Cảm nhận về người lính trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính siêu hay | Ngữ văn 9

Bài thơ khắc họa một hình ảnh rất đỗi độc đáo: hình ảnh những chiếc xe không kính. Qua đó, tác giả khắc họa nổi bật hình ảnh người lính lái xe trên tuyến đường Trường Sơn trong những năm tháng kháng chiến chống Mỹ cứu nước với tư thế hiên ngang, bất khuất, tinh thần lạc quan, yêu đời, không ngại khó khăn, gian khổ để giải phóng miền Nam ruột thịt. Tài liệu được sưu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuẩn bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đọc đón xem!

Chủ đề:

Văn mẫu 9 444 tài liệu

Môn:

Ngữ Văn 9 0.9 K tài liệu

Thông tin:
6 trang 3 tháng trước

Bình luận

Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để gửi bình luận.

Cảm nhận về người lính trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính siêu hay | Ngữ văn 9

Bài thơ khắc họa một hình ảnh rất đỗi độc đáo: hình ảnh những chiếc xe không kính. Qua đó, tác giả khắc họa nổi bật hình ảnh người lính lái xe trên tuyến đường Trường Sơn trong những năm tháng kháng chiến chống Mỹ cứu nước với tư thế hiên ngang, bất khuất, tinh thần lạc quan, yêu đời, không ngại khó khăn, gian khổ để giải phóng miền Nam ruột thịt. Tài liệu được sưu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuẩn bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đọc đón xem!

22 11 lượt tải Tải xuống
Cảm nhận về người lính trong Bài thơ về tiểu đội xe không
kính siêu hay
1. Đôi nét về tác phẩm Bài thơ về tiểu đội xe không kính
a. Xuất xứ
Bài thơ về tiểu đội xe không kính nằm trong chùm thơ Phạm Tiến Duật được tặng giải Nhất cuộc thi thơ của
báo Văn nghệ năm 1969 và được đưa vào tập thơ Vầng trăng quầng lửa của tác giả.
b. Bố cục
Phần 1 (hai khổ đầu): Tư thế hiên ngang ra trận của những người lính lái xe
Phần 2 (bốn khổ tiếp): Tinh thần dũng cảm, lạc quan của những người lính
Phần 3 (ba khổ cuối): Ý chí chiến đấu kiên cường, bất khuất vì miền Nam ruột thịt.
c. Giá trị nội dung
Bài thơ khắc họa một hình ảnh rất đỗi độc đáo: hình ảnh những chiếc xe không kính. Qua đó, tác giả khắc
họa nổi bật hình ảnh người lính lái xe trên tuyến đường Trường Sơn trong những năm tháng kháng chiến
chống Mỹ cứu nước với tư thế hiên ngang, bất khuất, tinh thần lạc quan, yêu đời, không ngại khó khăn, gian
khổ để giải phóng miền Nam ruột thịt.
d. Giá trị nghệ thuật
Tác giả đưa vào bài thơ chất liệu hiện thực sinh động của cuộc sống nơi chiến trường, ngôn ngữ và giọng
điệu giàu tính khẩu ngữ, tự nhiên, khỏe khoắn.
2. Dàn ý nêu cảm nhận về người lính trong Bài thơ về tiểu đội xe
không kính ngắn gọn, súc tích:
a. Mở bài
- Giới thiệu về tác giả, tác phẩm.
- Nêu khái quát vẻ đẹp của những người chiến sĩ trong bài thơ.
b. Thân bài
- Biểu tượng của chiếc xe không kính
+/ Đoàn xe là sự tiếp tế, hõ trợ của hậu phương đối với tiền tuyến;
+/ Lý do không có kính: vì bom đạn của quân thù
+/ Hoạt động trong hoàn cảnh khốc liệt của chiến tranh: gió lùa, bom rơi, bụi đường, mưa giông, không có
kính, không có đèn,... nhưng vẫn băng băng trên tuyến đường Trường Sơn.
- Vẻ đẹp của người lính lái xe
+/ Tư thế hiên ngang, bất khuất, coi thường nguy hiểm: "ung dung", điệp từ "nhìn",...
