Cảm nhận bài thơ Chiều xuân của Anh Thơ (Dàn ý + 5 Mẫu) | Văn mẫu 11 Chân trời sáng tạo

Văn mẫu lớp 11: Cảm nhận bài thơ Chiều xuân của Anh Thơ bao gồm 5 bài văn mẫu khác nhau cực hay kèm theo gợi ý cách viết chi tiết. Qua đó giúp các em có thể tham khảo để nâng cao trình học văn học của mình với những bài văn mẫu hay sát với chương trình học.

Dàn ý cảm nhận Chiều xuân
1. Mở bài:
Khái quát chung về tác giả Anh Thơ và bài thơ Chiều xuân
Nêu khái quát cảm nhận chung về nội dung, nghệ thuật của bài thơ Chiều xuân.
2. Thân bài: Triển khai hệ thống các luận điểm đã xây dựng.
Cảm nhận khung cảnh bến vắng chiều xuân: mưa lạnh, tiêu điều, vắng vẻ, thiếu
sắc màu và ánh sáng
Cảm nhận đường đê chiều xuân: có sự chuyển đổi từ tĩnh sang động, từ gam
màu buồn sang gam màu xanh "biếc" của cỏ, của sự sống. Cảnh vật vô cùng
thân thương và bình yên, độc đáo, nên thơ, làm vơi đi nỗi cô đơn của bến vắng.
Cảm nhận cuộc sống con người chiều xuân: Nhịp sống nơi đồng quê khoan
thai; niềm tin của con người vào một tương lai tươi sáng.
3. Kết bài: Nêu đánh giá, cảm nhận riêng của em về bài thơ.
Cảm nhận Chiều xuân - Mẫu 1
Mùa xuân đã lâu trthành nguồn cảm hứng vô tận cho việc sáng tác văn thơ. Xuân
thời điểm của tuổi trẻ, nơi khát khao sống mãnh liệt sự cống hiến, nơi niềm tin
hy vọng được truyền tải. Trong khi hầu hết các nhà thơ thường miêu tả vẻ đẹp tinh
khôi của mùa xuân trong những buổi sáng rạng rỡ, với ánh nắng chan hòa y xanh
tươi mát, Anh Thơ lại lựa chọn tả mùa xuân trong buổi chiều. Bài thơ "Chiều xuân" ra
đời với ý muốn khắc họa thêm vẻ đẹp dịu dàng của mùa xuân vào cảnh tượng buổi
chiều - những cánh đồng quê hương yên bình và ngọt ngào.
“Tôi có chờ đâu, có đợi đâu,
Mang chi xuân đến gợi thêm sầu.”
(Chế Lan Viên)
Bài thơ “Chiều xuân” được in trong tập "Bức tranh quê" xuất bản năm 1941, một ví
dụ tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật của Anh Thơ. Tranh vẽ về thiên nhiên mùa
xuân tươi mát, thơ mộng, khung cảnh yên tĩnh của làng quê yên ả. Buổi chiều
thường mang đến những khoảnh khắc gợi lên cảm xúc cảm hứng trong tâm trí thi
nhân. Nhà thơ đã quan sát lựa chọn các hình ảnh chi tiết đặc trưng của cảnh vật
để tái hiện ba bức tranh của chiều xuân - những hình ảnh êm đềm và bình yên.
Khung cảnh đầu tiên tả một buổi chiều mưa bụi, với hình ảnh bến sông hoang
vắng, con đò gần như bất động, quán tranh xơ xác bên chòm xoan rụng hoa tím:
Mưa đổ bụi êm êm trên bến vắng,
Đò biếng lười nằm mặc nước sông trôi;
Quán tranh đứng im lìm trong vắng lặng
Bên chòm xoan hoa tím rụng tơi bời.
Khổ thơ trên tạo nên một cảm nhận sâu lắng về một cảnh tượng đầy huyền ảo. Trước
mắt ta mưa nhẹ nhàng trút xuống, mang theo những hạt bụi nhè nhẹ, tạo ra một
không khí êm đềm trên bến sông vắng vẻ. Con đò bất động, như trì trệ giữa lặng lẽ của
dòng nước trôi. Quán tranh đứng im lìm, như đọng lại trong sự yên lặng của cảnh vật
xung quanh. Bên cạnh, chòm xoan hoa tím rơi rụng đầy nét tơi bời, tạo nên sắc thái
đầy u buồn đổ đầy bầu không khí tĩnh lặng. Cảnh tượng y chạm đến lòng người
với sự đậm sắc tưởng tượng mang đến một cảm giác thanh tịnh, như một bức tranh
huyền ảo và mơ màng trong tâm trí.
Ngoài đường đê cỏ non tràn biếc cỏ,
Đàn sáo đen sà xuống mổ vu vơ
Mấy cánh bướm rập rờn trôi trước gió.
Những trâu bò thong thả cúi ăn mưa.
Từ đường đê, khung cảnh xanh mướt của cnon tràn ngập ánh sắc biếc đã tạo nên
một bức tranh tự nhiên tươi tắn hoặc. Đàn sáo đen bay xuống với sự uyển
chuyển của chúng, tạo nên một âm nhạc tự do nhẹ nhàng trên không trung. Mấy
cánh bướm nhỏ rục rịch, múa bay trong tiếng gió, tạo ra một khung cảnh đầy sức sống
đa dạng. Trâu thảnh thơi, điềm tĩnh cúi mình, hưởng thụ những giọt mưa trên
lưng, tạo nên một hình ảnh thanh bình tự nhiên trong lòng người thưởng thức. Mỗi
chi tiết trong khổ tcủa bài thơ Chiều xuânđều vẽ ra cho người đọc một hình ảnh
sống động, đan xen với nhau để tái hiện những cảnh vật gợi lên sự sảng khoái hài
lòng.
Đứng giữa đồng lúa xanh rờn ướt lặng, nhìn quanh mảnh đất bát ngát màu xanh
tươi. Một cảm giác bình yên và thân thuộc như làm say mê lòng tôi. Bầu trời cao xanh
thăm thẳm trải dài trên đầu, như một mái hiên kín mít, che chcho những tâm hồn
chẳng nguôi hi vọng:
Trong đồng lúa xanh rờn và ướt lặng
Lũ cò con chốc chốc vụt bay ra,
Làm giật mình một cô nàng yếm thắm.
Cúi cuốc cào cỏ ruộng sắp ra hoa.
Từ một góc xa xa, tiếng cào cỏ ruộng trầm lắng như điệu nhạc ru nh. Một con
chốc chốc vụt bay ra khỏi cánh đồng, tạo nên hình ảnh tươi sáng rộn ràng. Đôi
cánh trắng mịn của trắng đập đồng điệu với tiếng hót ngọt ngào của chim chích
chòe, cùng nhau tạo nên một điệu tự nhiên, sôi động nhưng cũng nhẹ nhàng êm
đềm. Bỗng dưng, ánh mắt tôi bị cuốn vào một hình bóng nữ tính yêu kiều. Một
nàng yếm thắm, áo dài xanh nhạt, đang cúi cuốc cào cỏ ruộng sắp ra hoa. Bàn tay nhỏ
nhắn của gắp lấy những cỏ vàng, lấp lánh như ánh mặt trời chiếu sáng trên cánh
đồng. Cái nhìn tròn xoe đôi hồng, nàng y như một bức tranh sống động
giữa đại ngàn cỏ cây. Vẻ đẹp trong sáng thuần khiết của nàng yếm thắm làm cả
tác giả người đọc cảm nhận được sự thanh tịnh hòa quyện với thiên nhiên xanh
tươi. Giữa cánh đồng lúa trải dài mênh mông, tôi hiểu rằng đôi khi, vẻ đẹp đơn giản
nhất lại chứa đựng trong những hành động bình thường nhất, nàng yếm thắm đó
đã làm cho cảnh đồng trở thành một kiệt tác thơ mộng và tuyệt vời.
Từ vựng tinh tế bút pháp khéo léo của Anh Thơ đã tạo nên những hình ảnh giản dị,
nhưng tràn đầy m áp chứa đựng vẻ đẹp của cuộc sống. Những từ ngữ y như
những nét vẽ tinh tế, như một nét mực đỏ trên trang giấy đem lại cho người đọc những
trải nghiệm tinh tế sâu sắc. Những dòng thơ dễ chạm đến trái tim dâng n cảm
xúc của người đọc, cho ta cảm nhận một cách chân thật nhất tình cảm cảm xúc của
nhà thơ. Điều y chính thành công của bài thơ, khẳng định giá trị nghệ thuật của
nó. Nhịp thơ đan xen chậm rãi nhẹ nhàng, mang lại cho ta cảm giác sâu lắng, trong
khi đôi lúc lại toả ra sự rộn ràng và vui tươi. Toàn bộ bài thơ như một bản nhạc với vô
số giai điệu, m rung động trái tim và suy ngcủa người đọc. nh yêu dành cho thơ
ca và tình yêu với những giá trị giản dị, thân thuộc của quê hương - đó là những yếu tố
quan trọng góp phần tạo nên thành công của bài thơ "Chiều Xuân". Sự kết hợp tài
năng và trái tim yêu thương đã làm nên một tác phẩm xuất sắc, khẳng định được vị thế
đặc biệt của nó trong lòng độc giả.
Cảm nhận Chiều xuân của Anh Thơ - Mẫu 2
Bài thơ "Chiều xuân" in trong tập "Bức tranh quê" của nữ Anh Thơ. "Chiều xuân"
được viết theo thể thơ 8 tiếng, gồm có 12 câu thơ, chia đều thành ba khổ thơ.
Bức tranh lụa "Chiều xuân" gồm ba cảnh; cảnh nào cũng bình dị, thân quen với
mỗi con người Việt Nam chúng ta. Sau gần bảy mươi m, người đọc cảm thấy cô gái
Kinh Bắc đang đứng bâng khuâng ngắm nhìn cảnh bến đò, dải đường đê và cảnh đồng
lúa quê nhà một buổi chiều xuân mưa bụi.
