











Preview text:
lOMoAR cPSD| 59994889
Thư Bác gửi các bạn thanh niên
người ta thường nói: thanh niên là người chủ tương lai của nước nhà. Thật vậy nước nhà thịnh
hay suy, yếu hay mạnh một phần lớn là do các thanh niên. Thanh niên muốn làm người chủ tương lai
cho xứng đáng thì ngay hiện tại phải rèn luyện tinh thần và lực lượng của mình, phải ra làm việc để
chuẩn bị cái tương lai đó.
Chúng ta phải nhận rằng thanh niên ta rất hǎng hái. Nhưng chúng ta cũng phải nhận rằng phong
trào thanh niên ta còn chật hẹp, mặc dầu từ cách mạng tháng tám đến nay, thanh niên có cơ hội để
phát triển một cách mau chóng và rộng rãi hơn.
Vậy nên nhiệm vụ của các bạn là phải tìm đủ mọi cách để gây một phong trào thanh niên to lớn và mạnh mẽ.
Theo ý tôi muốn đạt mục đích đó, thì mỗi thanh niên, nhất là một cán bộ phải kiên quyết làm
bằng được những điều sau này:
a) các sự hy sinh khó nhọc thì mình làm trước người ta, còn sự sung sướng thanh nhàn thì mình
nhường người ta hưởng trước (tiên thiên hạ ưu, hậu thiên hạ lạc).
b) các việc đáng làm, thì có khó mấy cũng cố chịu quyết làm cho kỳ được.
c) ham làm những việc ích quốc lợi dân. Không ham địa vị và công danh phú quý.
d) đem lòng chí công vô tư mà đối với người, đối với việc.
e) quyết tâm làm gương về mặt: siêng nǎng, tiết kiệm, trong sạch.
f) chớ kiêu ngạo, tự mãn, tự túc. Nói ít làm nhiều, thân ái đoàn kết.
Như thế thì ai cũng phải yêu mến kính phục thanh niên và phong trào thanh niên nhất định sẽ ǎn sâu lan rộng.
Hiện nay thanh niên không thiếu gì nơi hoạt động, không thiếu gì công việc làm: nào ở bộ đội,
dân quân du kích, nào mở mang bình dân học vụ, nào tǎng gia sản xuất, v.v.. lOMoAR cPSD| 59994889
Có chí làm thì quyết tìm ra việc và quyết làm được việc.
Tôi lại khuyên các bạn một điều nữa là chớ đặt những chương trình, kế hoạch mênh mông, đọc
nghe sướng tai nhưng không thực hiện được.
Việc gì cũng cần phải thiết thực, nói được, làm được. Việc gì cũng phải từ nhỏ dần dần đến to, từ
dễ dần dần đến khó, từ thấp dần dần đến cao. Một chương trình nhỏ mà thực hành được hẳn hoi,
hơn là một trǎm chương trình to tát mà làm không được.
Đó là những kinh nghiệm của một người bạn có lịch duyệt thật thà đem bày tỏ với các bạn.
Mong các bạn gắng sức và thành công.
Cảm nhận về thư Bác gửi thanh niên
Trong kho tàng tư tưởng Hồ Chí Minh, thanh niên luôn được Người dành sự quan tâm sâu sắc. Bức
thư Bác gửi thanh niên sau Cách mạng tháng Tám không chỉ là một văn kiện mang tính định hướng
mà còn là lời nhắn nhủ chân tình, gần gũi, tha thiết đối với thế hệ trẻ – những người được Bác coi là
“người chủ tương lai của nước nhà”. Đọc lại bức thư trong bối cảnh hiện nay, dưới góc nhìn của một
sinh viên Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, tôi càng cảm nhận rõ giá trị to lớn và sức
sống bền vững của những lời dạy ấy.
Ngay từ đầu thư, Bác khẳng định: “Thanh niên là người chủ tương lai của nước nhà. Thật vậy, nước
nhà thịnh hay suy, yếu hay mạnh một phần lớn là do các thanh niên.” Câu nói này vừa giản dị vừa
sâu sắc. Nó nhắc nhở rằng vận mệnh dân tộc phụ thuộc phần nhiều vào thế hệ trẻ. Với một sinh viên
đang ngồi trên giảng đường đại học, tôi cảm thấy đây vừa là niềm tự hào vừa là trách nhiệm nặng
nề. Được gọi là “người chủ tương lai” không phải là một đặc ân để hưởng thụ, mà là một lời cam kết,
một sự đặt niềm tin mà thế hệ trước gửi gắm cho chúng tôi.