+/ Thái độ, tinh thần lạc quan, bông đùa với những khó khăn: Bụi phun vào tóc, vào mặt là một trò gây cười,
mưa ướt áo cứ đi tiếp vì gió lùa áo khô nhanh thôi, xe không kính cũng có cái hay đó là tầm nhìn rộng hơn,
thấy được con đường “chạy thẳng vào tim”, thấy sao trời gần hơn “ùa vào buồng lái”,...
=> Sự lạc quan, tự tin pha lẫn một chút bướng bỉnh tạo nên hình ảnh người lính vừa đáng yêu vừa đáng nể.
- Tình đồng chí
+/ Tiểu đội xe: bắt nguồn từ "những chiếc xe từ trong bom rơi" gặp nhau
+/ Tình đồng đội xuất phát từ cái bắt tay qua cửa kính, cùng dựng bếp Hoàng Cầm, cùng ăn, cùng mắc
võng,...
=> Từ cuộc sống gian khổ, người lính đến từ vùng quê xa lạ trở thành gia đình của nhau.
- Trái tim nhiệt huyết và niềm tin vào tương lai tươi sáng của dân tộc
+/ Không gì ngăn cản được các anh đến chi viện cho chiến trường miền Nam.
+/ Tình yêu thương dành cho miền Nam, cho Tổ quốc, là niềm tin vào chiến thắng, vào tự do.
c. Kết bài:
- Nội dùng: Khẳng định lại vẻ đẹp người chiến sĩ cách mạng trong hiện thực chiến tranh khốc liệt
- Nghệ thuật: Tài năng khắc họa, miêu tả của Phạm Tiến Duật.
3. Bài văn mẫu nêu cảm nhận về người lính trong Bài thơ về tiểu
đội xe không kính hay nhất:
Phạm Tiến Duật là một trong những gương mặt tiêu biểu cho thế hệ các nhà thơ trẻ thời kháng chiến chống
Mỹ. Ông vào bộ đội, từng là lính lái xe nên đã viết những bài thơ rất hay về hình ảnh người lính cũng như
công việc lái xe trên tuyến đường Trường Sơn và tác phẩm Bài thơ về tiểu đội xe không kính là tiêu biểu
nhất. Bài thơ được sáng tác vào năm 1969, nằm trong chùm thơ được đưa vào tập thơ “Vầng trăng quầng
lửa” của tác giả. Trong thi phẩm, Phạm Tiến Duật lấy cảm hứng về hình ảnh những chiếc xe không kính làm
nền để nhà thơ ghi lại những khám phá của mình về vẻ đẹp của những chiến sĩ lái xe thời chống Mỹ cứu
nước.
Có thể nói, những người lính trong giai đoạn kháng chiến chống Mỹ luôn trong một tư thế hiên ngang, sẵn
sàng xông pha khi ra trận dù cho có những sự tác động nào bên ngoài cũng không thể nào cản được bước
chân của họ:
“Không có kính không phải vì xe không có kính
Bom giật, bom rung kính vỡ đi rồi
Ung dung buồng lái ta ngồi
Nhìn trời, nhìn đất, nhìn thẳng”
Hai câu thơ đầu lý giải nguyên nhân mà chiếc xe của người lính không có kính. Những chiếc xe không phải
hiển nhiên không có kính mà chính bom đạn của kẻ thù đã phá vỡ nó khiến cho những chiếc xe trần trụi
không có gì che chắn cho những người lính bên trong. Điệp từ “không” khiến câu thơ giãn ra, tạo nhịp điệu
khoan thai, đặc biệt từ “rồi” khép lại câu thơ thứ hai đã làm nên một giọng điệu rất nhẹ. Người lính nói về
những chiếc xe không kính chính là nói về cuộc chiến khốc liệt mà họ phải trải qua nhưng tất cả những điều
ấy được diễn tả bằng một giọng thản nhiên đến lạ lùng. Điều này cho thấy rất rõ cái nhìn bình thản của
người lính về những mất mát mà bom đạn của kẻ thù đã gây ra.