Khổ thơ đầu tả cảnh bến đò. Trời đã ngả chiều, mưa xuân đổ bụi trắng đất trắng trời,
nên bến đò trở nên vắng vẻ, không một bóng người khách lại qua: "Mưa đổ bụi êm êm
trên bến vắng". Từ y "êm êm" gợi tả một không gian êm đềm trong làn mưa xuân
phơi phới bay". Tạo vật như đang được ướp khí xuân và hương xuân; cỏ y như đang
mở mắt, lắng nghe "mưa đổ bị êm êm ", chào đón Chúa xuân đã về.
Con đò chiều mưa được nhân hoá, như một kẻ lười biếng nằm nghỉ, tâm và vô tình
"mặc ớc sông trôi". Ta chợt nhớ đến con đò trong thơ Ức Trai hơn 600 năm về
trước:
"Con đò gối bãi suốt ngày ngơi"
(Bến đò xuân đầu trại)
chiều mưa nên quán hàng cũng vắng vẻ. Quán tranh nghèo trên bến đò được nhân
hoá như một lữ khách "đứng im lìm" trú mưa đầy tâm trạng. Nhà thơ không nói đến
gió xuân mà ta vẫn cảm thấy có nhiều gió thổi. Chữ "tơi bời " gợi lên cảm nhận ấy:
"Quán tranh đứng im lìm trong vắng lặng,
Bên chòm xoan hoa tím rụng tơi bời".
Hoa xoan tím một nét đẹp của hồn quê xứ sở. Cuối tháng hai đầu tháng ba, xoan
đầu ngõ, xoan dọc đường bưng nở từng chùm, toả hương nồng n. Nguyễn Trãi
câu thơ: "Trong tiếng cuốc kêu, xuân đã muộn Đầy sân mưa bụi, nở hoa xoan"
(Cuối xuân tức sự). Trong bài "Mưa xuân" thi sĩ Nguyễn Bính đã viết:
"Bữa ấy mưa xuân phơi phới bay,
Hoa xoan lớp lớp rụng vơi đầy".
Cảnh bến đò với hình ảnh con đò biếng lười, quán tranh im lìm, chòm xoan "hoa m
rụng tơi bời" được Anh Thơ chấm phá một cách tinh tế; hình ảnh nào, hoạ tiết nào
cũng có hồn, rất bình dị, thân thuộc, đáng yêu.
Khổ thơ thứ hai i về cảnh vật ngoài đường đê. Chắc những dải đê của sông Cầu,
sông Thương, ng Đuống? Cỏ xanh biểu tượng về sắc xuân. Nhiều nhà thơ đã viết
rất hay, rất đẹp về cỏ xuân:
-"Phương thảo liên thiên bích" (cổ thi)
- "Cỏ xanh như khói bến xuân tươi" (Nguyễn Trãi)
-"Cỏ non xanh tận chân trời" (Nguyễn Du)
Cô gái Bắc Giang vẫn có một cách cảm nhận riêng, vừa mới vừa đẹp:
"Ngoài đường đê cỏ non tràn biếc cỏ"
Chữ "non", chữ "biếc" gợi lên màu xanh ngọt ngào; chữ "tràn" gợi tả vẻ tốt tươi, mơn
mởn, căng đầy sức sống, nhựa sống của những thảm cỏ xuân trên đường đê uốn ợn.
Cảnh vật không còn "êm êm", "im lìm", "vắng lặng" nữa trở nên sống động,
hồn. Từ đàn sáo đen, mấy cánh bướm đến những trâu tất cả như đang mang theo
bao tình xuân:
"Đàn sáo đen sà xuống mổ vu vơ;
Mấy cánh bướm rập rờn trôi trước gió,
Những trâu bò thong thả cúi ăn mưa".
Nét vẽ nào cũng sinh động: "sà xuống mổ vu vơ" , "rập rờn trôi trước gió", "thong thả
cúi ăn mưa". nh bướm sặc sỡ không bay "trôi", con trâu hiền lành đang gặm cỏ
non trên dải đê tưởng "cúi ăn mưa". Chữ dùng của Anh Thơ khá tinh luyện, giàu hình
tượng và biểu cảm.
Cảnh thứ hai của bức tranh "Chiều xuân" không còn tĩnh vật nữa, hoạ tiết nào
cũng cựa quậy, sống động đầy sức xuân. Các động từ dùng rất đắt: tràn, xuống, mổ
vu vơ, rập rờn trôi, thong thả cúi ăn mưa. Nhà thơ tả ít gợi nhiều; nét nào cũng
mang theo sức xuân và tình xuân đầy ý vị. "Những trâu thong thả cúi ăn mưa"
một câu thơ gợi cảm có hình ảnh bình dị đáng yêu đã gợi lên bao nỗi niềm thương
mến và tin cậy, làm nhớ lại một lời nguyền xa xưa:
"Bao giờ cây lúa còn bông,
Thì còn ngọn cỏ ngoài đồng trâu ăn"
(Ca dao)
Cảnh thứ bađồng lúa, lúa "sắp ra hoa " xanh rờn. Lá lúa như những ngón tay xoè ra
đón mưa bụi nên ớt lặng". con như bầy trnhỏ tinh quái, tinh nghịch "chốc
chốc vụt bay ra". Chiều đã xuống dần , "Con đi đón cơn mưa Tối tăm mịt ai
đưa cò về?" (Ca đao). Lũ cò con mong mẹ nên mới "chốc chốc vụt bay ra" hay có tình
ý gì? Hình ảnh thôn nữ "yếm thắm" nổi bật trên nền xanh ruộng lúa đã làm sáng
bừng vần thơ:
"Lũ cò con chốc chốc vụt bay ra,
m giật mình một cô nàng yếm thắm
Cúi cuốc cào cỏ ruộng sắp ra hoa".
Cảnh thứ ba nhiều rung động xôn xao. Nhà thơ đã sử dụng thủ pháp nghệ thuật lấy
động để tả tĩnh khá thành công, làm nổi bật cảnh "Chiều xuân" nơi làng quê, trong
những ngày mưa bụi thật vắng lặng, êm đềm. Những chiều mưa xuân nơi đồng quê,
làng quê ngày xưa vốn thế. Anh Thơ đã giúp những thế hệ độc giả hôm nay và sau này
cảm nhận được cảnh vật và không khí thôn dã một thời quá vãng.
Trong "Thi nhân Việt Nam" khi nói về Anh Thơ, nhà n Hoài Thanh viết: "Sau câu
thơ, ta mơ hồ thấy một cái gì: có lẽ là hồn thi nhân". Đọc "Chiều xuân " ta cảm thấy rõ
"hồn thi nhân" của nữ sĩ đã trang trải khắp các vần thơ.
"Chiều xuân " cho thấy ngòi bút nghệ thuật của Anh Thơ tinh tế, đậm đà. Cảnh vật
được chấm phá, phối sắc hài hoà, ý vị. màu m của hoa xoan, màu biếc của cỏ
non, đôi cánh đen của bầy sáo, màu xanh rờn của đồng lúa. nổi bật nhất, xinh tươi
nhất là chiếc yếm thắm của thôn nữ, đang cần mẫn cào cỏ trên ruộng lúa "sắp ra
hoa".
Anh Thơ sử dụng từ láy ợng hình một cách đắc địa, làm nổi bật cái êm đềm, vắng
lặng, xôn xao của cảnh vật trong một chiều xuân mưa bụi: êm êm, im lìm„vắng lặng,
tơi bời, vu vơ, rập rờn, thong thả.
"Chiều xuân" là một bức cổ hoạ xinh xắn. Không phải cảnh lầu son gác tía, mà là cảnh
bình dị, thân thuộc nơi đồng quê, ng quê thuộc đồng bằng Bắc Bộ ngày xưa, hồn
xuân xứ sở. "Chiều xuân " là một bài thơ hay và đậm đà.
Cảm nhận Chiều xuân - Mẫu 3
Nữ Anh Thơ (1921 2005) được biết đến một hồn thơ nữ đằm thắm, nữ thi
tên thật Vương Kiều Ân, xuất thân trong một gia đình truyền thống Nho học.
Quê gốc của nữ thi thị Bắc Giang nhưng lại sinh ra lớn lên tại Ninh
Giang, Hải Dương. Mặc dù chưa học hết tiểu học nhưng vốn có khiếu văn chương nên
bà rất thích đọc sách và làm thơ.
Quê hương đất nước là mảng đề tài quen thuộc của giới văn nghệ sĩ, đã nhiều tác
phẩm tuyệt vời ra đời, Anh Thơ là một trong số những nhà văn đó đã thể hiện tình yêu
quê hương đất nước thiết tha qua những vần thơ mộc mạc, chân thành nhưng sâu lắng.
Cảnh quê hương thanh bình yên của một quê hương giàu đẹp được thi nhân đón
nhận bằng cả m hồn. Trải rộng bài thơ trích trong tập thơ bức tranh quê” xuất bản
năm 1941.
Tháng 8 m 1945 Anh Thơ hăng hái tham gia cách mạng, nhiệt tình phục vụ kháng
chiến và y dựng đất nước bằng sáng tác thơ ca từng là ủy viên ban chấp hành hội
nhà văn Việt Nam, đã để lại nhiều tập thơ ý nghĩa tinh thần nghệ thuật sâu
sắc. Trong đó i “chiều xuân” Anh Thơ đã miêu tả một bức tranh quê chiều xuân
thanh bình, đồng thời thể hiện lòng yêu quê hương, đất nước thiết tha của mình.
Anh thơ đã chọn thể thơ 8 chữ, gieo vần giãn cách, mỗi khổ có 4 câu một bức tranh
quê êm đềm, thư thái như tâm hồn người phụ nữ :
“Mưa đổ bụi êm êm trên bến vắng,
Đò biếng lười nằm mặc nước trôi sông;
Quán tranh đứng im lìm trong vắng lặng
Bên chòm xoan hoa tím rụng tơi bời .”
Nhịp thơ 3/5 chậm rãi, khoan thai với những hình ảnh quen thuộc trong ca dao thơ
ca cổ điển Việt Nam vẫn là bến nước, con sông, con đò, quán nước nhưng có lẽ không
phải bên sông đông người lên xuống một bến vắng, con đò cũng không phải
con đò nối nhịp cầu hai cảnh con đò biếng lười, hờ hững để mặt dòng sông
trôi xuôi và quán tranh im lìm, vắng lặng trong một chiều mưa xuân.