Điều làm tôi ấn tượng sâu sắc trong bức thư là cách Bác phân tích về phong trào thanh niên. Bác
thẳng thắn thừa nhận thanh niên ta “rất hăng hái” nhưng đồng thời chỉ ra rằng phong trào còn “chật
hẹp”. Đây là cách nhìn vừa động viên vừa cảnh tỉnh. Với tư cách là một sinh viên thuộc khối khoa học
xã hội, tôi càng cảm nhận rõ tinh thần biện chứng trong tư tưởng của Bác: luôn nhìn nhận sự vật
trong cả hai mặt tích cực và hạn chế, từ đó đề ra phương hướng phát triển đúng đắn. lOMoAR cPSD| 59994889
Bác đã vạch ra một loạt phẩm chất và hành động mà thanh niên cần rèn luyện: dám hy sinh, ham
việc ích quốc lợi dân, chí công vô tư, siêng năng – tiết kiệm – trong sạch, đoàn kết – khiêm tốn.
Những lời dạy ấy tuy được viết cách đây gần 80 năm, nhưng vẫn mang tính thời sự cho thanh niên
hôm nay. Là sinh viên Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn – nơi đào tạo những người
nghiên cứu, giảng dạy, hoạt động trong các lĩnh vực khoa học xã hội – tôi thấy những phẩm chất này
càng có ý nghĩa. Bởi lẽ, người làm khoa học xã hội không chỉ đòi hỏi tri thức mà còn cần một nhân
cách trong sáng, tinh thần trách nhiệm, thái độ sống vì cộng đồng.
Đặc biệt, Bác nhấn mạnh: “Việc gì cũng cần phải thiết thực, nói được, làm được. Việc gì cũng phải từ
nhỏ dần dần đến to, từ dễ dần dần đến khó, từ thấp dần dần đến cao.” Đây chính là một phương
pháp luận vô cùng quý giá. Trong học tập và nghiên cứu, đôi khi chúng tôi dễ rơi vào tình trạng đề ra
những kế hoạch to tát nhưng thiếu tính khả thi. Lời nhắc nhở của Bác giống như một kim chỉ nam: sự
thành công phải được xây dựng từ những bước đi nhỏ, chắc chắn, kiên trì. Một bài tập nhỏ làm
nghiêm túc, một công trình nghiên cứu tuy khiêm tốn nhưng thiết thực, có giá trị đóng góp, còn quý
hơn những khẩu hiệu to lớn nhưng sáo rỗng.
Điều làm tôi xúc động hơn cả là giọng văn của Bác. Không phải là những mệnh lệnh cứng nhắc, mà là
lời trò chuyện thân tình: “Đó là những kinh nghiệm của một người bạn có lịch duyệt thật thà đem
bày tỏ với các bạn.” Bác tự xưng là “người bạn”, coi thanh niên là đối tượng đồng hành, cùng chia sẻ
chứ không phải cấp dưới phải phục tùng. Đây là một minh chứng cho phong cách lãnh đạo dân chủ,
gần gũi, giàu tình cảm, càng khiến chúng tôi – những người trẻ – cảm thấy Bác luôn ở bên cạnh,
động viên và dẫn dắt.
Ngày nay, đất nước ta bước vào thời kỳ hội nhập và toàn cầu hóa, thanh niên đối diện với nhiều cơ
hội nhưng cũng không ít thách thức. Sự cám dỗ của lối sống hưởng thụ, chủ nghĩa cá nhân, những áp
lực về học tập và nghề nghiệp… có thể khiến một bộ phận sinh viên lạc hướng. Nhưng khi đọc lại bức
thư này, tôi nhận ra con đường đúng đắn để đi: rèn luyện bản lĩnh, gắn lý tưởng cá nhân với lợi ích
chung của đất nước, sống khiêm tốn, trung thực và cống hiến.
Là một sinh viên Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, tôi thấy trách nhiệm của mình không
chỉ dừng ở việc học kiến thức trên giảng đường, mà còn là rèn luyện nhân cách, đóng góp cho xã hội
bằng những hành động nhỏ bé nhưng thiết thực: tham gia tình nguyện, nghiên cứu khoa học phục lOMoAR cPSD| 59994889
vụ cộng đồng, gìn giữ và phát huy giá trị văn hóa dân tộc. Mỗi việc làm đó, dù nhỏ, đều là một cách
để thực hiện lời dạy của Bác.