Hai câu thơ sau cho thấy phong thái của người lính lái xe. Hai từ “ung dung” được Phạm Tiến Duật đặt lên
đầu câu ý muốn nhấn mạnh rằng tư thế ung dung luôn hiện hữu bên trong những người lính trẻ. Điệp từ
“nhìn” kết hợp với nghệ thuật đảo ngữ đã khắc họa lên tư thế hiên ngang của người lính. Tư thế ấy là một
sự thách thức với bom đạn của kẻ thù. Chiếc xe không kính không làm cản trở họ mà còn giúp họ có thể
nhìn thấy được đất trời, nhìn thấy được vạn vật đang tồn tại xung quanh.
Tiếp đó, quy chiếc xe không kính, quang cảnh bên ngoài hiện ra đồng thời hé lộ tâm hồn phong phú, hồn
nhiên, mang đậm chất thi ca của người lính trẻ:
“Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng
Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim
Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
Như sa như ùa vào buồng lái”
Không còn kính chắn gió, người lái xe lại có cái thú vị là được tiếp xúc trực tiếp với thế giới bên ngoài. Qua
khung cửa không còn kính, không chỉ mặt đất mà cả bầu trời với “sao trời” và “cánh chim” cũng như “ùa vào
buồng lái”. Lái xe không kính cũng gặp những khó khăn nào là “gió vào xoa mắt đắng”, rồi những thứ bên
ngoài như quăng như quật vào người lái xe nhưng chủ yếu vẫn là cảm giác thích thú vì thiên nhiên vũ trụ
bỗng trở nên thật gần gũi. Hình ảnh “Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim” thật đẹp và ý nghĩa. Người
lính rời xa quê hương để ra chiến trường chiến đấu, họ chấp nhận nỗi nhớ nhà, nhớ quê hương da diết
nhưng gác lại tất cả, nghe theo tiếng gọi con tim ra trận chiến đấu, mang hòa bình về cho đất nước. Viết về
con đường lái xe không mấy suôn sẻ nhưng giọng thơ lại thật khỏe khoắn, dồn dập, hồ hởi, gợi cho người
đọc cảm giác về tốc độ của tiểu đội xe không kính, đồng thời mở ra tâm trạng háo hức của người lính trên
tuyến đường ra trận.
“Không có kính, ừ thì có bụi
Bụi phun tóc trắng như người già
Chưa cần rửa, phì phèo châm điếu thuốc
Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha.
Không có kính, ừ thì ướt áo
Mưa tuôn mưa xối như ngoài trời
Chưa cần thay, lái trăm cây số nữa.
Mưa ngừng, gió lùa khô mau thôi”
Tác giả đã sử dụng thủ pháp nghệ thuật điệp cấu trúc “không có...ừ thì” để nhấn mạnh rằng người lính đã
chấp nhận sự thật rằng trên con đường ra trận họ sẽ phải đối mặt với gian lao và vất vả vì không có bất cứ
điều gì che chở cả. Họ không chỉ ý thức được với những khó khăn mà còn rất đỗi quen thuộc với điều
đó. Xe không kính nên "bụi phun tóc trắng như người già", vì xe không có kính nên "ướt áo, mưa tuôn, mưa
xối như ngoài trời" là điều dĩ nhiên. Tuy nhiên, vượt lên trên tất cả, người lĩnh vẫn "phì phèo châm điếu
thuốc", "cười ha ha", "không cần thay", "lái trăm cây số nữa". Sự lạc quan, yêu đời, nụ cười luôn nở của
người lính mới thật đáng yêu làm sao! Dù trong mọi hoàn cảnh khắc nghiệt, con đường ra trận viện trợ tiền
tuyến không hề dễ dàng nhưng người lính chưa bao giờ chùn bước, sẵn sàng xông pha để hoàn thành
nhiệm vụ được giao.
Hình ảnh chiến trường ác liệt với "mưa bom, bão đạn" càng tô đậm thêm tình cảm đồng chí, đồng đội thắm
thiết, keo sơn của những anh lính cụ Hồ:
“Những chiếc xe từ trong bom rơi
Ðã về đây họp thành tiểu đội
Gặp bè bạn suốt dọc đường đi tới
Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi.
Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời
Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy
Võng mắc chông chênh đường xe chạy
Lại đi, lại đi trời xanh thêm.”