Tất cả cảnh vật như rơi vào tình trạng im ắng tuyệt đối, tất cả như đang mong mỏi một
cái gì đó đến từ nơi xa thẳm. Nếu như không có sự chuyển động của nước sông trôi
“chòm xoan hoa tím rụng tơi bời” thì người đọc tưởng như mình đang đối diện với
bức tranh xuân tĩnh vật, bức tranh xuân tuyệt đẹp, thật êm nhưng cũng thật buồn ,
chất chứa tâm trạng buồn não nề của chủ thể tôi đang đơn, khao khát đợi chờ, hỏi
thăm. Khổ thơ như chứa đựng được nỗi niềm của thi nhân.
Ở khổ thứ 2, từ cái nhìn bao quát tác giả đi gần vào với con người và thiên nhiên
“Ngoài đường đê cỏ non tràn biếc cỏ,
Đàn sáo đen sà xuống mổ vu vơ
Mấy cánh bướm rập rờn trôi trước gió.
Những trâu bò thong thả cúi ăn mưa .”
Cảnh chiều xuân được mở rộng hơn sau những ngày băng giá, xuân về cỏ non trở nên
tốt tươi hơn “cỏ non tràn biếc cỏ”, điệp từ “cỏ” được lặp lại 2 lần đã khắc họa được
cảnh vật thân quen nông thôn, cỏ non xanh mơn mởn, sức sống bừng lên mạnh mẽ
qua cụm từ “tràn biếc cỏ” trên nền hình ảnh cỏ xuân ấy, chiều xuân hiện ra thật sinh
động: “Đàn sáo đen xuống mổ vu vơ” cùng với đàn đang gặm cỏ để ăn cao
hơn một chút là: “Mấy cánh bướm rập rờn trôi trước gió”.
Cảnh vật động nhưng thật nhẹ nhàng đàn sáo đen xuống nhưng chỉ mổ một
cách vu vơ, vài ba cánh bướm thì lại không bay để mặc trôi trước gió, mấy chú
trâu bò kia lại cúi thong thả ăn mưa, cách miêu tả của Anh Thơ đã làm cho vật đã tỉnh
nay càng thêm nh, càng trở n hồ, huyền hoặc hơn. Tác giả lại đi vào chỉ tiết
hơn ở cánh trong đồng, được Anh Thơ thể hiện trong khổ 3 của bài thơ:
“Trong đồng hoa lúa xanh rờn và ướt lặng,
Lũ cò con chốc chốc vụt bay ra,
Làm giật mình một cô nàng yếm thắm.
Cúi cuốc cào cỏ ruộng sắp ra hoa .”
Thi nhân tiếp tục khắc họa thêm hình ảnh chiều xuân với “đồng hoa lúa xanh rờn
ướt lặng” , những chú con thỉnh thoảng lại tung vụt bay lên giữa mảnh ruộng
sắp ra hoa, trên khung cảnh chiều xuân ấy lại sự xuất hiện thêm bóng dáng của
thiếu nữ đang cúi cuốc cào, tưởng chừng như cô gái đang chăm chỉ với công việc.
Nhưng không tập trung vào công việc của mình nhiều lắm, chỉ cần tiếng cất nh của
đàn chim con” thôi gái cũng phải giật mình, cái “giật mình” thật đáng suy nghĩ,
nàng thắm kia thả hồn về nơi đâu trong tuổi dậy thì mộng với nỗi buồn vu vơ,
nàng ngẩn ngơ trước cảnh vật đang rạo rực vào xuân.
Cả bài thơ chỉ vỏn vẹn 3 khổ thơ, mỗi khổ một bức tranh xuân hợp lại, tạo nên
cảnh xuân buổi chiều êm ả, bình yên tĩnh lặng. Qua thủ pháp lấy động tả tĩnh cảnh
sắc tươi tắn, con người mộng mơ, với sự quan sát tinh tế của người con gái phải yêu
quê hương tha thiết thì ngòi bút của nhà văn Anh Thơ mới dựng lên được một cảnh
chiều mưa xuân đẹp đến như thế.
Cảm nhận bài Chiều xuân - Mẫu 4
Mùa xuân mùa của y cối sinh sôi nảy nở, mùa xuân cũng mùa của biết bao
nhiêu thế hệ thi đắm chìm vào những bài thơ miêu tả xuân. Nếu như đa số những
nhà thơ nói đến cái màu sắc yêu kiều tinh khôi của xuân vào buổi sáng bình minh cây
xanh nắng dội thì Anh Thơ lại chọn riêng cho mình tả mùa xuân vào buổi chiều.
bài thơ Chiều xuân ra đời như thế, qua đây ta thấy được thêm những nét đẹp của mùa
xuân vào buổi chiều vẻ đẹp êm đềm trên những cánh đồng quê hương dịu ngọt.
Nhà thơ vẽ lên một bức tranh mùa xuân o buổi chiều, bức tranh ấy cũng bắt đầu
bằng hình ảnh của mưa xuân êm đềm:
Mưa đổ bụi êm êm trên bến vắng,
Đò biếng lười nằm mặc nước trôi sông
Quán tranh đứng im lìm trong vắng lặng
Bên chòm xoan hoa tím rụng tơi bời.
Không gian mở ra trên bến đò xưa bức tranh mùa xuân hiên n sự cả âm
thanh, màu sắc, hình nh. Tứ thơ mùa xuân lan toả trong từng hình ảnh từng chi tiết,
từng lời thơ. Đó những hình nh đặc trưng của mùa xuân xứ Bắc: mưa bụi êm đềm,
chùm hoa xoan tím rụng trên quán nhỏ... hình ảnh cơn mưa bụi gợi lên sự êm đềm
phảng phất của những hạt mưa xuân nhỏ nhẹ êm êm.
Chiều xuân cũng vắng như những buổi chiều, con đò được nhân hoá như biết lười
biếng để mặc cho nước trôi lững lờ cong mình thì nằm im lìm trên bến vắng đó. Trước
mắt ta một cảnh tượng hữu tình sông nước bến vắng với con đò. Anh Thơ không
phải m đâu xa những hình ảnh bình thường nhưng lại nên thơ ấy đã như phô
trước mắt chỉ cần một tâm hồn biết cảm nhậntoát lên những lời thơ tuyệt vời. Quán
nước cũng im m trong sự vắng lặng y, chòm xoan hoa tím rụng tơi bời. Mùa chiều
vốn tàn tạ nhưng mùa xuân thì nảy nở sinh i. Vậy Anh Thơ đã cho ta biết thêm một
vẻ đẹp nhẹ nhàng lững lờ của mùa xuân nữa. Mọi thứ đều hoạt động một cách nhẹ
nhàng phảng phất buồn trong sự vắng lặng của con người.
Sang khổ thơ thứ hai lại một phiên cảnh khác, không phải cảnh bến vắng con đò
lười nữa mà là cảnh mùa xuân trên những triền đê:
Ngoài đường đê cỏ non tràn biếc cỏ,
Đàn sáo đen sà xuống mổ vu vơ
Mấy cánh bướm rập rờn trôi trước gió.
Những trâu bò thong thả cúi ăn mưa.
Màu sắc của cỏ cũng trở nên thật dịu nhẹ m sao, sắc cỏ dịu dàng tràn biếc cỏ. Sắc
màu y không rực rỡ không chói chang không nổi sóng như bài xuân chín của Hàn
Mặc Tử, cũng không bằng bạc thời gian như trong thơ Quách Tấn, sắc màu y
gam màu của cuộc sống được khúc xạ qua một tâm trạng ngẩn ngơ một chút buồn vu
của thi sĩ. Những con sáo đen xuống mổ vu vơ, mấy cánh ớm thì chập chờn
trong gió, những đàn trâu thong thả ăn những búi cỏ ướt đẫm mưa xuân.
đây ta cảm thấy được nghệ thuật ngôn từ của nhà thơ quả thật rất hay. Những con
số như “đàn”, mấy”, “những” thể hiện sự nhiều, sự đầy đủ nhưng cũng không quá
đông của những con vật làm đẹp cho bức tranh chiều mùa xuân y. Và đặc biệt là hình
ảnh cánh bướm thì trôi trước gió, đàn trâu tăn mưa. Người ta chỉ hay nói rằng trôi
theo nước, ăn cỏ hay uống mưa chứ không ai nói như thi cả. Những cái y lại
trở thành cái thành những hình ảnh nghệ thuật cùng đẹp. nhằm thể hiện
lên sự dập dìu của thiên nhiên cảnh vật, cánh bướm mỏng manh bay trong gió tựa như
đang trôi theo những làn gió nhẹ nhàng y. Đàn trâu gặm những búi cỏ ướt đẫm
những hạt mưa xuân như đang ăn mưa vậy.
Chia tay cảnh chiều xuân trên triền đê bãi cỏ chúng ta đến với cảnh xuân trên trong
ruộng lúa nước thân quen:
Trong đồng hoa lúa xanh rờn và ướt lặng,
Lũ cò con chốc chốc vụt bay ra,
Làm giật mình một cô nàng yếm thắm.
Cúi cuốc cào cỏ ruộng sắp ra hoa.
Cơn mưa xuân êm êm kia cũng m cho những y lúa trên đồng ướt lặng. Cái chữ
lặng kia làm cho chúng ta thấy được sự lặng lẽ êm đềm của cảnh vật xuân i làng
quê. Cánh đồng không thiếu đi hình ảnh những con chân đứng chân co rồi lại chốc
chốc bay vút n bầu trời kia. Cánh cò cứ bay lả rập rờn như thế. i hành động chốc
chốc bay ra y khiến cho những gái yếm thắm giật mình. Cái giật mình y thật
đáng yêu làm sao. Hình ảnh những người con gái xưa duyên dáng với chiếc yếm trên
thân mình gợi cho ta bao niềm liên ởng về những con người ngày xưa. Đặc biệt câu
thơ cuối với bốn từ liền nhau đều mang âm đầu “c”: “cúi cuốc cào cỏ” thể hiện sự
nhịp nhàng trùng điệp. Những gái yếm thắm ấy không chỉ duyên dáng trong trang
phục của người xưa mà còn đẹp với cái nết na chăm chỉ vun vén cho những cây lúa tốt
tươi, cuốc những cây cỏ đang ra hoa kia đi.
