CÂU HỎI ÔN TẬP | Lịch Sử Đảng Cộng Sản Việt Nam | Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Thành phố HCM

Trong quá trình ôn tập môn học "Lịch Sử Đảng Cộng sản Việt Nam", câu hỏi ôn tập đóng vai trò quan trọng trong việc kiểm tra và củng cố kiến thức của sinh viên. Các câu hỏi này có thể bao gồm các khía cạnh khác nhau của lịch sử Đảng, từ lịch sử hình thành, phát triển đến các sự kiện, nhân vật và chính sách quan trọng trong quá khứ và hiện tại. Việc ôn tập qua câu hỏi giúp sinh viên tự kiểm tra mức độ hiểu biết của mình và chuẩn bị tốt nhất cho kỳ thi hoặc bài kiểm tra cuối kỳ. Mục tiêu của câu hỏi ôn tập là khuyến khích sinh viên tự tin và thành thạo với nội dung của môn học, đồng thời giúp họ phát triển kỹ năng phân tích và suy luận về lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam.

LỊCH SỬ ĐẢNG
CÂU HỎI ÔN TẬP
Câu 7. Đại hội XII (1-2016) Đảng Cộng sản Việt Nam đưa ra quan điểm về đối ngoại:
“Chủ động tích cực hội nhập quốc tế trên sở giữ vững độc lập, tchủ, lấy lợi ích
quốc gia dân tộc làm mục tiêu cao nhất, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng
bảo vệ tổ quốc”. Anh chị hiểu thế nào là chủ động, tích cực hội nhập quốc tế? Trong giai
đoạn hiện nay, Việt Nam cần làm gì để nâng cao vị thế trên trường quốc tế?
* Chủ động, tích cực hội nhập quốc tế là:
- Chủ động hội nhập quốc tế không trông chờ lệ thuộc vào điều kiện khách quan, điều kiện
quốc tế đem lại tự mình chủ động tìm kiếm đối tác, mở rộng hội hợp tác quốc tế trên
mọi lĩnh vực.
- Tích cực hội nhập quốc tế: chủ động chấp nhận, áp dụng và tham gia xây dựng các luật lệ và
chuẩn mực quốc tế vì lợi ích quốc gia dân tộc.
- HDQT theo đúng nghĩa là hội nhập trên tất cả lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội.
- Là sự nghiệp của chính trị, đòi hỏi sự tham gia tổng lực của các cấp, nghành, các tổ chức
chính trị - xã hội doanh nghiệp và người dân.
- Chủ động, tích cực hội nhập quốc tế có nghĩa là định hướng chiến lược lớn của Dảng nhằm
thực hiện nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nma XHCN
* Trong giai đoạn hiện nay, để nâng cao vị thế trên trường quốc tế Việt Nam cần:
- Đẩy mạnh quảng lịch sử, văn hóa, ngôn ngữ Việt Nam với thế giới; bảo tồn phát huy
các giá trị của các di sản thiên nhiên, di sản văn hóa thế giới, khẳng định các giá trị hội
truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam, bản sắc Việt Nam.
- Chủ động và nâng cao chất lượng công tác thông tin, tuyên truyền đối ngoại, làm cho bạn
quốc tế nhân dân thế giới ngày càng hiểu đúng đầy đủ hơn về đất nước con người
Việt Nam, về đường lối, chính sách của Đảng.
- Biết tìm kiếm và phát hiện kịp thời những thế mạnh của sản xuất và thị trường trong nước
thế yếu của thị trường thế giới để khai thác tốt nhất trong việc mở rộng quan hệ kinh tế đối
ngoại của nước ta theo hướng đa phương và đa dạng hoá
- Không ngừng đưa quan hệ với các nước đi vào chiều sâu, nhất các nước láng giềng, các
đối tác chiến lược, đối tác toàn diện, đối tác quan trọng và các nước bạn bè truyền thống, trên
tinh thần bình đẳng,cùng có lợi, tôn trọng lẫn nhau và phù hợp với luật pháp quốc tế.
- Phát huy vai trò của Việt Nam tại các diễn đàn quốc tế, các phong trào nhân dân thế giới,
nhằm góp phần tích cực vào việc giải quyết c vấn đề toàn cầu vào cuộc đấu tranh chung
hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ, tiến bộ hội, phù hợp với khả năng, điều kiện và lợi ích
của nước ta.
lOMoARcPSD| 41487147
- Thực hiện tốt các cam kết với tổ chức thương mại quốc tế WTO và các quan hệ thương mại
song phương khác để chứng tỏ rằng Việt Nam là đối tác làm ăn tin cậy của họ.
Câu 13: Mục tiêu cụ thể phát triển đất nước trong giai đoạn tới được Đại hội XIII xác
định như thế nào? Theo anh/chị, để thực hiện được mục tiêu trên, Đảng Nhà nước
Việt Nam cần làm gì?
Mục tiêu:
- Là nước đang phát triển, có công nghiệp theo hướng hiện đại, vượt qua mức thu nhập trung
bình thấp.
- Là nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao.
- Trở thành nước phát triển và thu nhập cao.
Đảng cần làm:
Công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước gắn với kinh tế tri thức (2)
Hoàn thiện và xây dựng kinh tế thị trường nền kinh tế xã hội chủ
nghĩa.(1) Hội nhập quốc tế kết hợp nội lực và ngoại lực.(3)
Giữ vững kim chỉ nam hệ tư tượng lãnh đạo của Đảng, và hệ tưtưởng chủ nghĩ MÁC và tư
tưởng HCM ( đảng phải trong sạchvững mạnh ) (4)
Không thể tham nhũng, luật phải nghiêm, luật pháp cần phải hoànthiện, phải có hiệu lực,
có hiệu quả và phải nghiêm minh, đấu tranhchống tham nhũng. (5)
Nâng cao giá trị của con người trong công cuộc xây dượng và phát triển đất nước
Phải thống nhất trong hệ thống nhận thức, phải có sự vận động và tuyên truyền
Theo anh/chị, để kinh tế tư nhân có điều kiện phát triển, Đảng và Nhà nước Việt Nam
cần làm gì?
Xác định: phát triển mạnh mẽ khu vực KTTN cả về số lượng, hiệu quả thực sự trở thành một
động lực quan trọng trong phát triển kinh tế. Kinh tế tư nhân là một trong những động lực của
nền kinh tế
Ý nghĩa: làm cho nền kinh tế được phát triển, khơi dậy khát vọng làm giàu vươn lên hội
cuồng minh, thể hiện sự ghi nhận của đảng nhà nước cho sợ phát triển của đc, tạo điều
kiện thuận lợi cho kinh tế tư nhânphát triển
Đảng cần làm:
- Hoàn thiện cải cách hệ thống luật pháp 1 cách đồng bộ, tạo điều kiện chính sách hỗ
trợ với chính sách tư nhân.
- Nâng cao chất lượng nhân lực, tận dụng cơ hội phát triển kinh tế của cá nhân, mạnh
mẽ vươn lên khởi nghiệp.
lOMoARcPSD| 41487147
- Phát triển kinh tế thị trường, hội nhập, thống nhất trong nhận thức, tư tưởng về vai trò
của kinh tế tư nhân.
- Giữ vững kim chỉ nam hệ tư tượng lãnh đạo của Đảng, phát huy mặt tích cực ngăn
ngừa tiêu cực của nền kinh tế tư nhân.
- Phải thống nhất trong hệ thống nhận thức, phải có sự vận động và tuyên truyền.
Câu 15: Hội nghị Đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ của Đảng khoá VII (1/1994) xác
định 4 nguy thách thức lớn đối với Đảng Cộng sản Việt Nam gì? Theo anh/chị,
hiện nay 4 nguy này còn tồn tại không? Nếu có, ảnh hưởng đến Đảng chế độ như
thế nào? Để đẩy lùi 4 nguy cơ, Đảng, Nhà nước và nhân dân cần làm gì?
Xác định 4 thách thức:
- Nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế: phải có một khuôn khổ pháp luật, thể chế, chế tài
để tổ chức thực hiện mang lại hiệu quả thực tiễn.
- Nguy cơ chệch hướng XHCN: các nguy cơ này vẫn tồn tại, phải đấu tranh, ngăn chặn,
đẩy lùi không thể chủ quan, xem thường bất cứ nguy nào. Đấu tranh bảo vệ nền
tảng tư tưởng của Đảng.
- Nạn tham nhũng và tệ nạn xã hội: chống tham nhũng lãng phí tiêu cực.
- Âm mưu hành động “diễn biến hòa bình” của c thế lực thù địch: đoàn kết, vững
vàng, bảo lĩnh chính trị cao dựa trên trí tuệ của toàn Đảng, toàn dân thì ko thế lực
nào ngăn cản con đường phát triển của đất nước ta.
- Hiện tại 4 nguy cơ này vẫn cố khả năng tồn tại. Và ảnh hưởng tới sự hòa bình độc lập
của Đảng và nhà nước.
Đảng, nhà nước và nhân dân cần làm:
- Hoàn thiện cải cách hệ thống luật pháp 1 cách đồng bộ, phát luận cần nghiêm minh,
cứng rắn.
- Nâng cao nhận thức của con người về việc giữ gìn bảo vệ một nhà nước trong sạch,
ko tệ nạn.
- Giữ vững kim chỉ nam hệ tư tượng lãnh đạo của Đảng, phát huy mặt tích cực ngăn
ngừa tiêu cực của chủ nghĩa cá nhân.
- Phải thống nhất trong hệ thống nhận thức, phải có sự vận động và tuyên truyền.
Câu 1: Vì sao Nguyễn Ái Quốc chọn con đường cách mạng vô sản.
Những năm đầu thế kỷ XX, cách mạng Việt Nam đứng trước những thách thức mới, đó là tìm
ra con đường giải phóng dân tộc đúng đắn. Con đường phong kiến, khuynh hướng tư sản từng
bước dẫn dắt phong trào cách mạng nước ta đi lên nhưng cuối cùng đều thất bại. Đến năm
1920, Nguyễn Ái Quốc đã tìm ra con đường giải phóng cho dân tộc, đó là con đường cách
mạng vô sản. Vậy, vì sao Bác lại lựa chọn con đường đó?
lOMoARcPSD| 41487147
Bằng những hoạt động thực tiễn của mình Nguyễn Ái Quốc đã có những nhận thức về cách
mạng thế giới và những con đường cứu nước, từ đó Bác lựa chọn con đường đúng đắn cho
dân tộc ta.
Năm 1911, Nguyễn Ái Quốc ra đi tìm đường cứu nước. Người dã bôn ba khắp năm châu, và
bước đầu có những nhận thức về bạn và thù(trích dẫn câu nói của bác). Năm 1917, Cách mạng
Tháng Mười Nga giành thắng lợi, chủ nghĩa Mác – Lê nin đã trở thành hiện thực, đồng thời mở
ra một thời đại mới “ thời đại cách mạng chống đế quốc, thời đại giải phóng dân tộc”. Cách
mạng Tháng Mười đã nêu tấm gương sáng trong việc giải phóng các dân tộc bị áp bức. Nguyễn
Ái Quốc khẳng định: “Cách mạng Tháng Mười như tiếng sét đã đánh thức nhân dân Châu Á
tỉnh giấc mê hàng thế kỷ nay”. Thắng lợi của cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga và
những chính sách tiến bộ của nó thực sự đem lại lợi ích cho đông đảo quần chúng nhân dân.
Nó chứng tỏ được sự tiến bộ của hình thức cách mạng này.
Trong khi đó, chiến tranh thế giới thứ nhất kết thúc đã để lại những hậu quả vô cùng nặng nề.
Loài người căm ghét chiến tranh. Trong khi đó cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Nga thực sự đem
lại hòa bình tự do cho con người.
Từ những nhận thực đó Nguyễn Ái Quốc đã bắt đầu tin theo Cách mạng xã hội chủ nghĩa
Tháng Mười Nga. Người đã có những nhận thức hết sức đúng đắn:
Người đánh giá cao tư tưởng tự do, bình đẳng, bác ái và quyền con người của các cuộc cách
mạng tư sản tiêu biểu như Cách mạng Mỹ (1776), cách mạng Pháp (1789)… nhưng cũng nhận
thức rõ những hạn chế của các cuộc cách mạng tư sản. Nguyễn Ái Quốc khẳng định con đường
cách mạng tư sản không thể đưa lại độc lập và hạnh phúc thật sự cho nhân dân các nước nói
chung, nhân dân Việt Nam nói riêng.(trích dẫn câu nói). Nguyễn Ái Quốc đặc biệt quan tâm
tìm hiểu cách mạng tháng mười nga 1917. Người rút ra kết luận: “ trong thế giới bấy giờ chỉ có
Cách mệnh Nga là thành công, và thành công đến nơi, nghĩa là dân chúng được hưởng cái hạnh
phúc tự do, bình đẳng thật”.
Việc Bác lựa chọn con đường cách mạng vô sản cũng xuất phát từ tình hình của cách
mạng nước ta lúc đó, cũng như từ yêu cầu của cách mạng.
Là nước thuộc địa nửa phong kiến, chịu ách áp bức bóc lột của thực dân Pháp. Pháp áp đặt
chính sách cai trị thực dân, đồng thời cấu kết với giai cấp địa chủ trong việc bóc lột kinh tế và
áp bức chính trị đối với nhân dân Việt Nam. Mặc dù nền kinh tế có những chuyển nhưng về cơ
bản vẫn là nền kinh tế lạc hậu, nghèo nàn, què quặt, lệ thuộc vào Pháp. Dưới ách thống trị của
thực dân Pháp, đời sống của nhân dân lao động hết sức khốn khổ. Xã hội phân hóa ngày càng
sâu sắc. Mâu thuẫn giữa toàn thể nhân dân Việt Nam với thực dân Pháp và bọn tay sai lên đến
đỉnh điểm.
Yêu cầu của cách mạng lúc này là phải giải quyết hai nhiệm vụ cách mạng, đó là: Nhiệm vụ
dân tộc nhằm đánh đuổi thực dân pháp, giành lại độc lập cho dân tộc. Và nhiệm vụ dân chủ
nhằm đánh đổ chế độ phong kiến đem lại ruộng đất cho nông dân. Trong hai nhiệm vụ trên,
nhiệm vụ dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu, quan trọng nhất. Con đường giải phóng dân tộc
phải thực hiện được cả hai nhiệm vụ đó.
Xuất phát từ thực tiễn cách mạng Việt Nam càng thôi thúc Người tìm ra con đường đấu tranh
mới. Trước sự xâm lược của thực dân pháp, phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc theo
lOMoARcPSD| 41487147
khuynh hướng phong kiến và tư sản diễn ra mạnh mẽ. Tiêu biểu là phong trào cần vương theo
con đường phong kiến, hoạt động của Phan Bội Châu và Phan Châu Trinh theo khuynh hướng
tư sản. Các hoạt động yêu nước diễn ra manh mẽ nhưng cuối cùng đều thất bại. Những con
đường đó không đáp ứng được yêu cẩu của cuộc cách mạng, yêu cầu cần có con đường giải
phóng dân tộc mới.
Vào tháng 7 năm 1920, Nguyễn Ái Quốc đọc bản “Sơ thảo lần thứ nhất về vấn đề dân tộc và
vấn đề thuộc địa của Lê nin đăng trên báo nhân đạo. người tìm thấy trong luận cương của Lê
Nin lời giải đáp về con đường giải phóng cho nhân dân Việt Nam;về vấn đề thuộc địa trong
mối quan hệ với phong trào cách mạng thế giới… Nguyễn Ái Quốc đã đến với chủ nghĩa Mác –
Lê nin.