Khổ thơ làm bật lên tình cảm gắn bó, chia sẻ ngọt bùi của những chàng trai vui vẻ, sôi nổi, yêu đời, sau mỗi
ngày hành quân trên nẻo đường, họ lại có phút giây ngắn ngủi gặp nhau. Dường như khi đi trên chiếc xe
không kính, họ thể hiện tình cảm dễ dàng và gần gũi hơn. Chỉ cần đi sáp lại, có thể bắt tay nhau bất cứ lúc
nào, một cái bắt tay thay cho mọi lời nói, tâm tình. Đây là hình ảnh ý nghĩa, thắm đượm tình cảm mộc mạc
giữa người lính với nhau. Phải chăng, tác giả cũng từng biểu lộ tình cảm của mình với đồng đội bằng cái bắt
tay qua cửa kính mới có thể viết được hình ảnh độc đáo nhưng cũng không kém phần chân thực như thế.
Khi có thời giờ nghỉ ngơi, mọi người trò chuyện, ăn uống, như anh em ruột thịt: chung bát, chung đũa, mắc
võng chông chênh… chỉ trong một thoáng chốc. Hình ảnh "bếp Hoàng Cầm" là một hình ảnh vừa tả thực
vừa ẩn dụ. Họ đã cùng nhau tạo dựng một chiếc bếp để có thể quây quần bên nhau mỗi bữa ăn. Dù bữa ăn
có thiếu thốn đến nhường nào thì họ vẫn vui vẻ và lạc quan vì những người đồng đội luôn đồng hành cùng
nhau dù bất cứ mọi nơi nào. Ngoài ra, nó cũng gợi lên tình đồng chí ấm nồng, sưởi ấm trái tim người lính xa
nhà trong những ngày hành quân mùa đông lạnh giá. Người lính coi nhau là một gia đình, tình cảm chân
thành ấy tạo nên sức mạnh, nâng bước chân người lính để rồi các anh lại tiếp tục hành quân. “Lại đi lại đi
trời xanh thêm ” là đi đến thắng lợi cuối cùng. Trong tâm hồn họ, trời như xanh thêm chứa chan hy vọng lạc
quan dào dạt. Nhịp điệu câu thơ vừa sôi nổi, vừa nhịp nhàng cùng với điệp từ “lại đi” được lặp lại hai lần gợi
tả nhịp sống chiến đấu và hành quân của tiểu đội xe không kính mà không một sức mạnh đạn bom nào có
thể ngăn cản nổi.
Khép lại bài thơ, Phạm Tiến Duật cho thấy tinh thầm quyết tâm chiến đấu chống Mỹ, giải phóng miền Nam,
thống nhất đất nước của người lính:
“Không có kính rồi xe không có đèn
Không có mui xe, thùng xe có xước
Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước
Chỉ cần trong xe có một trái tim”.
Sau tất cả, chiếc xe từ không có kính giờ đã "không có đèn", "không có mui", "thùng xe xước". Dường như,
chiếc xe chẳng còn gì nguyên vẹn, chẳng thể che chắn cho người lính trong thời tiết gian khổ, khắc nghiệt
và bom đạn của kẻ thù. Nhà thơ sử dụng điệp từ “không” để làm nổi bật cái “có” cho thấy bom đạn, chiến
tranh có thể làm biến dạng những chiếc xe, huỷ hoại những giá trị vật chất nhưng không thể hủy diệt được
những giá trị tinh thần cao đẹp… Giọng thơ, ý thơ trở nên mạnh mẽ, hào hùng, vẫn là cách nói thản nhiên
ngang tàng của lính. Hình ảnh trái tim trong bài là một hình ảnh hoán dụ tuyệt đẹp gợi ra biết bao ý nghĩa.
Trái tim là hình ảnh hội tụ vẻ đẹp tâm hồn và phẩm chất của người chiến sĩ lái xe. Trái tim nồng cháy một lẽ
sống cao đẹp và thiêng liêng: tất cả vì miền Nam thân yêu. Trái tim chứa đựng bản lĩnh hiên ngang, lòng
dũng cảm tuyệt vời của những người trai trẻ. Trái tim mang tinh thần lạc quan vả một niềm tin mãnh liệt vào
ngày thống nhất Bắc Nam.