Tóm lại, bức thư Bác Hồ gửi thanh niên là một tài sản tinh thần quý báu, chứa đựng triết lý nhân
sinh, đạo đức và phương pháp hành động cho tuổi trẻ. Đọc lại thư, tôi càng thấm thía niềm tin và kỳ
vọng mà Bác đặt nơi thế hệ trẻ. Với tư cách là sinh viên Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân
văn, tôi coi bức thư không chỉ là lời khuyên, mà là một lời nhắc nhở thường trực, thôi thúc bản thân
sống có trách nhiệm hơn với bản thân, gia đình và đất nước. Đó cũng là cách để chúng tôi – thế hệ
thanh niên hôm nay – xứng đáng với niềm tin yêu của Bác và của cả dân tộc. Di chúc
Với mục đích để “đồng bào cả nước, đồng chí trong Đảng và bầu bạn khắp nơi đều khỏi cảm thấy đột
ngột” lúc Người phải về nơi vô cùng, vô tận. Người đã âm thầm để sẵn “mấy lời” và chúng ta thành
kính gọi là Di chúc. Thời gian vẫn không ngừng trôi, nhưng mỗi lần đọc lại những dòng chữ chan chứa
yêu thương đó, chúng ta như được tiếp thêm sức mạnh để thực hiện tốt hơn những di nguyện của
Người. Di chúc được Người bắt đầu chấp bút từ tháng 5-1965 đến tháng 5-1969, nghiền ngẫm trong
4 năm trời, chắt lọc tình cảm và suy nghĩ của cả cuộc đời, bản Di chúc đã đề cập đến những vấn đề
trọng yếu của đời sống dân tộc cũng như tương lai của đất nước. Bằng lời lẽ mộc mạc, giản dị nhưng
lại vô cùng súc tích, Di chúc tuy ngắn gọn nhưng chứa đựng toàn bộ tình cảm và tư tưởng của Người
đối với sự nghiệp cách mạng, và các thế hệ người Việt Nam.
Bảo vật Quốc gia cuối cùng mà Người để lại là sự kết tinh tinh thần tư tưởng, đạo đức và tâm hồn cao
đẹp suốt đời phấn đấu hi sinh vì nước vì dân; vạch ra những định hướng mang tính cương lĩnh cho sự
phát triển của đất nước sau khi kháng chiến thắng lợi; là những lời căn dặn thiết tha; là sức mạnh thôi
thúc toàn dân tộc hành động trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Là người sáng lập Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh suốt đời chăm lo cho việc xây dựng Đảng, bảo đảm cho
Đảng đủ điều kiện và sức mạnh lãnh đạo toàn dân tộc. Điều đầu tiên Bác nhắc tới trong Di chúc là nói về Đảng.
Quan tâm tới con người luôn chiếm vị trí quan trọng trong chỉ đạo và điều hành đất nước của Chủ tịch
Hồ Chí Minh. Trong Di chúc, Người nhắc đến tất thảy mọi người, từ "bà con lao động, công nhân, nông lOMoAR cPSD| 59994889
dân, thanh niên, học sinh, trí thức". Người căn dặn Đảng "phải có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh
tế và văn hóa, nhằm không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân"...
Chỉ với hơn 1.000 từ vô cùng ngắn gọn, Di chúc của Người đã truyền cho toàn Đảng, toàn dân và toàn
quân ta ý chí quyết tâm sắt đá, niềm tin mãnh liệt vào sức mạnh vĩ đại của dân tộc Việt Nam; sức mạnh
của chính nghĩa và chân lý "Không có gì quý hơn độc lập tự do"; sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước và
chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam.
Đã hơn nửa thế kỷ trôi qua, nhưng tư tưởng Hồ Chí Minh và Di chúc của Người vẫn luôn đồng hành
cùng dân tộc, soi rọi, dẫn dắt toàn Đảng, toàn dân, toàn quân luôn kiên định và trung thành với sự
nghiệp cách mạng; kế tục xuất sắc sự nghiệp cách mạng vĩ đại mà Người đã trọn đời cống hiến và hy sinh.