Tại Đại Hội Đảng Xã hội Pháp ( tháng 2 – 1920), Nguyễn Ái Quốc bỏ phiếu tán thành việc gia
nhập quốc tế cộng sản và tham gia thành lập Đảng Cộng Sản Pháp. Sự kiện này đánh dấu bước
ngoặt trong cuộc đời hoạt động cách mạng của người – từ người yêu nước trở thành người cộng
sản và tìm thấy con đường cứu nước đúng đắn: “muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không
có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”.
Việc lựa chọn con đường giải phóng đúng đắn cho dân tộc cũng xuất phát từ tấm lòng yêu quê
hương, đất nước vô bờ, với sự quyết tâm tìm ra con đường cứu nước cao cả, tất cả trở thành
động lực, hun đún thành ngọn lửa cứu nước, và bằng tài năng mẫn cảm chính trị của mình cũng
như những hoạt động miệt mài, Nguyễn Ái Quốc đã tìm ra con đường giải phóng cho cả dân
tộc.
Như vậy Nguyễn Ái Quốc đã tìm thấy con đường giải phóng dân tộc cho nhân dân Việt Nam.
Và thực tế lịch sử đã chứng minh sự lựa chọn đúng đắn đó. Năm 1930, Đảng cộng sản Việt
Nam thành lập, đánh dấu sự thắng lợi của khuynh hướng cách mạng vô sản. Thắng lợi của
Cách mạng Tháng Tám 1945, thắng lợi cuộc kháng chiến chống pháp (1954) và kháng chiến
chống Mỹ (1975) cũng như thắng lợi của công cuộc Đổi mới hiện nay càng chứng tỏ hướng đi
đúng đắn của dân tộc và người có vai trò quan trọng nhất trong việc tìm ra và đặt nền tảng cho
cách mạng Việt Nam không ai khác, đó là Nguyễn Ai Quốc – Hồ Chí Minh vĩ đại.
Câu 2: Năm 1986, Đảng thực hiện công cuộc đổi mới toàn diện. Anh chị hãy lí giải vì sao
công cuộc đổi mới là tất yếu .
Công cuộc đổi mới chính là sự nghiệp vĩ đại và sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng, là nhân tố
quyết định thành công của công cuộc đổi mới, Đảng đã thẳng thắn thừa nhận những sai lầm
và khuyết điểm, đổi mới tư duy, nhận thức, tăng cường sự lãnh đạo và năng lực cầm quyền
của Đảng; xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh.
Đảng phải thường xuyên tự chỉnh đốn, tự đổi mới, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của
mình. Đại hội VI của Đảng diễn ra tại Hà Nội, từ ngày 15 đến ngày 18-12-1986, trong bối cảnh của
cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật đang phát triển mạnh, xu thế đối ngoại trên thế giới đang dần
thay thế xu thế đối đầu. Đổi mới đã trở thành xu thế của thời đại. Liên Xô và các nước xã hội chủ
nghĩa đều tiến hành cải tổ sự nghiệp xây dựng Chủ nghĩa xã hội. Việt Nam đang bị các đế quốc và
thế lực thù địch bao vây, cấm vận và ở tình trạng khủng hoảng kinh tế xã hội. Lương thực, thực
phẩm, hàng tiêu dùng đều khan hiếm; lạm phát tăng 300% năm 1985 nên 774% năm 1986. Các
hiện tượng tiêu cực, vi phạm pháp luật, vượt biên trái phép diễn ra khá
lOMoARcPSD| 41487147
phổ biến. Sau 10 năm xây dựng chủ nghĩa xã hội từ 1976 đến 1985 Đảng ta đã đạt được những
thành tựu nổi bật đồng thời cũng có những sai lầm, khuyết điểm là không hoàn thành các mục
tiêu kinh tế - xã hội do Đại hội IV và Đại hội V của Đảng đề ra. Đất nước lâm vào tình trạng
khủng hoảng kinh tế - xã hội kéo dài, sản xuất tăng trưởng chậm, không ổn định, nền kinh tế
luôn bị thiếu hụt, lạm phát tăng cao. Ngoài ra đất nước còn bị bao vây cô lập, đời sống nhân dân
vô cùng khó khăn, lòng tin của nhân dân đối với Đảng ngày càng giảm sút nghiêm trọng.
Nguyên nhân khách quan dẫn đến khủng hoảng kinh tế-xã hội do xây dựng đất nước từ
nền kinh tế nghèo nàn, lạc hậu, sản xuất nhỏ là phổ biến, bị bao vây, cấm vận nhiều
năm, nguồn viện trợ từ nước ngoài giảm mạnh, hậu quả nặng nề của chiến tranh.
Về chủ quan là do sai lầm của Đảng trong đánh giá tình hình, xác định mục tiêu, bước
đi, sai lầm trong bố trí cơ cấu kinh tế, trong lĩnh vực phân phối, lưu thông, duy trì quá
lâu cơ chế tập trung, quan liêu, bao cấp, buông lỏng chuyên chính vô sản trong quản lý
kinh tế, quản lý xã hội và trong đấu tranh chống âm mưu, thủ đoạn phá hoại nhiều mặt
của địch.
Vì vậy yêu cầu phải đổi mới để khắc phục sai lầm, khuyết điểm, đưa đất nước vượt qua khủng
hoảng và tiến lên trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội. Ngày 10-7-1986, Tổng Bí thư Lê
Duẩn qua đời. Ngày 14-7-1986, Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp Hội nghị bất thường bầu
đồng chí Trường Chinh giữ chức Tổng Bí thư của Đảng và chuẩn bị mọi mặt cho Đại hội VI
của Đảng. Các bước đột phá tháng 8-1979, tháng 6-1985 và tháng 8-1986 phản ánh sự phát
triển nhận thức từ quá trình khảo nghiệm, tổng kết thực tiễn, từ sáng kiến và nguyện vọng của
nhân dân để hình thành đường lối đổi mới. "Phát biểu tại một hội nghị cán bộ cao cấp ngày
10.7. 1986, Chủ tịch Hội đồng Nhà nước Trường Chinh khi đó đã thẳng thắn nêu vấn đề:"
Trong lúc này chúng ta chỉ có hai khả năng lựa chọn: Đổi mới để tiến lên hay đi theo con đường
cũ để chết? ". Rồi ông đã phân tích, chỉ ra những sai lầm:" Chúng ta đã bỏ lỡ cơ hội quý báu..
Liên Xô viện trợ trong mười năm qua hàng chục tỉ rúp, nhưng với cơ chế tập trung quan liêu,
bao cấp, ăn không nên làm không ra, chúng ta cứ rút dần, rút mòn mỗi năm vài trăm triệu rúp
để chi cho tiêu dùng xã hội, cho bao cấp và bù lỗ, vài trăm triệu rúp khác thì rải ra trên rất nhiều
công trình xây dựng " - Báo THANH NIÊN. Nguyên nhân bắt nguồn từ những khuyết điểm
trong hoạt động tư tưởng, tổ chức và công tác cán bộ của Đảng.
Tóm lại Đảng Cộng sản Việt Nam đã tiến hành công cuộc đổi mới toàn diện vào năm 1986
và nguyên nhân Đảng Cộng sản Việt Nam phải tiến hành công cuộc đổi mới là một tất yếu là vì
các lý do sau:
Trong thời gian thực hiện hai kế hoạch Nhà nước 5 năm (1976 – 1985), cách mạng XHCN ở
nước ta đạt nhiều thành tựu và ưu điểm đáng kể, song cũng gặp không ít khó khăn, khiến đất
nước lâm vào tình trạng khủng hoảng, trước hết là về kinh tế – xã hội. Trong đó nguyên nhân
cơ bản là do ta mắc phải" sai lầm nghiêm trọng và kéo dài về chủ trương, chính sách lớn, sai
lầm về chỉ đạo chiến lược và tổ chức thực hiện". Để khắc phục sai lầm, đưa đất nước vượt qua
khủng hoảng, Đảng và nhà nước ta phải tiến hành đổi mới. Những thay đổi của tình hình thế
giới và quan hệ giữa các nước do tác động của cách mạng khoa học – kỹ thuật. Ngoài ra trên
thế giới cuộc khủng hoảng toàn diện, trầm trọng của Liên Xô và các nước XHCN khác nên
Đảng và Nhà nước ta phải tiến hành đổi mới.
Vì vậy ĐCSVN phải tiến hành đổi mới để thoát khỏi tình trạng trên đó chính là điều tất yếu của
lOMoARcPSD| 41487147
thời cuộc. Quyết định đổi mới của Đảng ta năm 1986 được xem như bước ngoặt quan trọng
trong công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước. Đổi mới đã trở thành đòi hỏi bức thiết của tình
hình đất nước. Quyết định Đổi mới của Đảng ta năm 1986 được xem như bước ngoặt quan
trọng trong công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước.
Câu 3: Bằng những sự kiện lịch sử chọn lọc, chứng minh sự ra đời của Đảng Cộng
sản Việt Nam là một tất yếu lịch sử.
Tính tất yếu lịch sử (Thích thì ghi)
lOMoARcPSD| 41487147
lOMoARcPSD| 41487147
lOMoARcPSD| 41487147
lOMoARcPSD| 41487147
Câu 4: Vì sao ĐCSVN lựa chọn mô hình kinh tế thị trường định hướng XHCN là một
tất yếu.
Xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng hội chủ nghĩa hình phát triển kinh tế
tổng quát của nước ta hiện nay. Đây quá trình nhận thức, hoàn thiện duy luận
tổng kết thực tiễn của Đảng để thấy rõ hơn về sự tất yếu khách quan, những nội dung và đặc
trưng cơ bản, những việc cần thực hiện để đẩy mạnh phát triển kinh tế ở nước ta.
Đối với nước ta, quá trình chuyển đổi từ cơ chế tập trung, quan liêu, bao cấp sang phát triển
nền kinh tế hàng a nhiều thành phần, vận động theo chế thị trường, sự quản của
Nhà nước, theo định hướng XHCN thực chất là xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN, được bắt đầu từ Đại hội Đảng VI (1986) ngày càng được hoàn thiện. Thực tế 20
năm đổi mới và phát triển nền kinh tế theo mô hình kinh tế thị trường định hướng XHCN đã
chứng minh rằng, kinh tế thị trường là con đường phát triển kinh tế hiệu quả, từ đó quá
độ lên chủ nghĩa xã hội. Đây là cả một quá trình vừa đổi mới tư duy lý luận, nhất là tư duy
lOMoARcPSD| 41487147
kinh tế, vừa bám sát các quy luật khách quan kịp thời tổng kết thực tiễn đầy sống động
của Việt Nam.
Đại hội lần thứ IX của Đảng (năm 2001) khẳng định: "... thực hiện nhất quán lâu dài
chính sách phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động theo chế thị
trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa; đó chính là nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa".
Đại hội lần thứ X (năm 2006) Đảng tiếp tục khẳng định: "Để đi lên chủ nghĩa xã hội, chúng
ta phải phát triển nền kinh tế thị trường định hướng hội chủ nghĩa; đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa; xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc làm nền
tảng tinh thần của hội; xây dựng nền dân chủ hội chủ nghĩa, thực hiện đại đoàn kết
dân tộc; xây dựng Nhà nước pháp quyền hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân,
nhân dân; xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh; bảo đảm vững chắc quốc phòng an
ninh quốc gia; chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế"
Như vậy, trải qua các kỳ Đại hội, chúng ta luôn khẳng định con đường chúng ta lựa
chọn đó là CNXH và để đi lên CNXH chúng ta phải phát triển kinh tế thị trường. Nhận thức
về CNXH con đường đi lên CNXH nước ta được Đảng khẳng định trong Cương lĩnh
xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (năm 1991) với 6 đặc trưng bản
đến nay Đại hội Đảng X tiếp tục khẳng định ngày càng sáng tỏ hơn với 8 đặc trưng bản
là:
- Là một xã hội dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh.
- Do nhân dân làm chủ.
- Có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất
phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
- Có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
- Con người được giải phóng khỏi áp bức, bất công, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc,
phát triển toàn diện.
- Các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tương trợ và giúp đỡ nhau
cùng tiến bộ.
- Có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân dưới
sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản.
- Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân các nước trên thế giới.
Qua 20 năm thực hiện công cuộc đổi mới, chúng ta đã đạt được những thành tựu to lớn
ý nghĩa lịch sử. Đất nước đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - hội, sự thay đổi bản
và toàn diện. Vị thế nước ta trên trường quốc tế không ngừng nâng cao. Sức mạnh tổng hợp
của quốc gia đã tăng lên rất nhiều, tạo ra thế lực mới cho đất nước tiếp tục đi lên với
những triển vọng tốt đẹp.
Phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta là sự lựa chọn hoàn toàn phù hợp
với quy luật phát triển khách quan xu thế tất yếu của thời đại. Kinh tế thị trường một
phạm trù kinh tế riêng, tính độc lập tương đối, phát triển theo những quy luật riêng vốn
có của nó dù nó tồn tại ở đâu và bất kể thời điểm nào của lịch sử. Song, trong thực tế không
lOMoARcPSD| 41487147
có một nền kinh tế thị trường trừu tượng, chung chung cho mọi giai đoạn phát triển, mà gắn
với mỗi giai đoạn phát triển nhất định của xã hội là những nền kinh tế hàng hóa cụ thể.
Thực tiễn lịch sử cho thấy, cơ sở kinh tế khách quan của sự hình thành phát triển kinh tế
thị trường cũng sở kinh tế khách quan của sự hình thành phát triển kinh tế hàng
hóa. Đó sự phân công lao động hội sự tách biệt về kinh tế giữa những người sản
xuất hàng hóa quy định. nghĩa kinh tế thị trường tồn tại cả trong chủ nghĩa hội
cũng như trong thời kỳ quá độ lên CNXH. Kinh tế thị trường XHCN dựa trên chế độ sở hữu
toàn dân và tập thể do Đảng Cộng sản lãnh đạo, mục đích của nền kinh tế thị trường là phục
vụ lợi ích của giai cấp công nhân nhân dân lao động, xóa bỏ chế độ bóc lột, giải phóng
và phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất.
Trên sở nhận thức đúng đắn và đầy đủ hơn về chủ nghĩa hội và con đường đi lên chủ
nghĩa hội Việt Nam, Đảng ta khẳng định: phát triển kinh tế thị trường định hướng
hội chủ nghĩa đường lối chiến lược nhất quán, hình kinh tế tổng quát trong suốt
thời quá độ đi lên chủ nghĩa hội Việt Nam. Đây kết quả sau nhiều năm nghiên
cứu, m tòi, tổng kết thực tiễn; bước phát triển mới về duy luận của Đảng cộng
sản Việt Nam.
Câu 5: So sánh đường lối công nghiệp hoá của Đảng thời kỳ trước đổi mới và thời kỳ đổi
mới.
Sự giống nhau:
- Đảng ta luôn luôn khẳng định công nghiệp hóa đối với nước ta là một tất yêu, khách quan.