Tóm lại, Bài thơ về Tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật đã góp phần hoàn thiện, hoàn mỹ bức
tượng đài nghệ thuật bất tử về người lính Việt Nam thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Hình ảnh
người lính lái xe là hình ảnh anh bộ đội cụ Hồ tượng trưng cho sức trẻ Việt Nam với nhiệt huyết, lòng quả
cảm, sẵn sàng hi sinh vì độc lập, tự do của dân tộc. Dù giờ đây, đất nước ta đã giành được thống nhất,
nhân dân được ấm no, hạnh phúc nhưng hình ảnh người lính trên đường Trường Sơn với tinh thần lạc
quan, yêu đời, ý chí hiên ngang vẫn in sâu trong tâm trí mọi người.
| 1/6

Preview text:

Cảm nhận về người lính trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính siêu hay
1. Đôi nét về tác phẩm Bài thơ về tiểu đội xe không kính a. Xuất xứ
Bài thơ về tiểu đội xe không kính nằm trong chùm thơ Phạm Tiến Duật được tặng giải Nhất cuộc thi thơ của
báo Văn nghệ năm 1969 và được đưa vào tập thơ Vầng trăng quầng lửa của tác giả. b. Bố cục
Phần 1 (hai khổ đầu): Tư thế hiên ngang ra trận của những người lính lái xe
Phần 2 (bốn khổ tiếp): Tinh thần dũng cảm, lạc quan của những người lính
Phần 3 (ba khổ cuối): Ý chí chiến đấu kiên cường, bất khuất vì miền Nam ruột thịt.
c. Giá trị nội dung
Bài thơ khắc họa một hình ảnh rất đỗi độc đáo: hình ảnh những chiếc xe không kính. Qua đó, tác giả khắc
họa nổi bật hình ảnh người lính lái xe trên tuyến đường Trường Sơn trong những năm tháng kháng chiến
chống Mỹ cứu nước với tư thế hiên ngang, bất khuất, tinh thần lạc quan, yêu đời, không ngại khó khăn, gian
khổ để giải phóng miền Nam ruột thịt.
d. Giá trị nghệ thuật
Tác giả đưa vào bài thơ chất liệu hiện thực sinh động của cuộc sống nơi chiến trường, ngôn ngữ và giọng
điệu giàu tính khẩu ngữ, tự nhiên, khỏe khoắn.
2. Dàn ý nêu cảm nhận về người lính trong Bài thơ về tiểu đội xe
không kính ngắn gọn, súc tích:
a. Mở bài
- Giới thiệu về tác giả, tác phẩm.
- Nêu khái quát vẻ đẹp của những người chiến sĩ trong bài thơ. b. Thân bài
- Biểu tượng của chiếc xe không kính
+/ Đoàn xe là sự tiếp tế, hõ trợ của hậu phương đối với tiền tuyến;
+/ Lý do không có kính: vì bom đạn của quân thù
+/ Hoạt động trong hoàn cảnh khốc liệt của chiến tranh: gió lùa, bom rơi, bụi đường, mưa giông, không có
kính, không có đèn,... nhưng vẫn băng băng trên tuyến đường Trường Sơn.
- Vẻ đẹp của người lính lái xe
+/ Tư thế hiên ngang, bất khuất, coi thường nguy hiểm: "ung dung", điệp từ "nhìn",...
+/ Thái độ, tinh thần lạc quan, bông đùa với những khó khăn: Bụi phun vào tóc, vào mặt là một trò gây cười,
mưa ướt áo cứ đi tiếp vì gió lùa áo khô nhanh thôi, xe không kính cũng có cái hay đó là tầm nhìn rộng hơn,
thấy được con đường “chạy thẳng vào tim”, thấy sao trời gần hơn “ùa vào buồng lái”,...
=> Sự lạc quan, tự tin pha lẫn một chút bướng bỉnh tạo nên hình ảnh người lính vừa đáng yêu vừa đáng nể. - Tình đồng chí
+/ Tiểu đội xe: bắt nguồn từ "những chiếc xe từ trong bom rơi" gặp nhau
+/ Tình đồng đội xuất phát từ cái bắt tay qua cửa kính, cùng dựng bếp Hoàng Cầm, cùng ăn, cùng mắc võng,...
