kí ức xa xưa... tất thảy vẫn còn
nguyên tấm lòng thuỷ chung trọn vẹn. Còn riêng ta, mới một chút phù hoa, danh
lợi mà đã quên đi những ân tình, những thề nguyền thiêng liêng xưa cũ. Và rồi,
ta càng thấy day dứt, băn khoăn hơn bởi khoảng lặng mênh mang của vầng trăng tròn cao thượng:
"Ánh trăng im phăng phắc
Đủ cho ta giật mình”.
"Ánh trăng im phăng phắc" để ngân mãi những dòng ánh sáng toả đi khắp nhân
gian. Điều đó cũng có nghĩa trăng mãi hao dung, hiền từ và độ lượng. Cái đáng
sợ là cái im lặng của kí ức. Ta đã quên đi quá khứ, ta đã có lỗi với người xưa để
sống một cuộc đời ồn ào, náo nhiệt nhưng tất cả vẫn im lặng dõi theo ta với cái 20
Văn mẫu lớp 9: Cảm nhận 2 khổ thơ cuối bài thơ Ánh Trăng
nhìn bao dung, rộng mở. Và chính bởi sự cao thượng ấy đã khiến ta “giật mình”.
“Giật mình” để nhận ra sự cao đẹp của người xưa. “Giật mình” để nhận ra phần
hờ hững, lãng quên đáng chê trách của mình. “Giật mình” còn để biết nhìn lại
mình cho đúng. Tiền tài danh lợi, đó chưa phải là điều quý giá nhất ở đời. Phải
biết sống có tình, có nghĩa, thuỷ chung trọn vẹn trước sau mới khiến lòng người
sạch trong và thanh thản.
Không dùng nhiều thủ pháp nghệ thuật cầu kỳ, tinh xảo, đoạn thơ của Nguyễn
Duy đi vào lòng người bởi sự giản dị của quy luật tình cảm rất con người. Đọc
khổ thơ, người đọc thấy thấm thía triết lí sâu xa mà nhà thơ đã gửi gắm. Phải
biết sống đủ đầy, trọn vẹn với những ân tình xưa cũ để chúng ta được sống đủ
đầy, thanh thản trong cuộc đời.
Bài thơ giống như một câu chuyện riêng, một câu chuyện ân tình giữa người với
trăng. Sự kết hợp giữa yếu tố tự sự và trữ tình tạo nên giọng điệu tâm tình cho
cả bài thơ. Nhịp thơ nhịp nhàng theo lời kể tự nhiên của nhân vật trữ tình,
nhưng cũng có khi ngân nga, tha thiết hay có khi trầm lắng, suy tư.
Cảm nhận khổ thơ 5 và 6 bài thơ Ánh trăng
Bài thơ Ánh trăng của Nguyễn Duy mang dáng dấp một câu chuyện nhỏ, một
lời tâm tình kể theo trình tự thời gian. Dòng cảm hứng trữ tình của nhà thơ chảy
theo mạch tự sự đó. Ở quãng thời gian giữa quá khứ và thực tại đã có một sự
biến đổi, một sự thực đáng chú ý: bắt đầu từ hồi ức về “hồi nhỏ”, ‘hồi chiến
tranh” sống gần gũi, gắn bó với thiên nhiên, với vầng trăng: “không bao giờ
quên cái vầng trăng tình nghĩa”. Tiếp đó là sự đổi thay của hoàn cảnh hiện tại:
“Từ hồi về thành phổ”, con người sống với những tiện nghi hiện đại mà quên đi
vầng trăng: “vầng trăng đi qua ngõ như người dưng qua đường”. 21
Văn mẫu lớp 9: Cảm nhận 2 khổ thơ cuối bài thơ Ánh Trăng
Trước hết, ánh trăng của Nguyễn Duy là hình ảnh đẹp của thiên nhiên với tất cả
những gì là thi vị, gần gũi, hồn nhiên, tươi mát. Ánh trăng gần với tuổi ấu thơ