Bởi vì, công nghiệp hóa là vấn đề không mới, mà các nước tư bản chủ nghĩa đã thực hiện từ
lâu, công nghiệp hóa còn được đề cập trong chủ nghĩa Mác -nin. Đồng thời, tình hình
đất nước ta tồn tại nền sản xuất nhỏ lẻ, thủ công, manh mún, lạc hậu…
- Điểm xuất phát của nước ta thấp do đi lên từ nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng
lên chủ nghĩa xã hội không trải qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa nên cơ sở hạ tầng,
sở vật chất của hội thiếu thốn thấp kém, năng suất lao động thấp, đời sống nhân
dân nghèo nàn, lạc hậu, công cuộc xây dựng bảo vệ Tổ quốc nhiều khó khăn…
- Ngay từ đầu quá trình công nghiệp hóa, Đảng ta đã xác định công nghiệp hóa xã hội chủ
nghĩa là nhiệm vụ trung tâm trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Sự khác nhau:
- Đường lối công nghiệp hóa thời kỳ trước đổi mới ưu tiên phát triển công nghiệp nặng
một cách hợp lý. thời kỳ đổi mới, công nghiệp hóa gắn với hiện đại hóa công nghiệp
hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức, bảo vệ tài nguyên, môi trường.Đặc điểm
của nước ta là tồn tại nền sản xuất nhỏ lẻ, manh mún, năng suất lao động thấp, cơ sở hạ tầng
chưa hình thành… do đó cần phải tiến hành công nghiệp hóa. Công nghiệp hóa được hiểu
quá trình thay thế lao động thủ công bằng lao động sử dụng máy móc.
Trên thế giới, cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại đã chuyễn lao động bằng
máy móc, công cụ sang giai đoạn mới tự động hóa, điều khiển hóa, đây quá trình hiện
đại hóa. Như vậy, bối cảnh thế giới mang đến cho chúng ta nhiều cơ hội thách thức mới.
Chính vậy, công nghiệp hóa phải gắn với hiện đại hóa, nghĩa chúng ta lựa chọn
hình công nghiệp hóa theo hướng rút ngắn bằng cách kết hợp hai quá trình đó là: quá trình
lOMoARcPSD| 41487147
tuần tự (từ sử dụng lao động thủ công chuyển sang sử dụng máy móc, rồi từ sử dụng máy
móc chuyển sang tự động hóa, điều khiển hóa), quá trình nhảy vọt (lĩnh vực nào đủ điều
kiện thì phải hiện đại hóa ngay lập tức, phải đi trước đón đầu, hội nhập với thời đại).
- Công nghiệp hóa thời kỳ trước đổi mới tiến hành theo mô hình nền kinh tế khépkín, hướng
nội. Còn công nghiệp hóa thời kỳ đổi mới thì lấy công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát
triển kinh tế thị trường định hướng hội chủ nghĩa vàhội nhập kinh tế quốc tế. Công
nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển nền kinh tế thị trường giúp khai thác hiệu quả
mọi nguồn lực của nền kinh tế, sử dụng chúng hiệu quả để đẩy mạnh quá trình công nghiệp
hóa, hiện đại hóa. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nước ta diễn ra trong bối cảnh toàn cầu
hóa kinh tế, tất yếu phải hội nhập và mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế. Hội nhập kinhtế quốc
tế, mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại nhằm thu hút nguồn vốn đầu nước ngoài, thu hút
công nghệ hiện đại, học hỏi kinh nghiệm quản lý tiên tiến của thế giới... sớm đưa nước ta ra
khỏi tình trạng kém phát triển. Hội nhập kinh tế quốc tế nhằm khai thác hiệu quả thị trường
thế giới. Hội nhập quốc tế là việc kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại.
- Công nghiệp hóa thời kỳ trước đổi mới, chủ lực thực hiện công nghiệp hóa là Nhà nước và
doanh nghiệp nhà nước. Thời kỳ đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa trở thành sự nghiệp
của toàn dân, của mọi thành phần kinh tế mà trong đó kinh tế nhà nước là chủ đạo.
- Công nghiệp hóa thời kỳ trước đổi mới, phương thức phân bổ nguồn lực để thực hiện
công nghiệp hóa được thực hiện bằng chế kế hoạch hóa tập trung của Nhà nước, theo kế
hoạch của Nhà nước thông qua các chỉ tiêu pháp lệnh. Thời kỳ đổi mới, chủ yếu thực hiện
bằng chế kinh tế thị trường, doanh nghiệp tự hạch toán kinh tế.- Công nghiệp hóa thời
kỳ trước đổi mới, chủ yếu dựa vào lợi thế về lao động, tài nguyên đất đai nguồn viện trợ
của các nước hội chủ nghĩa. Công nghiệp hóa thời kỳ đổi mới, lấy phát huy nguồn lực
con người yếu tố bản cho sphát triển nhanh bền vững; coi phát triển khoa học
công nghệ nền tảng, là động lực công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Con người yếu tố
bản tham gia vào quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, để phát triển yếu tố con người
cần đặc biệt chú trọng phát triển giáo dục, đào tạo. Nguồn nhân lực cho công nghiệp hóa
hiện đại hóa đòi hỏi phải đủ số lượng, cân đối về cơ cấu và trình độ, có khả năng nắm bắt và
sử dụng các thành tựu khoa học và công nghệ tiên tiến của thế giới có khả năng sáng tạo
công nghệ mới.Khoa học công nghệ vai trò quyết định đế tăng năng suất lao động,
giảm chi phí sản xuất, nâng cao lợi thế cạnh tranh tốc độ phát triển kinh tế. nước ta,
muốn đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức
thì phát triển khoa học công nghệ yêu cầu tất yếu bức xúc. Phải đẩy mạnh việc
chọn lọc nhập công nghệ, mua sáng chế kết hợp với phát triển công nghệ nội sinh.
- Công nghiệp hóa thời kỳ trước đổi mới, tiến hành một cách nóng vội, giản đơn, chủ
quan duy ý chí, ham làm nhanh, làm lớn, không quan tâm đến hiệu quảkinh tế xã hội. Còn ở
thời kỳ đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại a gắn với phát triển nhanh, hiệu quả bền
vững; tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ công bằng hội, bảo vệ môi
trường tự nhiên, bảo tồn đa dạng sinh học. Xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta thực chất là
nhằm thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Để thực hiện
mục tiêu đó, trước hết kinh tế phải phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững. Phát triển kinh tế
cũng để thực hiện các vấn đề an sinh hội, vấn đề văn hóa hội... mục tiêu phát
triển con người, mọi người đều hưởng thành quả của sự phát triển.
lOMoARcPSD| 41487147
ĐẠI HỘI 12 (XII)
Mục tiêu tổng quát
- Tăng cường xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo và
sức chiến đấu của Đảng, xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh.
- Phát huy sức mạnh toàn dân tộc dân chủ hội chủ nghĩa. Đẩy mạnh toàn diện,
đồng bộ công cuộc đổi mới; phát triển kinh tế nhanh, bền vững, phấn đấu sớm đưa
nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
- Nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của Nhân dân.
- Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn
vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà ớc, Nhân dân chế độ hội chủ
nghĩa.
- Giữ gìn hoà bình, ổn định, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế để phát triển đất
nước; nâng cao vị thế và uy tín của Việt Nam trong khu vực và trên thế giới.
Các chỉ tiêu quan trọng
- Về kinh tế:
Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân 5 năm đạt 6,5 - 7%/năm. Đến m 2020, GDP bình
quân đầu người khoảng 3.200 - 3.500 USD; tỉ trọng công nghiệp dịch vụ trong GDP
khoảng 85%; tổng vốn đầu toàn hội bình quân 5 năm bằng khoảng 32 - 34% GDP; bội
chi ngân sách nhà nước còn khoảng 4% GDP. Năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP) đóng
góp vào tăng trưởng khoảng 30 - 35%; năng suất lao động hội bình quân tăng khoảng
5%/năm; tiêu hao năng lượng tính trên GDP bình quân giảm 1 - 1,5%/năm. Tỉ lệ đô thị hoá
đến năm 2020 đạt 38 - 40%.
- Về xã hội :
Đến năm 2020, tỉ lệ lao động nông nghiệp trong tổng lao động hội khoảng 40%; tỉ lệ lao
động qua đào tạo đạt khoảng 65 - 70%, trong đó bằng cấp, chứng chỉ đạt 25%; tỉ lệ thất
nghiệp ở khu vực thành thị dưới 4%; có 9 - 10 bác sĩ và trên 26,5 giường bệnh trên 1 vạn dân;
tỉ lệ bao phủ bảo hiểm y tế đạt trên 80% dân số; tỉ lệ hộ nghèo giảm bình quân khoảng 1,0 -
1,5%/năm.
- Về môi trường :
Đến năm 2020, 95% dân thành thị, 90% dân nông thôn được sử dụng nước sạch, hợp
vệ sinh 85% chất thải nguy hại, 95 - 100% chất thải y tế được xử lý; tỉ lệ che phủ rừng đạt
42%.
Các nhiệm vụ trọng tâm
Trong nhiệm kỳ Đại hội XII, trên sở quán triệt lãnh đạo, chỉ đạo toàn diện việc thực
hiện các quan điểm, nhiệm vụ trên tất cả các lĩnh vực đã nêu trong Báo cáo chính trị Báo
cáo kinh tế - xã hội, cần đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, phát huy mọi
lOMoARcPSD| 41487147
nguồn lực và động lực để phát triển đất nước nhanh, bền vững; đặc biệt chú trọng tập trung
lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện có kết quả các nhiệm vụ trọng tâm sau :
(1) Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính
trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, tự chuyển hoá” trong nội bộ. Tập trung xây
dựng đội ngũ cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược, đủ năng lực, phẩm chất và uy tín,
ngang tầm nhiệm vụ.
(2) Xây dựng tổ chức bộ máy của toàn hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu
quả; đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu.
(3) Tập trung thực hiện các giải pháp nâng cao chất lượng tăng trưởng, năng suất lao động và
sức cạnh tranh của nền kinh tế. Tiếp tục thực hiện có hiệu quả ba đột phá chiến lược (hoàn
lOMoARcPSD| 41487147
thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng hội chủ nghĩa; đổi mới căn bản toàn diện
giáo dục, đào tạo; phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao; xây dựng
hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ), cấu lại tổng thể đồng bộ nền kinh tế gắn với đổi mới
hình tăng trưởng; đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất ớc, chú trọng công
nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn gắn với xây dựng nông thôn mới. Chú trọng
giải quyết tốt vấn đề cấu lại doanh nghiệp nhà nước, cấu lại ngân ch nhà nước, xử
nợ xấu và bảo đảm an toàn nợ công.
(4) Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất toàn
vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; giữ vững môi trường hoà bình, ổn định để phát triển đất nước; bảo
đảm an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự, an toàn hội. Mở rộng đưa vào chiều sâu các quan
hệ đối ngoại; tận dụng thời cơ, vượt qua thách thức, thực hiện hiệu quả hội nhập quốc tế trong
điều kiện mới, tiếp tục nâng cao vị thế và uy tín của đất nước trên trường quốc tế.
(5) Thu hút, phát huy mạnh mẽ mọi nguồn lực sức sáng tạo của Nhân dân. Chăm lo nâng
cao đời sống vật chất, tinh thần, giải quyết tốt những vấn đề bức thiết; tăng cường quản lý phát
triển hội, bảo đảm an ninh hội, an ninh con người; bảo đảm an sinh hội, nâng cao
phúc lợi hội giảm nghèo bền vững. Phát huy quyền làm chủ của nhân dân, phát huy sức
mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc.
(6) Phát huy nhân tố con người trong mọi lĩnh vực của đời sống hội; tập trung xây dựng
con người về đạo đức, nhân cách, lối sống, trí tunăng lực làm việc; xây dựng môi trường
văn hoá lành mạnh.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng cũng đã thảo luận và thông qua:
- Báo cáo kiểm điểm sự lãnh đạo, chỉ đạo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá
XI trình Đại hội XII. Giao Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XII tiếp thu ý kiến
của Đại hội, phát huy ưu điểm, khắc phục khuyết điểm, nâng cao chất lượng hiệu
quả công tác lãnh đạo, chỉ đạo trong nhiệm kỳ tới.
- Báo cáo tổng kết việc thi hành Điều lệ Đảng khoá XI; đồng ý không sửa đổi, bổ sung
Điều lệ Đảng hiện hành. Giao Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XII hướng dẫn,
quy định cụ thể tăng cường kiểm tra, giám sát, bảo đảm thi hành nghiêm, thống
nhất Điều lệ trong toàn Đảng.
- Báo cáo tổng kết thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khoá XI “Một số vấn đề cấp
bách về xây dựng Đảng hiện nay”. Giao Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XII
kiên quyết, kiên trì với quyết tâm chính trị cao lãnh đạo, chỉ đạo tiếp tục thực hiện
toàn diện Nghị quyết Trung ương 4 khoá XI “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng
Đảng hiện nay” gắn với việc thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XII của Đảng.
KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC TỪ ĐẠI HỘI XII (12)
Về lãnh đạo phát triển kinh tế - xã hội, ngay từ đầu nhiệm kỳ, Ban Chấp hành Trung ương
đã lựa chọn 10 nội dung lớn, toàn diện về kinh tế - xã hội đưa vào chương trình làm việc toàn
khóa. Trên cơ sở đó, Trung ương đã chỉ đạo xây dựng đề án, thảo luận và ban hành nhiều
nghị quyết quan trọng mang tầm chiến lược về phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Hàng
năm, Trung ương thảo luận, cho ý kiến về tình hình phát triển kinh tế - xã hội, ngân sách nhà
lOMoARcPSD| 41487147
nước; chủ động xác định chủ trương và lãnh đạo, chỉ đạo kịp thời tháo gỡ những khó khăn,
vướng mắc, từng bước vượt qua khó khăn, giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm
phát, bảo đảm các cân đối lớn, duy trì đà phục hồi của nền kinh tế và bảo đảm an sinh xã hội.
Về lãnh đạo công tác quốc phòng, an ninh, đối ngoại, Ban Chấp hành Trung ương đặc biệt
quan tâm cho ý kiến đối với một số vấn đề chiến lược, quan trọng về quốc phòng, an ninh,
đối ngoại, nhất là các vấn đề liên quan đến Biển Đông, chủ quyền, biên giới, lãnh thổ, an ninh
quốc gia... Để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong bối cảnh nước ta tham gia các hiệp định
thương mại tự do thế hệ mới, Ban Chấp hành Trung ương đã kịp thời ban hành nghị quyết
xác định rõ chủ trương, giải pháp để thực hiện hiệu quả hội nhập quốc tế, bảo đảm lợi ích
quốc gia - dân tộc, giữ vững ổn định chính trị - xã hội, sự lãnh đạo của Đảng đối với tiến
trình hội nhập quốc tế.
Đối với lãnh đạo công tác xây dựng Đảng hệ thống chính trị, Trung ương đã nghiên
cứu, ban hành nhiều nghị quyết, quy định, quy chế, kết luận để tăng cường công tác xây dựng
Đảng toàn diện cả về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức, đặc biệt là Nghị quyết Trung ương
4 (khóa XII) về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; đề ra mục tiêu, quan điểm, nhiệm vụ,
giải pháp, xác định những biểu hiện cụ thể về suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá”.