=> Từ cuộc sống gian khổ, người lính đến từ vùng quê xa lạ trở thành gia đình của nhau.
- Trái tim nhiệt huyết và niềm tin vào tương lai tươi sáng của dân tộc
+/ Không gì ngăn cản được các anh đến chi viện cho chiến trường miền Nam.
+/ Tình yêu thương dành cho miền Nam, cho Tổ quốc, là niềm tin vào chiến thắng, vào tự do. c. Kết bài:
- Nội dùng: Khẳng định lại vẻ đẹp người chiến sĩ cách mạng trong hiện thực chiến tranh khốc liệt
- Nghệ thuật: Tài năng khắc họa, miêu tả của Phạm Tiến Duật.
3. Bài văn mẫu nêu cảm nhận về người lính trong Bài thơ về tiểu
đội xe không kính hay nhất:

Phạm Tiến Duật là một trong những gương mặt tiêu biểu cho thế hệ các nhà thơ trẻ thời kháng chiến chống
Mỹ. Ông vào bộ đội, từng là lính lái xe nên đã viết những bài thơ rất hay về hình ảnh người lính cũng như
công việc lái xe trên tuyến đường Trường Sơn và tác phẩm Bài thơ về tiểu đội xe không kính là tiêu biểu
nhất. Bài thơ được sáng tác vào năm 1969, nằm trong chùm thơ được đưa vào tập thơ “Vầng trăng quầng
lửa” của tác giả. Trong thi phẩm, Phạm Tiến Duật lấy cảm hứng về hình ảnh những chiếc xe không kính làm
nền để nhà thơ ghi lại những khám phá của mình về vẻ đẹp của những chiến sĩ lái xe thời chống Mỹ cứu nước.
Có thể nói, những người lính trong giai đoạn kháng chiến chống Mỹ luôn trong một tư thế hiên ngang, sẵn
sàng xông pha khi ra trận dù cho có những sự tác động nào bên ngoài cũng không thể nào cản được bước chân của họ:
“Không có kính không phải vì xe không có kính
Bom giật, bom rung kính vỡ đi rồi
Ung dung buồng lái ta ngồi
Nhìn trời, nhìn đất, nhìn thẳng”
Hai câu thơ đầu lý giải nguyên nhân mà chiếc xe của người lính không có kính. Những chiếc xe không phải
hiển nhiên không có kính mà chính bom đạn của kẻ thù đã phá vỡ nó khiến cho những chiếc xe trần trụi
không có gì che chắn cho những người lính bên trong. Điệp từ “không” khiến câu thơ giãn ra, tạo nhịp điệu
khoan thai, đặc biệt từ “rồi” khép lại câu thơ thứ hai đã làm nên một giọng điệu rất nhẹ. Người lính nói về
những chiếc xe không kính chính là nói về cuộc chiến khốc liệt mà họ phải trải qua nhưng tất cả những điều
ấy được diễn tả bằng một giọng thản nhiên đến lạ lùng. Điều này cho thấy rất rõ cái nhìn bình thản của
người lính về những mất mát mà bom đạn của kẻ thù đã gây ra.
Hai câu thơ sau cho thấy phong thái của người lính lái xe. Hai từ “ung dung” được Phạm Tiến Duật đặt lên
đầu câu ý muốn nhấn mạnh rằng tư thế ung dung luôn hiện hữu bên trong những người lính trẻ. Điệp từ
“nhìn” kết hợp với nghệ thuật đảo ngữ đã khắc họa lên tư thế hiên ngang của người lính. Tư thế ấy là một
sự thách thức với bom đạn của kẻ thù. Chiếc xe không kính không làm cản trở họ mà còn giúp họ có thể
nhìn thấy được đất trời, nhìn thấy được vạn vật đang tồn tại xung quanh.