Cảm nhận về Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh
Trong lịch sử dân tộc Việt Nam hiện đại, Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh là một văn kiện thiêng
liêng, vừa mang giá trị chính trị, lịch sử, vừa chứa đựng tình cảm và triết lý sống sâu sắc. Bản Di chúc
không chỉ là lời căn dặn của một vị lãnh tụ trước lúc đi xa, mà còn là di sản tinh thần vô giá, là ngọn
đuốc soi sáng con đường cách mạng của dân tộc ta. Với tôi – một sinh viên Trường Đại học Khoa học
Xã hội và Nhân văn – việc đọc và cảm nhận Di chúc không chỉ đem đến sự ngưỡng mộ, xúc động, mà
còn khơi gợi trách nhiệm của tuổi trẻ hôm nay trong việc tiếp bước con đường mà Người đã chọn.
Điểm đặc biệt trước tiên chính là quá trình Bác chấp bút. Người viết Di chúc từ tháng 5-1965 và
chỉnh sửa nhiều lần cho đến tháng 5-1969. Trong bốn năm ấy, giữa lúc cuộc kháng chiến chống Mỹ
bước vào giai đoạn ác liệt, Bác vẫn dành thời gian suy ngẫm, chắt lọc từng câu chữ để gửi lại cho dân
tộc. Điều đó chứng tỏ Bác không chỉ lo cho hiện tại mà còn trăn trở cho tương lai lâu dài của đất
nước. Là một sinh viên đang học tập trong môi trường khoa học xã hội, tôi thấy đây là biểu hiện sinh
động cho tầm nhìn chiến lược và tư duy nhân văn sâu xa của một lãnh tụ.
Trong Di chúc, điều đầu tiên Bác nói đến chính là Đảng. Bác căn dặn phải giữ gìn sự đoàn kết, thống
nhất trong Đảng, coi đó là “điều quý báu nhất”. Với Bác, Đảng là nhân tố quyết định mọi thắng lợi
của cách mạng. Đọc đến đây, tôi cảm nhận rõ trách nhiệm của những người trẻ hôm nay trong việc lOMoAR cPSD| 59994889
bảo vệ và xây dựng Đảng, không chỉ bằng niềm tin mà còn bằng hành động thiết thực: học tập, rèn
luyện, sống có lý tưởng, có đạo đức để trở thành những công dân tốt, là nguồn lực để Đảng luôn trong sạch, vững mạnh.
Một điểm làm tôi vô cùng xúc động là tấm lòng của Bác đối với nhân dân. Trong Di chúc, Bác nhắc
đến mọi tầng lớp, từ công nhân, nông dân, trí thức đến thanh niên, phụ nữ, bộ đội. Người luôn
mong “nhân dân ta ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành”. Nguyện vọng giản dị ấy đã
trở thành kim chỉ nam cho chính sách phát triển đất nước nhiều thập kỷ qua. Với tư cách sinh viên
ngành khoa học xã hội, tôi càng thấy rõ tầm quan trọng của việc gắn lý luận với đời sống, của việc
nghiên cứu và hành động luôn xuất phát từ nhu cầu, quyền lợi của nhân dân – đúng như tinh thần
nhân văn mà Bác để lại.
Không chỉ dừng lại ở chính trị và kinh tế, Di chúc còn chứa đựng tư tưởng đạo đức sâu sắc. Bác căn
dặn thanh niên phải “vừa hồng vừa chuyên”, tức vừa có đạo đức, lý tưởng, vừa giỏi chuyên môn,
nghề nghiệp. Đọc những lời ấy, tôi thấy như Bác đang nói trực tiếp với thế hệ chúng tôi – những
người trẻ đang ngồi trên ghế nhà trường. Trong bối cảnh hội nhập quốc tế, yêu cầu “hồng” và
“chuyên” càng trở nên cấp thiết. Học tập giỏi thôi chưa đủ, sinh viên Nhân văn chúng tôi còn phải
biết sống nhân ái, có trách nhiệm xã hội, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc để trở thành những con
người phát triển toàn diện.
Một điều nữa khiến tôi suy ngẫm là tinh thần lạc quan, tin tưởng vào tương lai của dân tộc trong Di
chúc. Dù biết sức khỏe không còn nhiều, dù đất nước còn trong chiến tranh, nhưng Bác vẫn khẳng
định niềm tin tất thắng: “Cuộc kháng chiến chống Mỹ có thể còn kéo dài, nhân dân ta có thể phải hy
sinh nhiều của, nhiều người. Dù sao chúng ta phải quyết tâm đánh giặc Mỹ đến thắng lợi hoàn toàn.”