Trung ương đã ban hành nghị quyết về tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp
chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực uy tín, ngang tầm nhiệm vụ… Đáng chú ý, Ban Chấp
hành Trung ương đã xem xét, cho ý kiến về quy hoạch Ban Chấp hành Trung ương giới
thiệu quy hoạch Bộ Chính trị, Ban Bí thư nhiệm kỳ 2021 - 2026. Trên sở đó, Bộ Chính trị
xem xét, quyết định theo thẩm quyền.
Trong công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật trong Đảng, Ban Chấp hành Trung ương khóa
XII đã xem xét, thi hành kỷ luật nghiêm minh 7 cán bộ lãnh đạo cấp cao, gồm 1 Ủy viên Bộ
Chính trị, 3 Ủy viên Trung ương Đảng, 3 nguyên Ủy viên Trung ương Đảng bằng các hình
thức khai trừ, cách chức, cho thôi giữ chức vụ trong Đảng, Nhà nước. Trong công tác đấu
tranh phòng chống tham nhũng, Ban Chấp hành Trung ương quan tâm lãnh đạo triển khai
thực hiện quyết liệt, đồng bộ, toàn diện, bài bản nên tạo ra bước tiến mạnh, đột phá, đạt nhiều
kết quả rất quan trọng. Từ đó, tình trạng tham nhũng đang từng bước được kiềm chế, ngăn
chặn, đẩy lùi chiều hướng giảm, góp phần củng cố niềm tin của cán bộ, đảng viên
nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ.
Đánh giá chung cả nhiệm kỳ, Ban Chấp hành Trung ương khóa XII cho rằng, Ban Chấp
hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban thư tập thể đoàn kết, thống nhất cao, bản lĩnh, trí
tuệ, luôn bám sát các quan điểm, đường lối, đưa ra các quyết sách kịp thời, đúng đắn, phù
hợp, giải quyết nhiều vấn đề quan trọng của đất nước. Ban Chấp hành Trung ương lãnh đạo
toàn Đảng, toàn dân, toàn quân đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới; thực hiện có hiệu quả
chế Đảng lãnh đạo, Nnước quản lý, nhân dân làm chủ; đã phát huy sức mạnh đoàn kết
toàn dân tộc, tổ chức thực hiện Nghị quyết Đại hội XII đạt được nhiều thành tựu rất quan
trọng, có dấu ấn nổi bật, tạo tiền đề thuận lợi cho những nhiệm kỳ tiếp theo.
lOMoARcPSD| 41487147
TỔNG QUAN CÁC ĐẠI HỘI
Hội nghị hợp nhất thành lập Đảng (từ ngày 3 đến 7/2/1930), nhất trí lấy tên là Đảng Cộng sản
Việt Nam, nhất trí thông qua Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Điều lệ vắn tắt do
Nguyễn Ái Quốc khởi thảo. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời bước ngoặt đại trong lịch
sử cách mạng nước ta, chấm dứt cuộc khủng hoảng về đường lối cứu nước, sở dẫn đến
những thắng lợi vĩ đại và những bước nhảy vọt lớn trong lịch sử dân tộc Việt Nam.
Kể từ khi thành lập đến nay, Đảng ta đã trải qua 12 kỳ đại hội, mỗi kỳ đại hội của Đảng được
coi như một sự kiện trọng đại, có ý nghĩa lịch sử, đánh dấu bước phát triển mới của đất nước,
của Đảng.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ I của Đảng (tháng 03/1935) đánh dấu thắng lợi của cuộc
đấu tranh khôi phục hệ thống tổ chức của Đảng các tổ chức quần chúng cách mạng trong
cả nước, chuẩn bị điều kiện cho Đảng bước vào thời kỳ đấu tranh mới.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng (tháng 02/1951) đã nhất trí thông qua Chính
cương, Điều lệ của Đảng Nghị quyết đưa Đảng ra hoạt động công khai lấy tên Đảng
Lao động Việt Nam. Đại hội lần thứ II của Đảng một cột mốc quan trọng đánh dấu sự
trưởng thành của Đảng về mọi mặt và sự đóng p quý báu vào kho tàng luận cách mạng
của nước ta.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng (tháng 9/1960) Đại hội quyết định đường
lối xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh hòa bình thống nhất nước nhà.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng (tháng 12/1976) Đại hội thống nhất Tổ
quốc đưa cả nước tiến lên chủ nghĩa hội, tiếp tục khẳng định con đường của Đảng
Bác Hồ đã lựa chọn, xác định đường lối chung đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V của Đảng (tháng 03/1982) đề ra hai nhiệm vụ chiến lược
cách mạng của nước ta trong giai đoạn mới: Xây dựng thành công chủ nghĩa hội sẵn
sàng chiến đấu bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (tháng 12/1986) ý nghĩa lịch sử trọng đại,
đánh dấu một bước ngoặt trong sự nghiệp quá độ lên chủ nghĩa hội nước ta. Đại hội
đề ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng (tháng 6/1991) đã thông qua Cương lĩnh xây
dựng đất nước thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, đánh dấu một bước trưởng thành mới của
Đảng ta. Cương lĩnh đã nêu ra những quan niệm về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ
nghĩa hội Việt Nam. Đã khẳng định ởng Hồ Chí Minh cùng với chủ nghĩa Mác -
Lênin là nền tảng tư tưởng của Đảng.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng (tháng 6, 7/1996) đã tổng kết 10 năm thực
hiện công cuộc đổi mới, kiểm điểm 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội VIII. Đại hội đã
khẳng định: Nước ta đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - hội. Nhiệm vụ đề ra cho chặng
đường đầu tiên của thời kỳ quá độ cơ bản hoàn thành, cho phép chuyển sang thời kỳ mới đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng (tháng 04/2001) với chủ đề “Phát huy sức
lOMoARcPSD| 41487147
mạnh toàn dân tộc, tiếp tục đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng
bảo vệ Tổ quốc Việt Nam hội chủ nghĩa”. Đại hội đã nhìn lại thế kỷ XX, đánh giá 5 năm
thực hiện Nghị quyết Đại hội VIII, nhìn lại 15 năm đổi mới. Đại hội đã phân tích triển vọng
đất nước trong thế kỷ XXI, xác định hơn con đường đi lên chủ nghĩa hội nước ta. Đã
xác định rõ khái niệm, nguồn gốc, nội dung, giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh.
lOMoARcPSD| 41487147
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng (tháng 04/2006) với chủ đề “Nâng cao năng
lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện
công cuộc đổi mới, sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển”. Đại hội đã đánh giá 5
năm thực hiện Nghị quyết Đại hội IX của Đảng và nhìn lại 20 năm đổi mới. Đại hội đã khẳng
định: Công cuộc đổi mới nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn ý nghĩa lịch sử.
Đại hội đã xác định hơn quan niệm về hội hội chủ nghĩa Đảng, Nhà nước, nhân
dân ta xây dựng, về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng (tháng 01/2011) với chủ đề “Tiếp tục nâng
cao năng lực lãnh đạo sức chiến đấu của Đảng, phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh
toàn diện công cuộc đổi mới, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta bản trở thành nước
công nghiệp theo hướng hiên đại”. Đại hội đã thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa hội (bổ sung, phát triển năm 2011). Cương nh xác định
hơn các đặc trưng của xã hội chủ nghĩa nhân dân ta xây dựng, xác định hơn phương
hướng đi lên chủ nghĩa hội nước ta, xác định cần nắm vững giải quyết tốt các mối
quan hệ lớn. Đã khẳng định bản chất của Đảng: Đảng Cộng sản Việt Nam đội tiên
phong của giai cấp công nhân, đồng thời đội tiên phong của nhân dân lao động của dân
tộc Việt Nam; đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động các
dân tộc. Đã khẳng định rõ hơn giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh là tài sản tinh thần vô cùng to lớn
quý giá của Đảng và dân tộc ta, mãi mãi soi đường cho sự nghiệp cách mạng của Nhà
nước ta giành thắng lợi. Khẳng định nước ta đã ra khỏi tình trạng kém phát triển.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng (tháng 01/2016) với chủ đề: “Tăng cường
xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh; phát huy sức mạnh toàn dân tộc, dân chủ hội chủ
nghĩa; đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới; bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ vững môi
trường hòa bình, ổn định; phấn đấu sớm đưa nước ta bản trở thành nước công nghiệp theo
hướng hiện đại”. Đại hội đã nhìn lại 30 năm đổi mới và một lần nữa khẳng định: Qua 30 năm
đổi mới, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Những thành tựu
to lớn, ý nghĩa lịch sử qua 30 năm đổi mới khẳng định đường lối đổi mới của Đảng ta
đúng đắn, sáng tạo; con đường đi lên chủ nghĩa hội của nước ta phù hợp với thực tiễn
của Việt Nam xu thế phát triển của lịch sử. Thành tựu những kinh nghiệm, bài học đúc
kết từ thực tiễn tạo tiền đề, nền tảng quan trọng để đất nước ta tiếp tục đổi mới phát triển
mạnh mẽ trong những năm tới.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng diễn ra trong bối cảnh tình hình thế giới,
khu vực diễn biến rất nhanh, phức tạp, khó lường; thách thức đan xen, nhiều vấn đề mới đặt
ra phải giải quyết; cán bộ, đảng viên, nhân dân ta đặt kỳ vọng vào những quyết sách đúng
đắn, mạnh mẽ của Đảng để phát triển đất nước ta nhanh và bền vững hơn. Đại hội không chỉ
kiểm điểm việc thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ XII của Đảng mà đánh giá 10 năm thực
hiện Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) Chiến lược phát triển kinh tế - hội
2011-2020, còn nhìn lại 35 năm tiến hành công cuộc đổi mới, 30 năm thực hiện Cương
lĩnh năm 1991. Đại hội quyết định phương hướng, mục tiêu, nhiệm vụ nhiệm kỳ 2021-2020,
phương hướng, mục tiêu đến năm 2030 (kỷ niệm 100 năm thành lập Đảng) và tầm nhìn đến
lOMoARcPSD| 41487147
năm 2045 (kỷ niệm 100 năm thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nay là Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam).
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng có tầm quan trọng đặc biệt và có ý
nghĩa lịch sử.
1. Đại hội XIII đánh giá 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội XII và cơ đồ đất nước sau 35
năm đổi mới.
Trong nhiệm kỳ Đại hội XII, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân đã nỗ lực phấn đấu vượt qua
nhiều khó khăn, thách thức, thực hiện thắng lợi các mục tiêu, các nhiệm vụ trọng tâm, đạt
được nhiều thành tựu rất quan trọng, khá toàn diện, tạo nhiều dấu ấn nổi bật.
Mười năm thực hiện Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) và thực hiện Chiến lược phát
triển kinh tế - hội 2011-2020 đã tạo ra những bước tiến quan trọng cả về nhận thức lý luận
và tổ chức thực hiện, khẳng định những giá trị to lớn của Cương lĩnh.
Nhìn lại 35 năm thực hiện công cuộc đổi mới, 30 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất
nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa hội, luận về đổi mới, về chủ nghĩa hội
con đường đi lên chủ nghĩa hội nước ta ngày càng hoàn thiện và từng bước được hiện
thực hóa. Đất nước đã được những thành tựu to lớn, ý nghĩa lịch sử, phát triển mạnh mẽ,
toàn diện so với những năm trước đổi mới. Quy mô, trình độ nền kinh tế được nâng lên. Đời
sống nhân dân cả về vật chất tinh thần được cải thiện rệt. Đất nước ta chưa bao giờ
được đồ, tiềm lực, vị thế uy tín như ngày nay. Đây niềm tự hào, động lực, nguồn
lực quan trọng, niềm tin để toàn Đảng, toàn dân toàn quân ta vượt qua mọi khó khăn,
thách thức, tiếp tục vững bước trên con đường đổi mới toàn diện, đồng bộ; phát triển nhanh
và bền vững đất nước.
Những thành tựu của 35 năm thực hiện công cuộc đổi mới, 30 năm thực hiện Cương lĩnh xây
dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa hội năm 1991, đặc biệt, trong 10 năm
thực hiện Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) đã tiếp tục khẳng định đường lối đổi
mới của Đảng ta đúng đắn, sáng tạo. Những thành tựu to lớn và ý nghĩa lịch sử kết tinh
sức sáng tạo của Đảng nhân dân ta, khẳng định con đường đi lên chủ nghĩa hội của
nước ta phù hợp với thực tiễn Việt Nam xu thế phát triển của thời đại; khẳng định sự
lãnh đạo đúng đắn của Đảng nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của cách mạng Việt
Nam. Trong bối cảnh tình hình thế giới nhiều biến động nhanh, phức tạp, Cương lĩnh tiếp
tục ngọn cờ tưởng, ngọn cờ chiến đấu, ngọn cờ quy tụ sức mạnh đại đoàn kết toàn dân
tộc phấn đấu vì một nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
2. Đại hội XIII (13) quyết định đưa đất nước bước vào giai đoạn phát triển mới với tư duy
mới, tầm nhìn mới.
Một là, chủ đề Đại hội XIII có sự kế thừa và đổi mới quan trọng.
Chủ đề Đại hội XIII Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng hthống chính trị trong
sạch, vững mạnh; khơi dậy khát vọng phát triển đất nước, phát huy ý chí, sức mạnh đại đoàn
kết toàn dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại; tiếp tục đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công
cuộc đổi mới; xây dựng bảo vệ vững chắc Tquốc, giữ vững môi trường hòa bình, ổn
định; phấn đấu đến giữa thế kỷ XXI nước ta trở thành nước phát triển, theo định hướng
hội chủ nghĩa”.
lOMoARcPSD| 41487147
Hai là, Báo cáo chính trị Đại hội XIII xác định hệ quan điểm chỉ đạo thể hiện tư duy mới,
tầm nhìn mới trong đường lối đổi mới của Đảng giai đoạn tới.
- Kiên định vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tưởng Hồ Chí Minh;
kiên định mục tiêu độc lập dân tộc chủ nghĩa hội; kiên định đường lối đổi mới của
Đảng; kiên định các nguyên tắc xây dựng Đảng để xây dựng bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã
hội chủ nghĩa.
- Bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc trên sở các nguyên tắc bản của Hiến
chương Liên hợp quốc luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác, cùng lợi. Tiếp tục phát
triển nhanh, bền vững đất nước; gắn kết chặt chẽ triển khai đồng bộ các nhiệm vụ, trong
đó phát triển kinh tế - hội trung tâm; xây dựng Đảng then chốt; phát triển văn hóa
nền tảng tinh thần; bảo đảm quốc phòng, an ninh là trọng yếu, thường xuyên.
- Khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc, sức mạnh đại đoàn kết toàn
dân tộc khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc; phát huy dân chủ hội chủ
nghĩa, sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và của nền văn hóa, con người Việt Nam,
bồi dưỡng sức dân, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, chế thu hút, trọng dụng nhân
tài, thúc đẩy đổi mới sáng tạo, ứng dụng mạnh mẽ khoa học và công nghệ, nhất những
thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, tạo động lực mới cho phát triển nhanh
và bền vững đất nước.
- Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; nêu cao ý chí độc lập, tự chủ, chủ động,
tích cực hội nhập nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, phát huy tối đa nội lực, tranh thủ
ngoại lực, trong đó nguồn lực nội sinh, nhất là nguồn lực con người là quan trọng nhất.
- Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền và
sức chiến đấu của Đảng; xây dựng Đảng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh toàn
diện, xây dựng Nhà nước tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; xây dựng đội ngũ cán bộ,
đảng viên, nhất đội ngũ cán bộ cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực uy tín, ngang
tầm nhiệm vụ, gắn mật thiết với nhân dân những nhân tố ý nghĩa quyết định thành
công của sự nghiệp xây dựng, phát triển đất nước, bảo vệ Tổ quốc.
Ba là, tư duy mới, tầm nhìn mới trong xác định mục tiêu.
Mục tiêu tổng quát:
Nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng; xây dựng Đảng
và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh toàn diện; củng cố niềm tin của nhân dân đối với
Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa; khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh,
hạnh phúc, phát huy ý chí sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc kết hợp với sức mạnh thời
đại; đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa; bảo vệ
vững chắc Tổ quốc, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định; phấn đấu đến giữa thế kỷ XXI,
nước ta trở thành nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Mục tiêu cụ thể:
- Đến năm 2025: Là nước đang phát triển có công nghiệp theo hướng hiện đại, vượt
qua mức thu nhập trung bình thấp.
lOMoARcPSD| 41487147
- Đến năm 2030, kỷ niệm 100 năm thành lập Đảng: Là nước đang phát triển có công
nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao.
- Đến năm 2045, kỷ niệm 100 năm thành lập Nước: Trở thành nước phát triển, thu nhập
cao. Thứ nhất, công tác đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi suy thoái về tưởng chính trị,
đạo đức, lối sống có sự chuyển biến rất tích cực.
| 1/24

Preview text:

LỊCH SỬ ĐẢNG CÂU HỎI ÔN TẬP
Câu 7. Đại hội XII (1-2016) Đảng Cộng sản Việt Nam đưa ra quan điểm về đối ngoại:
“Chủ động tích cực hội nhập quốc tế trên cơ sở giữ vững độc lập, tự chủ, lấy lợi ích
quốc gia dân tộc làm mục tiêu cao nhất, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ tổ quốc”. Anh chị hiểu thế nào là chủ động, tích cực hội nhập quốc tế? Trong giai
đoạn hiện nay, Việt Nam cần làm gì để nâng cao vị thế trên trường quốc tế?

* Chủ động, tích cực hội nhập quốc tế là:
- Chủ động hội nhập quốc tế không trông chờ lệ thuộc vào điều kiện khách quan, điều kiện
quốc tế đem lại mà tự mình chủ động tìm kiếm đối tác, mở rộng cơ hội hợp tác quốc tế trên mọi lĩnh vực.
- Tích cực hội nhập quốc tế: chủ động chấp nhận, áp dụng và tham gia xây dựng các luật lệ và
chuẩn mực quốc tế vì lợi ích quốc gia dân tộc.
- HDQT theo đúng nghĩa là hội nhập trên tất cả lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội.
- Là sự nghiệp của chính trị, đòi hỏi sự tham gia tổng lực của các cấp, nghành, các tổ chức
chính trị - xã hội doanh nghiệp và người dân.
- Chủ động, tích cực hội nhập quốc tế có nghĩa là định hướng chiến lược lớn của Dảng nhằm
thực hiện nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nma XHCN
* Trong giai đoạn hiện nay, để nâng cao vị thế trên trường quốc tế Việt Nam cần:
- Đẩy mạnh quảng bá lịch sử, văn hóa, ngôn ngữ Việt Nam với thế giới; bảo tồn và phát huy
các giá trị của các di sản thiên nhiên, di sản văn hóa thế giới, khẳng định các giá trị xã hội và
truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam, bản sắc Việt Nam.
- Chủ động và nâng cao chất lượng công tác thông tin, tuyên truyền đối ngoại, làm cho bạn bè
quốc tế và nhân dân thế giới ngày càng hiểu đúng và đầy đủ hơn về đất nước và con người
Việt Nam, về đường lối, chính sách của Đảng.
- Biết tìm kiếm và phát hiện kịp thời những thế mạnh của sản xuất và thị trường trong nước và
thế yếu của thị trường thế giới để khai thác tốt nhất trong việc mở rộng quan hệ kinh tế đối
ngoại của nước ta theo hướng đa phương và đa dạng hoá
- Không ngừng đưa quan hệ với các nước đi vào chiều sâu, nhất là các nước láng giềng, các
đối tác chiến lược, đối tác toàn diện, đối tác quan trọng và các nước bạn bè truyền thống, trên
tinh thần bình đẳng,cùng có lợi, tôn trọng lẫn nhau và phù hợp với luật pháp quốc tế.
- Phát huy vai trò của Việt Nam tại các diễn đàn quốc tế, các phong trào nhân dân thế giới,
nhằm góp phần tích cực vào việc giải quyết các vấn đề toàn cầu vào cuộc đấu tranh chung vì
hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ, tiến bộ xã hội, phù hợp với khả năng, điều kiện và lợi ích của nước ta. lOMoAR cPSD| 41487147
- Thực hiện tốt các cam kết với tổ chức thương mại quốc tế WTO và các quan hệ thương mại
song phương khác để chứng tỏ rằng Việt Nam là đối tác làm ăn tin cậy của họ.
Câu 13: Mục tiêu cụ thể phát triển đất nước trong giai đoạn tới được Đại hội XIII xác
định như thế nào? Theo anh/chị, để thực hiện được mục tiêu trên, Đảng và Nhà nước
Việt Nam cần làm gì?
Mục tiêu:
- Là nước đang phát triển, có công nghiệp theo hướng hiện đại, vượt qua mức thu nhập trung bình thấp.
- Là nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao.
- Trở thành nước phát triển và thu nhập cao. Đảng cần làm:
Công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước gắn với kinh tế tri thức (2)
Hoàn thiện và xây dựng kinh tế thị trường nền kinh tế xã hội chủ
nghĩa.(1) Hội nhập quốc tế kết hợp nội lực và ngoại lực.(3)
Giữ vững kim chỉ nam hệ tư tượng lãnh đạo của Đảng, và hệ tưtưởng chủ nghĩ MÁC và tư
tưởng HCM ( đảng phải trong sạchvững mạnh ) (4)
Không thể tham nhũng, luật phải nghiêm, luật pháp cần phải hoànthiện, phải có hiệu lực,
có hiệu quả và phải nghiêm minh, đấu tranhchống tham nhũng. (5)
Nâng cao giá trị của con người trong công cuộc xây dượng và phát triển đất nước
Phải thống nhất trong hệ thống nhận thức, phải có sự vận động và tuyên truyền
Theo anh/chị, để kinh tế tư nhân có điều kiện phát triển, Đảng và Nhà nước Việt Nam cần làm gì?
Xác định: phát triển mạnh mẽ khu vực KTTN cả về số lượng, hiệu quả thực sự trở thành một
động lực quan trọng trong phát triển kinh tế. Kinh tế tư nhân là một trong những động lực của nền kinh tế
Ý nghĩa: làm cho nền kinh tế được phát triển, khơi dậy khát vọng làm giàu vươn lên xã hội
cuồng minh, thể hiện sự ghi nhận của đảng và nhà nước cho sợ phát triển của đc, tạo điều
kiện thuận lợi cho kinh tế tư nhânphát triển Đảng cần làm:
- Hoàn thiện cải cách hệ thống luật pháp 1 cách đồng bộ, tạo điều kiện chính sách hỗ
trợ với chính sách tư nhân.
- Nâng cao chất lượng nhân lực, tận dụng cơ hội phát triển kinh tế của cá nhân, mạnh
mẽ vươn lên khởi nghiệp. lOMoAR cPSD| 41487147
- Phát triển kinh tế thị trường, hội nhập, thống nhất trong nhận thức, tư tưởng về vai trò của kinh tế tư nhân.
- Giữ vững kim chỉ nam hệ tư tượng lãnh đạo của Đảng, phát huy mặt tích cực ngăn
ngừa tiêu cực của nền kinh tế tư nhân.
- Phải thống nhất trong hệ thống nhận thức, phải có sự vận động và tuyên truyền.
Câu 15: Hội nghị Đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ của Đảng khoá VII (1/1994) xác
định 4 nguy cơ thách thức lớn đối với Đảng Cộng sản Việt Nam là gì? Theo anh/chị,
hiện nay 4 nguy cơ này còn tồn tại không? Nếu có, ảnh hưởng đến Đảng và chế độ như
thế nào? Để đẩy lùi 4 nguy cơ, Đảng, Nhà nước và nhân dân cần làm gì?
Xác định 4 thách thức:
- Nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế: phải có một khuôn khổ pháp luật, thể chế, chế tài
để tổ chức thực hiện mang lại hiệu quả thực tiễn.
- Nguy cơ chệch hướng XHCN: các nguy cơ này vẫn tồn tại, phải đấu tranh, ngăn chặn,
đẩy lùi không thể chủ quan, xem thường bất cứ nguy cơ nào. Đấu tranh bảo vệ nền
tảng tư tưởng của Đảng.
- Nạn tham nhũng và tệ nạn xã hội: chống tham nhũng lãng phí tiêu cực.
- Âm mưu và hành động “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch: đoàn kết, vững
vàng, bảo lĩnh chính trị cao và dựa trên trí tuệ của toàn Đảng, toàn dân thì ko thế lực
nào ngăn cản con đường phát triển của đất nước ta.
- Hiện tại 4 nguy cơ này vẫn cố khả năng tồn tại. Và ảnh hưởng tới sự hòa bình độc lập
của Đảng và nhà nước.
Đảng, nhà nước và nhân dân cần làm:
- Hoàn thiện cải cách hệ thống luật pháp 1 cách đồng bộ, phát luận cần nghiêm minh, cứng rắn.
- Nâng cao nhận thức của con người về việc giữ gìn bảo vệ một nhà nước trong sạch, ko tệ nạn.
- Giữ vững kim chỉ nam hệ tư tượng lãnh đạo của Đảng, phát huy mặt tích cực ngăn
ngừa tiêu cực của chủ nghĩa cá nhân.
- Phải thống nhất trong hệ thống nhận thức, phải có sự vận động và tuyên truyền.
Câu 1: Vì sao Nguyễn Ái Quốc chọn con đường cách mạng vô sản.
Những năm đầu thế kỷ XX, cách mạng Việt Nam đứng trước những thách thức mới, đó là tìm
ra con đường giải phóng dân tộc đúng đắn. Con đường phong kiến, khuynh hướng tư sản từng
bước dẫn dắt phong trào cách mạng nước ta đi lên nhưng cuối cùng đều thất bại. Đến năm
1920, Nguyễn Ái Quốc đã tìm ra con đường giải phóng cho dân tộc, đó là con đường cách
mạng vô sản. Vậy, vì sao Bác lại lựa chọn con đường đó? lOMoAR cPSD| 41487147
Bằng những hoạt động thực tiễn của mình Nguyễn Ái Quốc đã có những nhận thức về cách
mạng thế giới và những con đường cứu nước, từ đó Bác lựa chọn con đường đúng đắn cho dân tộc ta.
Năm 1911, Nguyễn Ái Quốc ra đi tìm đường cứu nước. Người dã bôn ba khắp năm châu, và
bước đầu có những nhận thức về bạn và thù(trích dẫn câu nói của bác). Năm 1917, Cách mạng
Tháng Mười Nga giành thắng lợi, chủ nghĩa Mác – Lê nin đã trở thành hiện thực, đồng thời mở
ra một thời đại mới “ thời đại cách mạng chống đế quốc, thời đại giải phóng dân tộc”. Cách
mạng Tháng Mười đã nêu tấm gương sáng trong việc giải phóng các dân tộc bị áp bức. Nguyễn
Ái Quốc khẳng định: “Cách mạng Tháng Mười như tiếng sét đã đánh thức nhân dân Châu Á
tỉnh giấc mê hàng thế kỷ nay”. Thắng lợi của cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga và
những chính sách tiến bộ của nó thực sự đem lại lợi ích cho đông đảo quần chúng nhân dân.
Nó chứng tỏ được sự tiến bộ của hình thức cách mạng này.
Trong khi đó, chiến tranh thế giới thứ nhất kết thúc đã để lại những hậu quả vô cùng nặng nề.
Loài người căm ghét chiến tranh. Trong khi đó cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Nga thực sự đem
lại hòa bình tự do cho con người.
Từ những nhận thực đó Nguyễn Ái Quốc đã bắt đầu tin theo Cách mạng xã hội chủ nghĩa
Tháng Mười Nga. Người đã có những nhận thức hết sức đúng đắn:
Người đánh giá cao tư tưởng tự do, bình đẳng, bác ái và quyền con người của các cuộc cách
mạng tư sản tiêu biểu như Cách mạng Mỹ (1776), cách mạng Pháp (1789)… nhưng cũng nhận
thức rõ những hạn chế của các cuộc cách mạng tư sản. Nguyễn Ái Quốc khẳng định con đường
cách mạng tư sản không thể đưa lại độc lập và hạnh phúc thật sự cho nhân dân các nước nói
chung, nhân dân Việt Nam nói riêng.(trích dẫn câu nói). Nguyễn Ái Quốc đặc biệt quan tâm
tìm hiểu cách mạng tháng mười nga 1917. Người rút ra kết luận: “ trong thế giới bấy giờ chỉ có
Cách mệnh Nga là thành công, và thành công đến nơi, nghĩa là dân chúng được hưởng cái hạnh
phúc tự do, bình đẳng thật”.
Việc Bác lựa chọn con đường cách mạng vô sản cũng xuất phát từ tình hình của cách
mạng nước ta lúc đó, cũng như từ yêu cầu của cách mạng.
Là nước thuộc địa nửa phong kiến, chịu ách áp bức bóc lột của thực dân Pháp. Pháp áp đặt
chính sách cai trị thực dân, đồng thời cấu kết với giai cấp địa chủ trong việc bóc lột kinh tế và
áp bức chính trị đối với nhân dân Việt Nam. Mặc dù nền kinh tế có những chuyển nhưng về cơ
bản vẫn là nền kinh tế lạc hậu, nghèo nàn, què quặt, lệ thuộc vào Pháp. Dưới ách thống trị của
thực dân Pháp, đời sống của nhân dân lao động hết sức khốn khổ. Xã hội phân hóa ngày càng
sâu sắc. Mâu thuẫn giữa toàn thể nhân dân Việt Nam với thực dân Pháp và bọn tay sai lên đến đỉnh điểm.
Yêu cầu của cách mạng lúc này là phải giải quyết hai nhiệm vụ cách mạng, đó là: Nhiệm vụ
dân tộc nhằm đánh đuổi thực dân pháp, giành lại độc lập cho dân tộc. Và nhiệm vụ dân chủ
nhằm đánh đổ chế độ phong kiến đem lại ruộng đất cho nông dân. Trong hai nhiệm vụ trên,
nhiệm vụ dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu, quan trọng nhất. Con đường giải phóng dân tộc
phải thực hiện được cả hai nhiệm vụ đó.
Xuất phát từ thực tiễn cách mạng Việt Nam càng thôi thúc Người tìm ra con đường đấu tranh
mới. Trước sự xâm lược của thực dân pháp, phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc theo lOMoAR cPSD| 41487147
khuynh hướng phong kiến và tư sản diễn ra mạnh mẽ. Tiêu biểu là phong trào cần vương theo
con đường phong kiến, hoạt động của Phan Bội Châu và Phan Châu Trinh theo khuynh hướng
tư sản. Các hoạt động yêu nước diễn ra manh mẽ nhưng cuối cùng đều thất bại. Những con
đường đó không đáp ứng được yêu cẩu của cuộc cách mạng, yêu cầu cần có con đường giải phóng dân tộc mới.