Tiếp đó, quy chiếc xe không kính, quang cảnh bên ngoài hiện ra đồng thời hé lộ tâm hồn phong phú, hồn
nhiên, mang đậm chất thi ca của người lính trẻ:
“Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng
Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim
Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
Như sa như ùa vào buồng lái”
Không còn kính chắn gió, người lái xe lại có cái thú vị là được tiếp xúc trực tiếp với thế giới bên ngoài. Qua
khung cửa không còn kính, không chỉ mặt đất mà cả bầu trời với “sao trời” và “cánh chim” cũng như “ùa vào
buồng lái”. Lái xe không kính cũng gặp những khó khăn nào là “gió vào xoa mắt đắng”, rồi những thứ bên
ngoài như quăng như quật vào người lái xe nhưng chủ yếu vẫn là cảm giác thích thú vì thiên nhiên vũ trụ
bỗng trở nên thật gần gũi. Hình ảnh “Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim” thật đẹp và ý nghĩa. Người
lính rời xa quê hương để ra chiến trường chiến đấu, họ chấp nhận nỗi nhớ nhà, nhớ quê hương da diết
nhưng gác lại tất cả, nghe theo tiếng gọi con tim ra trận chiến đấu, mang hòa bình về cho đất nước. Viết về
con đường lái xe không mấy suôn sẻ nhưng giọng thơ lại thật khỏe khoắn, dồn dập, hồ hởi, gợi cho người
đọc cảm giác về tốc độ của tiểu đội xe không kính, đồng thời mở ra tâm trạng háo hức của người lính trên tuyến đường ra trận.
“Không có kính, ừ thì có bụi
Bụi phun tóc trắng như người già
Chưa cần rửa, phì phèo châm điếu thuốc
Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha.
Không có kính, ừ thì ướt áo
Mưa tuôn mưa xối như ngoài trời
Chưa cần thay, lái trăm cây số nữa.
Mưa ngừng, gió lùa khô mau thôi”
Tác giả đã sử dụng thủ pháp nghệ thuật điệp cấu trúc “không có...ừ thì” để nhấn mạnh rằng người lính đã
chấp nhận sự thật rằng trên con đường ra trận họ sẽ phải đối mặt với gian lao và vất vả vì không có bất cứ
điều gì che chở cả. Họ không chỉ ý thức được với những khó khăn mà còn rất đỗi quen thuộc với điều
đó. Xe không kính nên "bụi phun tóc trắng như người già", vì xe không có kính nên "ướt áo, mưa tuôn, mưa
xối như ngoài trời" là điều dĩ nhiên. Tuy nhiên, vượt lên trên tất cả, người lĩnh vẫn "phì phèo châm điếu
thuốc", "cười ha ha", "không cần thay", "lái trăm cây số nữa". Sự lạc quan, yêu đời, nụ cười luôn nở của
người lính mới thật đáng yêu làm sao! Dù trong mọi hoàn cảnh khắc nghiệt, con đường ra trận viện trợ tiền
tuyến không hề dễ dàng nhưng người lính chưa bao giờ chùn bước, sẵn sàng xông pha để hoàn thành nhiệm vụ được giao.
Hình ảnh chiến trường ác liệt với "mưa bom, bão đạn" càng tô đậm thêm tình cảm đồng chí, đồng đội thắm
thiết, keo sơn của những anh lính cụ Hồ:
“Những chiếc xe từ trong bom rơi
Ðã về đây họp thành tiểu đội
Gặp bè bạn suốt dọc đường đi tới
Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi.
Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời
Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy
Võng mắc chông chênh đường xe chạy
Lại đi, lại đi trời xanh thêm.”
Khổ thơ làm bật lên tình cảm gắn bó, chia sẻ ngọt bùi của những chàng trai vui vẻ, sôi nổi, yêu đời, sau mỗi
ngày hành quân trên nẻo đường, họ lại có phút giây ngắn ngủi gặp nhau. Dường như khi đi trên chiếc xe
không kính, họ thể hiện tình cảm dễ dàng và gần gũi hơn. Chỉ cần đi sáp lại, có thể bắt tay nhau bất cứ lúc
nào, một cái bắt tay thay cho mọi lời nói, tâm tình. Đây là hình ảnh ý nghĩa, thắm đượm tình cảm mộc mạc
giữa người lính với nhau. Phải chăng, tác giả cũng từng biểu lộ tình cảm của mình với đồng đội bằng cái bắt
tay qua cửa kính mới có thể viết được hình ảnh độc đáo nhưng cũng không kém phần chân thực như thế.