Như vậy có thể nói ba cảnh y hợp lại thành một bức tranh chiều xuân với nét đẹp vẫn
sinh sôi nảy nở nhưng lại êm đềm vắng vẻ và thoáng chút buồn vu vơ của người thi sĩ.
thể nói ta cảm nhận được sau bức tranh ấy một tâm hồn thuần phát trong sáng
của nhà thơ.
Cảm nhận về bài thơ Chiều xuân - Mẫu 5
Nữ Anh Thơ tên thật Vương Kiều Ân, sinh m 1918, quê Bắc Giang. Trong
suốt chặng đường sống, làm thơ và hoạt động cách mạng luôn dành nhiều tình cảm
cho quê hương đã có nhiều bài thơ viết về Bắc Giang. Tôi biết đến nữ Anh Thơ
và bài thơ "Chiều xuân" của vào những năm đầu của thập kỷ tám mươi, thế kỷ XX.
Làng tôi ven sông cũng một con đò. Con đường từ bến ng vào làng, cuối
mùa xuân rụng đầy hoa xoan tím. Vốn một thích học văn từ nhỏ, tình cờ một
lần đọc được bài thơ, cho chẳng hiểu nhiều lắm, nhưng lẽ những hình ảnh trong
bài thơ đã cuốn hút tôi:
"Mưa đổ bụi êm êm trên bến vắng
Đò biếng lười nằm mặc nước sông trôi...
Quán tranh đứng im lìm trong vắng lặng
Bên chòm xoan hoa tím rụng tơi bời..."
(Chiều xuân - Anh Thơ)
Thích thơ của bà, nhưng là thế hệ hậu sinh, sau hàng nửa thế kỷ và một miền quê
cách xa Bắc Giang hàng trăm cây số, tôi không nghĩ có một ngày tôi đã đến quê
hương của bà; đã đi trên con đê bà đã từng đi và nghĩ về bà trong một chiều xuân sông
Thương "mưa đổ bụi êm êm trên bến vắng".nhất là tôi không thể ngờ có một ngày
tôi đã được gặp và phỏng vấn bà trong lần bà trở lại thăm Bắc Giang.
Ngay từ những năm 1941 tác phẩm "Bức tranh quê" của nữ Anh Thơ đã được giải
khuyến khích của Tự lực Văn đoàn n tuổi của người con gái trẻ m thơ bến
sông Thương cũng đã gây xôn xao trên văn đàn từ ngày y. Với bài thơ "chiều xuân",
chỉ bằng một vài nét chấm phá, đã tạo được cả một không gian xuân đằm thắm, trữ
tình của vùng quê trung du đẹp buồn. Sau năm 1945, Anh Thơ đã trở thành một
nhà thơ cách mạng. Không chỉ m thơ cổ vũ, động viên tinh thần cách mạng, còn
trực tiếp tham gia m "chị nuôi", đi quyên góp tiền gạo nuôi quân, từng mặc áo dài
lụa vân trắng, cưỡi ngựa hồng dẫn đầu đoàn quân tiến vào trại phỉ, cảm hóa chúng đi
theo Việt Minh. Năm 1956, tập thơ Kể Chuyện Lăng của được tặng thưởng của
Trung ương Hội Phụ nữ Việt Nam. Năm 2001, vinh dự được trao tặng Giải thưởng
Hồ Chí Minh.
Với quê hương Bắc Giang, nữ Anh Thơ luôn một tình cảm đặc biệt. Trong các
tác phẩm của bà, giống như những cuốn nhật phản ánh chặng đường sống, m thơ
hoạt động cách mạng với những con người đã gặp, những con đường đã đi
qua..., hầu như đều ẩn hiện dáng hình mảnh đất bên dòng sông Thương, nhất là các tác
phẩm "Chiều xuân", "Tiếng chim tu hú", "Từ bến sông Thương"...Tôi nhớ không
lắm, khoảng m 1993 -1994. Hôm đó chủ nhật, được biết m ấy vchồng nữ
Anh Thơ sẽ về thăm gia đình bác Phương Minh Nam -lão thành cách mạng, nguyên
Chủ tịch UBND tỉnh Bắc, là bạn công tác cùng bà từ thời kháng chiến, tôi được cơ
quan phân công đến gặp để thực hiện cuộc phỏng vấn đối với bà.
Bản thân tôi cũng thấy xúc động hồi hộp về cuộc gặp gỡ sắp diễn ra. Với một túi
xách nhỏ một chiếc máy ghi âm khá to khổ khoác trên vai, tôi tìm đến nhà bác
Phương Minh Nam phố Nghĩa Long - phường Lợi. Cả gia đình bác đang tất bật
sửa soạn để đón vợ chồng nữ Anh Thơ , bởi đó là lần đầu tiên đưa người bạn đời
của mình bác i Viên Dinh, quê Đồng Nai "ra mắt" những người bạn Bắc
Giang. Nghe ý định của tôi, cả bác Nam bác gái Nguyễn Thị Uyên đều rất vui
ủng hộ. Khoảng gần 10h trưa thì vợ chồng nAnh Thơ về tới nơi. Nữ Anh Thơ
với dáng mảnh, cao gầy, tóc chải rngôi lệch, búi cao, dáng đi nhanh nhẹn, phong
cách rất giản dị vẫn toát n vẻ đài các, thanh lịch của trí thức thời xưa. Cho đến
bây giờ tôi vẫn cho mình người may mắn khi được chứng kiến cuộc hội ngộ y.
Những cái nắm tay thật chặt, những câu hỏi dồn dập về những người bạn cũ, những
câu chuyện về ức xa xôi, những nụ ời những giọt nước mắt... cả những câu
chuyện tếu đùa vui, cứ như họ còn rất trẻ, cho ai cũng đã qua cái tuổi "thất thập cổ
lai hy".
Sợ tôi đợi lâu, bác Nam nói với nữ Anh Thơ nhà báo muốn được phỏng vấn
bà. Có lẽ nữ sĩ cũng hơi bất ngờ hoàn toàn muốn dành chuyến đi y cho bạn
nhưng vẫn vui vẻ nhận lời. tỏ ra rất vui khi thấy tôi khá thuộc thơ của bà. Qua
câu chuyện, nữ Anh Thơ đã kể cho tôi nghe vhoàn cảnh ra đời của bài thơ "Chiều
xuân", về cảm giác của bà khi biết tác phẩm "Bức tranh quê" được giải thưởng; những
thay đổi trong nhận thức của khi đi theo cách mạng; nổi c động về những em bé,
những người phụ nữ trong kháng chiến mà bà đã gặp...
Đang dở u chuyện, như chợt nhớ ra, gọi bác Uyên hỏi thăm về Nguyễn Thị
Mùi (nguyên là Phó Chủ tịch Hội Phụ nữ tỉnh), rồi bà quay sang tôi, lau nước mắt, xúc
động: "Một trong những người tôi luôn kính trọng, cảm phục thương mến chị
Mùi. Tôi may mắn hơn chị ít nhiều n được học hành, biết chữ. Chị Mùi điển
hình người phụ nữ nông dân giàu nghị lực, luôn nhẫn nại, hy sinh cách mạng.
Mỗi lần đọc câu thơ của nhà thơ Tố Hữu: "Việt Nam - bùn đứng dậy sáng lòa !"
tôi lại nghĩ đến chị Mùi".
Khi tôi hỏi cảm xúc của khi trở lại thăm quê hương Bắc Giang. nói: "Tôi đã
Bắc Giang từ những ngày còn trẻ rất nhiều kniệm. Bắc Giang giờ đây đã thay
đổi nhiều. Mừng nhất phụ nữ Bắc Giang ngày càng được tôn trọng, bình đẳng với
nam giới".
Chiều m y, Hội Văn học nghệ thuật tỉnh đã mời vợ chồng nữ Anh Thơ giao lưu
với các anh chị em văn nghệ của địa phương. Ban tổ chức đã dành cho nữmột sự
bất ngờ đó đón cụ Mùi tới cuộc giao lưu. Đang say sưa chuyện văn chương, nhìn
thấy cụ Mùi, nữ Anh Thơ ôm chầm lấy cụ khóc, khiến ai cũng xúc động. cứ
nắm vai, nắm tay cụ Mùi nói: "Chị Mùi của tôi, người phụ nữ Việt Nam "rũ bùn
đứng dậy sáng lòa" của tôi đây !".
Cuộc gặp gỡ y đến nay đã gần 20 m. Cụ Mùi, nữ Anh Thơ, bác Phương Minh
Nam cũng đã không còn nữa... nhưng mỗi lần nhớ lại, trong lòng tôi vẫn thấy rưng
rưng. Chiều nay đi trên đê sông Thương, ngắm cây cầu mới vắt ngang qua sông và tấp
nập dòng người đi sắm Tết, tôi vẫn như thấy thấp thoáng bóng đi trong chiều xuân
mưa đbụi êm êm đầy hoa xoan tím... Trong khoảnh khắc y, i đã hiểu ra
rằng chính nữ với nh yêu thiết tha trong "Chiều xuân" đã nói với thế hệ hậu sinh
hãy biết yêu quê hương từ những quen thuộc, bình thường nhất như con đò, bến
nước, dòng sông... Hãy biết trân trọng giữ gìn quá khứ. phải chăng - đó cũng
chính là điều mùa xuân luôn mong chờ!
| 1/15

Preview text:


Dàn ý cảm nhận Chiều xuân 1. Mở bài:
● Khái quát chung về tác giả Anh Thơ và bài thơ Chiều xuân
● Nêu khái quát cảm nhận chung về nội dung, nghệ thuật của bài thơ Chiều xuân.