Vào tháng 7 năm 1920, Nguyễn Ái Quốc đọc bản “Sơ thảo lần thứ nhất về vấn đề dân tộc và
vấn đề thuộc địa của Lê nin đăng trên báo nhân đạo. người tìm thấy trong luận cương của Lê
Nin lời giải đáp về con đường giải phóng cho nhân dân Việt Nam;về vấn đề thuộc địa trong
mối quan hệ với phong trào cách mạng thế giới… Nguyễn Ái Quốc đã đến với chủ nghĩa Mác – Lê nin.
Tại Đại Hội Đảng Xã hội Pháp ( tháng 2 – 1920), Nguyễn Ái Quốc bỏ phiếu tán thành việc gia
nhập quốc tế cộng sản và tham gia thành lập Đảng Cộng Sản Pháp. Sự kiện này đánh dấu bước
ngoặt trong cuộc đời hoạt động cách mạng của người – từ người yêu nước trở thành người cộng
sản và tìm thấy con đường cứu nước đúng đắn: “muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không
có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”.
Việc lựa chọn con đường giải phóng đúng đắn cho dân tộc cũng xuất phát từ tấm lòng yêu quê
hương, đất nước vô bờ, với sự quyết tâm tìm ra con đường cứu nước cao cả, tất cả trở thành
động lực, hun đún thành ngọn lửa cứu nước, và bằng tài năng mẫn cảm chính trị của mình cũng
như những hoạt động miệt mài, Nguyễn Ái Quốc đã tìm ra con đường giải phóng cho cả dân tộc.
Như vậy Nguyễn Ái Quốc đã tìm thấy con đường giải phóng dân tộc cho nhân dân Việt Nam.
Và thực tế lịch sử đã chứng minh sự lựa chọn đúng đắn đó. Năm 1930, Đảng cộng sản Việt
Nam thành lập, đánh dấu sự thắng lợi của khuynh hướng cách mạng vô sản. Thắng lợi của
Cách mạng Tháng Tám 1945, thắng lợi cuộc kháng chiến chống pháp (1954) và kháng chiến
chống Mỹ (1975) cũng như thắng lợi của công cuộc Đổi mới hiện nay càng chứng tỏ hướng đi
đúng đắn của dân tộc và người có vai trò quan trọng nhất trong việc tìm ra và đặt nền tảng cho
cách mạng Việt Nam không ai khác, đó là Nguyễn Ai Quốc – Hồ Chí Minh vĩ đại.
Câu 2: Năm 1986, Đảng thực hiện công cuộc đổi mới toàn diện. Anh chị hãy lí giải vì sao
công cuộc đổi mới là tất yếu .

Công cuộc đổi mới chính là sự nghiệp vĩ đại và sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng, là nhân tố
quyết định thành công của công cuộc đổi mới, Đảng đã thẳng thắn thừa nhận những sai lầm
và khuyết điểm, đổi mới tư duy, nhận thức, tăng cường sự lãnh đạo và năng lực cầm quyền
của Đảng; xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh.
Đảng phải thường xuyên tự chỉnh đốn, tự đổi mới, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của
mình. Đại hội VI của Đảng diễn ra tại Hà Nội, từ ngày 15 đến ngày 18-12-1986, trong bối cảnh của
cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật đang phát triển mạnh, xu thế đối ngoại trên thế giới đang dần
thay thế xu thế đối đầu. Đổi mới đã trở thành xu thế của thời đại. Liên Xô và các nước xã hội chủ
nghĩa đều tiến hành cải tổ sự nghiệp xây dựng Chủ nghĩa xã hội. Việt Nam đang bị các đế quốc và
thế lực thù địch bao vây, cấm vận và ở tình trạng khủng hoảng kinh tế xã hội. Lương thực, thực
phẩm, hàng tiêu dùng đều khan hiếm; lạm phát tăng 300% năm 1985 nên 774% năm 1986. Các
hiện tượng tiêu cực, vi phạm pháp luật, vượt biên trái phép diễn ra khá lOMoAR cPSD| 41487147
phổ biến. Sau 10 năm xây dựng chủ nghĩa xã hội từ 1976 đến 1985 Đảng ta đã đạt được những
thành tựu nổi bật đồng thời cũng có những sai lầm, khuyết điểm là không hoàn thành các mục
tiêu kinh tế - xã hội do Đại hội IV và Đại hội V của Đảng đề ra. Đất nước lâm vào tình trạng
khủng hoảng kinh tế - xã hội kéo dài, sản xuất tăng trưởng chậm, không ổn định, nền kinh tế
luôn bị thiếu hụt, lạm phát tăng cao. Ngoài ra đất nước còn bị bao vây cô lập, đời sống nhân dân
vô cùng khó khăn, lòng tin của nhân dân đối với Đảng ngày càng giảm sút nghiêm trọng.
Nguyên nhân khách quan dẫn đến khủng hoảng kinh tế-xã hội do xây dựng đất nước từ
nền kinh tế nghèo nàn, lạc hậu, sản xuất nhỏ là phổ biến, bị bao vây, cấm vận nhiều
năm, nguồn viện trợ từ nước ngoài giảm mạnh, hậu quả nặng nề của chiến tranh.
Về chủ quan là do sai lầm của Đảng trong đánh giá tình hình, xác định mục tiêu, bước
đi, sai lầm trong bố trí cơ cấu kinh tế, trong lĩnh vực phân phối, lưu thông, duy trì quá
lâu cơ chế tập trung, quan liêu, bao cấp, buông lỏng chuyên chính vô sản trong quản lý
kinh tế, quản lý xã hội và trong đấu tranh chống âm mưu, thủ đoạn phá hoại nhiều mặt của địch.
Vì vậy yêu cầu phải đổi mới để khắc phục sai lầm, khuyết điểm, đưa đất nước vượt qua khủng
hoảng và tiến lên trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội. Ngày 10-7-1986, Tổng Bí thư Lê
Duẩn qua đời. Ngày 14-7-1986, Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp Hội nghị bất thường bầu
đồng chí Trường Chinh giữ chức Tổng Bí thư của Đảng và chuẩn bị mọi mặt cho Đại hội VI
của Đảng. Các bước đột phá tháng 8-1979, tháng 6-1985 và tháng 8-1986 phản ánh sự phát
triển nhận thức từ quá trình khảo nghiệm, tổng kết thực tiễn, từ sáng kiến và nguyện vọng của
nhân dân để hình thành đường lối đổi mới. "Phát biểu tại một hội nghị cán bộ cao cấp ngày
10.7. 1986, Chủ tịch Hội đồng Nhà nước Trường Chinh khi đó đã thẳng thắn nêu vấn đề:"
Trong lúc này chúng ta chỉ có hai khả năng lựa chọn: Đổi mới để tiến lên hay đi theo con đường
cũ để chết? ". Rồi ông đã phân tích, chỉ ra những sai lầm:" Chúng ta đã bỏ lỡ cơ hội quý báu..
Liên Xô viện trợ trong mười năm qua hàng chục tỉ rúp, nhưng với cơ chế tập trung quan liêu,
bao cấp, ăn không nên làm không ra, chúng ta cứ rút dần, rút mòn mỗi năm vài trăm triệu rúp
để chi cho tiêu dùng xã hội, cho bao cấp và bù lỗ, vài trăm triệu rúp khác thì rải ra trên rất nhiều
công trình xây dựng " - Báo THANH NIÊN. Nguyên nhân bắt nguồn từ những khuyết điểm
trong hoạt động tư tưởng, tổ chức và công tác cán bộ của Đảng.
Tóm lại Đảng Cộng sản Việt Nam đã tiến hành công cuộc đổi mới toàn diện vào năm 1986
và nguyên nhân Đảng Cộng sản Việt Nam phải tiến hành công cuộc đổi mới là một tất yếu là vì các lý do sau:
Trong thời gian thực hiện hai kế hoạch Nhà nước 5 năm (1976 – 1985), cách mạng XHCN ở
nước ta đạt nhiều thành tựu và ưu điểm đáng kể, song cũng gặp không ít khó khăn, khiến đất
nước lâm vào tình trạng khủng hoảng, trước hết là về kinh tế – xã hội. Trong đó nguyên nhân
cơ bản là do ta mắc phải" sai lầm nghiêm trọng và kéo dài về chủ trương, chính sách lớn, sai
lầm về chỉ đạo chiến lược và tổ chức thực hiện". Để khắc phục sai lầm, đưa đất nước vượt qua
khủng hoảng, Đảng và nhà nước ta phải tiến hành đổi mới. Những thay đổi của tình hình thế
giới và quan hệ giữa các nước do tác động của cách mạng khoa học – kỹ thuật. Ngoài ra trên
thế giới cuộc khủng hoảng toàn diện, trầm trọng của Liên Xô và các nước XHCN khác nên
Đảng và Nhà nước ta phải tiến hành đổi mới.
Vì vậy ĐCSVN phải tiến hành đổi mới để thoát khỏi tình trạng trên đó chính là điều tất yếu của lOMoAR cPSD| 41487147
thời cuộc. Quyết định đổi mới của Đảng ta năm 1986 được xem như bước ngoặt quan trọng
trong công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước. Đổi mới đã trở thành đòi hỏi bức thiết của tình
hình đất nước. Quyết định Đổi mới của Đảng ta năm 1986 được xem như bước ngoặt quan
trọng trong công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước.
Câu 3: Bằng những sự kiện lịch sử chọn lọc, chứng minh sự ra đời của Đảng Cộng
sản Việt Nam là một tất yếu lịch sử.

Tính tất yếu lịch sử (Thích thì ghi) lOMoAR cPSD| 41487147 lOMoAR cPSD| 41487147 lOMoAR cPSD| 41487147 lOMoAR cPSD| 41487147
Câu 4: Vì sao ĐCSVN lựa chọn mô hình kinh tế thị trường định hướng XHCN là một tất yếu.
Xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình phát triển kinh tế
tổng quát của nước ta hiện nay. Đây là quá trình nhận thức, hoàn thiện tư duy lý luận và
tổng kết thực tiễn của Đảng để thấy rõ hơn về sự tất yếu khách quan, những nội dung và đặc
trưng cơ bản, những việc cần thực hiện để đẩy mạnh phát triển kinh tế ở nước ta.
Đối với nước ta, quá trình chuyển đổi từ cơ chế tập trung, quan liêu, bao cấp sang phát triển
nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của
Nhà nước, theo định hướng XHCN thực chất là xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN, được bắt đầu từ Đại hội Đảng VI (1986) và ngày càng được hoàn thiện. Thực tế 20
năm đổi mới và phát triển nền kinh tế theo mô hình kinh tế thị trường định hướng XHCN đã
chứng minh rằng, kinh tế thị trường là con đường phát triển kinh tế có hiệu quả, từ đó quá
độ lên chủ nghĩa xã hội. Đây là cả một quá trình vừa đổi mới tư duy lý luận, nhất là tư duy lOMoAR cPSD| 41487147
kinh tế, vừa bám sát các quy luật khách quan và kịp thời tổng kết thực tiễn đầy sống động của Việt Nam.
Đại hội lần thứ IX của Đảng (năm 2001) khẳng định: "... thực hiện nhất quán và lâu dài
chính sách phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị
trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa; đó chính là nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa".
Đại hội lần thứ X (năm 2006) Đảng tiếp tục khẳng định: "Để đi lên chủ nghĩa xã hội, chúng
ta phải phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa; xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc làm nền
tảng tinh thần của xã hội; xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện đại đoàn kết
dân tộc; xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì
nhân dân; xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh; bảo đảm vững chắc quốc phòng và an
ninh quốc gia; chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế"
Như vậy, trải qua các kỳ Đại hội, chúng ta luôn khẳng định con đường mà chúng ta lựa
chọn đó là CNXH và để đi lên CNXH chúng ta phải phát triển kinh tế thị trường. Nhận thức
về CNXH và con đường đi lên CNXH ở nước ta được Đảng khẳng định trong Cương lĩnh
xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (năm 1991) với 6 đặc trưng cơ bản và
đến nay Đại hội Đảng X tiếp tục khẳng định ngày càng sáng tỏ hơn với 8 đặc trưng cơ bản là:
- Là một xã hội dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh. - Do nhân dân làm chủ.
- Có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất
phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
- Có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
- Con người được giải phóng khỏi áp bức, bất công, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, phát triển toàn diện.
- Các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tương trợ và giúp đỡ nhau cùng tiến bộ.
- Có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân dưới
sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản.
- Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân các nước trên thế giới.
Qua 20 năm thực hiện công cuộc đổi mới, chúng ta đã đạt được những thành tựu to lớn và
có ý nghĩa lịch sử. Đất nước đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, có sự thay đổi cơ bản
và toàn diện. Vị thế nước ta trên trường quốc tế không ngừng nâng cao. Sức mạnh tổng hợp
của quốc gia đã tăng lên rất nhiều, tạo ra thế và lực mới cho đất nước tiếp tục đi lên với
những triển vọng tốt đẹp.
Phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta là sự lựa chọn hoàn toàn phù hợp
với quy luật phát triển khách quan và xu thế tất yếu của thời đại. Kinh tế thị trường là một
phạm trù kinh tế riêng, có tính độc lập tương đối, phát triển theo những quy luật riêng vốn
có của nó dù nó tồn tại ở đâu và bất kể thời điểm nào của lịch sử. Song, trong thực tế không lOMoAR cPSD| 41487147
có một nền kinh tế thị trường trừu tượng, chung chung cho mọi giai đoạn phát triển, mà gắn
với mỗi giai đoạn phát triển nhất định của xã hội là những nền kinh tế hàng hóa cụ thể.
Thực tiễn lịch sử cho thấy, cơ sở kinh tế khách quan của sự hình thành và phát triển kinh tế
thị trường cũng là cơ sở kinh tế khách quan của sự hình thành và phát triển kinh tế hàng
hóa. Đó là sự phân công lao động xã hội và sự tách biệt về kinh tế giữa những người sản
xuất hàng hóa quy định. Có nghĩa là kinh tế thị trường tồn tại cả trong chủ nghĩa xã hội
cũng như trong thời kỳ quá độ lên CNXH. Kinh tế thị trường XHCN dựa trên chế độ sở hữu
toàn dân và tập thể do Đảng Cộng sản lãnh đạo, mục đích của nền kinh tế thị trường là phục
vụ lợi ích của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, xóa bỏ chế độ bóc lột, giải phóng
và phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất.
Trên cơ sở nhận thức đúng đắn và đầy đủ hơn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam, Đảng ta khẳng định: phát triển kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa là đường lối chiến lược nhất quán, là mô hình kinh tế tổng quát trong suốt
thời kì quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Đây là kết quả sau nhiều năm nghiên
cứu, tìm tòi, tổng kết thực tiễn; và là bước phát triển mới về tư duy lý luận của Đảng cộng sản Việt Nam.
Câu 5: So sánh đường lối công nghiệp hoá của Đảng thời kỳ trước đổi mới và thời kỳ đổi mới. Sự giống nhau:
- Đảng ta luôn luôn khẳng định công nghiệp hóa đối với nước ta là một tất yêu, khách quan.