của tác giả. Vầng trăng ấy hồn nhiên như cuộc sống, như đất trời. Cuộc sống
hoà bình “ánh điện của gương, buyn đinh” đã khiến cho nhà thơ nhìn ánh trăng
như một “người dưng qua đường”. Con người từng một thời chiến đấu, từng
ngang dọc trên nhiều chiến trường đã có lúc như lãng quên quá khứ
Tưởng chừng như tất cả là lẽ thường tình nếu không có sự cố ấy xảy đến. Trong
dòng diễn biến theo thời gian, sự việc bất thường ở khổ thơ thứ tư: “thình lình
đèn điện tắt” chính là bước ngoặt để tác giả bộc lộ cảm xúc, thể hiện chủ đề tác
phẩm. Vầng trăng tròn ở ngoài kia, trên kia đối lập với “phòng buyn-đinh tối
om”. Chính vì xuất hiện đột ngột trong bối cảnh ấy, vầng trăng bất ngờ mà tự
nhiên đã gợi ra bao kỷ niệm nghĩa tình. Phải đột ngột như thế. Phải bất ngờ như
thế, vầng trăng mới làm thức dậy trong tâm trí con người bao cảm xúc:
“Ngửa mặt lên nhìn mặt
có cái gì rưng rưng
như là đồng là bể
như là sông là rừng”
Nhà thơ lặng lẽ đối diện với vầng trăng trong tư thế lặng im có phần thành kính:
“ngửa mặt lên nhìn mặt”. Từ “mặt” cuối câu thơ là từ nhiều nghĩa, tạo nên sự đa
dạng nghĩa của ý thơ. Đối diện với trăng, nhà thơ làm thức tỉnh tình cảm, lương
tâm con người: như nhìn thấy cả mặt trong đó và tư vấn lương tâm, hổ then, ân
hận về sự thay đổi của mình.
Cuộc đối thoại không lời trong khoảnh khắc ấy đã làm nhà thơ “rưng rưng” xúc
động vì quá khứ vất vả, gian lao nhưng tràn ngập niềm vui cùng với trăng, với
thiên nhiên bấy lâu tưởng đã lãng quên bỗng ùa về trong nỗi nhớ khiến nhà thơ
nghẹn ngào… Vầng trăng trong bài thơ còn có ý nghĩa biểu tượng: biểu tượng 22
Văn mẫu lớp 9: Cảm nhận 2 khổ thơ cuối bài thơ Ánh Trăng
cho quá khứ nghĩa tình, biểu tượng cho vẻ đẹp bình dị và vĩnh hằng của đời
sống. Vầng trăng đâu chỉ làm ùa dậy trong tâm trí những hình ảnh của thiên
nhiên, của quê hương đất nước, mà còn đánh thức trong tâm trí con người bao
kỷ niệm hồn nhiên của thời tuổi nhỏ, bao kỷ niệm nghĩa tình của một thời gian lao chiến đấu.
Cuộc sống hiện tại như ngừng lại để con người soi vào quá khứ, vào một thời họ
đã lãng quên. Con người có cơ hội soi vào chính mình, nhận lấy lỗi lầm. Có quá
khứ xa và gần, có đất nước và quê hương, thiên nhiên và cuộc sống, lao động và
chiến đấu, có tập thể và cá nhân.
Trăng còn gợi lên hình ảnh của hiện tại, sự giàu đẹp, nỗi gian lao, vất vả còn
phải phấn đấu, niềm tin và hy vọng, sự hùng vĩ của thiên nhiên đất nước và sức
mạnh của con người trong cuộc sống thông qua một loạt các điệp từ “như là”
cùng nhịp thơ dồn dập, các hình ảnh liệt kê: “như là đồng là bể”, “như là sông là
rừng”. Tất cả làm cho người đọc thực sự xúc động và hoà chung cảm xúc với trữ tình của bài thơ.