2. Thân bài: Triển khai hệ thống các luận điểm đã xây dựng.
● Cảm nhận khung cảnh bến vắng chiều xuân: mưa lạnh, tiêu điều, vắng vẻ, thiếu sắc màu và ánh sáng
● Cảm nhận đường đê chiều xuân: có sự chuyển đổi từ tĩnh sang động, từ gam
màu buồn sang gam màu xanh "biếc" của cỏ, của sự sống. Cảnh vật vô cùng
thân thương và bình yên, độc đáo, nên thơ, làm vơi đi nỗi cô đơn của bến vắng.
● Cảm nhận cuộc sống con người chiều xuân: Nhịp sống nơi đồng quê khoan
thai; niềm tin của con người vào một tương lai tươi sáng.
3. Kết bài: Nêu đánh giá, cảm nhận riêng của em về bài thơ.
Cảm nhận Chiều xuân - Mẫu 1
Mùa xuân đã lâu trở thành nguồn cảm hứng vô tận cho việc sáng tác văn thơ. Xuân là
thời điểm của tuổi trẻ, nơi khát khao sống mãnh liệt và sự cống hiến, nơi niềm tin và
hy vọng được truyền tải. Trong khi hầu hết các nhà thơ thường miêu tả vẻ đẹp tinh
khôi của mùa xuân trong những buổi sáng rạng rỡ, với ánh nắng chan hòa và cây xanh
tươi mát, Anh Thơ lại lựa chọn tả mùa xuân trong buổi chiều. Bài thơ "Chiều xuân" ra
đời với ý muốn khắc họa thêm vẻ đẹp dịu dàng của mùa xuân vào cảnh tượng buổi
chiều - những cánh đồng quê hương yên bình và ngọt ngào.
“Tôi có chờ đâu, có đợi đâu,
Mang chi xuân đến gợi thêm sầu.” (Chế Lan Viên)
Bài thơ “Chiều xuân” được in trong tập "Bức tranh quê" xuất bản năm 1941, là một ví
dụ tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật của Anh Thơ. Tranh vẽ về thiên nhiên mùa
xuân tươi mát, thơ mộng, và khung cảnh yên tĩnh của làng quê yên ả. Buổi chiều
thường mang đến những khoảnh khắc gợi lên cảm xúc và cảm hứng trong tâm trí thi
nhân. Nhà thơ đã quan sát và lựa chọn các hình ảnh và chi tiết đặc trưng của cảnh vật
để tái hiện ba bức tranh của chiều xuân - những hình ảnh êm đềm và bình yên.
Khung cảnh đầu tiên mô tả một buổi chiều mưa bụi, với hình ảnh bến sông hoang
vắng, con đò gần như bất động, quán tranh xơ xác bên chòm xoan rụng hoa tím:
Mưa đổ bụi êm êm trên bến vắng,
Đò biếng lười nằm mặc nước sông trôi;
Quán tranh đứng im lìm trong vắng lặng
Bên chòm xoan hoa tím rụng tơi bời.
Khổ thơ trên tạo nên một cảm nhận sâu lắng về một cảnh tượng đầy huyền ảo. Trước
mắt ta là mưa nhẹ nhàng trút xuống, mang theo những hạt bụi nhè nhẹ, tạo ra một
không khí êm đềm trên bến sông vắng vẻ. Con đò bất động, như trì trệ giữa lặng lẽ của
dòng nước trôi. Quán tranh đứng im lìm, như đọng lại trong sự yên lặng của cảnh vật
xung quanh. Bên cạnh, chòm xoan hoa tím rơi rụng đầy nét tơi bời, tạo nên sắc thái
đầy u buồn và đổ đầy bầu không khí tĩnh lặng. Cảnh tượng này chạm đến lòng người
với sự đậm sắc tưởng tượng và mang đến một cảm giác thanh tịnh, như một bức tranh
huyền ảo và mơ màng trong tâm trí.
Ngoài đường đê cỏ non tràn biếc cỏ,
Đàn sáo đen sà xuống mổ vu vơ
Mấy cánh bướm rập rờn trôi trước gió.
Những trâu bò thong thả cúi ăn mưa.
Từ đường đê, khung cảnh xanh mướt của cỏ non tràn ngập ánh sắc biếc đã tạo nên
một bức tranh tự nhiên tươi tắn và mê hoặc. Đàn sáo đen bay xuống với sự uyển
chuyển của chúng, tạo nên một âm nhạc tự do và nhẹ nhàng trên không trung. Mấy
cánh bướm nhỏ rục rịch, múa bay trong tiếng gió, tạo ra một khung cảnh đầy sức sống
và đa dạng. Trâu bò thảnh thơi, điềm tĩnh cúi mình, hưởng thụ những giọt mưa trên
lưng, tạo nên một hình ảnh thanh bình và tự nhiên trong lòng người thưởng thức. Mỗi
chi tiết trong khổ thơ của bài thơ “Chiều xuân” đều vẽ ra cho người đọc một hình ảnh
sống động, đan xen với nhau để tái hiện những cảnh vật gợi lên sự sảng khoái và hài lòng.
Đứng giữa đồng lúa xanh rờn và ướt lặng, nhìn quanh mảnh đất bát ngát màu xanh
tươi. Một cảm giác bình yên và thân thuộc như làm say mê lòng tôi. Bầu trời cao xanh
thăm thẳm trải dài trên đầu, như một mái hiên kín mít, che chở cho những tâm hồn chẳng nguôi hi vọng:
Trong đồng lúa xanh rờn và ướt lặng
Lũ cò con chốc chốc vụt bay ra,
Làm giật mình một cô nàng yếm thắm.
Cúi cuốc cào cỏ ruộng sắp ra hoa.
Từ một góc xa xa, tiếng cào cỏ ruộng trầm lắng như điệu nhạc ru tình. Một lũ cò con
chốc chốc vụt bay ra khỏi cánh đồng, tạo nên hình ảnh tươi sáng và rộn ràng. Đôi
cánh trắng mịn của cò trắng đập đồng điệu với tiếng hót ngọt ngào của chim chích
chòe, cùng nhau tạo nên một vũ điệu tự nhiên, sôi động nhưng cũng nhẹ nhàng êm
đềm. Bỗng dưng, ánh mắt tôi bị cuốn vào một hình bóng nữ tính và yêu kiều. Một cô
nàng yếm thắm, áo dài xanh nhạt, đang cúi cuốc cào cỏ ruộng sắp ra hoa. Bàn tay nhỏ
nhắn của cô gắp lấy những cỏ vàng, lấp lánh như ánh mặt trời chiếu sáng trên cánh
đồng. Cái nhìn tròn xoe và đôi má hồng, cô nàng ấy như một bức tranh sống động
giữa đại ngàn cỏ cây. Vẻ đẹp trong sáng và thuần khiết của cô nàng yếm thắm làm cả
tác giả và người đọc cảm nhận được sự thanh tịnh và hòa quyện với thiên nhiên xanh
tươi. Giữa cánh đồng lúa trải dài mênh mông, tôi hiểu rằng đôi khi, vẻ đẹp đơn giản
nhất lại chứa đựng trong những hành động bình thường nhất, và cô nàng yếm thắm đó
đã làm cho cảnh đồng trở thành một kiệt tác thơ mộng và tuyệt vời.
Từ vựng tinh tế và bút pháp khéo léo của Anh Thơ đã tạo nên những hình ảnh giản dị,
nhưng tràn đầy ấm áp và chứa đựng vẻ đẹp của cuộc sống. Những từ ngữ ấy như
những nét vẽ tinh tế, như một nét mực đỏ trên trang giấy đem lại cho người đọc những
trải nghiệm tinh tế và sâu sắc. Những dòng thơ dễ chạm đến trái tim và dâng lên cảm
xúc của người đọc, cho ta cảm nhận một cách chân thật nhất tình cảm và cảm xúc của
nhà thơ. Điều này chính là thành công của bài thơ, khẳng định giá trị nghệ thuật của
nó. Nhịp thơ đan xen chậm rãi và nhẹ nhàng, mang lại cho ta cảm giác sâu lắng, trong
khi đôi lúc lại toả ra sự rộn ràng và vui tươi. Toàn bộ bài thơ như một bản nhạc với vô
số giai điệu, làm rung động trái tim và suy nghĩ của người đọc. Tình yêu dành cho thơ
ca và tình yêu với những giá trị giản dị, thân thuộc của quê hương - đó là những yếu tố
quan trọng góp phần tạo nên thành công của bài thơ "Chiều Xuân". Sự kết hợp tài
năng và trái tim yêu thương đã làm nên một tác phẩm xuất sắc, khẳng định được vị thế
đặc biệt của nó trong lòng độc giả.
Cảm nhận Chiều xuân của Anh Thơ - Mẫu 2
Bài thơ "Chiều xuân" in trong tập "Bức tranh quê" của nữ sĩ Anh Thơ. "Chiều xuân"
được viết theo thể thơ 8 tiếng, gồm có 12 câu thơ, chia đều thành ba khổ thơ.
Bức tranh lụa "Chiều xuân" gồm có ba cảnh; cảnh nào cũng bình dị, thân quen với
mỗi con người Việt Nam chúng ta. Sau gần bảy mươi năm, người đọc cảm thấy cô gái
Kinh Bắc đang đứng bâng khuâng ngắm nhìn cảnh bến đò, dải đường đê và cảnh đồng
lúa quê nhà một buổi chiều xuân mưa bụi.
Khổ thơ đầu tả cảnh bến đò. Trời đã ngả chiều, mưa xuân đổ bụi trắng đất trắng trời,
nên bến đò trở nên vắng vẻ, không một bóng người khách lại qua: "Mưa đổ bụi êm êm
trên bến vắng". Từ láy "êm êm" gợi tả một không gian êm đềm trong làn mưa xuân
phơi phới bay". Tạo vật như đang được ướp khí xuân và hương xuân; cỏ cây như đang
mở mắt, lắng nghe "mưa đổ bị êm êm ", chào đón Chúa xuân đã về.