Bởi vì, công nghiệp hóa là vấn đề không mới, mà các nước tư bản chủ nghĩa đã thực hiện từ
lâu, công nghiệp hóa còn được đề cập trong chủ nghĩa Mác – Lê-nin. Đồng thời, tình hình
đất nước ta tồn tại nền sản xuất nhỏ lẻ, thủ công, manh mún, lạc hậu…
- Điểm xuất phát của nước ta thấp do đi lên từ nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng
lên chủ nghĩa xã hội không trải qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa nên cơ sở hạ tầng,
cơ sở vật chất của xã hội thiếu thốn và thấp kém, năng suất lao động thấp, đời sống nhân
dân nghèo nàn, lạc hậu, công cuộc xây dựng bảo vệ Tổ quốc nhiều khó khăn…
- Ngay từ đầu quá trình công nghiệp hóa, Đảng ta đã xác định công nghiệp hóa xã hội chủ
nghĩa là nhiệm vụ trung tâm trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Sự khác nhau:
- Đường lối công nghiệp hóa thời kỳ trước đổi mới là ưu tiên phát triển công nghiệp nặng
một cách hợp lý. Ở thời kỳ đổi mới, công nghiệp hóa gắn với hiện đại hóa và công nghiệp
hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức, bảo vệ tài nguyên, môi trường.Đặc điểm
của nước ta là tồn tại nền sản xuất nhỏ lẻ, manh mún, năng suất lao động thấp, cơ sở hạ tầng
chưa hình thành… do đó cần phải tiến hành công nghiệp hóa. Công nghiệp hóa được hiểu
quá trình thay thế lao động thủ công bằng lao động sử dụng máy móc.
Trên thế giới, cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại đã chuyễn lao động bằng
máy móc, công cụ sang giai đoạn mới là tự động hóa, điều khiển hóa, đây là quá trình hiện
đại hóa. Như vậy, bối cảnh thế giới mang đến cho chúng ta nhiều cơ hội và thách thức mới.
Chính vì vậy, công nghiệp hóa phải gắn với hiện đại hóa, nghĩa là chúng ta lựa chọn mô
hình công nghiệp hóa theo hướng rút ngắn bằng cách kết hợp hai quá trình đó là: quá trình lOMoAR cPSD| 41487147
tuần tự (từ sử dụng lao động thủ công chuyển sang sử dụng máy móc, rồi từ sử dụng máy
móc chuyển sang tự động hóa, điều khiển hóa), quá trình nhảy vọt (lĩnh vực nào đủ điều
kiện thì phải hiện đại hóa ngay lập tức, phải đi trước đón đầu, hội nhập với thời đại).
- Công nghiệp hóa thời kỳ trước đổi mới tiến hành theo mô hình nền kinh tế khépkín, hướng
nội. Còn công nghiệp hóa thời kỳ đổi mới thì lấy công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát
triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa vàhội nhập kinh tế quốc tế. Công
nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển nền kinh tế thị trường giúp khai thác hiệu quả
mọi nguồn lực của nền kinh tế, sử dụng chúng hiệu quả để đẩy mạnh quá trình công nghiệp
hóa, hiện đại hóa. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta diễn ra trong bối cảnh toàn cầu
hóa kinh tế, tất yếu phải hội nhập và mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế. Hội nhập kinhtế quốc
tế, mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại nhằm thu hút nguồn vốn đầu tư nước ngoài, thu hút
công nghệ hiện đại, học hỏi kinh nghiệm quản lý tiên tiến của thế giới... sớm đưa nước ta ra
khỏi tình trạng kém phát triển. Hội nhập kinh tế quốc tế nhằm khai thác hiệu quả thị trường
thế giới. Hội nhập quốc tế là việc kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại.
- Công nghiệp hóa thời kỳ trước đổi mới, chủ lực thực hiện công nghiệp hóa là Nhà nước và
doanh nghiệp nhà nước. Thời kỳ đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa trở thành sự nghiệp
của toàn dân, của mọi thành phần kinh tế mà trong đó kinh tế nhà nước là chủ đạo.
- Công nghiệp hóa ở thời kỳ trước đổi mới, phương thức phân bổ nguồn lực để thực hiện
công nghiệp hóa được thực hiện bằng cơ chế kế hoạch hóa tập trung của Nhà nước, theo kế
hoạch của Nhà nước thông qua các chỉ tiêu pháp lệnh. Thời kỳ đổi mới, chủ yếu thực hiện
bằng cơ chế kinh tế thị trường, doanh nghiệp tự hạch toán kinh tế.- Công nghiệp hóa ở thời
kỳ trước đổi mới, chủ yếu dựa vào lợi thế về lao động, tài nguyên đất đai và nguồn viện trợ
của các nước xã hội chủ nghĩa. Công nghiệp hóa ở thời kỳ đổi mới, lấy phát huy nguồn lực
con người là yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững; coi phát triển khoa học và
công nghệ là nền tảng, là động lực công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Con người là yếu tố cơ
bản tham gia vào quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, để phát triển yếu tố con người
cần đặc biệt chú trọng phát triển giáo dục, đào tạo. Nguồn nhân lực cho công nghiệp hóa
hiện đại hóa đòi hỏi phải đủ số lượng, cân đối về cơ cấu và trình độ, có khả năng nắm bắt và
sử dụng các thành tựu khoa học và công nghệ tiên tiến của thế giới và có khả năng sáng tạo
công nghệ mới.Khoa học và công nghệ có vai trò quyết định đế tăng năng suất lao động,
giảm chi phí sản xuất, nâng cao lợi thế cạnh tranh và tốc độ phát triển kinh tế. Ở nước ta,
muốn đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức
thì phát triển khoa học và công nghệ là yêu cầu tất yếu và bức xúc. Phải đẩy mạnh việc
chọn lọc nhập công nghệ, mua sáng chế kết hợp với phát triển công nghệ nội sinh.
- Công nghiệp hóa ở thời kỳ trước đổi mới, tiến hành một cách nóng vội, giản đơn, chủ
quan duy ý chí, ham làm nhanh, làm lớn, không quan tâm đến hiệu quảkinh tế xã hội. Còn ở
thời kỳ đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển nhanh, hiệu quả và bền
vững; tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ môi
trường tự nhiên, bảo tồn đa dạng sinh học. Xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta thực chất là
nhằm thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Để thực hiện
mục tiêu đó, trước hết kinh tế phải phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững. Phát triển kinh tế
cũng là để thực hiện các vấn đề an sinh xã hội, vấn đề văn hóa – xã hội... vì mục tiêu phát
triển con người, mọi người đều hưởng thành quả của sự phát triển. lOMoAR cPSD| 41487147 ĐẠI HỘI 12 (XII) Mục tiêu tổng quát
- Tăng cường xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo và
sức chiến đấu của Đảng, xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh.
- Phát huy sức mạnh toàn dân tộc và dân chủ xã hội chủ nghĩa. Đẩy mạnh toàn diện,
đồng bộ công cuộc đổi mới; phát triển kinh tế nhanh, bền vững, phấn đấu sớm đưa
nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
- Nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của Nhân dân.
- Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn
vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, Nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa.
- Giữ gìn hoà bình, ổn định, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế để phát triển đất
nước; nâng cao vị thế và uy tín của Việt Nam trong khu vực và trên thế giới.
Các chỉ tiêu quan trọng - Về kinh tế:
Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân 5 năm đạt 6,5 - 7%/năm. Đến năm 2020, GDP bình
quân đầu người khoảng 3.200 - 3.500 USD; tỉ trọng công nghiệp và dịch vụ trong GDP
khoảng 85%; tổng vốn đầu tư toàn xã hội bình quân 5 năm bằng khoảng 32 - 34% GDP; bội
chi ngân sách nhà nước còn khoảng 4% GDP. Năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP) đóng
góp vào tăng trưởng khoảng 30 - 35%; năng suất lao động xã hội bình quân tăng khoảng
5%/năm; tiêu hao năng lượng tính trên GDP bình quân giảm 1 - 1,5%/năm. Tỉ lệ đô thị hoá
đến năm 2020 đạt 38 - 40%. - Về xã hội :
Đến năm 2020, tỉ lệ lao động nông nghiệp trong tổng lao động xã hội khoảng 40%; tỉ lệ lao
động qua đào tạo đạt khoảng 65 - 70%, trong đó có bằng cấp, chứng chỉ đạt 25%; tỉ lệ thất
nghiệp ở khu vực thành thị dưới 4%; có 9 - 10 bác sĩ và trên 26,5 giường bệnh trên 1 vạn dân;
tỉ lệ bao phủ bảo hiểm y tế đạt trên 80% dân số; tỉ lệ hộ nghèo giảm bình quân khoảng 1,0 - 1,5%/năm. - Về môi trường :
Đến năm 2020, 95% dân cư thành thị, 90% dân cư nông thôn được sử dụng nước sạch, hợp
vệ sinh và 85% chất thải nguy hại, 95 - 100% chất thải y tế được xử lý; tỉ lệ che phủ rừng đạt 42%.
Các nhiệm vụ trọng tâm
Trong nhiệm kỳ Đại hội XII, trên cơ sở quán triệt và lãnh đạo, chỉ đạo toàn diện việc thực
hiện các quan điểm, nhiệm vụ trên tất cả các lĩnh vực đã nêu trong Báo cáo chính trị và Báo
cáo kinh tế - xã hội, cần đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, phát huy mọi lOMoAR cPSD| 41487147
nguồn lực và động lực để phát triển đất nước nhanh, bền vững; đặc biệt chú trọng tập trung
lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện có kết quả các nhiệm vụ trọng tâm sau :
(1) Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính
trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong nội bộ. Tập trung xây
dựng đội ngũ cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược, đủ năng lực, phẩm chất và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ.
(2) Xây dựng tổ chức bộ máy của toàn hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu
quả; đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu.
(3) Tập trung thực hiện các giải pháp nâng cao chất lượng tăng trưởng, năng suất lao động và
sức cạnh tranh của nền kinh tế. Tiếp tục thực hiện có hiệu quả ba đột phá chiến lược (hoàn lOMoAR cPSD| 41487147
thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; đổi mới căn bản và toàn diện
giáo dục, đào tạo; phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao; xây dựng
hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ), cơ cấu lại tổng thể và đồng bộ nền kinh tế gắn với đổi mới
mô hình tăng trưởng; đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, chú trọng công
nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn gắn với xây dựng nông thôn mới. Chú trọng
giải quyết tốt vấn đề cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước, cơ cấu lại ngân sách nhà nước, xử lý
nợ xấu và bảo đảm an toàn nợ công.
(4) Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn
vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; giữ vững môi trường hoà bình, ổn định để phát triển đất nước; bảo
đảm an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội. Mở rộng và đưa vào chiều sâu các quan
hệ đối ngoại; tận dụng thời cơ, vượt qua thách thức, thực hiện hiệu quả hội nhập quốc tế trong
điều kiện mới, tiếp tục nâng cao vị thế và uy tín của đất nước trên trường quốc tế.
(5) Thu hút, phát huy mạnh mẽ mọi nguồn lực và sức sáng tạo của Nhân dân. Chăm lo nâng
cao đời sống vật chất, tinh thần, giải quyết tốt những vấn đề bức thiết; tăng cường quản lý phát
triển xã hội, bảo đảm an ninh xã hội, an ninh con người; bảo đảm an sinh xã hội, nâng cao
phúc lợi xã hội và giảm nghèo bền vững. Phát huy quyền làm chủ của nhân dân, phát huy sức
mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc.
(6) Phát huy nhân tố con người trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội; tập trung xây dựng
con người về đạo đức, nhân cách, lối sống, trí tuệ và năng lực làm việc; xây dựng môi trường văn hoá lành mạnh.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng cũng đã thảo luận và thông qua:
- Báo cáo kiểm điểm sự lãnh đạo, chỉ đạo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá
XI trình Đại hội XII. Giao Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XII tiếp thu ý kiến
của Đại hội, phát huy ưu điểm, khắc phục khuyết điểm, nâng cao chất lượng và hiệu
quả công tác lãnh đạo, chỉ đạo trong nhiệm kỳ tới.
- Báo cáo tổng kết việc thi hành Điều lệ Đảng khoá XI; đồng ý không sửa đổi, bổ sung
Điều lệ Đảng hiện hành. Giao Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XII hướng dẫn,
quy định cụ thể và tăng cường kiểm tra, giám sát, bảo đảm thi hành nghiêm, thống
nhất Điều lệ trong toàn Đảng.
- Báo cáo tổng kết thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khoá XI “Một số vấn đề cấp
bách về xây dựng Đảng hiện nay”. Giao Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XII
kiên quyết, kiên trì với quyết tâm chính trị cao lãnh đạo, chỉ đạo tiếp tục thực hiện
toàn diện Nghị quyết Trung ương 4 khoá XI “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng
Đảng hiện nay” gắn với việc thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng.
KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC TỪ ĐẠI HỘI XII (12)
Về lãnh đạo phát triển kinh tế - xã hội, ngay từ đầu nhiệm kỳ, Ban Chấp hành Trung ương
đã lựa chọn 10 nội dung lớn, toàn diện về kinh tế - xã hội đưa vào chương trình làm việc toàn
khóa. Trên cơ sở đó, Trung ương đã chỉ đạo xây dựng đề án, thảo luận và ban hành nhiều
nghị quyết quan trọng mang tầm chiến lược về phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Hàng
năm, Trung ương thảo luận, cho ý kiến về tình hình phát triển kinh tế - xã hội, ngân sách nhà lOMoAR cPSD| 41487147
nước; chủ động xác định chủ trương và lãnh đạo, chỉ đạo kịp thời tháo gỡ những khó khăn,
vướng mắc, từng bước vượt qua khó khăn, giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm
phát, bảo đảm các cân đối lớn, duy trì đà phục hồi của nền kinh tế và bảo đảm an sinh xã hội.
Về lãnh đạo công tác quốc phòng, an ninh, đối ngoại, Ban Chấp hành Trung ương đặc biệt
quan tâm cho ý kiến đối với một số vấn đề chiến lược, quan trọng về quốc phòng, an ninh,
đối ngoại, nhất là các vấn đề liên quan đến Biển Đông, chủ quyền, biên giới, lãnh thổ, an ninh
quốc gia... Để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong bối cảnh nước ta tham gia các hiệp định
thương mại tự do thế hệ mới, Ban Chấp hành Trung ương đã kịp thời ban hành nghị quyết
xác định rõ chủ trương, giải pháp để thực hiện hiệu quả hội nhập quốc tế, bảo đảm lợi ích
quốc gia - dân tộc, giữ vững ổn định chính trị - xã hội, sự lãnh đạo của Đảng đối với tiến
trình hội nhập quốc tế.
Đối với lãnh đạo công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị, Trung ương đã nghiên
cứu, ban hành nhiều nghị quyết, quy định, quy chế, kết luận để tăng cường công tác xây dựng
Đảng toàn diện cả về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức, đặc biệt là Nghị quyết Trung ương
4 (khóa XII) về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; đề ra mục tiêu, quan điểm, nhiệm vụ,
giải pháp, xác định rõ những biểu hiện cụ thể về suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá”.