Khổ thơ cuối thể hiện những suy ngẫm sâu sắc và triết lý nhân sinh của nhà thơ
qua hình tượng trăng. Trong cuộc gặp gỡ không hẹn trước này trăng và người như có sự đối lập:
“Trăng cứ tròn vành vạnh
kể chi người vô tình
ánh trăng im phăng phắc
đủ cho ta giật mình”
Trăng đã trở thành biểu tượng cho sự bất biến, vĩnh hằng không thay đổi, “cứ
tròn vành vạnh” biểu tượng cho sự tròn đầy, thuỷ chung, nghĩa tình trọn vẹn của
thiên nhiên, của quá khứ, dù cho con người đổi thay hay “vô tình” đi chăng nữa. 23
Văn mẫu lớp 9: Cảm nhận 2 khổ thơ cuối bài thơ Ánh Trăng
Ánh trăng còn được nhân hoá “im phăng phắc” không một lời trách cứ, gợi liên
tưởng đến cái nhìn nghiêm khắc mà bao dung, độ lượng của người bạn thuỷ
chung, tình nghĩa, nhắc nhở nhà thơ và mỗi chúng ta: con người có thể vô tình
quên nhưng thiên nhiên, nghĩa tình quá khứ thì luôn thủy chung, son sắt đến muôn đời.
Tình cảm và tấm lòng của vầng trăng chính là tình cảm của những người đồng
chí đồng đội, của đồng bào, của nhân dân ta đối với người lính. Sự im lặng ấy
làm nhà thơ “giật mình” thức tỉnh nhận ra lỗi lầm. Cái “giật mình” của lương
tâm, lương tri nhà thơ thật đáng trân trong. Nó thể hiện sự suy nghĩ, trăn trở tự
đấu tranh với chính mình để sống tốt hơn. Giật mình để không chìm vào lãng
quên. Giật mình để không đánh mất quá khứ. Con người giật mình trước ánh
trăng lặng lẽ là sự thức tỉnh của nhân cách trở về với lương tâm trong sạch, tốt đẹp, cao quý.
Dòng thơ cuối dồn nén biết bao niềm tâm sự, là lời sám hối ăn năn dù không cất
lên nhưng chính vì thế càng trở nên ám ảnh, day dứt. Qua đó, Nguyễn Duy
muốn gửi đến mọi người lời nhắc nhở về lẽ sống, về đạo lý ân nghĩa thuỷ chung
của dân tộc ta đến thế hệ mai sau: dù cuộc sống có bao nhiêu thay đổi đi chăng
nữa thì cũng đừng bao giờ lãng quên quá khứ đau thương nhưng nghĩa tình thủy chung của dân tộc.
“Ánh trăng” của Nguyễn Duy gây nhiều xúc động bởi cách diễn tả bình dị như
lời tâm sự, lời tự thú, nhắc nhở chân thành. Giọng thơ trầm tĩnh, sâu lắng, thì
thầm như rót vào lòng người. Bài thơ có ý nghĩa sâu sắc, khái quát bởi lời nhắn
nhủ không chỉ dành riêng cho những người lính chống Mỹ mà nó có ý nghĩa với
tất cả mọi người, mọi thời – trong đó có thế hệ chúng ta.
“Ánh trăng” không chỉ thành công ở triết lý sâu xa của nhân vật trữ tình mà còn
thành công ở nghệ thuật kết cấu, giọng điệu. Đó là sự kết hợp hài hoà, tự nhiên 24
Văn mẫu lớp 9: Cảm nhận 2 khổ thơ cuối bài thơ Ánh Trăng
giữa tự sự và trữ tình. Sự việc trong tự sự dẫn mạch cho cảm xúc trữ tình, làm
cho cảm xúc chân thành, tha thiết. Thể thơ 5 chữ phù hợp với chất tự sự được
thể hiện bằng giọng điệu tâm tình, thấm thía. Cách trình bày các chữ đầu dòng
thơ làm cho các sự việc diễn ra liền mạch về ý tưởng cũng như về hình ảnh thơ.