Niềm tin ấy không chỉ tiếp sức cho thế hệ lúc bấy giờ, mà đến nay vẫn là nguồn động viên để thế hệ
trẻ chúng tôi vững vàng trước khó khăn, thách thức.
Hơn nửa thế kỷ đã trôi qua kể từ ngày Bác đi xa, nhưng giá trị của Di chúc vẫn còn nguyên sức sống.
Đọc lại những dòng chữ ấy, tôi thấy không chỉ là những lời dặn dò mang tính chính trị, mà còn là một
triết lý nhân sinh sâu sắc: sống vì con người, vì dân tộc, vì tương lai. Di chúc là sự kết tinh cao đẹp
nhất của tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh – một di sản mà sinh viên chúng tôi có trách
nhiệm gìn giữ, học tập và lan tỏa. lOMoAR cPSD| 59994889
Là một sinh viên Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, tôi càng cảm thấy bản thân cần phải
sống có trách nhiệm hơn: học tập nghiêm túc, rèn luyện phẩm chất đạo đức, biết gắn tri thức với
thực tiễn, biết trân trọng và gìn giữ giá trị văn hóa – lịch sử dân tộc. Đó là cách thiết thực nhất để
thực hiện lời căn dặn của Bác, để xứng đáng với niềm tin mà Người đã gửi gắm vào thế hệ trẻ.
Kết lại, Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh là bảo vật quốc gia, là ánh sáng soi đường cho cách mạng
Việt Nam. Với sinh viên chúng tôi, đó không chỉ là văn kiện lịch sử mà còn là bài học sống động về lý
tưởng, trách nhiệm và đạo đức. Mỗi lần đọc lại Di chúc, tôi như được tiếp thêm niềm tin và sức
mạnh để cố gắng học tập, rèn luyện, góp phần nhỏ bé vào sự nghiệp xây dựng đất nước giàu mạnh,
văn minh – đúng như mong ước của Người trước lúc đi xa. Đường Kách Mệnh
Cách đây hơn 9 thập kỉ, năm 1927, "Đường Kách mệnh" - cuốn sách tập hợp các bài giảng của lãnh tụ
Nguyễn Ái Quốc dùng để đào tạo lứa cán bộ đầu tiên cho cách mạng Việt Nam giai đoạn 1925-1927 ở
Quảng Châu (Trung Quốc), lần đầu tiên được xuất bản. Đây là một tác phẩm lý luận chính trị đặc biệt
quan trọng của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc, vạch ra mục tiêu, con đường và phương pháp cách mạng Việt
Nam vào những năm 20-30 của thế kỷ XX, nhằm giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng xã
hội và con người ra khỏi tình trạng bị áp bức, nô dịch bởi chủ nghĩa tư bản.
“Đường Kách mệnh” vừa là tài liệu huấn luyện cán bộ - những hạt giống đầu tiên của phong trào cách
mạng Việt Nam,vừa là tác phẩm truyền bá chủ nghĩa Mác –Lênin vào trong nước, đồng thời chuẩn bị
về chính trị, tư tưởng, lý luận cho sự ra đời của chính đảng cách mạng – Đảng Cộng sản Việt Nam.
Trong tác phẩm này, Người nêu rõ những chuẩn mực đạo đức của những người cách mạng. Đó phải
là những người có nhân cách, đạo đức và phẩm hạnh thì mới tiếp thu được tinh thần của lý luận, mới
làm tròn nhiệm vụ cách mạng khó khăn. "Đường Kách mệnh" cũng trình bày một cách hệ thống những lOMoAR cPSD| 59994889
vấn đề cơ bản của lý luận cách mạng, làm cơ sở cho việc hoạch định đường lối của cách mạng Việt
Nam. Tác phẩm là cuốn "cẩm nang" gối đầu giường của thế hệ cách mạng đầu tiên của Việt Nam, dưới
ánh sáng của "Đường Kách mệnh", những học trò của Nguyễn Ái Quốc đã về nước hoạt động, cùng
Người chuẩn bị về chính trị, tư tưởng và tổ chức cho việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam; phát
động, tổ chức, lãnh đạo nhân dân Việt Nam đấu tranh, làm nên thắng lợi Cách mạng tháng Tám 1945,
thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, mở ra một kỷ nguyên mới trong lịch sử dân tộc.