Con đò chiều mưa được nhân hoá, như một kẻ lười biếng nằm nghỉ, vô tâm và vô tình
"mặc nước sông trôi". Ta chợt nhớ đến con đò trong thơ Ức Trai hơn 600 năm về trước:
"Con đò gối bãi suốt ngày ngơi"
(Bến đò xuân đầu trại)
Vì chiều mưa nên quán hàng cũng vắng vẻ. Quán tranh nghèo trên bến đò được nhân
hoá như một lữ khách "đứng im lìm" trú mưa đầy tâm trạng. Nhà thơ không nói đến
gió xuân mà ta vẫn cảm thấy có nhiều gió thổi. Chữ "tơi bời " gợi lên cảm nhận ấy:
"Quán tranh đứng im lìm trong vắng lặng,
Bên chòm xoan hoa tím rụng tơi bời".
Hoa xoan tím là một nét đẹp của hồn quê xứ sở. Cuối tháng hai đầu tháng ba, xoan ở
đầu ngõ, xoan dọc đường bưng nở từng chùm, toả hương nồng nàn. Nguyễn Trãi có
câu thơ: "Trong tiếng cuốc kêu, xuân đã muộn — Đầy sân mưa bụi, nở hoa xoan"
(Cuối xuân tức sự). Trong bài "Mưa xuân" thi sĩ Nguyễn Bính đã viết:
"Bữa ấy mưa xuân phơi phới bay,
Hoa xoan lớp lớp rụng vơi đầy".
Cảnh bến đò với hình ảnh con đò biếng lười, quán tranh im lìm, chòm xoan "hoa tím
rụng tơi bời" được Anh Thơ chấm phá một cách tinh tế; hình ảnh nào, hoạ tiết nào
cũng có hồn, rất bình dị, thân thuộc, đáng yêu.
Khổ thơ thứ hai nói về cảnh vật ngoài đường đê. Chắc là những dải đê của sông Cầu,
sông Thương, sông Đuống? Cỏ xanh là biểu tượng về sắc xuân. Nhiều nhà thơ đã viết
rất hay, rất đẹp về cỏ xuân:
-"Phương thảo liên thiên bích" (cổ thi)
- "Cỏ xanh như khói bến xuân tươi" (Nguyễn Trãi)
-"Cỏ non xanh tận chân trời" (Nguyễn Du)
Cô gái Bắc Giang vẫn có một cách cảm nhận riêng, vừa mới vừa đẹp:
"Ngoài đường đê cỏ non tràn biếc cỏ"
Chữ "non", chữ "biếc" gợi lên màu xanh ngọt ngào; chữ "tràn" gợi tả vẻ tốt tươi, mơn
mởn, căng đầy sức sống, nhựa sống của những thảm cỏ xuân trên đường đê uốn lượn.
Cảnh vật không còn "êm êm", "im lìm", "vắng lặng" nữa mà trở nên sống động, có
hồn. Từ đàn sáo đen, mấy cánh bướm đến những trâu bò tất cả như đang mang theo bao tình xuân:
"Đàn sáo đen sà xuống mổ vu vơ;
Mấy cánh bướm rập rờn trôi trước gió,
Những trâu bò thong thả cúi ăn mưa".
Nét vẽ nào cũng sinh động: "sà xuống mổ vu vơ" , "rập rờn trôi trước gió", "thong thả
cúi ăn mưa". Cánh bướm sặc sỡ không bay mà "trôi", con trâu hiền lành đang gặm cỏ
non trên dải đê tưởng "cúi ăn mưa". Chữ dùng của Anh Thơ khá tinh luyện, giàu hình tượng và biểu cảm.
Cảnh thứ hai của bức tranh "Chiều xuân" không còn là tĩnh vật nữa, mà hoạ tiết nào
cũng cựa quậy, sống động đầy sức xuân. Các động từ dùng rất đắt: tràn, sà xuống, mổ
vu vơ, rập rờn trôi, thong thả cúi ăn mưa. Nhà thơ tả ít mà gợi nhiều; nét nào cũng
mang theo sức xuân và tình xuân đầy ý vị. "Những trâu bò thong thả cúi ăn mưa" là
một câu thơ gợi cảm có hình ảnh bình dị đáng yêu đã gợi lên bao nỗi niềm thương
mến và tin cậy, làm nhớ lại một lời nguyền xa xưa:
"Bao giờ cây lúa còn bông,
Thì còn ngọn cỏ ngoài đồng trâu ăn" (Ca dao)
Cảnh thứ ba là đồng lúa, lúa "sắp ra hoa " xanh rờn. Lá lúa như những ngón tay xoè ra
đón mưa bụi nên "ướt lặng". Lũ cò con như bầy trẻ nhỏ tinh quái, tinh nghịch "chốc
chốc vụt bay ra". Chiều đã xuống dần , "Con cò đi đón cơn mưa — Tối tăm mù mịt ai
đưa cò về?" (Ca đao). Lũ cò con mong mẹ nên mới "chốc chốc vụt bay ra" hay có tình
ý gì? Hình ảnh cô thôn nữ "yếm thắm" nổi bật trên nền xanh ruộng lúa đã làm sáng bừng vần thơ:
"Lũ cò con chốc chốc vụt bay ra,
Làm giật mình một cô nàng yếm thắm
Cúi cuốc cào cỏ ruộng sắp ra hoa".
Cảnh thứ ba có nhiều rung động xôn xao. Nhà thơ đã sử dụng thủ pháp nghệ thuật lấy
động để tả tĩnh khá thành công, làm nổi bật cảnh "Chiều xuân" nơi làng quê, trong
những ngày mưa bụi thật là vắng lặng, êm đềm. Những chiều mưa xuân nơi đồng quê,
làng quê ngày xưa vốn thế. Anh Thơ đã giúp những thế hệ độc giả hôm nay và sau này
cảm nhận được cảnh vật và không khí thôn dã một thời quá vãng.
Trong "Thi nhân Việt Nam" khi nói về Anh Thơ, nhà văn Hoài Thanh viết: "Sau câu
thơ, ta mơ hồ thấy một cái gì: có lẽ là hồn thi nhân". Đọc "Chiều xuân " ta cảm thấy rõ
"hồn thi nhân" của nữ sĩ đã trang trải khắp các vần thơ.
"Chiều xuân " cho thấy ngòi bút nghệ thuật của Anh Thơ tinh tế, đậm đà. Cảnh vật
được chấm phá, phối sắc hài hoà, ý vị. Có màu tím của hoa xoan, màu biếc của cỏ
non, đôi cánh đen của bầy sáo, màu xanh rờn của đồng lúa. Và nổi bật nhất, xinh tươi
nhất là chiếc yếm thắm của cô thôn nữ, cô đang cần mẫn cào cỏ trên ruộng lúa "sắp ra hoa".
Anh Thơ sử dụng từ láy tượng hình một cách đắc địa, làm nổi bật cái êm đềm, vắng
lặng, xôn xao của cảnh vật trong một chiều xuân mưa bụi: êm êm, im lìm„vắng lặng,
tơi bời, vu vơ, rập rờn, thong thả.
"Chiều xuân" là một bức cổ hoạ xinh xắn. Không phải cảnh lầu son gác tía, mà là cảnh
bình dị, thân thuộc nơi đồng quê, làng quê thuộc đồng bằng Bắc Bộ ngày xưa, là hồn
xuân xứ sở. "Chiều xuân " là một bài thơ hay và đậm đà.
Cảm nhận Chiều xuân - Mẫu 3
Nữ sĩ Anh Thơ (1921 – 2005) được biết đến là một hồn thơ nữ đằm thắm, nữ thi sĩ có
tên thật là Vương Kiều Ân, xuất thân trong một gia đình có truyền thống Nho học.
Quê gốc của nữ thi sĩ ở thị xã Bắc Giang nhưng bà lại sinh ra và lớn lên tại Ninh
Giang, Hải Dương. Mặc dù chưa học hết tiểu học nhưng vốn có khiếu văn chương nên
bà rất thích đọc sách và làm thơ.
Quê hương đất nước là mảng đề tài quen thuộc của giới văn nghệ sĩ, đã có nhiều tác
phẩm tuyệt vời ra đời, Anh Thơ là một trong số những nhà văn đó đã thể hiện tình yêu
quê hương đất nước thiết tha qua những vần thơ mộc mạc, chân thành nhưng sâu lắng.
Cảnh quê hương thanh bình yên ả của một quê hương giàu đẹp được thi nhân đón
nhận bằng cả tâm hồn. Trải rộng bài thơ trích trong tập thơ “bức tranh quê” xuất bản năm 1941.
Tháng 8 năm 1945 Anh Thơ hăng hái tham gia cách mạng, nhiệt tình phục vụ kháng
chiến và xây dựng đất nước bằng sáng tác thơ ca bà từng là ủy viên ban chấp hành hội
nhà văn Việt Nam, bà đã để lại nhiều tập thơ có ý nghĩa tinh thần và nghệ thuật sâu
sắc. Trong đó có bài “chiều xuân” Anh Thơ đã miêu tả một bức tranh quê chiều xuân
thanh bình, đồng thời thể hiện lòng yêu quê hương, đất nước thiết tha của mình.
Anh thơ đã chọn thể thơ 8 chữ, gieo vần giãn cách, mỗi khổ có 4 câu là một bức tranh
quê êm đềm, thư thái như tâm hồn người phụ nữ :
“Mưa đổ bụi êm êm trên bến vắng,
Đò biếng lười nằm mặc nước trôi sông;
Quán tranh đứng im lìm trong vắng lặng
Bên chòm xoan hoa tím rụng tơi bời .”
Nhịp thơ 3/5 chậm rãi, khoan thai với những hình ảnh quen thuộc trong ca dao và thơ
ca cổ điển Việt Nam vẫn là bến nước, con sông, con đò, quán nước nhưng có lẽ không
phải bên sông có đông người lên xuống mà là một bến vắng, con đò cũng không phải
là con đò nối nhịp cầu hai cảnh mà là con đò biếng lười, hờ hững để mặt dòng sông
trôi xuôi và quán tranh im lìm, vắng lặng trong một chiều mưa xuân.