Nhịp thơ khi trôi chảy, tự nhiên, nhịp nhàng theo lời kể; khi ngân nga thiết tha
cảm xúc; lúc lại trầm lắng đầy ắp suy tư. Kết cấu, giọng điệu thơ làm nổi bật
chủ đề của tác phẩm tạo nên tính chân thực, chân thành sức truyền cảm sâu sắc
cho tác phẩm, gây ấn tượng mạnh với người đọc.
Chủ đề bài thơ có liên quan đến đạo lý, lẽ sống của dân tộc Việt Nam ta. Từ một
câu chuyện riêng, bài thơ cất lên lời tự nhắc nhở thấm thía về thái độ, tình cảm
đối với những năm tháng quá khứ gian khổ mà nghĩa tình đối với thiên nhiên,
đất nước bình dị. Bài thơ gợi lên những suy nghĩ về đạo lý, lẽ sống của người
Việt Nam. Nó không chỉ là câu chuyện của riêng nhà thơ, riêng một người mà là
của cả một thế hệ đã trải qua những năm dài chiến tranh gian khổ, mất mát, đã
từng sống giữa thiên nhiên, sống giữa nhân dân tình nghĩa. Giờ đây sống trong
cảnh hoà bình với những tiện nghi đầy đủ, hiện đại, người ta có thể thay đổi,
đánh mất quá khứ, đánh mất nghĩa tình để rồi một lúc nào đó lại phải ân hận, ăn năn.
Từ câu chuyện về ánh trăng, khổ thơ 5 và 6 bài thơ Ánh trăng nhẹ nhàng nhắc
nhở chúng ta đừng bao giờ quên quá khứ, đừng bao giờ trở thành những kẻ vô
tình, vô nghĩa, bạc bẽo, vô ơn. “Ánh trăng” nằm trong mạch cảm xúc “uống
nước nhớ nguồn” gợi lên đạo lý sống thuỷ chung đã trở thành truyền thống tốt
đẹp của dân tộc Việt Nam.
Phân tích 2 khổ thơ cuối bài thơ Ánh Trăng
Những truyền thống tốt đẹp và lâu đời của dân tộc Việt Nam luôn được các tác
giả trong nước giữ gìn và khéo léo bộc bạch ngay ở chính các tác phẩm của 25
Văn mẫu lớp 9: Cảm nhận 2 khổ thơ cuối bài thơ Ánh Trăng
mình. Nguyễn Duy cũng là một trong số đó, khi mà tư tưởng ‘ăn quả nhớ kẻ
trồng cây” là nội dung xuyên suốt trong Ánh trăng- một bài thơ được xuất bản
trong sách giáo khoa Ngữ văn 9.
Hình tượng chính trong bài đã được ông lấy làm tên bài thơ “Ánh trăng”, thấm
đượm ý nghĩa nhân văn và tư tưởng triết luận. Nguyễn Duy gửi gắm vào đó biết
bao những suy nghĩ, chiêm nghiệm về lẽ sống thủy chung cao quý trong cuộc
đời mỗi con người và tha thiết mong muốn gửi đến chúng ta một thông điệp:
“Hãy lắng lại một phút cái chen lấn, bận bịu của cuộc sống để nhìn lại bản thân mình!”
Có lẽ bởi rằng ông luôn đau đáu một điều: Dân tộc ta phải luôn nhớ về cội
nguồn, biết tự soi rọi, tự ý thức về những lầm lỗi của mình, để hướng thiện.
Nhưng tâm niệm đó không bị truyền tải theo cách gò bó hay cứng nhắc, Nguyễn
Duy chỉ đơn giản là dùng giọng điệu tâm tình kể một câu chuyện cho người đọc,
câu chuyện cuộc đời của chính tác giả.
Từ những câu thơ đầu tiên cất lên, người đọc được ông nhẹ nhàng đưa về với
quá khứ và tuổi thơ tươi đẹp gắn liền với thiên nhiên. Ông được tự nhiên tìm tòi,
khám phá và cảm nhận những điều gần gũi nhất nuôi dưỡng mình trưởng thành
cho đến ngày chính thức trở thành một người lính.