Đã 94 năm trôi qua, nhưng nhiều vấn đề có liên quan đến con đường, phương pháp cách mạng, xây
dựng, tổ chức, đoàn kết các lực lượng cách mạng, về vai trò lãnh đạo của Đảng, công tác xây dựng
Đảng vững mạnh, nhất là các chuẩn mực đạo đức của người cộng sản ... trong "Đường Kách mệnh"
vẫn giữ nguyên tính thời sự và có ý nghĩa quan trọng đối với công cuộc xây dựng chủ nghĩa Xã hội ở
nước ta hiện nay, nhất là đối với công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng theo tinh thần Đại hội lần thứ XIII của Đảng.
Cảm nhận về tác phẩm Đường Kách Mệnh
Trong kho tàng lý luận cách mạng Việt Nam, Đường Kách Mệnh của Nguyễn Ái Quốc được xem là cột
mốc mở đường, đặt nền móng tư tưởng và tổ chức cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đây
không chỉ là một cuốn sách lịch sử, mà còn là kim chỉ nam soi sáng con đường đấu tranh giải phóng
dân tộc. Với tôi – một sinh viên Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn – việc tìm hiểu tác
phẩm không đơn thuần là nghiên cứu một văn kiện chính trị, mà còn là hành trình cảm nhận giá trị
lịch sử, nhân văn và thời sự mà cuốn sách mang lại.
Trước hết, điều gây ấn tượng mạnh mẽ là hoàn cảnh ra đời của tác phẩm. Đường Kách Mệnh được
tập hợp từ các bài giảng của Nguyễn Ái Quốc tại lớp huấn luyện cán bộ của Hội Việt Nam Cách mạng
Thanh niên ở Quảng Châu (1925–1927). Thời điểm ấy, phong trào yêu nước trong nước diễn ra sôi
nổi nhưng còn manh mún, thiếu đường lối và tổ chức thống nhất. Vì vậy, tác phẩm xuất hiện như lOMoAR cPSD| 59994889
một lời giải đáp căn bản: muốn cách mạng thành công, phải có lý luận đúng đắn, phải có tổ chức
vững mạnh và phải dựa vào quần chúng công nông.
Đọc tác phẩm, tôi đặc biệt ấn tượng với phần bàn về tư cách một người cách mệnh. Nguyễn Ái Quốc
chỉ ra rằng người cách mạng phải cần kiệm, chí công vô tư, khiêm tốn, nói đi đôi với làm, đặt lợi ích
của dân tộc lên trên lợi ích cá nhân. Những lời dạy ấy không chỉ dành cho cán bộ thời kỳ 1920, mà
đến nay vẫn còn nguyên giá trị. Với sinh viên chúng tôi, đó là bài học về rèn luyện nhân cách, về sống
giản dị, trách nhiệm, và dấn thân vì cộng đồng.
Một điểm nổi bật khác là cách Nguyễn Ái Quốc diễn giải về khái niệm cách mệnh. Người không dùng
những thuật ngữ hàn lâm khó hiểu, mà giải thích rất cụ thể, gắn với những ví dụ lịch sử như cách
mạng Mỹ 1776, cách mạng Pháp 1789, cách mạng Tháng Mười Nga 1917… Qua đó, tôi nhận ra rằng
con đường giải phóng dân tộc Việt Nam không thể tách rời phong trào cách mạng thế giới, mà phải
kết hợp chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa Mác – Lênin để tạo thành sức mạnh bền vững.
Tác phẩm cũng nhấn mạnh vai trò của Đảng cách mệnh. Nguyễn Ái Quốc khẳng định: “Trước hết
phải có Đảng cách mệnh… Đảng có vững cách mệnh mới thành công, cũng như người cầm lái có
vững thuyền mới chạy.” Lời dạy ấy đặt nền móng cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam năm
1930. Từ góc nhìn của một sinh viên Nhân văn, tôi thấy đây không chỉ là tư tưởng tổ chức chính trị,
mà còn là bài học về vai trò của sự lãnh đạo, của tính tập thể, đoàn kết – điều mà trong học tập và
hoạt động xã hội, sinh viên cũng cần ghi nhớ.