Tất cả cảnh vật như rơi vào tình trạng im ắng tuyệt đối, tất cả như đang mong mỏi một
cái gì đó đến từ nơi xa thẳm. Nếu như không có sự chuyển động của nước sông trôi và
“chòm xoan hoa tím rụng tơi bời” thì người đọc tưởng như mình đang đối diện với
bức tranh xuân tĩnh vật, bức tranh xuân tuyệt đẹp, thật êm ả nhưng cũng thật buồn ,
chất chứa tâm trạng buồn não nề của chủ thể tôi đang cô đơn, khao khát đợi chờ, hỏi
thăm. Khổ thơ như chứa đựng được nỗi niềm của thi nhân.
Ở khổ thứ 2, từ cái nhìn bao quát tác giả đi gần vào với con người và thiên nhiên
“Ngoài đường đê cỏ non tràn biếc cỏ,
Đàn sáo đen sà xuống mổ vu vơ
Mấy cánh bướm rập rờn trôi trước gió.
Những trâu bò thong thả cúi ăn mưa .”
Cảnh chiều xuân được mở rộng hơn sau những ngày băng giá, xuân về cỏ non trở nên
tốt tươi hơn “cỏ non tràn biếc cỏ”, điệp từ “cỏ” được lặp lại 2 lần đã khắc họa được
cảnh vật thân quen ở nông thôn, cỏ non xanh mơn mởn, sức sống bừng lên mạnh mẽ
qua cụm từ “tràn biếc cỏ” trên nền hình ảnh cỏ xuân ấy, chiều xuân hiện ra thật sinh
động: “Đàn sáo đen sà xuống mổ vu vơ” cùng với đàn bò đang gặm cỏ để ăn và cao
hơn một chút là: “Mấy cánh bướm rập rờn trôi trước gió”.
Cảnh vật có động nhưng thật nhẹ nhàng vì đàn sáo đen sà xuống nhưng chỉ mổ một
cách vu vơ, vài ba cánh bướm thì lại không bay mà để mặc trôi trước gió, mấy chú
trâu bò kia lại cúi thong thả ăn mưa, cách miêu tả của Anh Thơ đã làm cho vật đã tỉnh
nay càng thêm tĩnh, càng trở nên mơ hồ, huyền hoặc hơn. Tác giả lại đi vào chỉ tiết
hơn ở cánh trong đồng, được Anh Thơ thể hiện trong khổ 3 của bài thơ:
“Trong đồng hoa lúa xanh rờn và ướt lặng,
Lũ cò con chốc chốc vụt bay ra,
Làm giật mình một cô nàng yếm thắm.
Cúi cuốc cào cỏ ruộng sắp ra hoa .”
Thi nhân tiếp tục khắc họa thêm hình ảnh chiều xuân với “đồng hoa lúa xanh rờn và
ướt lặng” , có những chú cò con thỉnh thoảng lại tung vụt bay lên giữa mảnh ruộng
sắp ra hoa, trên khung cảnh chiều xuân ấy lại có sự xuất hiện thêm bóng dáng của
thiếu nữ đang cúi cuốc cào, tưởng chừng như cô gái đang chăm chỉ với công việc.
Nhưng không tập trung vào công việc của mình nhiều lắm, chỉ cần tiếng cất cánh của
đàn chim con” thôi mà cô gái cũng phải giật mình, cái “giật mình” thật đáng suy nghĩ,
nàng thắm kia thả hồn về nơi đâu trong tuổi dậy thì mơ mộng với nỗi buồn vu vơ,
nàng ngẩn ngơ trước cảnh vật đang rạo rực vào xuân.
Cả bài thơ chỉ vỏn vẹn có 3 khổ thơ, mỗi khổ là một bức tranh xuân hợp lại, tạo nên
cảnh xuân buổi chiều êm ả, bình yên và tĩnh lặng. Qua thủ pháp lấy động tả tĩnh cảnh
sắc tươi tắn, con người mộng mơ, với sự quan sát tinh tế của người con gái phải yêu
quê hương tha thiết thì ngòi bút của nhà văn Anh Thơ mới dựng lên được một cảnh
chiều mưa xuân đẹp đến như thế.
Cảm nhận bài Chiều xuân - Mẫu 4
Mùa xuân là mùa của cây cối sinh sôi nảy nở, mùa xuân cũng là mùa của biết bao
nhiêu thế hệ thi sĩ đắm chìm vào những bài thơ miêu tả xuân. Nếu như đa số những
nhà thơ nói đến cái màu sắc yêu kiều tinh khôi của xuân vào buổi sáng bình minh cây
xanh nắng dội thì Anh Thơ lại chọn riêng cho mình tả mùa xuân vào buổi chiều. Và
bài thơ Chiều xuân ra đời như thế, qua đây ta thấy được thêm những nét đẹp của mùa
xuân vào buổi chiều – vẻ đẹp êm đềm trên những cánh đồng quê hương dịu ngọt.
Nhà thơ vẽ lên một bức tranh mùa xuân vào buổi chiều, bức tranh ấy cũng bắt đầu
bằng hình ảnh của mưa xuân êm đềm:
Mưa đổ bụi êm êm trên bến vắng,
Đò biếng lười nằm mặc nước trôi sông
Quán tranh đứng im lìm trong vắng lặng
Bên chòm xoan hoa tím rụng tơi bời.
Không gian mở ra trên bến đò xưa cũ và bức tranh mùa xuân hiên lên có sự có cả âm
thanh, màu sắc, hình ảnh. Tứ thơ mùa xuân lan toả trong từng hình ảnh từng chi tiết,
từng lời thơ. Đó là những hình ảnh đặc trưng của mùa xuân xứ Bắc: mưa bụi êm đềm,
chùm hoa xoan tím rụng trên quán nhỏ... hình ảnh cơn mưa bụi gợi lên sự êm đềm
phảng phất của những hạt mưa xuân nhỏ nhẹ êm êm.
Chiều xuân cũng vắng như những buổi chiều, con đò được nhân hoá như biết lười
biếng để mặc cho nước trôi lững lờ cong mình thì nằm im lìm trên bến vắng đó. Trước
mắt ta là một cảnh tượng hữu tình sông nước bến vắng với con đò. Anh Thơ không
phải tìm đâu xa mà những hình ảnh bình thường nhưng lại nên thơ ấy đã như phô
trước mắt chỉ cần một tâm hồn biết cảm nhận là toát lên những lời thơ tuyệt vời. Quán
nước cũng im lìm trong sự vắng lặng ấy, chòm xoan hoa tím rụng tơi bời. Mùa chiều
vốn tàn tạ nhưng mùa xuân thì nảy nở sinh sôi. Vậy Anh Thơ đã cho ta biết thêm một
vẻ đẹp nhẹ nhàng lững lờ của mùa xuân nữa. Mọi thứ đều hoạt động một cách nhẹ
nhàng phảng phất buồn trong sự vắng lặng của con người.
Sang khổ thơ thứ hai lại là một phiên cảnh khác, không phải là cảnh bến vắng con đò
lười nữa mà là cảnh mùa xuân trên những triền đê:
Ngoài đường đê cỏ non tràn biếc cỏ,
Đàn sáo đen sà xuống mổ vu vơ
Mấy cánh bướm rập rờn trôi trước gió.
Những trâu bò thong thả cúi ăn mưa.
Màu sắc của cỏ cũng trở nên thật dịu nhẹ làm sao, sắc cỏ dịu dàng tràn biếc cỏ. Sắc
màu ấy không rực rỡ không chói chang không nổi sóng như bài xuân chín của Hàn
Mặc Tử, cũng không bằng bạc thời gian như trong thơ Quách Tấn, mà sắc màu ấy là
gam màu của cuộc sống được khúc xạ qua một tâm trạng ngẩn ngơ một chút buồn vu
vơ của thi sĩ. Những con sáo đen sà xuống mổ vu vơ, mấy cánh bướm thì chập chờn
trong gió, những đàn trâu thong thả ăn những búi cỏ ướt đẫm mưa xuân.
Ở đây ta cảm thấy được nghệ thuật ngôn từ của nhà thơ quả thật rất hay. Những con
số như “đàn”, “mấy”, “những” thể hiện sự nhiều, sự đầy đủ nhưng cũng không quá
đông của những con vật làm đẹp cho bức tranh chiều mùa xuân ấy. Và đặc biệt là hình
ảnh cánh bướm thì trôi trước gió, đàn trâu thì ăn mưa. Người ta chỉ hay nói rằng trôi
theo nước, ăn cỏ hay uống mưa chứ không ai nói như thi sĩ cả. Những cái vô lý ấy lại
trở thành cái có lý thành những hình ảnh nghệ thuật vô cùng đẹp. Nó nhằm thể hiện
lên sự dập dìu của thiên nhiên cảnh vật, cánh bướm mỏng manh bay trong gió tựa như
đang trôi theo những làn gió nhẹ nhàng ấy. Đàn trâu gặm những búi cỏ ướt đẫm
những hạt mưa xuân như đang ăn mưa vậy.
Chia tay cảnh chiều xuân trên triền đê bãi cỏ chúng ta đến với cảnh xuân trên trong
ruộng lúa nước thân quen:
Trong đồng hoa lúa xanh rờn và ướt lặng,
Lũ cò con chốc chốc vụt bay ra,
Làm giật mình một cô nàng yếm thắm.
Cúi cuốc cào cỏ ruộng sắp ra hoa.
Cơn mưa xuân êm êm kia cũng làm cho những cây lúa trên đồng ướt lặng. Cái chữ
lặng kia làm cho chúng ta thấy được sự lặng lẽ êm đềm của cảnh vật xuân nơi làng
quê. Cánh đồng không thiếu đi hình ảnh những con cò chân đứng chân co rồi lại chốc
chốc bay vút lên bầu trời kia. Cánh cò cứ bay lả rập rờn như thế. Cái hành động chốc
chốc bay ra ấy khiến cho những cô gái yếm thắm giật mình. Cái giật mình ấy thật
đáng yêu làm sao. Hình ảnh những người con gái xưa duyên dáng với chiếc yếm trên
thân mình gợi cho ta bao niềm liên tưởng về những con người ngày xưa. Đặc biệt câu
thơ cuối với bốn từ liền nhau đều mang âm đầu là “c”: “cúi cuốc cào cỏ” thể hiện sự
nhịp nhàng trùng điệp. Những cô gái yếm thắm ấy không chỉ duyên dáng trong trang
phục của người xưa mà còn đẹp với cái nết na chăm chỉ vun vén cho những cây lúa tốt
tươi, cuốc những cây cỏ đang ra hoa kia đi.