Dần dần khi sống ở rừng sâu, ánh trăng trở thành tri kỉ và bầu bạn. Nguyễn Duy
có thể nằm ngủ dưới trăng, đứng gác dưới trăng, trăng cùng chia sẻ những gian
lao và niềm vui thắng trận của cuộc đời người lính. Rõ ràng tất cả đã khiến ta
những tưởng rằng mối quan hệ tình cảm ấy sẽ luôn gắn bó keo sơn, mãi mãi chẳng rời.
Thế nhưng khi mạch câu chuyện trở về hiện tại thì điều “ngỡ không bao giờ
quên” lại gần như chẳng còn tồn tại gì trong tâm trí. Với giọng kể trầm ngâm,
mang nhiều nét suy tư, Nguyễn Duy đưa ta theo dòng thời gian tới cảnh đời 26
Văn mẫu lớp 9: Cảm nhận 2 khổ thơ cuối bài thơ Ánh Trăng
sống con người bắt đầu thay đổi theo sự tấp nập phồn hoa của đô thị. Có lẽ cũng
vì vậy mà lòng người cũng đổi theo, vì ánh sáng của đèn điện giờ đã thay cho
ánh sáng của ánh trăng.Từng là người bạn tri kỉ, thế nhưng giờ thấy trăng đi qua
ngõ cũng chỉ giống như hai người xa lạ lướt qua nhau.
Sự thay đổi này cũng diễn ra trong chính lòng người lính. Giọng thơ thì thầm
như nhắc nhở việc anh đã quên mất đi người bạn năm xưa, người đã từng theo
anh suốt những năm tháng tuổi thơ, người đã luôn bên cạnh những ngày tháng
gian lao trong rừng. Phải chăng anh đã thực sự thay đổi, cần phải tự trách và sám hối?
Anh lính ấy vừa kể cho người đọc cũng tự nói chuyện với chính mình, suy nghĩ
về việc bản thân đã thay đổi tình cảm quên đi vẻ đẹp của thiên nhiên, bình dị.
Anh có đang chỉ sống cho hiện tại mà quên đi quá khứ? Hưởng thụ yên vui hiện
tại mà quên mất đi giá trị của những ngày tháng gian khổ?
Không dừng lại ở đó, một cuộc sống vô cùng chân thật được Nguyễn Du sáng
tạo nên, đưa tất cả chìm vào bóng tối. Hệ thống đèn điện nơi đô thị bỗng chợt
vụt tắt, không gian phòng đinh tối om. Như bao người khác, phản xạ đầu tiên
của người chiến sĩ là vội bật tung cửa sổ tìm kiếm ánh sáng.
Và đột ngột làm sao, anh chợt nhận ra hóa ra vầng trăng vẫn ở đó, tròn đẹp và thủy chung đợi chờ:
"Ngửa mặt lên nhìn mặt
Có cái gì rưng rưng
Như là đồng, là bể
hư là sông, là rừng"
Người ngắm trăng và suy ngẫm bâng khuâng “Ngửa mặt lên nhìn mặt”. Mặt
người và mặt trăng đối nhau trong tích tắc và cũng được diễn tả chỉ bằng một 27
Văn mẫu lớp 9: Cảm nhận 2 khổ thơ cuối bài thơ Ánh Trăng
vần thơ. Gương mặt kia của trăng kia sao mà vừa xa lạ lại vừa thân quen, ẩn
chứa nghĩa tình tri kỷ mà bấy lâu nay người lính dửng dưng.
Sau rất nhiều năm dù vẫn luôn ở cạnh nhưng chẳng bao giờ tiếp xúc, cuối cùng
hai người bạn đã thực sự gặp lại nhau. Dù vầng trăng kia chẳng trách móc, thế
nhưng lại cũng đủ để người lính rưng rưng xúc động, nghẹn ngào. Biết bao
những kí ức tươi đẹp chợt ùa về trong tâm trí người lính khiến nước mắt anh
trào ra. Anh như nhìn thấy biết bao hình ảnh "như là đồng là bể, như là sông là
rừng” quen thuộc vào mến thương nhường nào.