Không dừng lại ở lý luận, Đường Kách Mệnh còn mang tính kêu gọi hành động mạnh mẽ. Người viết
giản dị, súc tích, lặp lại ba lần chữ “Cách mệnh! Cách mệnh!! Cách mệnh!!!” như một tiếng gọi khẩn
thiết. Đọc đến đó, tôi cảm nhận rõ được ngọn lửa nhiệt huyết của một người thanh niên yêu nước
hết lòng vì dân tộc. Chính sự giản dị, thẳng thắn ấy làm cho tác phẩm dễ đi vào lòng người, trở thành
tài liệu giáo dục lý tưởng cho nhiều thế hệ.
Từ góc độ một sinh viên Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, tôi nhận ra rằng Đường Kách
Mệnh không chỉ là tài liệu lịch sử, mà còn là bài học thực tiễn về phương pháp tư duy và hành động.
Nó dạy chúng ta cách nhìn nhận vấn đề một cách khoa học, biết rút kinh nghiệm từ lịch sử nhân loại,
đồng thời gắn bó với thực tiễn đất nước. Trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay, tư tưởng “cách lOMoAR cPSD| 59994889
mệnh” có thể được hiểu rộng hơn: đó là sự đổi mới tư duy, dám sáng tạo, dám dấn thân vì lợi ích chung.
Hơn chín mươi năm đã trôi qua, nhưng tinh thần của Đường Kách Mệnh vẫn sống mãi. Nó là minh
chứng cho tầm nhìn xa rộng, trí tuệ và bản lĩnh kiên cường của Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh. Với
thế hệ trẻ chúng tôi, tác phẩm là lời nhắc nhở về trách nhiệm tiếp nối truyền thống, không ngừng
học tập, rèn luyện để góp phần xây dựng đất nước giàu mạnh, văn minh.
Kết lại, Đường Kách Mệnh là một tác phẩm có giá trị lịch sử, lý luận và thực tiễn to lớn. Đọc tác
phẩm, tôi không chỉ hiểu hơn về con đường cách mạng của dân tộc, mà còn học được bài học về đạo
đức, lý tưởng và khát vọng cống hiến. Với sinh viên Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn,
đây là nguồn cảm hứng để sống có trách nhiệm hơn với bản thân, với xã hội, và với tương lai của Tổ quốc.
Cảm nhận về tác phẩm Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh
Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh (Hà Nội, 19/12/1946) là một tuyên ngôn
lịch sử, một tiếng gọi thiêng liêng của cả dân tộc trong giờ phút sinh tử. Đọc lại lá thư kêu gọi ấy dưới
góc nhìn của một sinh viên Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, tôi vừa cảm thấy xúc động
trước tinh thần quật khởi của toàn dân, vừa thấy những bài học sâu sắc về giá trị lịch sử, đạo lý và
trách nhiệm thế hệ trẻ hôm nay. lOMoAR cPSD| 59994889
Trước hết, ấn tượng đầu tiên là giọng điệu ngắn gọn, dứt khoát và mang tính khẩn thiết cao của văn
bản. Bác không dùng lý lẽ dài dòng, mà nói thẳng, nói thật: chúng ta muốn hòa bình, đã nhân
nhượng, nhưng thực dân Pháp vẫn lấn tới; vì vậy “Chúng ta phải đứng lên!” Dạng ngôn ngữ này có
sức lay động mãnh liệt, bởi nó chuyển từ phân tích tình hình sang lời mệnh lệnh đạo đức rõ ràng: giữ
nước là nghĩa vụ thiêng liêng của mọi người Việt Nam. Với một sinh viên Nhân văn, tôi thấy đó là
một nghệ thuật tuyên truyền chính trị mẫu mực: súc tích, dễ hiểu, đánh trúng trái tim và ý chí của quần chúng.
Thứ hai, giá trị phổ quát của lời kêu gọi nằm ở tính đại đồng, không phân biệt già trẻ, trai gái, tôn
giáo hay đảng phái. Bác kêu gọi: “Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ, không chia tôn
giáo, đảng phái, dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên…” Điều này không chỉ thể hiện tinh
thần dân tộc rộng mở mà còn là chiến lược chính trị, vì trong hoàn cảnh kháng chiến, sức mạnh của
dân tộc chỉ có được khi mọi tầng lớp đoàn kết. Là sinh viên ngành khoa học xã hội, tôi nhận thấy đây
là một bài học quý về xây dựng cộng đồng chính trị: phát huy tính đại chúng, vượt qua chia rẽ để tạo
nên sức mạnh tổng hợp.