Như vậy có thể nói ba cảnh ấy hợp lại thành một bức tranh chiều xuân với nét đẹp vẫn
sinh sôi nảy nở nhưng lại êm đềm vắng vẻ và thoáng chút buồn vu vơ của người thi sĩ.
Có thể nói ta cảm nhận được sau bức tranh ấy là một tâm hồn thuần phát trong sáng của nhà thơ.
Cảm nhận về bài thơ Chiều xuân - Mẫu 5
Nữ sĩ Anh Thơ tên thật là Vương Kiều Ân, sinh năm 1918, quê ở Bắc Giang. Trong
suốt chặng đường sống, làm thơ và hoạt động cách mạng bà luôn dành nhiều tình cảm
cho quê hương và đã có nhiều bài thơ viết về Bắc Giang. Tôi biết đến nữ sĩ Anh Thơ
và bài thơ "Chiều xuân" của bà vào những năm đầu của thập kỷ tám mươi, thế kỷ XX.
Làng tôi ở ven sông và cũng có một con đò. Con đường từ bến sông vào làng, cuối
mùa xuân rụng đầy hoa xoan tím. Vốn là một cô bé thích học văn từ nhỏ, tình cờ một
lần đọc được bài thơ, cho dù chẳng hiểu nhiều lắm, nhưng có lẽ những hình ảnh trong
bài thơ đã cuốn hút tôi:
"Mưa đổ bụi êm êm trên bến vắng
Đò biếng lười nằm mặc nước sông trôi...
Quán tranh đứng im lìm trong vắng lặng
Bên chòm xoan hoa tím rụng tơi bời..."
(Chiều xuân - Anh Thơ)
Thích thơ của bà, nhưng là thế hệ hậu sinh, sau bà hàng nửa thế kỷ và ở một miền quê
cách xa Bắc Giang hàng trăm cây số, tôi không nghĩ có một ngày tôi đã đến quê
hương của bà; đã đi trên con đê bà đã từng đi và nghĩ về bà trong một chiều xuân sông
Thương "mưa đổ bụi êm êm trên bến vắng". Và nhất là tôi không thể ngờ có một ngày
tôi đã được gặp và phỏng vấn bà trong lần bà trở lại thăm Bắc Giang.
Ngay từ những năm 1941 tác phẩm "Bức tranh quê" của nữ sĩ Anh Thơ đã được giải
khuyến khích của Tự lực Văn đoàn và tên tuổi của người con gái trẻ làm thơ ở bến
sông Thương cũng đã gây xôn xao trên văn đàn từ ngày ấy. Với bài thơ "chiều xuân",
chỉ bằng một vài nét chấm phá, bà đã tạo được cả một không gian xuân đằm thắm, trữ
tình của vùng quê trung du đẹp mà buồn. Sau năm 1945, Anh Thơ đã trở thành một
nhà thơ cách mạng. Không chỉ làm thơ cổ vũ, động viên tinh thần cách mạng, bà còn
trực tiếp tham gia làm "chị nuôi", đi quyên góp tiền gạo nuôi quân, từng mặc áo dài
lụa vân trắng, cưỡi ngựa hồng dẫn đầu đoàn quân tiến vào trại phỉ, cảm hóa chúng đi
theo Việt Minh. Năm 1956, tập thơ Kể Chuyện Vũ Lăng của bà được tặng thưởng của
Trung ương Hội Phụ nữ Việt Nam. Năm 2001, bà vinh dự được trao tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh.
Với quê hương Bắc Giang, nữ sĩ Anh Thơ luôn có một tình cảm đặc biệt. Trong các
tác phẩm của bà, giống như những cuốn nhật ký phản ánh chặng đường sống, làm thơ
và hoạt động cách mạng với những con người bà đã gặp, những con đường bà đã đi
qua..., hầu như đều ẩn hiện dáng hình mảnh đất bên dòng sông Thương, nhất là các tác
phẩm "Chiều xuân", "Tiếng chim tu hú", "Từ bến sông Thương"...Tôi nhớ không rõ
lắm, khoảng năm 1993 -1994. Hôm đó là chủ nhật, được biết hôm ấy vợ chồng nữ sĩ
Anh Thơ sẽ về thăm gia đình bác Phương Minh Nam -lão thành cách mạng, nguyên
Chủ tịch UBND tỉnh Hà Bắc, là bạn công tác cùng bà từ thời kháng chiến, tôi được cơ
quan phân công đến gặp để thực hiện cuộc phỏng vấn đối với bà.
Bản thân tôi cũng thấy xúc động và hồi hộp về cuộc gặp gỡ sắp diễn ra. Với một túi
xách nhỏ và một chiếc máy ghi âm khá to khổ khoác trên vai, tôi tìm đến nhà bác
Phương Minh Nam ở phố Nghĩa Long - phường Lê Lợi. Cả gia đình bác đang tất bật
sửa soạn để đón vợ chồng nữ sĩ Anh Thơ , bởi đó là lần đầu tiên bà đưa người bạn đời
của mình là bác sĩ Bùi Viên Dinh, quê ở Đồng Nai "ra mắt" những người bạn ở Bắc
Giang. Nghe ý định của tôi, cả bác Nam và bác gái Nguyễn Thị Uyên đều rất vui và
ủng hộ. Khoảng gần 10h trưa thì vợ chồng nữ sĩ Anh Thơ về tới nơi. Nữ sĩ Anh Thơ
với dáng mảnh, cao gầy, tóc chải rẽ ngôi lệch, búi cao, dáng đi nhanh nhẹn, phong
cách rất giản dị mà vẫn toát lên vẻ đài các, thanh lịch của trí thức thời xưa. Cho đến
bây giờ tôi vẫn cho mình là người may mắn khi được chứng kiến cuộc hội ngộ ấy.
Những cái nắm tay thật chặt, những câu hỏi dồn dập về những người bạn cũ, những
câu chuyện về ký ức xa xôi, những nụ cười và những giọt nước mắt... cả những câu
chuyện tếu đùa vui, cứ như họ còn rất trẻ, cho dù ai cũng đã qua cái tuổi "thất thập cổ lai hy".
Sợ tôi đợi lâu, bác Nam nói với nữ sĩ Anh Thơ có cô nhà báo muốn được phỏng vấn
bà. Có lẽ nữ sĩ cũng hơi bất ngờ vì bà hoàn toàn muốn dành chuyến đi này cho bạn bè
nhưng bà vẫn vui vẻ nhận lời. Bà tỏ ra rất vui khi thấy tôi khá thuộc thơ của bà. Qua
câu chuyện, nữ sĩ Anh Thơ đã kể cho tôi nghe về hoàn cảnh ra đời của bài thơ "Chiều
xuân", về cảm giác của bà khi biết tác phẩm "Bức tranh quê" được giải thưởng; những
thay đổi trong nhận thức của bà khi đi theo cách mạng; nổi xúc động về những em bé,
những người phụ nữ trong kháng chiến mà bà đã gặp...
Đang dở câu chuyện, như chợt nhớ ra, bà gọi bác Uyên hỏi thăm về bà Nguyễn Thị
Mùi (nguyên là Phó Chủ tịch Hội Phụ nữ tỉnh), rồi bà quay sang tôi, lau nước mắt, xúc
động: "Một trong những người tôi luôn kính trọng, cảm phục và thương mến là chị
Mùi. Tôi có may mắn hơn chị là ít nhiều còn được học hành, biết chữ. Chị Mùi điển
hình là người phụ nữ nông dân giàu nghị lực, luôn nhẫn nại, hy sinh vì cách mạng.
Mỗi lần đọc câu thơ của nhà thơ Tố Hữu: "Việt Nam - rũ bùn đứng dậy sáng lòa !" là
tôi lại nghĩ đến chị Mùi".
Khi tôi hỏi cảm xúc của bà khi trở lại thăm quê hương Bắc Giang. Bà nói: "Tôi đã ở
Bắc Giang từ những ngày còn trẻ và có rất nhiều kỷ niệm. Bắc Giang giờ đây đã thay
đổi nhiều. Mừng nhất là phụ nữ Bắc Giang ngày càng được tôn trọng, bình đẳng với nam giới".
Chiều hôm ấy, Hội Văn học nghệ thuật tỉnh đã mời vợ chồng nữ sĩ Anh Thơ giao lưu
với các anh chị em văn nghệ sĩ của địa phương. Ban tổ chức đã dành cho nữ sĩ một sự
bất ngờ đó là đón cụ Mùi tới cuộc giao lưu. Đang say sưa chuyện văn chương, nhìn
thấy cụ Mùi, nữ sĩ Anh Thơ ôm chầm lấy cụ oà khóc, khiến ai cũng xúc động. Bà cứ
nắm vai, nắm tay cụ Mùi và nói: "Chị Mùi của tôi, người phụ nữ Việt Nam "rũ bùn
đứng dậy sáng lòa" của tôi đây !".
Cuộc gặp gỡ ấy đến nay đã gần 20 năm. Cụ Mùi, nữ sĩ Anh Thơ, bác Phương Minh
Nam cũng đã không còn nữa... nhưng mỗi lần nhớ lại, trong lòng tôi vẫn thấy rưng
rưng. Chiều nay đi trên đê sông Thương, ngắm cây cầu mới vắt ngang qua sông và tấp
nập dòng người đi sắm Tết, tôi vẫn như thấy thấp thoáng bóng bà đi trong chiều xuân
có mưa đổ bụi êm êm và đầy hoa xoan tím... Trong khoảnh khắc ấy, tôi đã hiểu ra
rằng chính nữ sĩ với tình yêu thiết tha trong "Chiều xuân" đã nói với thế hệ hậu sinh
hãy biết yêu quê hương từ những gì quen thuộc, bình thường nhất như con đò, bến
nước, dòng sông... Hãy biết trân trọng và giữ gìn quá khứ. Và phải chăng - đó cũng
chính là điều mùa xuân luôn mong chờ!