Câu trúc của câu thơ sóng đôi kết hợp với phép tu từ so sánh, từ “là" được nhắc
lại bốn lần cho ta thấy ngòi bút của Nguyễn Duy thật tài hoa. Sự gắn bó chan
hòa giữa người lính và thiên nhiên trong quá khứ được ông gợi lên thật sống
động. Thật khéo léo làm sao, bởi nói đến đất nước, đến đồng, đến sông, đến
bể, … là nhắc đến những gì gắn bó sâu sắc nhất với tuổi thơ và chiến tranh.
Ở khổ thơ đầu ta cũng từng thấy những hình ảnh này xuất hiện một lần. Hóa ra
trăng kia xuất hiện với vai trò như một biểu tượng của quá khứ, một quá khứ
đầy nghĩa tình đã tạm bị lãng quên nhưng chưa bao giờ biến mất. Nó đánh thức
những năm tháng hoa niên ấy cho đến khi cầm súng hành quân đuổi giặc dưới những cánh rừng.
Những kí ức sống động ấy chỉ cần một tác nhỏ đã trở nên rõ ràng và sâu đậm
hơn bao giờ hết. Cả người đọc và tác giả cùng chìm đắm và chiêm nghiệm về
ánh trăng tình nghĩa một thời:
Trăng cứ tròn vành vạnh
Kể chi người vô tình
Ánh trăng im phăng phắc
Đủ cho ta giật mình 28
Văn mẫu lớp 9: Cảm nhận 2 khổ thơ cuối bài thơ Ánh Trăng
Dù có chuyện gì xảy ra, ánh trăng kia vẫn luôn tròn vạnh, thủy chung và nhân
hậu như thế. Mặc cho con người vô tình vẫn luôn bao dung độ lượng không một
lời trách cứ để một ngày kẻ có tội giật mình nhìn thấy khiếm khuyết, vừa tỉnh ngộ và vừa biết ơn.
Thế nhưng dù vậy cũng thực sự rất khó để tả hết được tâm trạng khi ấy của con
người bằng lời. Trong hai chữ “giật mình” như còn ẩn chứa cả cảm giác ăn năn
và hối lỗi đầy chân thành. Dù không thể cất lên thành lời thế nhưng cũng vì vậy
mà thơ Nguyễn Duy lại có chút day dứt vào ám ảnh hơn. Ông cũng bắt đầu đưa
vào bài nhân xưng “ta” như muốn để tạ lỗi với ánh trăng.
Người xưa vẫn có câu “Trong cái rủi có cái may”, và có lẽ sự cố mất điện của
thành phố đã mang lại cho độc giả và Nguyễn Duy một món quà lớn: Chân
tướng sự việc. Dù sự thật ấy có khiến con người cảm nhận niềm ân hận, day dứt
những vẫn thật đáng giá bởi nó khiến ta nghiêm khắc nhìn thẳng vào những sai
lầm và hiểu được điều gì mới thực sự quý giá, cao đẹp và vĩnh hằng.
Bài thơ là lời tự sự của tác giả, nhưng cũng thật đặc biệt bởi ta cũng có thể thấy
câu chuyện của chính mình qua đó. Từ những tâm tình, kỉ niệm sâu kín trong
lòng của Nguyễn Duy mà người đọc có cơ hội nhìn nhận lại lối sống ở hiện tại
và nhận được những thông điệp về sự đáng giá của quá khứ. Đây cũng chính là
điểm hay nhất của bài khi sức mạnh cảm hóa được lòng người.