Khi có thời giờ nghỉ ngơi, mọi người trò chuyện, ăn uống, như anh em ruột thịt: chung bát, chung đũa, mắc
võng chông chênh… chỉ trong một thoáng chốc. Hình ảnh "bếp Hoàng Cầm" là một hình ảnh vừa tả thực
vừa ẩn dụ. Họ đã cùng nhau tạo dựng một chiếc bếp để có thể quây quần bên nhau mỗi bữa ăn. Dù bữa ăn
có thiếu thốn đến nhường nào thì họ vẫn vui vẻ và lạc quan vì những người đồng đội luôn đồng hành cùng
nhau dù bất cứ mọi nơi nào. Ngoài ra, nó cũng gợi lên tình đồng chí ấm nồng, sưởi ấm trái tim người lính xa
nhà trong những ngày hành quân mùa đông lạnh giá. Người lính coi nhau là một gia đình, tình cảm chân
thành ấy tạo nên sức mạnh, nâng bước chân người lính để rồi các anh lại tiếp tục hành quân. “Lại đi lại đi
trời xanh thêm ” là đi đến thắng lợi cuối cùng. Trong tâm hồn họ, trời như xanh thêm chứa chan hy vọng lạc
quan dào dạt. Nhịp điệu câu thơ vừa sôi nổi, vừa nhịp nhàng cùng với điệp từ “lại đi” được lặp lại hai lần gợi
tả nhịp sống chiến đấu và hành quân của tiểu đội xe không kính mà không một sức mạnh đạn bom nào có thể ngăn cản nổi.
Khép lại bài thơ, Phạm Tiến Duật cho thấy tinh thầm quyết tâm chiến đấu chống Mỹ, giải phóng miền Nam,
thống nhất đất nước của người lính:
“Không có kính rồi xe không có đèn
Không có mui xe, thùng xe có xước
Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước
Chỉ cần trong xe có một trái tim”.
Sau tất cả, chiếc xe từ không có kính giờ đã "không có đèn", "không có mui", "thùng xe xước". Dường như,
chiếc xe chẳng còn gì nguyên vẹn, chẳng thể che chắn cho người lính trong thời tiết gian khổ, khắc nghiệt
và bom đạn của kẻ thù. Nhà thơ sử dụng điệp từ “không” để làm nổi bật cái “có” cho thấy bom đạn, chiến
tranh có thể làm biến dạng những chiếc xe, huỷ hoại những giá trị vật chất nhưng không thể hủy diệt được
những giá trị tinh thần cao đẹp… Giọng thơ, ý thơ trở nên mạnh mẽ, hào hùng, vẫn là cách nói thản nhiên
ngang tàng của lính. Hình ảnh trái tim trong bài là một hình ảnh hoán dụ tuyệt đẹp gợi ra biết bao ý nghĩa.
Trái tim là hình ảnh hội tụ vẻ đẹp tâm hồn và phẩm chất của người chiến sĩ lái xe. Trái tim nồng cháy một lẽ
sống cao đẹp và thiêng liêng: tất cả vì miền Nam thân yêu. Trái tim chứa đựng bản lĩnh hiên ngang, lòng
dũng cảm tuyệt vời của những người trai trẻ. Trái tim mang tinh thần lạc quan vả một niềm tin mãnh liệt vào
ngày thống nhất Bắc Nam.
Tóm lại, Bài thơ về Tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật đã góp phần hoàn thiện, hoàn mỹ bức
tượng đài nghệ thuật bất tử về người lính Việt Nam thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Hình ảnh
người lính lái xe là hình ảnh anh bộ đội cụ Hồ tượng trưng cho sức trẻ Việt Nam với nhiệt huyết, lòng quả
cảm, sẵn sàng hi sinh vì độc lập, tự do của dân tộc. Dù giờ đây, đất nước ta đã giành được thống nhất,
nhân dân được ấm no, hạnh phúc nhưng hình ảnh người lính trên đường Trường Sơn với tinh thần lạc
quan, yêu đời, ý chí hiên ngang vẫn in sâu trong tâm trí mọi người.