Thứ ba, lời kêu gọi thể hiện tinh thần tự lực, tự cường và ý chí hy sinh. Bác nhắc mọi người “Ai có
súng dùng súng. Ai có gươm dùng gươm, không có gươm thì dùng cuốc, thuổng, gậy gộc.” Hình ảnh
đó vừa mộc mạc vừa bi tráng: dân tộc lấy bất kỳ phương tiện gì sẵn có để tự vệ, không chờ đợi cứu
viện từ bên ngoài. Tinh thần ấy dạy tôi một bài học về ý chí chủ động: trong hoàn cảnh khó khăn, con
người phải biết tận dụng nguồn lực tại chỗ, dấn thân và quyết tâm. Đối với sinh viên, thông điệp là:
đừng chờ đợi hoàn hảo mới hành động; bắt đầu bằng những điều nhỏ bé nhất, bằng trách nhiệm cụ thể với cộng đồng.
Bên cạnh đó, lời kêu gọi mang đậm tính đạo đức cách mạng. Sự khẳng định “Chúng ta thà hy sinh tất
cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ” đặt quyền sống tự do, độc
lập lên trên mọi lợi ích khác. Đó là tinh thần “tổ quốc trên hết”, đồng thời cũng là tiêu chí đánh giá
lương tri: khi tổ quốc lâm nguy, từng người phải cân nhắc hành động theo tiếng gọi lương tâm. Đối
với người học ngành khoa học xã hội, đây là lời nhắc về mối liên hệ giữa lý thuyết và đạo đức: tri
thức phải gắn với trách nhiệm, nghiên cứu phải hướng tới lợi ích cộng đồng, không thể vô cảm trước
những vấn đề trọng đại của dân tộc. lOMoAR cPSD| 59994889
Một điểm nữa khiến tôi suy ngẫm là nghệ thuật kêu gọi đoàn kết binh – dân trong văn bản. Bác
không chỉ hướng đến dân thường mà trực tiếp gọi tên “anh em binh sĩ, tự vệ, dân quân”, nhấn mạnh
mối liên hệ giữa quân đội và nhân dân. Đó là mô hình “quân dân một lòng” mà lịch sử kháng chiến
đã minh chứng là nhân tố quyết định thắng lợi. Từ góc độ học thuật, điều này mở ra đề tài nghiên
cứu thú vị: cơ sở văn hóa và xã hội nào tạo nên liên kết quân-dân bền vững? Câu hỏi đó rất phù hợp
với sinh viên khoa học xã hội muốn góp phần phân tích và lý giải kinh nghiệm lịch sử cho thực tiễn ngày nay.
Cuối cùng, tác phẩm còn là nguồn cảm hứng cho tinh thần thời đại: tinh thần dấn thân, hy sinh và
niềm tin vào thắng lợi. Lời kết “Việt Nam độc lập và thống nhất muôn năm! Kháng chiến thắng lợi
muôn năm!” không chỉ là khẩu hiệu tạm thời mà là khẳng định niềm tin lịch sử. Đối với sinh viên
hôm nay, niềm tin ấy chuyển hóa thành trách nhiệm xây dựng đất nước trên các mặt: văn hóa, giáo
dục, khoa học xã hội và nhân văn. Chúng tôi có thể không cầm súng như thế hệ trước, nhưng có thể
góp sức bằng tri thức, sáng kiến, hành động xã hội, nghiên cứu chính sách để tiếp nối công cuộc xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Kết luận, Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến là một văn bản ngắn nhưng mang hàm lượng ý nghĩa sâu
sắc: nó kết hợp chặt chẽ lý luận chính trị, nghệ thuật tuyên truyền, đạo đức cách mạng và chiến lược
đoàn kết dân tộc. Với tư cách là một sinh viên Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, đọc và
suy ngẫm lá thư này giúp tôi thấm thía hơn giá trị lịch sử, đồng thời khơi dậy tinh thần trách nhiệm:
phải học tập, rèn luyện và hành động để góp phần xây dựng một xã hội công bằng, dân chủ và văn
minh — thực hiện tưởng niệm lịch sử không chỉ bằng lời nói mà bằng việc làm cụ thể cho tương lai đất nước.