Nhờ những dòng thơ và kí ức quý báu của Nguyễn Duy, tâm hồn mỗi độc giả
như được thanh lọc hoàn toàn khỏi những bộn bề thường ngày, và lay động lại
những điều quý báu đã bị thời gian chôn vùi. 29
Văn mẫu lớp 9: Cảm nhận 2 khổ thơ cuối bài thơ Ánh Trăng
Viết đoạn văn nêu cảm nhận của em về 2 khổ thơ cuối Ánh trăng
trong đó có sử dụng câu cảm thán Mẫu 1
Trong bài thơ Ánh trăng của Nguyễn Duy Nhuệ, đã cho người đọc lời khuyên
nhủ: phải biết thủy chung, phải biết ơn nghĩa tình nặng với nhân dân, với đất nước.
Ngửa mặt lên nhìn mặt
Có cái gì rưng rưng
Như là đồng là bể
Như là sông là rừng.
Trăng cứ tròn vành vạnh
Kể chi người vô tình
Ánh trăng im phăng phắc
Đủ cho ta giật mình.
Trăng là người bạn tri âm tri kỉ không chỉ với những người lính mà là biết bao
thế hệ. Nhưng khi cuộc sống thay đổi thì con người cũng không còn tha thiết
ngắm trăng nữa. Họ không còn nhớ đến sự hiện diện của trăng nên trăng mới
"rưng rưng" khóc. Trăng cho con người vẻ đẹp để họ ngắm cho tâm hồn vơi nhẹ
nỗi lòng. Ấy vậy sao con người lại nỡ xao nhãng vẻ đẹp và không còn tha thiết
với trăng nữa? Bằng phép điệp cấu trúc và so sánh, Nguyễn Duy đã khiến trăng
hiện lên là một tình nghĩa nhưng lại bị người đời quên lãng. Còn ở khổ thơ cuối,
trăng lại hiện lên là một sự nhân từ. Dẫu người đời có quên lãng nó, trăng vẫn
im "phăng phắc". Trăng vẫn một lòng thủy chung son sắt, vẫn không oán trách
người đời. Chao ôi, thật là một vầng trăng không chỉ có vẻ đẹp viên mãn mà 30
Văn mẫu lớp 9: Cảm nhận 2 khổ thơ cuối bài thơ Ánh Trăng
còn có tấm lòng nhân hậu biết bao! Đọc những câu thơ về trăng, chắc hẳn ai
cũng cảm thấy yêu trăng hơn vì phẩm chất đáng quý của nó. Mẫu 2
Ngửa mặt lên nhìn mặt
có cái gì rưng rưng
như là đồng là bể
như là sông là rừng
Trăng cứ tròn vành vạnh
kể chi người vô tình
ánh trăng im phăng phắc
đủ cho ta giật mình
Hai khổ thơ cuối bài thơ Ánh trăng là những xúc cảm ăn năn của nhân vật trữ
tình khi nhìn về vầng trăng trên cao. Hành động "ngửa mặt" lên "nhìn mặt"
có gì đó xót xa, cay đắng biết bao! Quá khứ bị lãng quên nay trở về ào ào như
mạch nước ngầm. Và "rưng rưng" kia hẳn là giọt nước mắt của đau xót, của
chua chát trong lòng. So sánh, liệt kê trong "như là đồng là bể/ như là sông là
rừng" ẩn chứa kí ức tươi đẹp của một thời. Thiên nhiên tươi đẹp đã cùng người
lính chiến đấu và nay trở về trong lời nhắc nhở đầy nghiêm nghị. Nhưng dầu
con người có đổi thay thì ở đó, vẫn mãi là "trăng cứ tròn vành vạnh" - vẹn
nguyên tình và vô cùng thủy chung. Con người "vô tình" không làm trăng kia
thay đổi. Nhân hóa "ánh trăng im phăng phắc" giúp người đọc hình dung về sự
nghiêm cẩn, nhắc nhở của vầng trăng. Đủ để giật mình, giật mình vì ăn năn, vì
hối hận và hơn thế là làm con người biết lỗi sai để sửa, để thay đổi mình. 31