Trung ương đã ban hành nghị quyết về tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp
chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ… Đáng chú ý, Ban Chấp
hành Trung ương đã xem xét, cho ý kiến về quy hoạch Ban Chấp hành Trung ương và giới
thiệu quy hoạch Bộ Chính trị, Ban Bí thư nhiệm kỳ 2021 - 2026. Trên cơ sở đó, Bộ Chính trị
xem xét, quyết định theo thẩm quyền.
Trong công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật trong Đảng, Ban Chấp hành Trung ương khóa
XII đã xem xét, thi hành kỷ luật nghiêm minh 7 cán bộ lãnh đạo cấp cao, gồm 1 Ủy viên Bộ
Chính trị, 3 Ủy viên Trung ương Đảng, 3 nguyên Ủy viên Trung ương Đảng bằng các hình
thức khai trừ, cách chức, cho thôi giữ chức vụ trong Đảng, Nhà nước. Trong công tác đấu
tranh phòng chống tham nhũng, Ban Chấp hành Trung ương quan tâm lãnh đạo triển khai
thực hiện quyết liệt, đồng bộ, toàn diện, bài bản nên tạo ra bước tiến mạnh, đột phá, đạt nhiều
kết quả rất quan trọng. Từ đó, tình trạng tham nhũng đang từng bước được kiềm chế, ngăn
chặn, đẩy lùi và có chiều hướng giảm, góp phần củng cố niềm tin của cán bộ, đảng viên và
nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ.
Đánh giá chung cả nhiệm kỳ, Ban Chấp hành Trung ương khóa XII cho rằng, Ban Chấp
hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư là tập thể đoàn kết, thống nhất cao, bản lĩnh, trí
tuệ, luôn bám sát các quan điểm, đường lối, đưa ra các quyết sách kịp thời, đúng đắn, phù
hợp, giải quyết nhiều vấn đề quan trọng của đất nước. Ban Chấp hành Trung ương lãnh đạo
toàn Đảng, toàn dân, toàn quân đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới; thực hiện có hiệu quả
cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ; đã phát huy sức mạnh đoàn kết
toàn dân tộc, tổ chức thực hiện Nghị quyết Đại hội XII đạt được nhiều thành tựu rất quan
trọng, có dấu ấn nổi bật, tạo tiền đề thuận lợi cho những nhiệm kỳ tiếp theo. lOMoAR cPSD| 41487147
TỔNG QUAN CÁC ĐẠI HỘI
Hội nghị hợp nhất thành lập Đảng (từ ngày 3 đến 7/2/1930), nhất trí lấy tên là Đảng Cộng sản
Việt Nam, nhất trí thông qua Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Điều lệ vắn tắt do
Nguyễn Ái Quốc khởi thảo. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là bước ngoặt vĩ đại trong lịch
sử cách mạng nước ta, chấm dứt cuộc khủng hoảng về đường lối cứu nước, là cơ sở dẫn đến
những thắng lợi vĩ đại và những bước nhảy vọt lớn trong lịch sử dân tộc Việt Nam.
Kể từ khi thành lập đến nay, Đảng ta đã trải qua 12 kỳ đại hội, mỗi kỳ đại hội của Đảng được
coi như một sự kiện trọng đại, có ý nghĩa lịch sử, đánh dấu bước phát triển mới của đất nước, của Đảng.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ I của Đảng (tháng 03/1935) đánh dấu thắng lợi của cuộc
đấu tranh khôi phục hệ thống tổ chức của Đảng và các tổ chức quần chúng cách mạng trong
cả nước, chuẩn bị điều kiện cho Đảng bước vào thời kỳ đấu tranh mới.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng (tháng 02/1951) đã nhất trí thông qua Chính
cương, Điều lệ của Đảng và Nghị quyết đưa Đảng ra hoạt động công khai lấy tên là Đảng
Lao động Việt Nam. Đại hội lần thứ II của Đảng là một cột mốc quan trọng đánh dấu sự
trưởng thành của Đảng về mọi mặt và sự đóng góp quý báu vào kho tàng lý luận cách mạng của nước ta.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng (tháng 9/1960) là Đại hội quyết định đường
lối xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh hòa bình thống nhất nước nhà.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng (tháng 12/1976) là Đại hội thống nhất Tổ
quốc và đưa cả nước tiến lên chủ nghĩa xã hội, tiếp tục khẳng định con đường của Đảng và
Bác Hồ đã lựa chọn, xác định đường lối chung đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V của Đảng (tháng 03/1982) đề ra hai nhiệm vụ chiến lược
cách mạng của nước ta trong giai đoạn mới: Xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và sẵn
sàng chiến đấu bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (tháng 12/1986) có ý nghĩa lịch sử trọng đại,
đánh dấu một bước ngoặt trong sự nghiệp quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Là Đại hội
đề ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng (tháng 6/1991) đã thông qua Cương lĩnh xây
dựng đất nước thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, đánh dấu một bước trưởng thành mới của
Đảng ta. Cương lĩnh đã nêu ra những quan niệm về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam. Đã khẳng định tư tưởng Hồ Chí Minh cùng với chủ nghĩa Mác -
Lênin là nền tảng tư tưởng của Đảng.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng (tháng 6, 7/1996) đã tổng kết 10 năm thực
hiện công cuộc đổi mới, kiểm điểm 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội VIII. Đại hội đã
khẳng định: Nước ta đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội. Nhiệm vụ đề ra cho chặng
đường đầu tiên của thời kỳ quá độ cơ bản hoàn thành, cho phép chuyển sang thời kỳ mới đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng (tháng 04/2001) với chủ đề “Phát huy sức lOMoAR cPSD| 41487147
mạnh toàn dân tộc, tiếp tục đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa”. Đại hội đã nhìn lại thế kỷ XX, đánh giá 5 năm
thực hiện Nghị quyết Đại hội VIII, nhìn lại 15 năm đổi mới. Đại hội đã phân tích triển vọng
đất nước trong thế kỷ XXI, xác định rõ hơn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Đã
xác định rõ khái niệm, nguồn gốc, nội dung, giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh. lOMoAR cPSD| 41487147
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng (tháng 04/2006) với chủ đề “Nâng cao năng
lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện
công cuộc đổi mới, sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển”. Đại hội đã đánh giá 5
năm thực hiện Nghị quyết Đại hội IX của Đảng và nhìn lại 20 năm đổi mới. Đại hội đã khẳng
định: Công cuộc đổi mới ở nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử.
Đại hội đã xác định rõ hơn quan niệm về xã hội xã hội chủ nghĩa mà Đảng, Nhà nước, nhân
dân ta xây dựng, về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng (tháng 01/2011) với chủ đề “Tiếp tục nâng
cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh
toàn diện công cuộc đổi mới, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước
công nghiệp theo hướng hiên đại”. Đại hội đã thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011). Cương lĩnh xác định rõ
hơn các đặc trưng của xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng, xác định rõ hơn phương
hướng đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, xác định cần nắm vững và giải quyết tốt các mối
quan hệ lớn. Đã khẳng định rõ bản chất của Đảng: Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên
phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân
tộc Việt Nam; đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và các
dân tộc. Đã khẳng định rõ hơn giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh là tài sản tinh thần vô cùng to lớn
và quý giá của Đảng và dân tộc ta, mãi mãi soi đường cho sự nghiệp cách mạng của Nhà
nước ta giành thắng lợi. Khẳng định nước ta đã ra khỏi tình trạng kém phát triển.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng (tháng 01/2016) với chủ đề: “Tăng cường
xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh; phát huy sức mạnh toàn dân tộc, dân chủ xã hội chủ
nghĩa; đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới; bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ vững môi
trường hòa bình, ổn định; phấn đấu sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo
hướng hiện đại”. Đại hội đã nhìn lại 30 năm đổi mới và một lần nữa khẳng định: Qua 30 năm
đổi mới, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Những thành tựu
to lớn, có ý nghĩa lịch sử qua 30 năm đổi mới khẳng định đường lối đổi mới của Đảng ta là
đúng đắn, sáng tạo; con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta là phù hợp với thực tiễn
của Việt Nam và xu thế phát triển của lịch sử. Thành tựu và những kinh nghiệm, bài học đúc
kết từ thực tiễn tạo tiền đề, nền tảng quan trọng để đất nước ta tiếp tục đổi mới và phát triển
mạnh mẽ trong những năm tới.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng diễn ra trong bối cảnh tình hình thế giới,
khu vực diễn biến rất nhanh, phức tạp, khó lường; thách thức đan xen, nhiều vấn đề mới đặt
ra phải giải quyết; cán bộ, đảng viên, nhân dân ta đặt kỳ vọng vào những quyết sách đúng
đắn, mạnh mẽ của Đảng để phát triển đất nước ta nhanh và bền vững hơn. Đại hội không chỉ
kiểm điểm việc thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ XII của Đảng mà đánh giá 10 năm thực
hiện Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) và Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội
2011-2020, mà còn nhìn lại 35 năm tiến hành công cuộc đổi mới, 30 năm thực hiện Cương
lĩnh năm 1991. Đại hội quyết định phương hướng, mục tiêu, nhiệm vụ nhiệm kỳ 2021-2020,
phương hướng, mục tiêu đến năm 2030 (kỷ niệm 100 năm thành lập Đảng) và tầm nhìn đến lOMoAR cPSD| 41487147
năm 2045 (kỷ niệm 100 năm thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nay là Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam).
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng có tầm quan trọng đặc biệt và có ý nghĩa lịch sử.
1. Đại hội XIII đánh giá 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội XII và cơ đồ đất nước sau 35 năm đổi mới.
Trong nhiệm kỳ Đại hội XII, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân đã nỗ lực phấn đấu vượt qua
nhiều khó khăn, thách thức, thực hiện thắng lợi các mục tiêu, các nhiệm vụ trọng tâm, đạt
được nhiều thành tựu rất quan trọng, khá toàn diện, tạo nhiều dấu ấn nổi bật.
Mười năm thực hiện Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) và thực hiện Chiến lược phát
triển kinh tế - xã hội 2011-2020 đã tạo ra những bước tiến quan trọng cả về nhận thức lý luận
và tổ chức thực hiện, khẳng định những giá trị to lớn của Cương lĩnh.
Nhìn lại 35 năm thực hiện công cuộc đổi mới, 30 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất
nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, lý luận về đổi mới, về chủ nghĩa xã hội và
con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta ngày càng hoàn thiện và từng bước được hiện
thực hóa. Đất nước đã được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, phát triển mạnh mẽ,
toàn diện so với những năm trước đổi mới. Quy mô, trình độ nền kinh tế được nâng lên. Đời
sống nhân dân cả về vật chất và tinh thần được cải thiện rõ rệt. Đất nước ta chưa bao giờ có
được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín như ngày nay. Đây là niềm tự hào, là động lực, nguồn
lực quan trọng, là niềm tin để toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta vượt qua mọi khó khăn,
thách thức, tiếp tục vững bước trên con đường đổi mới toàn diện, đồng bộ; phát triển nhanh
và bền vững đất nước.
Những thành tựu của 35 năm thực hiện công cuộc đổi mới, 30 năm thực hiện Cương lĩnh xây
dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội năm 1991, đặc biệt, trong 10 năm
thực hiện Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) đã tiếp tục khẳng định đường lối đổi
mới của Đảng ta là đúng đắn, sáng tạo. Những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử kết tinh
sức sáng tạo của Đảng và nhân dân ta, khẳng định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của
nước ta là phù hợp với thực tiễn Việt Nam và xu thế phát triển của thời đại; khẳng định sự
lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của cách mạng Việt
Nam. Trong bối cảnh tình hình thế giới có nhiều biến động nhanh, phức tạp, Cương lĩnh tiếp
tục là ngọn cờ tư tưởng, ngọn cờ chiến đấu, ngọn cờ quy tụ sức mạnh đại đoàn kết toàn dân
tộc phấn đấu vì một nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
2. Đại hội XIII (13) quyết định đưa đất nước bước vào giai đoạn phát triển mới với tư duy mới, tầm nhìn mới.
Một là, chủ đề Đại hội XIII có sự kế thừa và đổi mới quan trọng.
Chủ đề Đại hội XIII là “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong
sạch, vững mạnh; khơi dậy khát vọng phát triển đất nước, phát huy ý chí, sức mạnh đại đoàn
kết toàn dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại; tiếp tục đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công
cuộc đổi mới; xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ vững môi trường hòa bình, ổn
định; phấn đấu đến giữa thế kỷ XXI nước ta trở thành nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa”. lOMoAR cPSD| 41487147
Hai là, Báo cáo chính trị Đại hội XIII xác định hệ quan điểm chỉ đạo thể hiện tư duy mới,
tầm nhìn mới trong đường lối đổi mới của Đảng giai đoạn tới.
- Kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh;
kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; kiên định đường lối đổi mới của
Đảng; kiên định các nguyên tắc xây dựng Đảng để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
- Bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của Hiến
chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi. Tiếp tục phát
triển nhanh, bền vững đất nước; gắn kết chặt chẽ và triển khai đồng bộ các nhiệm vụ, trong
đó phát triển kinh tế - xã hội là trung tâm; xây dựng Đảng là then chốt; phát triển văn hóa là
nền tảng tinh thần; bảo đảm quốc phòng, an ninh là trọng yếu, thường xuyên.
- Khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc, sức mạnh đại đoàn kết toàn
dân tộc và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc; phát huy dân chủ xã hội chủ
nghĩa, sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và của nền văn hóa, con người Việt Nam,
bồi dưỡng sức dân, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, có cơ chế thu hút, trọng dụng nhân
tài, thúc đẩy đổi mới sáng tạo, ứng dụng mạnh mẽ khoa học và công nghệ, nhất là những
thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, tạo động lực mới cho phát triển nhanh
và bền vững đất nước.
- Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; nêu cao ý chí độc lập, tự chủ, chủ động,
tích cực hội nhập và nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, phát huy tối đa nội lực, tranh thủ
ngoại lực, trong đó nguồn lực nội sinh, nhất là nguồn lực con người là quan trọng nhất.
- Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền và
sức chiến đấu của Đảng; xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh toàn
diện, xây dựng Nhà nước tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; xây dựng đội ngũ cán bộ,
đảng viên, nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang
tầm nhiệm vụ, gắn bó mật thiết với nhân dân là những nhân tố có ý nghĩa quyết định thành
công của sự nghiệp xây dựng, phát triển đất nước, bảo vệ Tổ quốc.
Ba là, tư duy mới, tầm nhìn mới trong xác định mục tiêu. Mục tiêu tổng quát:
Nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng; xây dựng Đảng
và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh toàn diện; củng cố niềm tin của nhân dân đối với
Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa; khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh,
hạnh phúc, phát huy ý chí và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc kết hợp với sức mạnh thời
đại; đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa; bảo vệ
vững chắc Tổ quốc, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định; phấn đấu đến giữa thế kỷ XXI,
nước ta trở thành nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Mục tiêu cụ thể:
- Đến năm 2025: Là nước đang phát triển có công nghiệp theo hướng hiện đại, vượt
qua mức thu nhập trung bình thấp. lOMoAR cPSD| 41487147
- Đến năm 2030, kỷ niệm 100 năm thành lập Đảng: Là nước đang phát triển có công
nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao.
- Đến năm 2045, kỷ niệm 100 năm thành lập Nước: Trở thành nước phát triển, thu nhập
cao. Thứ nhất, công tác đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi suy thoái về tư tưởng chính trị,
đạo đức, lối sống có sự chuyển biến rất tích cực.